Chàng Thợ Săn Tiền Thưởng Đi Đến Rừng Sâu Núi Thẳm
Chương 13
Matthia
25/04/2022
Trong tâm trí của Kalinger luôn có ba thắc mắc.
Thứ nhất là thực hư về sự lây nhiễm Dị giới diễn ra ở quanh làng Cây Đen.
Thứ hai là thân phận thực sự của tinh linh Sương.
Và thứ ba là tại sao Sương có thể viết ra những bức thư ‘tao nhã’ đến như vậy?
Giờ thì hai câu hỏi đầu đã được giải đáp, chỉ còn câu hỏi thứ ba là chưa được trả lời.
Kalinger quay lại thư viện khổng lồ ở tầng thứ 7 của tòa tháp. Những cuốn sách trên kệ quá thần bí và khó hiểu nên anh không chạm vào chúng, cuốn sách đang mở trên bàn thu hút sự chú ý của anh hơn.
Đó là một cuốn sách về nghi thức, nó không chỉ dạy các động tác lễ nghi mà còn giải thích rất cặn kỹ từng phản ứng cụ thể phù hợp trong từng trường hợp. Kalinger lật thử mấy trang, cuốn sách hướng dẫn cách viết thư tâm sự với người khác, cách chào hỏi với người mới gặp lần đầu, làm sao để nói lời tạm biệt một cách lịch sự, tạo ấn tượng tốt về bản thân bằng cách nào, vân vân và vân vân… Kalinger đứng ngẫm nghĩ một lúc và nhận ra dường như Sương đã cố ý làm mọi thứ ngược lại với cuốn sách, để trở thành một người bị ghét, một người không được ai nhớ đến.
Kalinger bật cười và lắc đầu, anh tự hỏi liệu đây có phải là yêu cầu của pháp sư Tịnh Hồ hay không, kiểu như “Đừng để dân làng quá chú ý đến con” chẳng hạn.
Anh cũng để ý đến tất cả những cuốn sách có tiêu đề được viết bằng ngôn ngữ phổ biến và tìm thấy không ít các sách báo về chúng. Từ giảng dạy về đạo đức xã hội đến lễ nghi và cuộc sống, một số giới thiệu về phong tục và tập quán của nhiều đất nước và số ít biên niên sử về làng Cây Đen.
Anh biết, các pháp sư thường không lưu giữ những loại sách này, ngay cả khi họ có từng đọc chúng đi chăng nữa thì cũng chẳng bao giờ để chúng trong phòng nghiên cứu cả, bởi nếu chẳng may bị ai đó phát hiện thì dám cá là họ chả còn mặt mũi nào.
Nhưng trong tháp Trụy Nguyệt có loại sách này, rõ ràng là vì Tịnh Hồ muốn dạy dỗ Sương như một đứa trẻ.
Chủ nhân và máy móc, pháp sư và golem, tác giả và tác phẩm, cha mẹ và con cái… mối quan hệ giữa Tịnh Hồ và Sương giống như sự dung hợp của mọi thứ, và anh không thể biết tình thân trong ấy chiếm bao nhiêu phần trăm.
Nếu cho rằng mối quan hệ giữa họ chỉ là pháp sư và golem thì không chính xác lắm, chủ nhân không cần dạy phép tắc xã giao cho một cỗ máy và càng không cần cho nó biết thế giới bao la nhường nào.
Còn nếu cho rằng mối quan hệ giữa họ là cha mẹ và con cái thì cũng chẳng hợp lý hợp tình, cha mẹ nào sinh con để bày cho nó cách chết. Dù là ở Vực sâu cũng không thể. Một ác ma không bận tâm con nó có chết hay không, nhưng nó chẳng bao giờ bày sẵn cho con nó một con đường chết cả, nó sẽ giáo dục và chung sống với con mình.
Kalinger tự nhận rằng anh khá hiểu biết về con người và pháp sư thì luôn là một phạm trù khó hiểu đối với con người. Anh lại không biết nhiều về tinh linh lắm, nên với đối tượng vừa là tinh linh vừa là pháp sư như Tịnh Hồ thì biết là mức độ phức tạp thế nào rồi đấy.
Tuy nhiên, Tịnh Hồ đã biến mất, có thấu hiểu được suy nghĩ của ông ta cũng chả còn tác dụng gì. Có quá nhiều điều bí ẩn trên thế gian, hiểu được thì hiểu, không hiểu được cũng không quan trọng.
Kalinger đặt cuốn sách mà anh tiện tay cầm lên trở lại mặt bàn rồi quay ra khỏi thư viện. Anh đi ra hành lang, chiếc đĩa đá di động cũng nổi lên từ dưới đáy tháp và Sương đang ngồi trên nó.
Chính xách thì là cơ thể của Tịnh Hồ đang ngồi trên đĩa đá, còn Sương chân chính thì vẫn nằm dưới đáy tháp.
Khi chiếc đĩa đá dừng lại, Sương chậm chạp víu vào vách tường để đứng dậy và Kalinger đi tới giúp cậu, Sương vẫn cúi đầu lảng tránh ánh mắt anh.
“Đĩa đá chuyển động được rồi này. Hệ thống ma thuật trong tháp khôi phục rồi à?” – Kalinger hỏi.
Sương gật đầu.
“Ngài ổn chứ?” – Kalinger ôm tinh linh để cậu dựa vào mình, “Ngài có mệt lắm không? Có cần tôi bế đi không? Nói chuyện làm ngài mệt lắm hở?”
Sương không hiểu trả lời, “Không… cơ thể này vẫn bình thường.”
“Nhưng cơ thể của ngài bị thương rất nặng đấy, hẳn linh hồn cũng mệt lử chứ.”
“Cũng tàm tạm, không việc gì cả. Ngài thấy đấy, tôi đủ sức để khôi phục ma thuật bên trong tháp mà.”
Kalinger dìu tinh linh quay trở về thư viện, đỡ cậu ngồi lên chiếc ghế êm ái còn anh thì tỳ vào mép bàn. Sương không nói gì, cậu vào trạng thái làm việc ngay.
Cậu lẳng lặng sắp xếp lại tài liệu và công cụ trên bàn, kiểm tra hệ thống máy móc ma thuật trên trần nhà và bắt đầu khởi động lại những con golem bốn chân hình cầu… mọi thứ tuần tự đâu vào đấy hệt như cậu đang làm công việc thường nhật của mỗi pháp sư, như mọi chuyện chưa từng xảy ra.
Kalinger chăm chú nhìn tinh linh rồi hỏi, “Thật lòng thì tôi muốn để ngài nghỉ ngơi nhiều hơn, nhưng, à thì ngài không muốn nằm xuống nghỉ ngơi một lúc thật à?”
Sương lắc đầu, “Không cần, tôi không cần.”
Cũng phải thôi. Cậu đâu phải tinh linh thực sự, nghỉ ngơi cũng nào phải ăn hay ngủ. Bộ xương rồng ở đáy tháp đã thoát khỏi vòng tròn ma pháp trên tinh thể, nên dù bị thương nghiêm trọng nhưng kể từ giờ sẽ không còn bị ăn mòn nữa, đó đã là cách nghỉ ngơi tốt nhất.
Sương định viết gì đó, cậu cầm cây bút thạch anh nhưng vì tay run se sẽ nên cậu từ từ đặt cây bút xuống và đổi sang cây bút lông chim.
Khi cậu chuẩn bị đặt bút thì Kalinger nhẹ nhàng nắm cổ tay cậu. Sương không nhìn lên, cậu tiếp tục nhìn chằm chằm vào cái mặt bàn.
Kalinger hỏi, “Ngài sợ tôi phải không?”
“Đúng vậy.”
Trung thực quá đấy. Kalinger nói, “Cũng không tránh được, dù sao thì tôi cũng vừa…”
Anh dừng lại và suy ngẫm về nó, nếu anh cứ trắng trợn nói là “Tôi vừa ăn ngài” thì hơi kỳ quặc thật. Giờ anh đang là một con người, phải chuyện trò như một con người chứ nhỉ, vì vậy anh sửa thành, “Đừng sợ tôi, ngài là pháp sư kia mà, ngài đã đọc rất nhiều sách rồi và tôi cá rằng ngài biết là những sinh vật Vực sâu như tôi không tùy tiện phát cuồng, tôi sẽ không làm tổn thương ngài nữa đâu.”
“Tôi biết,” – Sương nhẹ nhàng đáp, “Lúc đó ngài cũng không phát cuồng, ngài đã rất kiềm chế, cảm ơn ngài.”
“Ngài còn cảm ơn tôi cơ à, ôi chúa tôi không quen chút nào.” – Kalinger nói.
Sương hỏi, “Không nên ư?”
“Ồ nên chứ, rất rất nên chứ lị,” – Kalinger hỏi một lần nữa, “Vậy ngài không sợ tôi nữa chứ?”
Trong khi chuyện trò, Kalinger vẫn giữ cổ tay Sương và cậu cũng không có ý rút tay về. Khi còn ở bề mặt tinh thể bên dưới đáy tháp, Kalinger đã vuốt ve cái chân trước không trọn vẹn của con rồng xương, và hiện giờ khi cổ tay mảnh dẻ nằm trong bàn tay anh thuộc về cơ thể của tinh linh thì với anh nó vẫn chẳng khác gì cảm giác khi anh chạm vào bộ xương rồng cả.
Sương hơi nhíu mày và suy nghĩ mất một lúc trước khi trả lời, “Được, tôi sẽ cố hết sức.”
Kalinger thở dài, “Ngài trả lời nghiêm túc đến mức tôi không biết nên nói gì tiếp đây này.”
Nghe vậy, Sương cũng không nói thêm gì khác. Kalinger buông cổ tay Sương và tiếp tục ngắm nhìn cậu ta làm việc luôn tay nhưng lại rất thong thả xử lý các công việc cần thiết trong tháp pháp sư.
Chẳng ngồi im được bao lâu, Kalinger đột ngột đứng bật lên, “Chết rồi! Tôi quên béng mất.”
Sương ngờ vực nhìn Kalinger trong khi anh ta nhìn dáo dác xung quanh, “Ngài có đồng hồ ở đây không?”
Sương chỉ ra một hướng, Kalinger hớt hải chạy ra xem rồi mải móng chạy về, lúc đối mặt với bầy nguyên tố cũng không thấy anh ta nghiêm túc như thế.
“Tôi ở trong tháp suốt đêm rồi!” – Kalinger nói với khuôn mặt bình tĩnh, “Dân làng dưới núi đã nghĩ rằng ngài chết, giờ thì chắc họ nghĩ tôi chết rồi cũng nên. Tôi phải tranh thủ xuống núi một chuyến cái đã, mong rằng họ không kêu gọi thêm người đến đây.”
Anh đi được vài bước thì ngoái lại nhìn Sương, “Nhưng… rốt cuộc ngài có chết không? Ngài quyết định đi.”
“Quyết định thế nào?”
“Nếu ngài không chết thì chúng ta bịa ra một lý do, kiểu như nói rằng ngài được phép thuật bảo hộ gì đó rồi hồi sinh. Còn nếu chết… thì là chết thôi, tôi sẽ nói rằng mọi chuyện đã được giải quyết và chôn ngài trong rừng.”
Sương suy nghĩ rồi nói, “Vậy thì tôi chết rồi. Người họ quan tâm là tinh linh Tịnh Hồ, Tịnh Hồ đã biến mất, nên để họ tưởng nhớ về ông ấy.”
Kalinger hỏi, “Nhỡ họ biết ngài và Tịnh Hồ là hai tinh linh khác nhau, và họ biết một người đã chết, thế người kia thì sao?”
Sương cười nhẹ, “Ngài biết vì sao thầy gọi tôi là Sương không?”
“Vì bộ xương của ngài mang tên này khi còn sống hở?”
“Vâng, con rồng… nói thế này thì lạ quá, đó rõ ràng là cơ thể tôi nhưng tôi nói như thể đó không phải mình vậy. Tên của con rồng ấy là Sương.”
Trong số lượng lớn các ghi chép của Tịnh Hồ có một đoạn ghi chép về nguồn gốc của con rồng xương. Đó là một con rồng bạc đã chết trong một kỷ nguyên xa xôi mà nguyên nhân cái chết của nó không thể xác định.
Nó chưa bao giờ đánh bại ác ma, thậm chí có thể nó còn chưa từng thấy một ác ma nào. Nó và thi thể ác ma trên chiến trường cổ thuộc về các thời đại khác nhau, chỉ trùng hợp chôn cùng một nơi mà thôi.
Khi Tịnh Hồ sử dụng xương cốt của con rồng, ông đã biết được tên của nó nhờ cảm nhận linh hồn còn sót lại, nhưng linh hồn ấy chỉ kịp kể lại một hai câu rồi tan biến khi ma thuật được thi triển.
“Tôi nghĩ mình chết vẫn tốt hơn,” – Sương trả lời trong khi viết, “Tịnh Hồ đã chết, tinh linh Sương cũng chết rồi. Nếu ngài nói với dân làng rằng tôi còn sống thì chẳng phải phí nước mắt và nỗi tiếc thương của họ hay sao.”
Kalinger vặn hỏi, “Phí thì sao? Thấy có lỗi vì lừa dối tình cảm của họ nên cố lừa cho trót hả?”
Sương nghiêng đầu đi khó hiểu, trông nét mặt thì rõ ràng là cậu chả hiểu “lừa cho trót” có gì là sai. Sau khi ngẫm nghĩ một lúc lâu, Sương vẫn cho rằng, “Tôi chỉ cho rằng nếu người dân ở làng Cây Đen nên tiếc thương vì ai thì đó là thầy Tịnh Hồ và con rồng Sương. Không phải tôi, là Sương thật sự ấy.”
Kalinger chả tài nào hiểu nổi cách suy nghĩ của một con golem xương rồng, song anh vẫn gật đầu, “Tinh linh Sương” có chết hay không chỉ là một vấn đề bé tý tẹo, dù sao cũng là cách nói dối khác đi mà thôi.
Anh thò đầu dòm xem Sương đang cặm cụi viết gì. Hóa ra là cậu ta đang viết thư, mà nếu để ý thì đó không phải một lá thư bình thường, đó là một lá thư viết theo kiểu di chúc.
Nội dung không dài, dặn dò mấy việc linh tinh, chủ yếu để thể hiện rằng đây là một lá thư tuyệt mệnh.
Nét chữ vẫn đẹp và nắn nót, lời lẽ vẫn gọn gàng, phong cách vẫn gắt gỏng và đôi ba chỗ gần như hăm dọa.
“Tại sao ngài lại dữ dằn với họ như vậy?” – Kalinger tò mò hỏi.
Sương vô thức giấu đi, cậu lấy tay che một phần trang giấy và điều đó làm ngòi bút nguệch đi, mấy chữ cuối cùng bị méo mó nghiêng ngả, không còn là nét chữ hoàn hảo nữa.
Trông thế lại càng giống một bức di chúc hơn, giống như được viết bởi một người sắp chết.
Khi được Kalinger hỏi, Sương cũng bất giác nhíu mày, “Thì… thật ra bây giờ tôi không bực dọc nữa, cũng có thể nhẹ nhàng với họ. Nhưng chắc do quen rồi…”
Kalinger nghe thấy vậy thì trầm tư một lúc rồi ngạc nhiên quá đỗi – Thì ra ngài tinh linh không giả vờ mà vì cậu ta bực mình thật, vì bực mình nên cậu ta tự nhiên viết ra tất cả những lời lẽ ‘tao nhã’ ấy đó ư? Quả là bộ xương của một con rồng, quả là thiên tài.
“Sao ngài nhìn tôi chằm chằm như thế…” – Sương ngước mắt nhìn Kalinger.
Anh cười đáp, “Không có gì. Tôi chỉ nghĩ nếu dân làng biết tinh linh trên núi đã chết và giờ chả còn con ác ma nào nữa thì liệu họ có chạy đến đây hàng ngày ăn mừng hay không? Như thế không làm phiền ngài chứ?”
Sương đáp, “Thì ngọn núi này vốn thuộc về họ. Với lại không ai có thể tìm thấy lối vào của tháp Trụy Nguyệt đâu, họ không vào được và tôi thì không bao giờ ra ngoài, nên sẽ không ai có thể quấy nhiễu tôi được.”
Sương tìm thấy chiếc phong bì, cậu gấp thư theo cách cổ điển, cho vào vỏ, đóng dấu sáp và đưa cho Kalinger. Anh nhét bức thư vào chiếc túi của mình sau khi cố ý vần vò để trông nó có vẻ phong sương chút đỉnh, giống như những gì còn sót lại trên ngọn núi sau khi trải qua một trận đại chiến khốc liệt.
Hai người cưỡi đĩa di động lên tầng cao nhất, cổng tháp Trụy Nguyệt lại được mở ra.
Ban mai tràn vào qua khe cửa, Sương nhìn ánh sáng nhạt nhẽo trên sàn và thở dài khe khẽ.
Kalinger thấy biểu cảm của cậu nhưng anh không nói gì nhiều. Anh bước ra khỏi cổng và quay lại nháy mắt với Sương, “Việc bịa chuyện cứ để tôi, ngài yên tâm.”
“Ngài vẫn chưa thực hiện việc đã hứa với tôi.” – Sương nhắc nhở.
“Tôi biết và nhớ chứ, đến liên đoàn OFFA chứ gì? Những người đó có đáng tin thật không đấy? Nhỡ ai đó có ý xấu thì sao?”
Sương mỉm cười, “Một nhóm pháp sư thôi mà. Xấu nhất cũng chỉ là chiếm những cuốn sách và tri thức được Tịnh Hồ để lại thôi, nhưng có vấn đề gì đâu khi đó chính là mục đích của Tịnh Hồ, kể cả là sách hay những ghi chép về thí nghiệm thì đều dành cho họ cả mà.”
“Cũng đúng,” – Kalinger gật đầu, “Vậy tôi đi đây.”
Anh quay lưng lại và giơ tay chào từ biệt với Sương, còn cậu thì nhẹ nhàng khom người chào từ biệt với bóng lưng anh.
Lần này, cánh cổng của tháp Trụy Nguyệt không bị đóng lại ngay, nó được mở cho đến khi bóng dáng chàng thợ săn tiền thưởng biến mất trong cánh rừng già.
***
Tình hình ở làng Cây Đen u ám và thảm đạm hệt như Kalinger đã đoán.
Sáng sớm hôm ấy, ruộng vườn không ai canh tác hay trông nom, đường xá không một bóng người qua lại, chỉ đến khi anh tình cờ gặp mấy đứa trẻ chơi bên ngoài và chúng hoảng hồn nhìn anh như thể gặp phải ác ma thực sự, rồi chúng chạy như bay về nhà, không biết có phải về mật báo với người lớn không.
Ngay khi Kalinger đến gần quán trọ Hoan Ca thì một nhóm người đã xồng xộc chạy ra. Xem ra quán trọ Hoan Ca không chỉ là thư viện mà còn kiêm cả trung tâm hội nghị của làng.
Mắt ai cũng đỏ hoe còn mặt thì vàng như sáp vậy, dường như cả đêm qua không một ai ngủ cả. Bà chủ quán và thi nhân thường trú luồn lách trong đám đông, hai người nhìn chằm chằm Kalinger với vẻ khó tin rồi cùng chạy ùa về phía anh.
Kalinger vội vã né tránh trong lúc hét lên, “Chớ, chớ ôm tôi, xương sườn tôi đang gãy đây này!”
Hai mẹ con phanh vội lại động tác ôm, nước mắt thi nhau rớt xuống. Dần dần, nhiều người vây quanh hơn, phụ nữ thì cố nén nước mắt còn đàn ông thì tung hô mừng rỡ, chỉ có đám trẻ con là ríu rít chuyện trò với nhau và chẳng thể biết chính xác chúng đang nói gì.
Ngày hôm ấy, Kalinger được nhiệt liệt chào đón, mặc dù chính anh cũng không phân biệt được đó thực chất là buổi chào mừng hay là buổi hội thảo, vì mọi người dân trong làng đều tập trung hết ở trong và ngoài quán trọ Hoan Ca, người nào chậm chân phải đứng đầy bên ngoài đường, Kalinger thì ngồi trên chiếc ghế gần cửa và từ tốn kể những gì đã xảy ra bên trong cánh rừng.
Mọi người chăm chú lắng nghe, đôi khi một trong số họ lau nước mắt. Kalinger cứ kể còn thi nhân ngồi bên cạnh thì hí hoáy chép vào cuốn sổ tay của anh ta.
Phiên bản của anh không phải sự thật, cũng không phải phiên bản rút gọn mà Sương hằng hy vọng.
Anh kể rằng mình đã liên lạc với tinh linh trên núi và biết được truyền thuyết thật sự:
Cách đây rất lâu, có một con rồng bạc đã sống trên vùng đất này. Trong sự cố làm nứt không gian, một số ác ma đã có cơ hội tràn vào thế giới loài người và tình cờ gặp phải con rồng bạc. Rồng và ác ma đã chiến đấu với nhau trong thời gian dài, nhưng vì lũ ác ma quá mạnh và đông đảo nên con rồng bạc đã không thể địch lại chúng và anh dũng hy sinh.
Song linh hồn của con rồng không trở về xứ sở của nó, nó quyết định ở lại đây, biến mình thành một phong ấn và giam cầm lũ ác ma dưới lòng đất.
Và cứ thế hàng ngàn năm trôi qua, mảnh đất vẫn yên bình sinh sôi nảy nở.
Sau đó, một pháp sư tinh linh tên là Tịnh Hồ đã đến, ông biết được câu chuyện về con rồng bạc nên quyết định ở lại để nghiên cứu phương pháp tiêu diệt tận gốc lũ ác ma. Nhờ linh hồn của rồng chỉ dẫn, ông đã thành công thực hiện nhiều thí nghiệm bí ẩn và ngày càng tiến gần hơn đến mục đích là tiêu diệt chúng.
Song, muốn tiêu diệt ác ma buộc phải đối mặt với chúng. Nhưng lũ ác ma rất xảo quyệt và tàn nhẫn, cuối cùng tinh linh vẫn thất bại còn lũ ác ma nhân cơ hội ấy phá vỡ một phần phong ấn và trở lại nhân gian.
Tinh linh cảm thấy có lỗi với cư dân dưới chân núi nên ông đã sử dụng cơ hội cuối cùng của mình, đó là tặng cơ thể mình cho con rồng bạc cổ đại với hy vọng rằng nó sẽ sống lại và giết chết ác ma.
Linh hồn của rồng bạc tiếp nhận cơ thể của tinh linh, trở thành một pháp sư tinh linh với trí thông minh siêu phàm và ma thuật mạnh mẽ. Trong lúc nó chiến đấu với ác ma thì thợ săn tiền thưởng chịu trách nhiệm việc quét dọn yêu quái muốn bỏ trốn ở bên ngoài.
Cuối cùng, “Pháp sư rồng” cũng đánh bại được con ác ma mạnh mẽ nhất, chấm dứt mối hiểm họa khôn lường. Sau khi trận chiến kết thúc, linh hồn của con rồng phải rời đi, ai cũng biết rằng những sinh vật huyền thoại luôn có một linh hồn cao quý và cuối cùng linh hồn ấy sẽ trở về xứ sở của loài rồng thực thụ.
Sau khi linh hồn rồng bỏ đi, cơ thể của tinh linh mất khả năng hoạt động và trở thành một xác chết. Thợ săn tiền thưởng chôn cất tinh linh trên ngọn núi, anh chọn một nơi mà không ai có thể tìm thấy và không bao giờ bị quấy rầy theo di nguyện của tinh linh.
Đó là toàn bộ những gì đã xảy ra.
Kalinger vừa kể vừa chén bữa trưa. Anh muốn đề nghị dân làng đi ăn trước nhưng chả ai đói bụng cả và họ thà ở lại nghe anh kể chuyện còn hơn.
Sau khi câu chuyện kết thúc, cả trong nhà và bên ngoài đường đều im phăng phắc, kế đó có người thở dài thật khẽ, có người ghé tai thì thầm, và ai đó ngồi trong góc phòng bắt đầu vỗ tay rồi kéo theo tất cả mọi người cùng vỗ rào rào.
Trong tiếng vỗ tay to như sấm ấy, Kalinger vẫn tiếp tục ăn, thi nhân thường trú chỉnh dây đàn và thậm chí anh ta còn muốn sáng tác ngay lập tức.
Cuối cùng, Kalinger trao bức thư viết tay của “pháp sư rồng” cho trưởng làng, anh cũng dặn rằng pháp sư rồng tin tưởng dân làng nên mới sẵn lòng cho họ biết toàn bộ câu chuyện, hy vọng rằng họ sẽ cố gắng giữ kín bí mật và chớ để người ngoài biết về thi thể của tinh linh, đề phòng những kẻ mạo hiểm biết được sẽ đến quấy rầy giấc ngủ của ngài.
Trưởng làng nghiêm túc gật đầu, ông chỉ vào thi nhân lang thang thường trú đang mải chỉnh dây đàn: Thông thường những vị khách đến từ bên ngoài đều do nhà họ tiếp, và những câu chuyện của thi nhân thì lúc nào cũng thêm mắm dặm muối nên chả có ai tin đâu.
Kalinger cũng sâu sắc nhất trí. Câu chuyện này sẽ chỉ được người làng Cây Đen tin tưởng, còn những người có bản lĩnh sẽ chả ai tin nó, bởi nó không tuân theo quy luật sinh tồn của sinh vật Dị giới, cũng đi ngược lại kiến thức cơ bản nhất về Dị giới học.
Đến chiều, Kalinger nói rằng anh phải vào trong thành để bàn giao công việc với Hiệp hội thợ săn nên phải lên đường ngay.
Dân làng trông thấy những vết thương trên người anh, vũ khí của anh cũng mất sạch, nên họ chuẩn bị cho anh hai thanh kiếm mới với một đống đồ ăn và thuốc men, họ tặng thêm anh một con ngựa để chở đồ.
Nhớ lại lần đầu đến làng Cây Đen, khi đó Kalinger chỉ cảm thấy nhiệm vụ ở đây thật lằng nhằng, mông lung và không cẩn thận sẽ lỗ to, nhưng giờ thì anh mừng thầm và may mắn vì đã không từ chối ủy thác khi ấy.
Đối với Hiệp hội thợ săn tiền thưởng hay các chuyên gia chân chính thì đây chỉ đơn giản là công việc liên quan đến sự lây lan từ Dị giới. Thợ săn tiền thưởng nhận nhiệm vụ, tiêu diệt hết sinh vật bị lây nhiễm và phá hủy nguồn lây nhiễm, vậy là kết thúc.
Còn đối với rồng và tinh linh, họ sẽ được viết thành lời ca, sẽ được kể lại như một truyền kỳ và trở thành nhân vật hư cấu trong những truyền thuyết truyền đời.
Họ sẽ được ghi nhớ trong thơ ca thay vì hiện thực.
Vậy là đủ. Là quá đủ rồi.
Thứ nhất là thực hư về sự lây nhiễm Dị giới diễn ra ở quanh làng Cây Đen.
Thứ hai là thân phận thực sự của tinh linh Sương.
Và thứ ba là tại sao Sương có thể viết ra những bức thư ‘tao nhã’ đến như vậy?
Giờ thì hai câu hỏi đầu đã được giải đáp, chỉ còn câu hỏi thứ ba là chưa được trả lời.
Kalinger quay lại thư viện khổng lồ ở tầng thứ 7 của tòa tháp. Những cuốn sách trên kệ quá thần bí và khó hiểu nên anh không chạm vào chúng, cuốn sách đang mở trên bàn thu hút sự chú ý của anh hơn.
Đó là một cuốn sách về nghi thức, nó không chỉ dạy các động tác lễ nghi mà còn giải thích rất cặn kỹ từng phản ứng cụ thể phù hợp trong từng trường hợp. Kalinger lật thử mấy trang, cuốn sách hướng dẫn cách viết thư tâm sự với người khác, cách chào hỏi với người mới gặp lần đầu, làm sao để nói lời tạm biệt một cách lịch sự, tạo ấn tượng tốt về bản thân bằng cách nào, vân vân và vân vân… Kalinger đứng ngẫm nghĩ một lúc và nhận ra dường như Sương đã cố ý làm mọi thứ ngược lại với cuốn sách, để trở thành một người bị ghét, một người không được ai nhớ đến.
Kalinger bật cười và lắc đầu, anh tự hỏi liệu đây có phải là yêu cầu của pháp sư Tịnh Hồ hay không, kiểu như “Đừng để dân làng quá chú ý đến con” chẳng hạn.
Anh cũng để ý đến tất cả những cuốn sách có tiêu đề được viết bằng ngôn ngữ phổ biến và tìm thấy không ít các sách báo về chúng. Từ giảng dạy về đạo đức xã hội đến lễ nghi và cuộc sống, một số giới thiệu về phong tục và tập quán của nhiều đất nước và số ít biên niên sử về làng Cây Đen.
Anh biết, các pháp sư thường không lưu giữ những loại sách này, ngay cả khi họ có từng đọc chúng đi chăng nữa thì cũng chẳng bao giờ để chúng trong phòng nghiên cứu cả, bởi nếu chẳng may bị ai đó phát hiện thì dám cá là họ chả còn mặt mũi nào.
Nhưng trong tháp Trụy Nguyệt có loại sách này, rõ ràng là vì Tịnh Hồ muốn dạy dỗ Sương như một đứa trẻ.
Chủ nhân và máy móc, pháp sư và golem, tác giả và tác phẩm, cha mẹ và con cái… mối quan hệ giữa Tịnh Hồ và Sương giống như sự dung hợp của mọi thứ, và anh không thể biết tình thân trong ấy chiếm bao nhiêu phần trăm.
Nếu cho rằng mối quan hệ giữa họ chỉ là pháp sư và golem thì không chính xác lắm, chủ nhân không cần dạy phép tắc xã giao cho một cỗ máy và càng không cần cho nó biết thế giới bao la nhường nào.
Còn nếu cho rằng mối quan hệ giữa họ là cha mẹ và con cái thì cũng chẳng hợp lý hợp tình, cha mẹ nào sinh con để bày cho nó cách chết. Dù là ở Vực sâu cũng không thể. Một ác ma không bận tâm con nó có chết hay không, nhưng nó chẳng bao giờ bày sẵn cho con nó một con đường chết cả, nó sẽ giáo dục và chung sống với con mình.
Kalinger tự nhận rằng anh khá hiểu biết về con người và pháp sư thì luôn là một phạm trù khó hiểu đối với con người. Anh lại không biết nhiều về tinh linh lắm, nên với đối tượng vừa là tinh linh vừa là pháp sư như Tịnh Hồ thì biết là mức độ phức tạp thế nào rồi đấy.
Tuy nhiên, Tịnh Hồ đã biến mất, có thấu hiểu được suy nghĩ của ông ta cũng chả còn tác dụng gì. Có quá nhiều điều bí ẩn trên thế gian, hiểu được thì hiểu, không hiểu được cũng không quan trọng.
Kalinger đặt cuốn sách mà anh tiện tay cầm lên trở lại mặt bàn rồi quay ra khỏi thư viện. Anh đi ra hành lang, chiếc đĩa đá di động cũng nổi lên từ dưới đáy tháp và Sương đang ngồi trên nó.
Chính xách thì là cơ thể của Tịnh Hồ đang ngồi trên đĩa đá, còn Sương chân chính thì vẫn nằm dưới đáy tháp.
Khi chiếc đĩa đá dừng lại, Sương chậm chạp víu vào vách tường để đứng dậy và Kalinger đi tới giúp cậu, Sương vẫn cúi đầu lảng tránh ánh mắt anh.
“Đĩa đá chuyển động được rồi này. Hệ thống ma thuật trong tháp khôi phục rồi à?” – Kalinger hỏi.
Sương gật đầu.
“Ngài ổn chứ?” – Kalinger ôm tinh linh để cậu dựa vào mình, “Ngài có mệt lắm không? Có cần tôi bế đi không? Nói chuyện làm ngài mệt lắm hở?”
Sương không hiểu trả lời, “Không… cơ thể này vẫn bình thường.”
“Nhưng cơ thể của ngài bị thương rất nặng đấy, hẳn linh hồn cũng mệt lử chứ.”
“Cũng tàm tạm, không việc gì cả. Ngài thấy đấy, tôi đủ sức để khôi phục ma thuật bên trong tháp mà.”
Kalinger dìu tinh linh quay trở về thư viện, đỡ cậu ngồi lên chiếc ghế êm ái còn anh thì tỳ vào mép bàn. Sương không nói gì, cậu vào trạng thái làm việc ngay.
Cậu lẳng lặng sắp xếp lại tài liệu và công cụ trên bàn, kiểm tra hệ thống máy móc ma thuật trên trần nhà và bắt đầu khởi động lại những con golem bốn chân hình cầu… mọi thứ tuần tự đâu vào đấy hệt như cậu đang làm công việc thường nhật của mỗi pháp sư, như mọi chuyện chưa từng xảy ra.
Kalinger chăm chú nhìn tinh linh rồi hỏi, “Thật lòng thì tôi muốn để ngài nghỉ ngơi nhiều hơn, nhưng, à thì ngài không muốn nằm xuống nghỉ ngơi một lúc thật à?”
Sương lắc đầu, “Không cần, tôi không cần.”
Cũng phải thôi. Cậu đâu phải tinh linh thực sự, nghỉ ngơi cũng nào phải ăn hay ngủ. Bộ xương rồng ở đáy tháp đã thoát khỏi vòng tròn ma pháp trên tinh thể, nên dù bị thương nghiêm trọng nhưng kể từ giờ sẽ không còn bị ăn mòn nữa, đó đã là cách nghỉ ngơi tốt nhất.
Sương định viết gì đó, cậu cầm cây bút thạch anh nhưng vì tay run se sẽ nên cậu từ từ đặt cây bút xuống và đổi sang cây bút lông chim.
Khi cậu chuẩn bị đặt bút thì Kalinger nhẹ nhàng nắm cổ tay cậu. Sương không nhìn lên, cậu tiếp tục nhìn chằm chằm vào cái mặt bàn.
Kalinger hỏi, “Ngài sợ tôi phải không?”
“Đúng vậy.”
Trung thực quá đấy. Kalinger nói, “Cũng không tránh được, dù sao thì tôi cũng vừa…”
Anh dừng lại và suy ngẫm về nó, nếu anh cứ trắng trợn nói là “Tôi vừa ăn ngài” thì hơi kỳ quặc thật. Giờ anh đang là một con người, phải chuyện trò như một con người chứ nhỉ, vì vậy anh sửa thành, “Đừng sợ tôi, ngài là pháp sư kia mà, ngài đã đọc rất nhiều sách rồi và tôi cá rằng ngài biết là những sinh vật Vực sâu như tôi không tùy tiện phát cuồng, tôi sẽ không làm tổn thương ngài nữa đâu.”
“Tôi biết,” – Sương nhẹ nhàng đáp, “Lúc đó ngài cũng không phát cuồng, ngài đã rất kiềm chế, cảm ơn ngài.”
“Ngài còn cảm ơn tôi cơ à, ôi chúa tôi không quen chút nào.” – Kalinger nói.
Sương hỏi, “Không nên ư?”
“Ồ nên chứ, rất rất nên chứ lị,” – Kalinger hỏi một lần nữa, “Vậy ngài không sợ tôi nữa chứ?”
Trong khi chuyện trò, Kalinger vẫn giữ cổ tay Sương và cậu cũng không có ý rút tay về. Khi còn ở bề mặt tinh thể bên dưới đáy tháp, Kalinger đã vuốt ve cái chân trước không trọn vẹn của con rồng xương, và hiện giờ khi cổ tay mảnh dẻ nằm trong bàn tay anh thuộc về cơ thể của tinh linh thì với anh nó vẫn chẳng khác gì cảm giác khi anh chạm vào bộ xương rồng cả.
Sương hơi nhíu mày và suy nghĩ mất một lúc trước khi trả lời, “Được, tôi sẽ cố hết sức.”
Kalinger thở dài, “Ngài trả lời nghiêm túc đến mức tôi không biết nên nói gì tiếp đây này.”
Nghe vậy, Sương cũng không nói thêm gì khác. Kalinger buông cổ tay Sương và tiếp tục ngắm nhìn cậu ta làm việc luôn tay nhưng lại rất thong thả xử lý các công việc cần thiết trong tháp pháp sư.
Chẳng ngồi im được bao lâu, Kalinger đột ngột đứng bật lên, “Chết rồi! Tôi quên béng mất.”
Sương ngờ vực nhìn Kalinger trong khi anh ta nhìn dáo dác xung quanh, “Ngài có đồng hồ ở đây không?”
Sương chỉ ra một hướng, Kalinger hớt hải chạy ra xem rồi mải móng chạy về, lúc đối mặt với bầy nguyên tố cũng không thấy anh ta nghiêm túc như thế.
“Tôi ở trong tháp suốt đêm rồi!” – Kalinger nói với khuôn mặt bình tĩnh, “Dân làng dưới núi đã nghĩ rằng ngài chết, giờ thì chắc họ nghĩ tôi chết rồi cũng nên. Tôi phải tranh thủ xuống núi một chuyến cái đã, mong rằng họ không kêu gọi thêm người đến đây.”
Anh đi được vài bước thì ngoái lại nhìn Sương, “Nhưng… rốt cuộc ngài có chết không? Ngài quyết định đi.”
“Quyết định thế nào?”
“Nếu ngài không chết thì chúng ta bịa ra một lý do, kiểu như nói rằng ngài được phép thuật bảo hộ gì đó rồi hồi sinh. Còn nếu chết… thì là chết thôi, tôi sẽ nói rằng mọi chuyện đã được giải quyết và chôn ngài trong rừng.”
Sương suy nghĩ rồi nói, “Vậy thì tôi chết rồi. Người họ quan tâm là tinh linh Tịnh Hồ, Tịnh Hồ đã biến mất, nên để họ tưởng nhớ về ông ấy.”
Kalinger hỏi, “Nhỡ họ biết ngài và Tịnh Hồ là hai tinh linh khác nhau, và họ biết một người đã chết, thế người kia thì sao?”
Sương cười nhẹ, “Ngài biết vì sao thầy gọi tôi là Sương không?”
“Vì bộ xương của ngài mang tên này khi còn sống hở?”
“Vâng, con rồng… nói thế này thì lạ quá, đó rõ ràng là cơ thể tôi nhưng tôi nói như thể đó không phải mình vậy. Tên của con rồng ấy là Sương.”
Trong số lượng lớn các ghi chép của Tịnh Hồ có một đoạn ghi chép về nguồn gốc của con rồng xương. Đó là một con rồng bạc đã chết trong một kỷ nguyên xa xôi mà nguyên nhân cái chết của nó không thể xác định.
Nó chưa bao giờ đánh bại ác ma, thậm chí có thể nó còn chưa từng thấy một ác ma nào. Nó và thi thể ác ma trên chiến trường cổ thuộc về các thời đại khác nhau, chỉ trùng hợp chôn cùng một nơi mà thôi.
Khi Tịnh Hồ sử dụng xương cốt của con rồng, ông đã biết được tên của nó nhờ cảm nhận linh hồn còn sót lại, nhưng linh hồn ấy chỉ kịp kể lại một hai câu rồi tan biến khi ma thuật được thi triển.
“Tôi nghĩ mình chết vẫn tốt hơn,” – Sương trả lời trong khi viết, “Tịnh Hồ đã chết, tinh linh Sương cũng chết rồi. Nếu ngài nói với dân làng rằng tôi còn sống thì chẳng phải phí nước mắt và nỗi tiếc thương của họ hay sao.”
Kalinger vặn hỏi, “Phí thì sao? Thấy có lỗi vì lừa dối tình cảm của họ nên cố lừa cho trót hả?”
Sương nghiêng đầu đi khó hiểu, trông nét mặt thì rõ ràng là cậu chả hiểu “lừa cho trót” có gì là sai. Sau khi ngẫm nghĩ một lúc lâu, Sương vẫn cho rằng, “Tôi chỉ cho rằng nếu người dân ở làng Cây Đen nên tiếc thương vì ai thì đó là thầy Tịnh Hồ và con rồng Sương. Không phải tôi, là Sương thật sự ấy.”
Kalinger chả tài nào hiểu nổi cách suy nghĩ của một con golem xương rồng, song anh vẫn gật đầu, “Tinh linh Sương” có chết hay không chỉ là một vấn đề bé tý tẹo, dù sao cũng là cách nói dối khác đi mà thôi.
Anh thò đầu dòm xem Sương đang cặm cụi viết gì. Hóa ra là cậu ta đang viết thư, mà nếu để ý thì đó không phải một lá thư bình thường, đó là một lá thư viết theo kiểu di chúc.
Nội dung không dài, dặn dò mấy việc linh tinh, chủ yếu để thể hiện rằng đây là một lá thư tuyệt mệnh.
Nét chữ vẫn đẹp và nắn nót, lời lẽ vẫn gọn gàng, phong cách vẫn gắt gỏng và đôi ba chỗ gần như hăm dọa.
“Tại sao ngài lại dữ dằn với họ như vậy?” – Kalinger tò mò hỏi.
Sương vô thức giấu đi, cậu lấy tay che một phần trang giấy và điều đó làm ngòi bút nguệch đi, mấy chữ cuối cùng bị méo mó nghiêng ngả, không còn là nét chữ hoàn hảo nữa.
Trông thế lại càng giống một bức di chúc hơn, giống như được viết bởi một người sắp chết.
Khi được Kalinger hỏi, Sương cũng bất giác nhíu mày, “Thì… thật ra bây giờ tôi không bực dọc nữa, cũng có thể nhẹ nhàng với họ. Nhưng chắc do quen rồi…”
Kalinger nghe thấy vậy thì trầm tư một lúc rồi ngạc nhiên quá đỗi – Thì ra ngài tinh linh không giả vờ mà vì cậu ta bực mình thật, vì bực mình nên cậu ta tự nhiên viết ra tất cả những lời lẽ ‘tao nhã’ ấy đó ư? Quả là bộ xương của một con rồng, quả là thiên tài.
“Sao ngài nhìn tôi chằm chằm như thế…” – Sương ngước mắt nhìn Kalinger.
Anh cười đáp, “Không có gì. Tôi chỉ nghĩ nếu dân làng biết tinh linh trên núi đã chết và giờ chả còn con ác ma nào nữa thì liệu họ có chạy đến đây hàng ngày ăn mừng hay không? Như thế không làm phiền ngài chứ?”
Sương đáp, “Thì ngọn núi này vốn thuộc về họ. Với lại không ai có thể tìm thấy lối vào của tháp Trụy Nguyệt đâu, họ không vào được và tôi thì không bao giờ ra ngoài, nên sẽ không ai có thể quấy nhiễu tôi được.”
Sương tìm thấy chiếc phong bì, cậu gấp thư theo cách cổ điển, cho vào vỏ, đóng dấu sáp và đưa cho Kalinger. Anh nhét bức thư vào chiếc túi của mình sau khi cố ý vần vò để trông nó có vẻ phong sương chút đỉnh, giống như những gì còn sót lại trên ngọn núi sau khi trải qua một trận đại chiến khốc liệt.
Hai người cưỡi đĩa di động lên tầng cao nhất, cổng tháp Trụy Nguyệt lại được mở ra.
Ban mai tràn vào qua khe cửa, Sương nhìn ánh sáng nhạt nhẽo trên sàn và thở dài khe khẽ.
Kalinger thấy biểu cảm của cậu nhưng anh không nói gì nhiều. Anh bước ra khỏi cổng và quay lại nháy mắt với Sương, “Việc bịa chuyện cứ để tôi, ngài yên tâm.”
“Ngài vẫn chưa thực hiện việc đã hứa với tôi.” – Sương nhắc nhở.
“Tôi biết và nhớ chứ, đến liên đoàn OFFA chứ gì? Những người đó có đáng tin thật không đấy? Nhỡ ai đó có ý xấu thì sao?”
Sương mỉm cười, “Một nhóm pháp sư thôi mà. Xấu nhất cũng chỉ là chiếm những cuốn sách và tri thức được Tịnh Hồ để lại thôi, nhưng có vấn đề gì đâu khi đó chính là mục đích của Tịnh Hồ, kể cả là sách hay những ghi chép về thí nghiệm thì đều dành cho họ cả mà.”
“Cũng đúng,” – Kalinger gật đầu, “Vậy tôi đi đây.”
Anh quay lưng lại và giơ tay chào từ biệt với Sương, còn cậu thì nhẹ nhàng khom người chào từ biệt với bóng lưng anh.
Lần này, cánh cổng của tháp Trụy Nguyệt không bị đóng lại ngay, nó được mở cho đến khi bóng dáng chàng thợ săn tiền thưởng biến mất trong cánh rừng già.
***
Tình hình ở làng Cây Đen u ám và thảm đạm hệt như Kalinger đã đoán.
Sáng sớm hôm ấy, ruộng vườn không ai canh tác hay trông nom, đường xá không một bóng người qua lại, chỉ đến khi anh tình cờ gặp mấy đứa trẻ chơi bên ngoài và chúng hoảng hồn nhìn anh như thể gặp phải ác ma thực sự, rồi chúng chạy như bay về nhà, không biết có phải về mật báo với người lớn không.
Ngay khi Kalinger đến gần quán trọ Hoan Ca thì một nhóm người đã xồng xộc chạy ra. Xem ra quán trọ Hoan Ca không chỉ là thư viện mà còn kiêm cả trung tâm hội nghị của làng.
Mắt ai cũng đỏ hoe còn mặt thì vàng như sáp vậy, dường như cả đêm qua không một ai ngủ cả. Bà chủ quán và thi nhân thường trú luồn lách trong đám đông, hai người nhìn chằm chằm Kalinger với vẻ khó tin rồi cùng chạy ùa về phía anh.
Kalinger vội vã né tránh trong lúc hét lên, “Chớ, chớ ôm tôi, xương sườn tôi đang gãy đây này!”
Hai mẹ con phanh vội lại động tác ôm, nước mắt thi nhau rớt xuống. Dần dần, nhiều người vây quanh hơn, phụ nữ thì cố nén nước mắt còn đàn ông thì tung hô mừng rỡ, chỉ có đám trẻ con là ríu rít chuyện trò với nhau và chẳng thể biết chính xác chúng đang nói gì.
Ngày hôm ấy, Kalinger được nhiệt liệt chào đón, mặc dù chính anh cũng không phân biệt được đó thực chất là buổi chào mừng hay là buổi hội thảo, vì mọi người dân trong làng đều tập trung hết ở trong và ngoài quán trọ Hoan Ca, người nào chậm chân phải đứng đầy bên ngoài đường, Kalinger thì ngồi trên chiếc ghế gần cửa và từ tốn kể những gì đã xảy ra bên trong cánh rừng.
Mọi người chăm chú lắng nghe, đôi khi một trong số họ lau nước mắt. Kalinger cứ kể còn thi nhân ngồi bên cạnh thì hí hoáy chép vào cuốn sổ tay của anh ta.
Phiên bản của anh không phải sự thật, cũng không phải phiên bản rút gọn mà Sương hằng hy vọng.
Anh kể rằng mình đã liên lạc với tinh linh trên núi và biết được truyền thuyết thật sự:
Cách đây rất lâu, có một con rồng bạc đã sống trên vùng đất này. Trong sự cố làm nứt không gian, một số ác ma đã có cơ hội tràn vào thế giới loài người và tình cờ gặp phải con rồng bạc. Rồng và ác ma đã chiến đấu với nhau trong thời gian dài, nhưng vì lũ ác ma quá mạnh và đông đảo nên con rồng bạc đã không thể địch lại chúng và anh dũng hy sinh.
Song linh hồn của con rồng không trở về xứ sở của nó, nó quyết định ở lại đây, biến mình thành một phong ấn và giam cầm lũ ác ma dưới lòng đất.
Và cứ thế hàng ngàn năm trôi qua, mảnh đất vẫn yên bình sinh sôi nảy nở.
Sau đó, một pháp sư tinh linh tên là Tịnh Hồ đã đến, ông biết được câu chuyện về con rồng bạc nên quyết định ở lại để nghiên cứu phương pháp tiêu diệt tận gốc lũ ác ma. Nhờ linh hồn của rồng chỉ dẫn, ông đã thành công thực hiện nhiều thí nghiệm bí ẩn và ngày càng tiến gần hơn đến mục đích là tiêu diệt chúng.
Song, muốn tiêu diệt ác ma buộc phải đối mặt với chúng. Nhưng lũ ác ma rất xảo quyệt và tàn nhẫn, cuối cùng tinh linh vẫn thất bại còn lũ ác ma nhân cơ hội ấy phá vỡ một phần phong ấn và trở lại nhân gian.
Tinh linh cảm thấy có lỗi với cư dân dưới chân núi nên ông đã sử dụng cơ hội cuối cùng của mình, đó là tặng cơ thể mình cho con rồng bạc cổ đại với hy vọng rằng nó sẽ sống lại và giết chết ác ma.
Linh hồn của rồng bạc tiếp nhận cơ thể của tinh linh, trở thành một pháp sư tinh linh với trí thông minh siêu phàm và ma thuật mạnh mẽ. Trong lúc nó chiến đấu với ác ma thì thợ săn tiền thưởng chịu trách nhiệm việc quét dọn yêu quái muốn bỏ trốn ở bên ngoài.
Cuối cùng, “Pháp sư rồng” cũng đánh bại được con ác ma mạnh mẽ nhất, chấm dứt mối hiểm họa khôn lường. Sau khi trận chiến kết thúc, linh hồn của con rồng phải rời đi, ai cũng biết rằng những sinh vật huyền thoại luôn có một linh hồn cao quý và cuối cùng linh hồn ấy sẽ trở về xứ sở của loài rồng thực thụ.
Sau khi linh hồn rồng bỏ đi, cơ thể của tinh linh mất khả năng hoạt động và trở thành một xác chết. Thợ săn tiền thưởng chôn cất tinh linh trên ngọn núi, anh chọn một nơi mà không ai có thể tìm thấy và không bao giờ bị quấy rầy theo di nguyện của tinh linh.
Đó là toàn bộ những gì đã xảy ra.
Kalinger vừa kể vừa chén bữa trưa. Anh muốn đề nghị dân làng đi ăn trước nhưng chả ai đói bụng cả và họ thà ở lại nghe anh kể chuyện còn hơn.
Sau khi câu chuyện kết thúc, cả trong nhà và bên ngoài đường đều im phăng phắc, kế đó có người thở dài thật khẽ, có người ghé tai thì thầm, và ai đó ngồi trong góc phòng bắt đầu vỗ tay rồi kéo theo tất cả mọi người cùng vỗ rào rào.
Trong tiếng vỗ tay to như sấm ấy, Kalinger vẫn tiếp tục ăn, thi nhân thường trú chỉnh dây đàn và thậm chí anh ta còn muốn sáng tác ngay lập tức.
Cuối cùng, Kalinger trao bức thư viết tay của “pháp sư rồng” cho trưởng làng, anh cũng dặn rằng pháp sư rồng tin tưởng dân làng nên mới sẵn lòng cho họ biết toàn bộ câu chuyện, hy vọng rằng họ sẽ cố gắng giữ kín bí mật và chớ để người ngoài biết về thi thể của tinh linh, đề phòng những kẻ mạo hiểm biết được sẽ đến quấy rầy giấc ngủ của ngài.
Trưởng làng nghiêm túc gật đầu, ông chỉ vào thi nhân lang thang thường trú đang mải chỉnh dây đàn: Thông thường những vị khách đến từ bên ngoài đều do nhà họ tiếp, và những câu chuyện của thi nhân thì lúc nào cũng thêm mắm dặm muối nên chả có ai tin đâu.
Kalinger cũng sâu sắc nhất trí. Câu chuyện này sẽ chỉ được người làng Cây Đen tin tưởng, còn những người có bản lĩnh sẽ chả ai tin nó, bởi nó không tuân theo quy luật sinh tồn của sinh vật Dị giới, cũng đi ngược lại kiến thức cơ bản nhất về Dị giới học.
Đến chiều, Kalinger nói rằng anh phải vào trong thành để bàn giao công việc với Hiệp hội thợ săn nên phải lên đường ngay.
Dân làng trông thấy những vết thương trên người anh, vũ khí của anh cũng mất sạch, nên họ chuẩn bị cho anh hai thanh kiếm mới với một đống đồ ăn và thuốc men, họ tặng thêm anh một con ngựa để chở đồ.
Nhớ lại lần đầu đến làng Cây Đen, khi đó Kalinger chỉ cảm thấy nhiệm vụ ở đây thật lằng nhằng, mông lung và không cẩn thận sẽ lỗ to, nhưng giờ thì anh mừng thầm và may mắn vì đã không từ chối ủy thác khi ấy.
Đối với Hiệp hội thợ săn tiền thưởng hay các chuyên gia chân chính thì đây chỉ đơn giản là công việc liên quan đến sự lây lan từ Dị giới. Thợ săn tiền thưởng nhận nhiệm vụ, tiêu diệt hết sinh vật bị lây nhiễm và phá hủy nguồn lây nhiễm, vậy là kết thúc.
Còn đối với rồng và tinh linh, họ sẽ được viết thành lời ca, sẽ được kể lại như một truyền kỳ và trở thành nhân vật hư cấu trong những truyền thuyết truyền đời.
Họ sẽ được ghi nhớ trong thơ ca thay vì hiện thực.
Vậy là đủ. Là quá đủ rồi.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.