Chương 1: NHỮNG SỰ VIỆC CÓ THẬT
Dan Brown
06/11/2013
Tu viện Sion (1)- một hội kín ở châu Âu được thành lập năm 1099 - là một tổ chức có thật.
Năm 1975, Thư viện Quốc gia Pháp ở Paris phát hiện thấy những văn bản trên giấy da, được gọi là Les Dossiers Secrects (Hồ sơ bí mật) xác nhận một số thành viên của Tu viện Sion, trong đó có Ngài Isaac Newton, Botticelli, Victor Hugo và Leonardo da Vinci.
Giám mục đoàn Vatican, được gọi là Opus Dei (Tác phẩm của Thượng Đế), là một giáo phái Thiên Chúa sùng tín sâu sắc và dã là một dề tài tranh cãi gần đây do những tin về việc tẩy não, cưỡng bách và một tục lệ gọi là "hành xác". Opus Dei vừa hoàn thành xây dựng một tổng hành dinh trị giá 47 triệu đô la ở số 243 Đại lộ Lexington, New York.
Mọi sự mô tả các tác phẩm nghệ thuật, kiến trúc, tài liệu và lễ thức bí mật trong tiểu thuyết này đều xác thực.
Mở đầu
Bảo tàng Louvre
10g 46’ tối
Jacques Saunière, người phụ trách nổi tiếng của Bảo tàng Louvre, loạng choạng qua cửa tò vò có mái vòm trong Hành Lang Lớn của Bảo tàng. Ông lao tới bức tranh gần nhất ông có thể nhìn thấy, một bức Caravaggio. Nắm lấy vành khung dát vàng, ông già bảy mươi sáu tuổi nhấc bức kiệt tác kéo về phía mình cho đến khi nó bật tung khỏi tường, và Saunière ngã ngật người dưới tấm toan.
Như ông đã tính trước, một cánh cổng sắt đổ đánh rầm ngay gần đó, chặn lối vào dãy hành lang. Sàn gỗ rung lên. Đằng xa, chuông báo động bắt đầu ré lên.
Ông phụ trách bảo tàng nằm yên một lúc, thở hổn hển, nhận định tình hình. Mình vẫn còn sống. Ông trườn ra từ phía dưới bức tranh và nhìn trân trân vào khoảng trống hoác xem có nơi nào ẩn trốn được.
Một giọng nói cất lên, gần đến ớn lạnh: "Không được động đậy".
Trong tư thế bò, ông phụ trách bảo tàng sững người, từ từ quay đầu lại.
Chỉ cách ông khoảng năm mét, bên ngoài cánh cổng chặn lối, cái bóng khổng lồ của kẻ tấn công chằm chằm nhìn qua song sắt. Hắn to cao, nước da trắng trợt như ma và mái tóc bạch kim thưa. Tròng mắt hồng với đồng tử đỏ sậm. Gã bạch tạng rút từ áo khoác ra một khẩu súng lục và chĩa nòng súng qua chấn song thẳng vào ông phụ trách bảo tàng: "Đáng lẽ vừa nãy, ông không nên chạy". Giọng hắn không dễ gì xác định được là người vùng nào: "Giờ thì nói cho tôi biết nó ở đâu".
"Tôi đã nói với ông rồi", ông phụ trách bảo tàng lắp bắp, quỳ chơ vơ trên sàn Hành Lang Lớn. "Tôi không biết ông nói về chuyện gì nữa".
"Ông nói dối?". Hắn nhìn ông chằm chằm, bất động hoàn toàn trừ tia sáng lóe lên trong dôi mắt ma quỷ. "Ông và các đạo hữu của ông sở hữu thứ gì đó không phải của mình".
Mở đầu : NHỮNG SỰ VIỆC CÓ THẬTÔng phụ trách bảo tàng cảm thấy sợ thót người. Làm sao hắn có thể biết điều này?
"Tối nay! Châu sẽ về Hợp Phố. Nói tôi biết nó được giấu ở đâu thì ông sẽ sống". Hắn chĩa súng vào đầu ông. "Đó có phải là một bí mật bõ cho ông chết vì nó không?".
Saunière nghẹt thở.
Hắn nghiêng đầu, nhắm qua nòng súng.
Saunière giơ tay lên che chắn: "Khoan đã". Ông nói chậm rãi. "Tôi sẽ nói cho ông những gì ông cần biết". Người phụ trách bảo tàng nói những lời tiếp theo một cách cẩn trọng. Điều ông nói là một lời nói dối mà ông đã ôn tập nhiều lần và lần nào ông cũng cầu sao sẽ không bao giờ phải dùng đến nó.
Khi người phụ trách bảo tàng nói xong, kẻ tấn công ông tủm tỉm cười đắc ý: "Phải. Đó chính xác là những gì mấy người kia đã nói với tôi".
Saunière giậl bắn người. Mấy người kia?
"Tôi cũng dã tìm thấy bọn họ", tên to con chế giễu "cả ba người. Họ khẳng định những gì ông vừa nói".
Không thể thế được! Nhân thân thật của người phụ trách bảo tàng, của ba pháp quan (2) cũng thiêng liêng gần như điều bí mật cổ xưa mà họ bảo vệ. Giờ đây, Saunière hiểu ra rằng những cùng với nhân thâncủa ông, theo một thủ tục nghiêm khắc, đã nói dối hệt như ông trước khi họ chết. Đó là một phần của nghi thức.
Kẻ tấn công lại ngắm súng: "Khi ông chết đi, tôi sẽ là người duy nhất biết sự thật".
Sự thật. Trong giây lát, người phụ trách bảo tàng chợt hiểu ra sự kinh khủng thực sự của tình thế. ếu mình chết, sự thật sẽ biến mất mãi mãi. Theo bản năng, ông cuống cuồng bò tìm chỗ trốn.
Súng nổ, và Saunière cảm thấy bỏng rát khi viên đạn găm vào bụng. Ông ngã về phía trước… vật lộn với cái đau. Từ từ, Saunière lật ngửa người, ngoái nhìn kẻ tấn công qua song sắt. Tên này đang ngắm phát súng kết liễu vào đầu Saunière.
Saunière nhắm mắt lại, những ý nghĩ của ông như một cơn bão lốc lẫn lộn cả sợ hãi và tiếc nuối.
Tiếng "cạch" của ổ đạn rỗng vang vọng trong hành lang. Ông phụ trách bảo tàng mở choàng mắt.
Tên kia liếc nhìn khẩu súng, vẻ thích thú. Hắn toan nạp kẹp đạn thứ hai, nhưng rồi dường như suy tính lại, hắn cười khẩy bình thản nhìn bụng Saunière: "Công việc của tôi ở đây đã hoàn tất".
Người phụ trách bảo tàng nhìn xuống và thấy vết đạn trên áo sơmi lanh trắng của mình. Một vòng tròn máu viền quanh vết đạn bên dưới xương ức khoảng dăm phân. Trúng bụng mình..
Tệ thay, viên đạn đã không trúng tim ông. Là cựu chiến binh của la Guerre d Algerre (3) , trước đây, ông đã từng chứng kiến cái kiểu chết kéo dài khủng khiếp này. Trong vòng mười lăm phút, ông sẽ sống cho đến khi axit trong dạ dày thấm vào khoang ngực và từ từ đầu độc ông từ bên trong.
"Đau đớn là tốt, thưa quý ông", hắn nói.
Rồi bỏ đi.
Giờ đây khi chỉ còn lại một mình, Jacques Saunière quay sang nhìn trân trối vào cánh cổng sắt. Ông đã mắc kẹt, và các cửa không thể được mở lại ít nhất trong vòng hai mươi phút.
Đến khi có ai đó đến được chỗ ông, thì ông đã chết. Ngay cả như thế, thì nỗi sợ hãi giờ đây đang siết chặt tim ông còn lớn hơn nhiều so với nỗi sợ về cái chết của chính bản thân ông.
Mình phải truyền lại bí mật này.
Chệnh choạng đứng dậy, ông tưởng tượng ra cảnh ba giáo hữu của mình bị sát hại. Ông nghĩ về các thế hệ trước họ… về sứ mệnh mà tất cả bọn họ đã được ủy thác.
Một chuỗi kiến thức liên tục không đứt đoạn.
Đùng một cái, giờ đây, bất chấp mọi phòng ngừa… bất chấp mọi cơ cấu an toàn… Jacques Saunière là mắt xích duy nhất còn lại là người bảo vệ duy nhất của một trong những bí mật có quyền năng nhất từng được lưu giữ.
Run rẩy, ông cố đứng lên.
Ta phải tìm cách nào đó…
Ông bị kẹt trong Hành Lang Lớn, và chỉ có một người duy nhất trên thế giới này ông có thể trao lại ngọn đuốc. Saunière nhìn lên những bức tường phòng giam lộng lẫy của mình. Một bộ sưu tập gồm những bức tranh nổi tiếng nhất thế giới như đang cúi xuống mỉm cười với ông tựa những người bạn cũ.
Nhăn nhó vì đau đớn, ông huy động hết sức lực và khả năng của mình. Cái nhiệm vụ cực kỳ nghiêm trọng trước mắt ông - ông biết - sẽ đòi hỏi mỗi phút giây còn lại của đời ông.
Chú thích:
(1) Sion (hay Zion) là ngọn đồi thánh ở Jerusalem cổ cũng dùng để gọi cả Jérusalem. Về sau, tử này được mở rộng nghĩa để chỉ: chính thể thần quyền Hebrơ, Giáo hội Cơ-đốc, nước của Chúa. . Chúng tôi để nguyên không dịch vì ở dây có thể hiểu theo mọi nghĩa đó.
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: sénécheux (số nhiều của sénéchal). Sénéchal ban đầu, chỉ chức quan trong triều đình chuyên giới thiệu các món ăn, sau này, chỉ chức quan ở tỉnh với chức năng tương đương như pháp quan (Các chú thích trong bản dịch lần này đều của người hiệu đính)
(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: chiến tranh Algerie.
Điện thoại reo trong bóng tối- tiếng chuông leng keng nghe lạ lẫm. Ông dò dẫm tìm ngọn đèn cạnh giường và bật lên. Nheo mắt nhìn xung quanh ông nhận thấy đó là một phòng ngủ kiểu Phục Hưng sang trọng với đồ đạc theo phong cách thời Louis XVI với những tranh vẽ thẳng lên tường, và một chiếc giường gỗ gụ đồ sộ bốn cột.
Mình đang ở chỗ quái quỷ nào thế này?
Chiếc áo tắm mắc trên cột giường mang dòng chữ: Hotel Ritz Paris.
Màn sương tan dần.
Langdon nhấc ống nghe: "Hello?".
"Ông Langdon phải không ạ?", một giọng đàn ông vang lên. "Tôi hy vọng là không đánh thức ông chứ ạ?".
Ngạc nhiên, Langdon nhìn đồng hồ cạnh giường. 0 giờ 32’ sáng. Ông mới ngủ được một tiếng mà cảm thấy như lâu lắm.
"Tôi là người trực khách sạn, thưa ông. Tôi xin lỗi vì sự đường đột này, nhưng có một vị khách khăng khăng đòi gặp ông, nói là có việc khẩn cấp".
Langdon vẫn cảm thấy lơ mơ. Một vị khách? Tia mắt ông tập trung vào một tờ bướm bị vò nhàu trên bàn cạnh giường.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ TẠI PARIS
Trân trọng giới thiệu
MỘT TỐI GẶP GỠ VỚI ROBERT LANGDON
GIÁO SƯ KHOA KÝ TƯỢNG TÔN GIÁO, ĐẠI HỌC HARVARD
Langdon hầm hừ. Buổi thuyết giảng tối nay - một bài giảng về hệ ký tượng vô tôn giáo ẩn chứa trong các phiến đá của Nhà thờ lớn Chartres, có minh họa bằng phim đèn chiếu - chắc đã làm xù lông một vài vị bảo thủ trong đám thính giả. Rất có thể là một học giả nghiên cứu tôn giáo nào đó đã bám theo ông về tận khách sạn để đòi tranh luận.
"Tôi xin lỗi", Langdon nói, "nhưng tôi rất mệt và…".
"Mais monsieur" (1) người trực khách sạn nằn nì, hạ thấp giọng xuống thành một tiếng thì thào khẩn thiết, "vị khách này là người rất quan trọng".
Langdon hơi nghi ngờ. Các cuốn sách của ông về tranh tôn giáo và ký tượng thờ cúng đã làm ông nổi danh trong giới nghệ thuật khiến mọi người miễn cưỡng phải công nhận ông và năm ngoái danh tiếng của Langdon đã tăng lên gấp trăm lần sau khi ông tham gia vào một sự kiện được công chúng biết đến rộng rãi ở Vatican. Từ đó, các nhà sử học và chuyên gia nghệ thuật tự cao tự đại nườm nượp kéo đến nhà ông không ngớt.
"Xin ông vui lòng", Langdon nói, cố gắng hết sức để giữ lịch sự "ghi lại tên và số điện thoại của vị khách đó, và nói với ông ta rằng tôi sẽ cố gắng gọi lại cho ông ta trước khi tôi rời Paris vào thứ ba. Cảm ơn ông". Ông gác máy trước khi người trực khách sạn kịp phản đối.
Lúc này Langdon đã ngồi dậy, ông cau mày nhìn cuốn Sổ tay liên hệ với khách có bìa ghi những lới huênh hoang: "Hãy ngủ như một hài nhi ở Kinh đô ánh sáng. Hãy liên hệ với khách sạn Ritz Paris". Ông quay đầu và nhìn một cách mệt mỏi vào tấm gương soi cả người ở đầu kia căn phòng. Người đàn ông đang nhìn ông là một người xa lạ - tóc tai rối bù và mệt mỏi.
Anh bạn cần một kỳ nghỉ đấy, Robert.
Năm làm việc vừa qua đã làm ông tiêu hao sức lực nặng nề, nhưng ông không khoái nhìn thấy bằng chứng của điều đó trong gương. Đôi mắt màu xanh thường ngày sắc sảo đêm nay có vẻ lờ đờ và mệt mỏi. Một lớp râu đen lởm chởm phủ kín quai hàm khỏe và cái cằm chẻ. Quanh thái dương, những sợi hoa râm đang tăng lên, thâm nhập sâu hơn vào mái tóc đen dày. Mặc dù các đồng nghiệp nữ một mực nói rằng tóc bạc chỉ làm tôn thêm sức quyến rũ bác học của ông, nhưng Langdon thừa biết là đâu phải thế.
Giá Boston Magazine nhìn thấy mình lúc này.
Tháng trước, Langdon rất bối rối khi tờ BostonMagazine xếp ông vào danh sách mười người đàn ông hấp dẫn nhất thành phố - một vinh dự đáng ngờ khiến ông trở thành mục tiêu trêu chọc không dứt của các đồng nghiệp ở trường Harvard. Tối nay, ở cách xa đất nước ba ngàn dặm, sự đề cao đó vẫn trở lại ám ảnh ông ngay trong buổi thuyết giảng ông vừa thực hiện.
"Thưa quý ông quý bà…", người giới thiệu tuyên bố trước thính phòng đầy ắp của Cung Dauphine trường Đại học Mỹ ở Paris. "Khách mời tối nay của chúng ta chắc tôi không cần giới thiệu. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách: Hệ ký hiệu của các giáo phái bí mật, Nghệ thuật của dòng Chúa khai sáng, Ngôn ngữ tượng hình thất truyền, và khi tôi nói ông đã viết cuốn Khoa nghiên cứu thánh tượng và hình ảnh tôn giáo, là nói đúng theo nghĩa đen. Nhiều người trong số các bạn đang dùng những giáo trình của ông trên lớp".
Các sinh viên trong đám đông gật đầu nhiệt liệt tán thưởng.
"Tối nay tôi đã định giới thiệu ông bằng cách chia sẻ với các bạn lý lịch đầy ấn tượng của ông. Tuy nhiên…", cô ta tinh nghịch nhìn Langdon, lúc này ông đã ngồi trên sân khấu, "một khán giả vừa đưa cho tôi một lời gìới thiệu… có thể nói là… hấp dẫn hơn nhiều". Cô ta giơ lên một số Boston Magazin.
Langdon co rúm người lại. Cô ta kiếm đâu ra cái của nợ này?
Người giới thiệu bắt đầu đọc những đoạn trích chọn lọc từ bài báo sáo rỗng kia và Langdon cảm thấy mình càng lúc càng lún sâu thêm trong ghế. Ba mươi giây sau, đám đông nhăn nhở cười và người phụ nữ kia không hề tỏ dấu hiệu muốn dừng lại:
"Và việc ông Langdon từ chối công bố vai trò đặc biệt của ông trong cuộc họp kín bầu Giáo hoàng ở Vatican năm ngoái chắc chắn sẽ ghi thêm điểm cho ông trên hấp-dẫn-kế của chúng ta".
Người giới thiệu kích động đám đông: "Các bạn có muốn nghe thêm không?".
Đám đông vỗ tay tán thưởng.
Ai đó hãy ngăn cô ta lại, Langdon thầm cầu xin khi cô ta lại đọc tiếp bài báo.
"Dù Giáo sư Langdon có thể không được xem là người đẹp trai tuyệt vời như một vài người được bầu chọn trẻ hơn, nhưng vị giáo sư ngoài bốn mươi tuổi này có cái gì đó ngoài phong độ học giả của ông. Vẻ ngoài quyến rũ của ông được tôn thêm bởi giọng nói trầm và âm nam trung hiếm có, điều mà các sinh viên nữ miêu tả là "ngọt như mía lùi".
Cả phòng cười phá lên.
Langdon cố gượng cười vụng về. Ông biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo - lại một tràng những câu lố bịch kiểu "Harrison Ford trong chiếc áo tuýt hiệu Harris" - và bởi vì tối nay ông mặc áo tuýt hiệu Harris và áo cao cổ hiệu Burberry, nên ông quyết định hành động.
"Cảm ơn, Monique". Langdon nói, vội vã đứng lên và đảy cô ta ra khỏi bục diễn đàn, "Boston Magazine quả có năng khiếu hư cấu". Ông quay về phía cử tọa với một tiếng thở dài bối rối.
"Và nếu tôi tìm ra ai trong số các bạn đã cung cấp bài báo đó, tôi sẽ bảo tổng lãnh sự trục xuất các bạn".
Đám đông cười rộ.
"Vậy thưa các bạn, như các bạn đã biết, tối nay tôi tới đây để nói về quyền năng của biểu tượng…".
Chuông điện thoại trong phòng khách sạn của Langdon một lần nữa lại phá tan im lặng.
Càu nhàu, bán tín bán nghi, ông nhấc máy: "Vâng?".
Quả nhiên, lại là người trực khách sạn: "Ông Langdon, một lần nữa xin lỗi ông. Tôi gọi để thông báo với ông rằng vị khách của ông bây giờ đang trên đường đến phòng ông. Tôi nghĩ là nên báo trước cho ông".
Langdon lúc này đã tỉnh hắn: "Ông cho phép ai đó đến phòng của tôi?".
"Tôi xin lỗi, thưa ông, nhưng một người như vậy…tôi không dám mạo quyền ngăn lại!".
"Chính xác thì ông ta là ai?". Nhưng người trực khách sạn đã gác máy.
Gần như ngay lập tức, một nắm tay nặng nề đập cửa phòng Langdon thình thình.
Phân vân, Langdon tụt khỏi giường, cảm thấy những ngón chân nhấn sâu trên tấm thảm. Ông mặc áo choàng của khách sạn và đi tới cửa: "Ai?".
"Ông Langdon? Tôi cần nói chuyện với ông". Tiếng Anh của người này trọ trẹ - một giọng sủa gắt, hách dịch. "Tôi là trung uý Jérôme Collet. Direction (2) DCP.
Langdon dừng lại. Cục cảnh sát Pháp. Đại loại như FBI của Mỹ.
Vẫn để nguyên dây xích an toàn, Langdon hé cửa ra vài phân. Gương mặt đối diện ông mỏng và nhợt nhạt. Người đàn ông gầy khác thường này mặc một bộ đồng phục màu xanh chính quy.
"Tôi có thể vào được không?", viên cảnh sát hỏi.
Langdon do dự, cảm thấy không thoải mái khi đôi mắt xám của người lạ mặt nhìn ông chăm chú: "Chuyện này là thế nào?".
"Capitaine (3) của tôi cần đến sự giám định của ông trong một vấn đề riêng tư".
"Ngay bây giờ?". Langdon hỏi. "Đã quá nửa đêm rồi".
"Ông có một buổi hẹn gặp mặt với ông phụ trách bảo tàng Louvre tối nay, đúng không?".
Langdon chợt cảm thấy bồn chồn. Ông và ông phụ trách bảo tàng đáng kính Jacques Saunière đã sắp xếp chương trình gặp nhau uống chút gì sau buổi thuyết giảng tối nay của ông, nhưng Saunière đã không đến. "Vâng. Làm thế nào mà ông biết chuyện đó?".
"Chúng tôi thấy tên ông trong sổ ghi công việc hàng ngày của ông ấy".
"Chắc không có gì bất ổn chứ?".
Viên cảnh sát buông một tiếng thở dài dễ sợ và luồn một tấm ảnh chụp lấy ngay Polaroid qua khe cửa hé mở.
Khi Langdon thấy tấm ảnh, toàn thân ông cứng sững.
"Tấm ảnh này được chụp cách đây chưa đầy một tiếng. Trong bảo tàng Louvre".
Khi Langdon nhìn kỹ hình ảnh kì quái đó, sự ghê tởm và choáng váng ban đầu nhường chỗ cho một cơn giận trào lên đột ngột: "Ai có thể làm chuyện này?".
"Chúng tôi hy vọng ông có thể giúp chúng tôi trả lời chính câu hỏi đó, bằng kiến thức của ông về khoa ký tượng học và việc ông định gặp ông ấy".
Langdon trân trân nhìn tấm ảnh, sự kinh tởm giờ đây hoà cùng nỗi sợ hãi. Hình ảnh khủng khiếp và quái lạ đó kèm theo một cảm giác bất an về một điều đã thấy ở đâu đó. Hơn một năm trước, Langdon nhận được tấm ảnh một xác chết và một lời đề nghị giúp đỡ tương tự. Hai mươi tư giờ sau, ông suýt mất mạng trong thành phố Vatican. Bức ảnh này hoàn toàn khác, tuy nhiên có một cái gì quen thuộc trong kịch bản khiến ông lo lo.
Viên cảnh sát nhìn đồng hồ: "Capitane của tôi đang chờ, thưa ông".
Langdon chỉ nghe thấy loáng thoáng. Mắt ông vẫn dán vào bức ảnh. "Cái biểu tượng này và cách đặt thi thể ông ấy thật kỳ lạ…".
"Vị trí?" Viên cảnh sát hỏi.
Langdon gật đầu, cảm thấy ớn lạnh khi ông ngẩng lên:
"Tôi không thể tưởng tượng là ai có thể làm việc này đối với người khác".
Viên cảnh sát có vẻ nghiêm nghị: "Ông không hiểu sao, ông Langdon. Những gì ông nhìn thấy trong bức ảnh này…", anh ta dừng lại, "Ông Saunière đã tự làm điều đó với chính mình".
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Nhưng thưa ông
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Cục Cảnh sát tư pháp trung ương.
(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: đại úy
Năm 1975, Thư viện Quốc gia Pháp ở Paris phát hiện thấy những văn bản trên giấy da, được gọi là Les Dossiers Secrects (Hồ sơ bí mật) xác nhận một số thành viên của Tu viện Sion, trong đó có Ngài Isaac Newton, Botticelli, Victor Hugo và Leonardo da Vinci.
Giám mục đoàn Vatican, được gọi là Opus Dei (Tác phẩm của Thượng Đế), là một giáo phái Thiên Chúa sùng tín sâu sắc và dã là một dề tài tranh cãi gần đây do những tin về việc tẩy não, cưỡng bách và một tục lệ gọi là "hành xác". Opus Dei vừa hoàn thành xây dựng một tổng hành dinh trị giá 47 triệu đô la ở số 243 Đại lộ Lexington, New York.
Mọi sự mô tả các tác phẩm nghệ thuật, kiến trúc, tài liệu và lễ thức bí mật trong tiểu thuyết này đều xác thực.
Mở đầu
Bảo tàng Louvre
10g 46’ tối
Jacques Saunière, người phụ trách nổi tiếng của Bảo tàng Louvre, loạng choạng qua cửa tò vò có mái vòm trong Hành Lang Lớn của Bảo tàng. Ông lao tới bức tranh gần nhất ông có thể nhìn thấy, một bức Caravaggio. Nắm lấy vành khung dát vàng, ông già bảy mươi sáu tuổi nhấc bức kiệt tác kéo về phía mình cho đến khi nó bật tung khỏi tường, và Saunière ngã ngật người dưới tấm toan.
Như ông đã tính trước, một cánh cổng sắt đổ đánh rầm ngay gần đó, chặn lối vào dãy hành lang. Sàn gỗ rung lên. Đằng xa, chuông báo động bắt đầu ré lên.
Ông phụ trách bảo tàng nằm yên một lúc, thở hổn hển, nhận định tình hình. Mình vẫn còn sống. Ông trườn ra từ phía dưới bức tranh và nhìn trân trân vào khoảng trống hoác xem có nơi nào ẩn trốn được.
Một giọng nói cất lên, gần đến ớn lạnh: "Không được động đậy".
Trong tư thế bò, ông phụ trách bảo tàng sững người, từ từ quay đầu lại.
Chỉ cách ông khoảng năm mét, bên ngoài cánh cổng chặn lối, cái bóng khổng lồ của kẻ tấn công chằm chằm nhìn qua song sắt. Hắn to cao, nước da trắng trợt như ma và mái tóc bạch kim thưa. Tròng mắt hồng với đồng tử đỏ sậm. Gã bạch tạng rút từ áo khoác ra một khẩu súng lục và chĩa nòng súng qua chấn song thẳng vào ông phụ trách bảo tàng: "Đáng lẽ vừa nãy, ông không nên chạy". Giọng hắn không dễ gì xác định được là người vùng nào: "Giờ thì nói cho tôi biết nó ở đâu".
"Tôi đã nói với ông rồi", ông phụ trách bảo tàng lắp bắp, quỳ chơ vơ trên sàn Hành Lang Lớn. "Tôi không biết ông nói về chuyện gì nữa".
"Ông nói dối?". Hắn nhìn ông chằm chằm, bất động hoàn toàn trừ tia sáng lóe lên trong dôi mắt ma quỷ. "Ông và các đạo hữu của ông sở hữu thứ gì đó không phải của mình".
Mở đầu : NHỮNG SỰ VIỆC CÓ THẬTÔng phụ trách bảo tàng cảm thấy sợ thót người. Làm sao hắn có thể biết điều này?
"Tối nay! Châu sẽ về Hợp Phố. Nói tôi biết nó được giấu ở đâu thì ông sẽ sống". Hắn chĩa súng vào đầu ông. "Đó có phải là một bí mật bõ cho ông chết vì nó không?".
Saunière nghẹt thở.
Hắn nghiêng đầu, nhắm qua nòng súng.
Saunière giơ tay lên che chắn: "Khoan đã". Ông nói chậm rãi. "Tôi sẽ nói cho ông những gì ông cần biết". Người phụ trách bảo tàng nói những lời tiếp theo một cách cẩn trọng. Điều ông nói là một lời nói dối mà ông đã ôn tập nhiều lần và lần nào ông cũng cầu sao sẽ không bao giờ phải dùng đến nó.
Khi người phụ trách bảo tàng nói xong, kẻ tấn công ông tủm tỉm cười đắc ý: "Phải. Đó chính xác là những gì mấy người kia đã nói với tôi".
Saunière giậl bắn người. Mấy người kia?
"Tôi cũng dã tìm thấy bọn họ", tên to con chế giễu "cả ba người. Họ khẳng định những gì ông vừa nói".
Không thể thế được! Nhân thân thật của người phụ trách bảo tàng, của ba pháp quan (2) cũng thiêng liêng gần như điều bí mật cổ xưa mà họ bảo vệ. Giờ đây, Saunière hiểu ra rằng những cùng với nhân thâncủa ông, theo một thủ tục nghiêm khắc, đã nói dối hệt như ông trước khi họ chết. Đó là một phần của nghi thức.
Kẻ tấn công lại ngắm súng: "Khi ông chết đi, tôi sẽ là người duy nhất biết sự thật".
Sự thật. Trong giây lát, người phụ trách bảo tàng chợt hiểu ra sự kinh khủng thực sự của tình thế. ếu mình chết, sự thật sẽ biến mất mãi mãi. Theo bản năng, ông cuống cuồng bò tìm chỗ trốn.
Súng nổ, và Saunière cảm thấy bỏng rát khi viên đạn găm vào bụng. Ông ngã về phía trước… vật lộn với cái đau. Từ từ, Saunière lật ngửa người, ngoái nhìn kẻ tấn công qua song sắt. Tên này đang ngắm phát súng kết liễu vào đầu Saunière.
Saunière nhắm mắt lại, những ý nghĩ của ông như một cơn bão lốc lẫn lộn cả sợ hãi và tiếc nuối.
Tiếng "cạch" của ổ đạn rỗng vang vọng trong hành lang. Ông phụ trách bảo tàng mở choàng mắt.
Tên kia liếc nhìn khẩu súng, vẻ thích thú. Hắn toan nạp kẹp đạn thứ hai, nhưng rồi dường như suy tính lại, hắn cười khẩy bình thản nhìn bụng Saunière: "Công việc của tôi ở đây đã hoàn tất".
Người phụ trách bảo tàng nhìn xuống và thấy vết đạn trên áo sơmi lanh trắng của mình. Một vòng tròn máu viền quanh vết đạn bên dưới xương ức khoảng dăm phân. Trúng bụng mình..
Tệ thay, viên đạn đã không trúng tim ông. Là cựu chiến binh của la Guerre d Algerre (3) , trước đây, ông đã từng chứng kiến cái kiểu chết kéo dài khủng khiếp này. Trong vòng mười lăm phút, ông sẽ sống cho đến khi axit trong dạ dày thấm vào khoang ngực và từ từ đầu độc ông từ bên trong.
"Đau đớn là tốt, thưa quý ông", hắn nói.
Rồi bỏ đi.
Giờ đây khi chỉ còn lại một mình, Jacques Saunière quay sang nhìn trân trối vào cánh cổng sắt. Ông đã mắc kẹt, và các cửa không thể được mở lại ít nhất trong vòng hai mươi phút.
Đến khi có ai đó đến được chỗ ông, thì ông đã chết. Ngay cả như thế, thì nỗi sợ hãi giờ đây đang siết chặt tim ông còn lớn hơn nhiều so với nỗi sợ về cái chết của chính bản thân ông.
Mình phải truyền lại bí mật này.
Chệnh choạng đứng dậy, ông tưởng tượng ra cảnh ba giáo hữu của mình bị sát hại. Ông nghĩ về các thế hệ trước họ… về sứ mệnh mà tất cả bọn họ đã được ủy thác.
Một chuỗi kiến thức liên tục không đứt đoạn.
Đùng một cái, giờ đây, bất chấp mọi phòng ngừa… bất chấp mọi cơ cấu an toàn… Jacques Saunière là mắt xích duy nhất còn lại là người bảo vệ duy nhất của một trong những bí mật có quyền năng nhất từng được lưu giữ.
Run rẩy, ông cố đứng lên.
Ta phải tìm cách nào đó…
Ông bị kẹt trong Hành Lang Lớn, và chỉ có một người duy nhất trên thế giới này ông có thể trao lại ngọn đuốc. Saunière nhìn lên những bức tường phòng giam lộng lẫy của mình. Một bộ sưu tập gồm những bức tranh nổi tiếng nhất thế giới như đang cúi xuống mỉm cười với ông tựa những người bạn cũ.
Nhăn nhó vì đau đớn, ông huy động hết sức lực và khả năng của mình. Cái nhiệm vụ cực kỳ nghiêm trọng trước mắt ông - ông biết - sẽ đòi hỏi mỗi phút giây còn lại của đời ông.
Chú thích:
(1) Sion (hay Zion) là ngọn đồi thánh ở Jerusalem cổ cũng dùng để gọi cả Jérusalem. Về sau, tử này được mở rộng nghĩa để chỉ: chính thể thần quyền Hebrơ, Giáo hội Cơ-đốc, nước của Chúa. . Chúng tôi để nguyên không dịch vì ở dây có thể hiểu theo mọi nghĩa đó.
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: sénécheux (số nhiều của sénéchal). Sénéchal ban đầu, chỉ chức quan trong triều đình chuyên giới thiệu các món ăn, sau này, chỉ chức quan ở tỉnh với chức năng tương đương như pháp quan (Các chú thích trong bản dịch lần này đều của người hiệu đính)
(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: chiến tranh Algerie.
Điện thoại reo trong bóng tối- tiếng chuông leng keng nghe lạ lẫm. Ông dò dẫm tìm ngọn đèn cạnh giường và bật lên. Nheo mắt nhìn xung quanh ông nhận thấy đó là một phòng ngủ kiểu Phục Hưng sang trọng với đồ đạc theo phong cách thời Louis XVI với những tranh vẽ thẳng lên tường, và một chiếc giường gỗ gụ đồ sộ bốn cột.
Mình đang ở chỗ quái quỷ nào thế này?
Chiếc áo tắm mắc trên cột giường mang dòng chữ: Hotel Ritz Paris.
Màn sương tan dần.
Langdon nhấc ống nghe: "Hello?".
"Ông Langdon phải không ạ?", một giọng đàn ông vang lên. "Tôi hy vọng là không đánh thức ông chứ ạ?".
Ngạc nhiên, Langdon nhìn đồng hồ cạnh giường. 0 giờ 32’ sáng. Ông mới ngủ được một tiếng mà cảm thấy như lâu lắm.
"Tôi là người trực khách sạn, thưa ông. Tôi xin lỗi vì sự đường đột này, nhưng có một vị khách khăng khăng đòi gặp ông, nói là có việc khẩn cấp".
Langdon vẫn cảm thấy lơ mơ. Một vị khách? Tia mắt ông tập trung vào một tờ bướm bị vò nhàu trên bàn cạnh giường.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ TẠI PARIS
Trân trọng giới thiệu
MỘT TỐI GẶP GỠ VỚI ROBERT LANGDON
GIÁO SƯ KHOA KÝ TƯỢNG TÔN GIÁO, ĐẠI HỌC HARVARD
Langdon hầm hừ. Buổi thuyết giảng tối nay - một bài giảng về hệ ký tượng vô tôn giáo ẩn chứa trong các phiến đá của Nhà thờ lớn Chartres, có minh họa bằng phim đèn chiếu - chắc đã làm xù lông một vài vị bảo thủ trong đám thính giả. Rất có thể là một học giả nghiên cứu tôn giáo nào đó đã bám theo ông về tận khách sạn để đòi tranh luận.
"Tôi xin lỗi", Langdon nói, "nhưng tôi rất mệt và…".
"Mais monsieur" (1) người trực khách sạn nằn nì, hạ thấp giọng xuống thành một tiếng thì thào khẩn thiết, "vị khách này là người rất quan trọng".
Langdon hơi nghi ngờ. Các cuốn sách của ông về tranh tôn giáo và ký tượng thờ cúng đã làm ông nổi danh trong giới nghệ thuật khiến mọi người miễn cưỡng phải công nhận ông và năm ngoái danh tiếng của Langdon đã tăng lên gấp trăm lần sau khi ông tham gia vào một sự kiện được công chúng biết đến rộng rãi ở Vatican. Từ đó, các nhà sử học và chuyên gia nghệ thuật tự cao tự đại nườm nượp kéo đến nhà ông không ngớt.
"Xin ông vui lòng", Langdon nói, cố gắng hết sức để giữ lịch sự "ghi lại tên và số điện thoại của vị khách đó, và nói với ông ta rằng tôi sẽ cố gắng gọi lại cho ông ta trước khi tôi rời Paris vào thứ ba. Cảm ơn ông". Ông gác máy trước khi người trực khách sạn kịp phản đối.
Lúc này Langdon đã ngồi dậy, ông cau mày nhìn cuốn Sổ tay liên hệ với khách có bìa ghi những lới huênh hoang: "Hãy ngủ như một hài nhi ở Kinh đô ánh sáng. Hãy liên hệ với khách sạn Ritz Paris". Ông quay đầu và nhìn một cách mệt mỏi vào tấm gương soi cả người ở đầu kia căn phòng. Người đàn ông đang nhìn ông là một người xa lạ - tóc tai rối bù và mệt mỏi.
Anh bạn cần một kỳ nghỉ đấy, Robert.
Năm làm việc vừa qua đã làm ông tiêu hao sức lực nặng nề, nhưng ông không khoái nhìn thấy bằng chứng của điều đó trong gương. Đôi mắt màu xanh thường ngày sắc sảo đêm nay có vẻ lờ đờ và mệt mỏi. Một lớp râu đen lởm chởm phủ kín quai hàm khỏe và cái cằm chẻ. Quanh thái dương, những sợi hoa râm đang tăng lên, thâm nhập sâu hơn vào mái tóc đen dày. Mặc dù các đồng nghiệp nữ một mực nói rằng tóc bạc chỉ làm tôn thêm sức quyến rũ bác học của ông, nhưng Langdon thừa biết là đâu phải thế.
Giá Boston Magazine nhìn thấy mình lúc này.
Tháng trước, Langdon rất bối rối khi tờ BostonMagazine xếp ông vào danh sách mười người đàn ông hấp dẫn nhất thành phố - một vinh dự đáng ngờ khiến ông trở thành mục tiêu trêu chọc không dứt của các đồng nghiệp ở trường Harvard. Tối nay, ở cách xa đất nước ba ngàn dặm, sự đề cao đó vẫn trở lại ám ảnh ông ngay trong buổi thuyết giảng ông vừa thực hiện.
"Thưa quý ông quý bà…", người giới thiệu tuyên bố trước thính phòng đầy ắp của Cung Dauphine trường Đại học Mỹ ở Paris. "Khách mời tối nay của chúng ta chắc tôi không cần giới thiệu. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách: Hệ ký hiệu của các giáo phái bí mật, Nghệ thuật của dòng Chúa khai sáng, Ngôn ngữ tượng hình thất truyền, và khi tôi nói ông đã viết cuốn Khoa nghiên cứu thánh tượng và hình ảnh tôn giáo, là nói đúng theo nghĩa đen. Nhiều người trong số các bạn đang dùng những giáo trình của ông trên lớp".
Các sinh viên trong đám đông gật đầu nhiệt liệt tán thưởng.
"Tối nay tôi đã định giới thiệu ông bằng cách chia sẻ với các bạn lý lịch đầy ấn tượng của ông. Tuy nhiên…", cô ta tinh nghịch nhìn Langdon, lúc này ông đã ngồi trên sân khấu, "một khán giả vừa đưa cho tôi một lời gìới thiệu… có thể nói là… hấp dẫn hơn nhiều". Cô ta giơ lên một số Boston Magazin.
Langdon co rúm người lại. Cô ta kiếm đâu ra cái của nợ này?
Người giới thiệu bắt đầu đọc những đoạn trích chọn lọc từ bài báo sáo rỗng kia và Langdon cảm thấy mình càng lúc càng lún sâu thêm trong ghế. Ba mươi giây sau, đám đông nhăn nhở cười và người phụ nữ kia không hề tỏ dấu hiệu muốn dừng lại:
"Và việc ông Langdon từ chối công bố vai trò đặc biệt của ông trong cuộc họp kín bầu Giáo hoàng ở Vatican năm ngoái chắc chắn sẽ ghi thêm điểm cho ông trên hấp-dẫn-kế của chúng ta".
Người giới thiệu kích động đám đông: "Các bạn có muốn nghe thêm không?".
Đám đông vỗ tay tán thưởng.
Ai đó hãy ngăn cô ta lại, Langdon thầm cầu xin khi cô ta lại đọc tiếp bài báo.
"Dù Giáo sư Langdon có thể không được xem là người đẹp trai tuyệt vời như một vài người được bầu chọn trẻ hơn, nhưng vị giáo sư ngoài bốn mươi tuổi này có cái gì đó ngoài phong độ học giả của ông. Vẻ ngoài quyến rũ của ông được tôn thêm bởi giọng nói trầm và âm nam trung hiếm có, điều mà các sinh viên nữ miêu tả là "ngọt như mía lùi".
Cả phòng cười phá lên.
Langdon cố gượng cười vụng về. Ông biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo - lại một tràng những câu lố bịch kiểu "Harrison Ford trong chiếc áo tuýt hiệu Harris" - và bởi vì tối nay ông mặc áo tuýt hiệu Harris và áo cao cổ hiệu Burberry, nên ông quyết định hành động.
"Cảm ơn, Monique". Langdon nói, vội vã đứng lên và đảy cô ta ra khỏi bục diễn đàn, "Boston Magazine quả có năng khiếu hư cấu". Ông quay về phía cử tọa với một tiếng thở dài bối rối.
"Và nếu tôi tìm ra ai trong số các bạn đã cung cấp bài báo đó, tôi sẽ bảo tổng lãnh sự trục xuất các bạn".
Đám đông cười rộ.
"Vậy thưa các bạn, như các bạn đã biết, tối nay tôi tới đây để nói về quyền năng của biểu tượng…".
Chuông điện thoại trong phòng khách sạn của Langdon một lần nữa lại phá tan im lặng.
Càu nhàu, bán tín bán nghi, ông nhấc máy: "Vâng?".
Quả nhiên, lại là người trực khách sạn: "Ông Langdon, một lần nữa xin lỗi ông. Tôi gọi để thông báo với ông rằng vị khách của ông bây giờ đang trên đường đến phòng ông. Tôi nghĩ là nên báo trước cho ông".
Langdon lúc này đã tỉnh hắn: "Ông cho phép ai đó đến phòng của tôi?".
"Tôi xin lỗi, thưa ông, nhưng một người như vậy…tôi không dám mạo quyền ngăn lại!".
"Chính xác thì ông ta là ai?". Nhưng người trực khách sạn đã gác máy.
Gần như ngay lập tức, một nắm tay nặng nề đập cửa phòng Langdon thình thình.
Phân vân, Langdon tụt khỏi giường, cảm thấy những ngón chân nhấn sâu trên tấm thảm. Ông mặc áo choàng của khách sạn và đi tới cửa: "Ai?".
"Ông Langdon? Tôi cần nói chuyện với ông". Tiếng Anh của người này trọ trẹ - một giọng sủa gắt, hách dịch. "Tôi là trung uý Jérôme Collet. Direction (2) DCP.
Langdon dừng lại. Cục cảnh sát Pháp. Đại loại như FBI của Mỹ.
Vẫn để nguyên dây xích an toàn, Langdon hé cửa ra vài phân. Gương mặt đối diện ông mỏng và nhợt nhạt. Người đàn ông gầy khác thường này mặc một bộ đồng phục màu xanh chính quy.
"Tôi có thể vào được không?", viên cảnh sát hỏi.
Langdon do dự, cảm thấy không thoải mái khi đôi mắt xám của người lạ mặt nhìn ông chăm chú: "Chuyện này là thế nào?".
"Capitaine (3) của tôi cần đến sự giám định của ông trong một vấn đề riêng tư".
"Ngay bây giờ?". Langdon hỏi. "Đã quá nửa đêm rồi".
"Ông có một buổi hẹn gặp mặt với ông phụ trách bảo tàng Louvre tối nay, đúng không?".
Langdon chợt cảm thấy bồn chồn. Ông và ông phụ trách bảo tàng đáng kính Jacques Saunière đã sắp xếp chương trình gặp nhau uống chút gì sau buổi thuyết giảng tối nay của ông, nhưng Saunière đã không đến. "Vâng. Làm thế nào mà ông biết chuyện đó?".
"Chúng tôi thấy tên ông trong sổ ghi công việc hàng ngày của ông ấy".
"Chắc không có gì bất ổn chứ?".
Viên cảnh sát buông một tiếng thở dài dễ sợ và luồn một tấm ảnh chụp lấy ngay Polaroid qua khe cửa hé mở.
Khi Langdon thấy tấm ảnh, toàn thân ông cứng sững.
"Tấm ảnh này được chụp cách đây chưa đầy một tiếng. Trong bảo tàng Louvre".
Khi Langdon nhìn kỹ hình ảnh kì quái đó, sự ghê tởm và choáng váng ban đầu nhường chỗ cho một cơn giận trào lên đột ngột: "Ai có thể làm chuyện này?".
"Chúng tôi hy vọng ông có thể giúp chúng tôi trả lời chính câu hỏi đó, bằng kiến thức của ông về khoa ký tượng học và việc ông định gặp ông ấy".
Langdon trân trân nhìn tấm ảnh, sự kinh tởm giờ đây hoà cùng nỗi sợ hãi. Hình ảnh khủng khiếp và quái lạ đó kèm theo một cảm giác bất an về một điều đã thấy ở đâu đó. Hơn một năm trước, Langdon nhận được tấm ảnh một xác chết và một lời đề nghị giúp đỡ tương tự. Hai mươi tư giờ sau, ông suýt mất mạng trong thành phố Vatican. Bức ảnh này hoàn toàn khác, tuy nhiên có một cái gì quen thuộc trong kịch bản khiến ông lo lo.
Viên cảnh sát nhìn đồng hồ: "Capitane của tôi đang chờ, thưa ông".
Langdon chỉ nghe thấy loáng thoáng. Mắt ông vẫn dán vào bức ảnh. "Cái biểu tượng này và cách đặt thi thể ông ấy thật kỳ lạ…".
"Vị trí?" Viên cảnh sát hỏi.
Langdon gật đầu, cảm thấy ớn lạnh khi ông ngẩng lên:
"Tôi không thể tưởng tượng là ai có thể làm việc này đối với người khác".
Viên cảnh sát có vẻ nghiêm nghị: "Ông không hiểu sao, ông Langdon. Những gì ông nhìn thấy trong bức ảnh này…", anh ta dừng lại, "Ông Saunière đã tự làm điều đó với chính mình".
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Nhưng thưa ông
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Cục Cảnh sát tư pháp trung ương.
(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: đại úy
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.