Chương 107: THANH CHÂU
Tiên Chanh
26/06/2013
Kỳ thật cũng chẳng thể trách Thường
Tu An cảm thấy tức giận, quân Giang Bắc đi qua nơi nào thì nơi ấy chẳng
khác gì vừa gặp đại dịch châu chấu, thế thì làm gì có ai không cảm thấy
tức giận? Đừng nói ông ta, mà ngay cả thống soái A Mạch của quân Giang
Bắc, nhìn thấy Lý Thiếu Hướng chỉ huy người khuân khuân, vác vác, trong
mắt cũng không khỏi bốc hỏa. Đợi đến khi có hai tên lính khuân nồi niêu
xoong chảo đi ngang qua nàng, A Mạch thật sự không nhịn được nữa, đưa
tay cản hai tên lính kia lại, hết chỉ cái này lại chỉ cái kia hỏi Lý
Thiếu Hướng: “Đây là cái gì?”
“Nồi a.” Lý Thiếu Hướng cười tủm tỉm đáp.
A Mạch hít sâu một hơi, lúc này mới nói: “Ta biết đây là nồi, là ta hỏi ngươi, ngươi cho người xách mấy cái nồi rách này về để làm gì?”
Nghe A Mạch hỏi thế, Lý Thiếu Hướng trợn tròn mắt, lấy tay chỉ vào mấy cái nồi, kêu lên một cách rất khoa trương: “Đại nhân, đây chính là sắt đấy! Nấu chảy ra làm thành cái gì chả được!”
A Mạch nghẹn lời không thể nói được gì, chỉ đành phẩy phẩy tay áo, ý bảo anh ta mau cho người đem nồi sắt đi. Nồi thủng vừa mang đi, phía sau lại có binh lính ôm một lá cờ Bắc Mạc lại. A Mạch chẳng qua mới nhìn lướt qua, Lý Thiếu Hướng lập tức cầm lấy lá cờ kêu lên: “Đại nhân, ngài sờ thử chất vải này mà xem, rất mềm mại, nếu không thể đem về nhà làm yếm cho thê tử, thì có thể để cho mọi người làm…”
“Ngừng!” A Mạch thật sự không có cách nào có thể tưởng tượng ra mình lại đem lá cờ Bắc Mạc kia mặc lên người, đành phải vội vàng nói: “Ngươi muốn làm thế nào thì cứ làm như thế đi!”
Lý Thiếu Hướng giả dối cười cười, quay đi tiếp tục kiểm kê chiến lợi phẩm. A Mạch không còn hứng thú xem tiếp, quay lại tìm thủ thành Thanh Châu là tướng Tiết Vũ. Người này vốn là một viên tướng tâm phúc của Thương Dịch Chi, năm thứ hai Thịnh Nguyên, Thương Dịch Chi từ Thanh Châu đi cứu viện Thái Hưng, đã lệnh cho anh ta lưu lại trấn giữ Thanh Châu, đến nay đã được hơn hai năm, cuối cùng không đợi được Thương Dịch Chi đến, mà lại là Mạch Tuệ và quân Giang Bắc.
Vốn đã nhận được lệnh từ trước của Thương Dịch Chi, A Mạch vừa vào Thanh Châu, Tiết Vũ đã đem toàn bộ quân vụ thành Thanh Châu giao cho A Mạch. A Mạch tiếp quản Thanh Châu, song vẫn rất tín nhiệm Tiết Vũ, việc canh phòng thành trì phần nhiều vẫn dùng những tướng lãnh cũ của Thanh Châu. Kể từ đó, công việc phòng ngự tiến hành thật sự thuận lợi, chỉ qua một, hai ngày, quân coi giữ tường thành Thanh Châu đều đổi thành quân Giang Bắc.
A Mạch đang cùng Tiết Vũ thương nghị hủy bỏ chế độ hai quân đội để sáp nhập thành một đội quân duy nhất, Vương Thất, tạm lĩnh chức đội trưởng thám báo quân Giang Bắc, từ bên ngoài bước nhanh vào, nói: “Thường Ngọc Thanh đã lui binh.”
A Mạch và Tiết Vũ đều ngẩng đầu lên nhìn Vương Thất, trên mặt Vương Thất vẫn còn lưu lại một tia hưng phấn, nói với A Mạch: “Đúng như đại nhân dự liệu, hai vạn kỵ binh của Thường Ngọc Thanh và mấy ngàn tàn binh của cũng Thường Tu An đã nhổ trại theo hướng tây bắc đi về phía thành Võ An.”
Thành Võ An, cách thành Thanh Châu cùng lắm chỉ hơn một trăm tám mươi dặm, từ Thanh Châu đi về phía tây bắc tất yếu phải qua nơi này.
Tiết Vũ quay đầu nhìn A Mạch, trong ánh mắt hiện lên vài phần khâm phục, lên tiếng hỏi: “Thường Ngọc Thanh quả thật muốn tính đánh lâu dài?”
A Mạch đáp: “Thường Ngọc Thanh là người dũng mãnh nhưng không lỗ mãng, trong tay không đủ binh mã tất nhiên sẽ không dám manh động tấn công Thanh Châu. Huống chi Trần Khởi trước hết phải bình định Ung, Dự, lại vừa muốn đưa tiểu hoàng đế hồi kinh, nhất thời cũng không thể điều thêm quân cho anh ta. Anh ta cũng sợ chúng ta ra khỏi thành đánh lén, nên phải tìm một nơi đóng quân vững chắc đã!”
Tiết Vũ hỏi: “Vậy chúng ta phải đối đãi lại như thế nào?”
A Mạch cười, nói: “Nếu anh ta không công thành, chúng ta trước mắt cũng chẳng cần phải để ý tới anh ta, cứ làm tốt những việc trong thành đã rồi nói sau.” A Mạch quay đầu nhìn Vương Thất phân phó: “Ngày mai triệu tập các đội trưởng trong quân mở đại hội, quán triệt quân kỷ, quân pháp nghiêm minh, phàm kẻ nào dám quấy nhiễu dân chúng, bất luận chức quan hay lai lịch là gì, chỉ có một chữ ‘Trảm’!”
Vương Thất gật đầu: “Đã rõ!”
A Mạch lại hướng Tiết Vũ nói: “Thanh Châu vốn đã bị triều đình cắt nhượng cho thát tử, thỉnh Tiết tướng quân cho người đem chuyện này lan truyền ra bên ngoài, nói gian thần trong triều vì muốn bảo vệ phú quý của bản thân đã xúi giục hoàng đế bỏ rơi Thanh Châu. Sau đó lại tuyên truyền về sự tàn bạo của thát tử, để thu phục nhân tâm của dân chúng trong thành.”
Tiết Vũ chưa kịp lên tiếng đồng ý, Vương Thất đột nhiên nói xen vào: “Thát tử vốn rất tàn bạo, sao còn phải tuyên truyền!”
A Mạch cười hỏi: “Sao ngươi nói thát tử tàn bạo? Trần Khởi ở Dự Châu không hề tơ hào đến bất cứ thứ gì của dân, lại đối đãi với người Nam Hạ không có gì bất đồng so với người Bắc Mạc.”
Vương Thất hừ lạnh một tiếng, mắng: “Không tơ hào cái chó gì! Không tơ hào thì tại sao thành Hán Bảo lại thành thành hoang? Cái gì mà đối đãi không bất đồng? Nếu thế thì ba mươi năm trước, khi xâm chiếm chúng ta cũng đã không đối đãi như thế!”
Sắc mặt A Mạch trở nên ảm đạm, trầm mặc một lát rồi mới tiếp tục nói: “Hán Bảo cách Thanh Châu quá xa, ba mươi năm trước cũng đã trôi qua quá lâu rồi, khó tránh khỏi sẽ có những người không nhìn thấy, không nhớ nổi, nên sẽ ảo tưởng rằng có thể sống yên ổn qua ngày dưới gót sắt của dị tộc.”
Trong phòng, ba người đều trở nên trầm mặc, A Mạch phục hồi lại tinh thần, giao cho Vương Thất xử lý thêm vài công vụ nữa, Vương Thất lĩnh mệnh mà đi, trong phòng lại chỉ còn lại A Mạch và Tiết Vũ. A Mạch cẩn thận cân nhắc, lại nói với Tiết Vũ: “Tuy quân ta vì chống lại thát tử, nhưng trong triều chưa chắc đã nghĩ như vậy, không quá mấy ngày nữa, có lẽ sẽ tuyên bố chúng ta là quân phản loạn, đến lúc đó chỉ sợ chúng ta sẽ rơi vào cảnh hai bề thụ địch! Phía trước đã bị Thường Ngọc Thanh phong kín, phía sau là khe núi Phi Long thì chúng ta lại chưa kịp chuẩn bị.”
Tiết Vũ vốn đã nghĩ tới điều này, nên trước khi quân Giang Bắc đến đã tiến hành an bài rồi, nghe A Mạch nhắc đến, tinh thần theo đó mà rung lên, nói: “Thuộc hạ cũng đã nghĩ đến điều này, nên những cửa ngõ trong núi Phi Long đều đã tăng cường phòng thủ. Hơn nữa,” trên mặt Tiết Vũ lộ ra vẻ đắc ý, nói: “Trước đó vài ngày, thuộc hạ đã trưng thu lương thảo của mấy quận huyện ở phía đông, đồng thời chiêu mộ thêm không ít tráng đinh, tất cả đều có thể sung quân.”
A Mạch nghe xong khen: “Tiết tướng quân quả nhiên có tài tướng soái, không hổ Thương soái nhiều lần khen ngợi.”
“Đại nhân quá khen, thật không dám nhận!” Tiết Vũ vội vàng nói. Khi Thương Dịch Chi còn ở Thanh Châu, anh ta chỉ là một viên tướng giữ thành, hai năm nay mặc dù tạm giữ chức tướng thủ thành, nhưng chẳng qua cũng chỉ là phó tướng mà thôi, hiện được A Mạch khen anh ta là tướng soái có tài, bất giác có chút ngượng ngùng, trên mặt thoáng đỏ ửng, nhưng trong mắt cũng không dấu được tia kích động.
A Mạch nhìn thấy liền hiểu, còn nói thêm: “Quân Giang Bắc khổ chiến cùng thát tử đã lâu, biên chế trong quân đã không còn đầy đủ, nay cùng quân Thanh Châu kết hợp làm một, cũng nên tìm cách bù đắp những vị trí còn khuyết thiếu này.”
Tiết Vũ không phải kẻ ngốc, chỉ vừa nghe A Mạch nói vậy liền hiểu ngay, lập tức đáp: “Lý nào lại như thế, mọi người cứ theo năng lực mà giữ các chức vụ khác nhay, quân ta cũng rất nhanh mà trở nên lớn mạnh.”
A Mạch hỏi: “Không biết Tiết tướng quân có thể tiến cử người tài giỏi nào không?”
Tiết Vũ biết A Mạch hỏi vậy chính là muốn mình tiến cử người thân tín, tâm phúc, bất giác có chút động tâm, nhưng sau khi cân nhắc cẩn thận liền nói: “Tướng lĩnh trong thành đều do Thương soái sử dụng trước đây, đều là người trung hậu thật thà, nên sẽ toàn tâm toàn ý nghe theo sự an bài của đại nhân.”
A Mạch thản nhiên cười, nói: “Nếu đã như vậy, trước hết đều thăng mỗi viên quan lên một cấp, sau đó xét theo sở trường của mỗi người mà sắp xếp trong quân Giang Bắc.”
Tiết Vũ có chút không thể tin được nhìn A Mạch, lại nghe nàng nói tiếp: “Tiết tướng quân, ngươi và ta trước kia tuy đều là thủ hạ của Thương soái, lại vô duyên vô cớ kết thành cộng sự, khó tránh khỏi có điều chưa hiểu rõ về nhau. Song về sau qua tiếp xúc lâu dài, thì dần dần cũng sẽ hiểu.”
Trên mặt A Mạch lộ ra ý cười hoà thuận vui vẻ, chân thành ấm áp, thần thái tinh anh không hề giảm sút, Tiết Vũ nhìn mà nhất thời có chút giật mình.
Cho đến buổi chiều, khi trở về trong phủ của mình, trong đầu Tiết Vũ thỉnh thoảng lại hiện lên hình ảnh A Mạch ôn hòa tươi cười mà không sao nắm bắt được A Mạch rốt cuộc có tâm tư gì! Thê tử của ông ta là Uông Thị tiến đến giúp ông ta cởi giáp, đuổi nha hoàn ra ngoài, vừa tự tay cởi tấm bảo vệ tay, vừa nhỏ giọng hỏi: “Hôm nay mọi việc thế nào? A Mạch tướng quân đã quyết định chức quan cho chàng rồi phải không?”
Tiết Vũ khẽ gật gật đầu.
Uông Thị vội thấp giọng hỏi: “Là chức quan gì?”
Tiết Vũ đáp: “Tả phó tướng quân Giang Bắc.”
Uông Thị nghe xong thất vọng, nhịn không được than thở nói: “Vẫn là phó tướng à, còn tưởng rằng lần này có thể thăng lên làm trưởng quan chứ!”
Tiết Vũ không khỏi chau mày, trợn mắt quát: “Nàng là nữ nhân thì biết cái gì! Phó tướng thành Thanh Châu há có thể so với Tả phó tướng quân Giang Bắc sao!”
Uông Thị cũng chẳng sợ dáng vẻ trừng mắt hung dữ của trượng phu, nhẹ nhàng bĩu môi, nói: “Cái gì mà quân Giang Bắc với chả không quân Giang Bắc, thiếp thấy còn chẳng bằng làm phó tướng thành Thanh Châu, chúng ta đều là người Thanh Châu, nơi này núi cao hoàng đế ở xa, chủ tướng lại không có ở trong thành, chẳng phải đều do chàng định đoạt hay sao! Đột nhiên mở rộng cổng thành nghênh đón quân Giang Bắc, hiện giờ nhìn lại thì có vẻ chức quan của chàng cao hơn trước, nhưng thực ra chẳng phải là chàng đã bị mất quyền lực rồi hay sao!”
Tiết Vũ im lặng không nói gì, quân Giang Bắc vốn do hai quân Thanh, Dự hợp thành, vì vậy không hề thiếu những cựu binh Thanh Châu, sau hai năm chinh chiến trở về, việc thăng chức của họ vốn nhanh hơn so với ông ta ở lại canh giữ Thanh Châu.
Uông Thị liếc mắt nhìn thần sắc trên mặt trượng phu, lại nói tiếp: “Chúng ta giơ đầu gánh tội danh phản quốc mà nghênh đón quân Giang Bắc vào thành, sớm biết như thế chi bằng nghe theo sự an bài của triều đình mà rút khỏi Thanh Châu, đem nơi này giao cho thát tử. Ký Châu so với Thanh Châu không chỉ mạnh hơn gấp trăm lần, lại nói Tiếu lão tướng quân vốn là di phu của chàng, chẳng lẽ lại bạc đãi chàng hay sao? Cho dù vẫn làm phó tướng……”
Lời còn chưa dứt, Tiết Vũ đột nhiên đẩy mạnh Uông Thị ngã xuống đất. Uông Thị nhất thời bị quẳng xuống đất mà choáng váng, chằm chằm nhìn trượng phu, hỏi: “Chàng! Thế này… Là sao chứ?”
Trên mặt Tiết Vũ lạnh băng, nghiến răng mắng: “Ngươi là phụ nữ đã có chồng mà không biết giữ mồm giữ miệng, ta sớm muộn gì cũng phải cắt lưỡi ngươi!”
Uông Thị và Tiết Vũ thuở nhỏ là thanh mai trúc mã, từ lúc thiếu niên đến giờ đã kết thành vợ chồng, chưa từng bị trượng phu mắng cay độc như vậy, trong lúc nhất thời vừa thẹn vừa giận, xoay người nằm dưới đất òa khóc, vừa khóc vừa mắng: “Chàng ở bên ngoài bị người ta làm cho uất giận mà không dám lên tiếng, về nhà lại trút lên đầu thiếp, như thế mà gọi là đàn ông sao!”
Tiết Vũ lại tức giận đến sắc mặt xanh mét, đưa mắt nhìn về phía cửa phòng, lại cúi lưng hạ giọng nói tiếp với Uông Thị: “Nàng nếu muốn sớm thành quả phụ, thì cứ việc khóc, cứ việc mắng cho lớn tiếng vào, khiến cho cả thành Thanh Châu đều đồn ầm lên rằng Tiết Vũ ta là kẻ đầu hàng thát tử!”
Uông Thị mặc dù có chút ngang bướng, nhưng không phải là một thôn phụ ngu muội, vừa nghe trượng phu nói vậy, nàng nhất thời cả kinh, lập tức dừng khóc, ngẩng đầu nhìn trượng phu, thấy sắc mặt Tiết Vũ vẫn vô cùng giận dữ, không hề có ý sẽ đỡ mình dậy, liền tự mình đứng lên.
Tiết Vũ nói xong, cũng không buồn để ý tới Uông Thị, xoay người sang chỗ khác tự mình cởi áo giáp trên người. Uông Thị từ phía sau Tiết Vũ cởi thắt lưng, áo giáp giúp chồng, mềm giọng nói: “Tứ lang đừng tức giận, là thiếp sai rồi.”
Uông Thị có một điểm tốt, đó là có lúc thì rất ngang bướng nhưng cũng có thể mềm mại uyển chuyển được. Mấy lời vừa rồi khiến Tiết Vũ cũng không thể tiếp tục làm mặt lạnh với nàng nữa, chỉ nói: “Nàng là phụ nữ, kiến thức nông cạn! Nếu Thanh Châu mà mất thì Ký Châu còn có giữ được sao? Lại nói nếu ta chống lại thát tử khôi phục non sông, sau này chẳng phải sẽ được an nhàn mà hưởng phú quý hay sao!”
Uông Thị cũng là phì cười một tiếng, nói: “Vâng, vâng, Tiết tứ lang là đại anh hùng trung can nghĩa đảm, vì nước vì dân, thiếp tóc dài nhưng trí ngắn, chàng còn nổi giận với thiếp làm gì?”
Lời này nói ra khiến Tiết Vũ không khỏi xoay chuyển tâm tư, quay người lại nhìn Uông Thị, dịu dàng hỏi: “Vừa rồi cũng là nhất thời tức giận, nàng có đau không?”
Uông Thị lúc này lại cảm thấy vô cùng ủy khuất, đôi mắt cũng đỏ hoe, nhưng không khóc, chỉ nói: “Tứ lang còn biết quan tâm xem thiếp có đau hay không ư, vừa rồi chẳng phải chàng còn hận không thể lấy kiếm mà đâm thiếp hay sao.”
Tiết Vũ thấp giọng an ủi Uông Thị vài câu, rồi nói: “Nàng không biết đấy thôi, trong triều cắt đất nghị hòa cũng là bất đắc dĩ, Thanh Châu là nơi cửa ngõ hiểm yếu, thật sự không thể giao cho thát tử. Nhưng lại bị thát tử bức bách đến không còn cách nào khác, nên bề ngoài đành phải thượng cho thát tử, nhưng bên trong thì âm thầm dung túng cho quân Giang Bắc chiếm lấy Thanh Châu, chống lại thát tử. Nếu không, Thanh Châu là nơi đất bạc, dân nghèo, chỉ cần Ký Châu cắt đứt nguồn cung ứng lương thảo thì không cần đánh, thành này cũng bị phá. Quân Giang Bắc đã phản Thái Hưng hơn một tháng, vì sao không thấy Ký Châu có chút động tĩnh gì? Trước đó vài ngày, ta đã đi mấy quận huyện phía đông trưng thu lương thảo và tráng đinh, di phu(1) đều làm bộ như không thấy, không biết.”
Uông Thị chần chờ một lát, hỏi: “Nói như vậy, hoàng đế cũng không phải là kẻ hồ đồ ?”
Tiết Vũ lạnh lùng cười, nói: “Có thể lên làm hoàng đế, thì còn hồ đồ được sao? Chỉ là trước mắt không thể làm khác được mà thôi. Hơn nữa quân Giang Bắc lại giương cao lá cờ chống thát tử, Mạch tướng quân đến giờ cũng chỉ xưng là tướng quân, mà không tự phong là nguyên soái, nên cũng không mang danh mưu phản.”
Uông Thị nghe cũng minh bạch được vài điều, nhưng phần lớn là chẳng hiểu gì, nghe nói A Mạch thật ra cũng chỉ là một tướng quân, trong lòng nhất thời cân bằng lại, vì thế liền nói: “Thôi, Tứ lang đừng nói chuyện quan trường với thiếp nữa, thiếp nghe mà đau hết cả đầu.”
Tiết Vũ đã thay xong thường phục, xoay người ngồi xuống ghế, cười nói: “Nàng nhớ cho kỹ, cho dù chúng ta có giao thành Thanh Châu cho thát tử, đến Ký Châu có di phu chiếu cố, thì chưa chắc đã tốt.”
Uông Thị cười cười, lại tiến lên nhẹ nhàng xoa bóp bả vai trượng phu, cười hỏi: “Nếu Tứ lang đều đã nhìn thấu như vậy, sao còn mang bộ mặt như thế trở về?”
Tiết Vũ nghĩ nghĩ, thấp giọng nói: “Vì vừa rồi Mạch tướng quân bỗng nhiên lại hỏi ta có thể tiến cử người thân tín hay không, ta sợ anh ta là cố ý thử ta, cũng không dám nhiều lời, không ngờ anh ta lại thăng chức cho tất cả các viên quan trong quân Thanh Châu lên một cấp, rồi căn cứ theo năng lực mà an bài chức vụ. Người này… thật khiến cho người ta không thể đoán ra tâm tư.”
Uông Thị cũng cười nói: “Tứ lang trung thành với chủ, thành tâm làm việc, nghiền ngẫm tâm tư của anh ta làm gì? Anh ta tâm cơ có thâm trầm đến mấy thì liệu có thể bằng Thương soái được không? Tứ lang chẳng phải vẫn được Thương soái tín nhiệm trọng dụng hay sao! Theo thiếp thì chàng chẳng cần phải cân nhắc này nọ làm gì, không dò được tâm tư thì đừng dò nữa, anh ta cho chàng làm gì thì chàng cứ làm cái đó là được rồi! Về lâu về dài, tự anh ta sẽ hiểu được cách làm người của Tứ lang!”
Uông Thị nói một hồi khiến trong lòng Tiết Vũ trở nên minh bạch sáng tỏ, liền kéo Uông Thị ôm vào lòng, khen: “Đúng là đạo lý này, chỉ có nàng là hiểu được!”
Uông Thị tươi cười đắc ý, nhãn châu chuyển động, ghé miệng sát đến bên tai Tiết Vũ thấp giọng hỏi: “Nghe nói Mạch tướng quân so với Thương soái dáng vẻ còn tuấn tú hơn, có phải thật không?”
Tiết Vũ trước mắt lại thoáng hiện lên hình ảnh A Mạch với nụ cười ấm áp trên môi, không khỏi gật đầu. Trong giọng nói của Uông Thị liền để lộ ra vẻ hưng phấn, nói: “Nhưng vẫn chưa có thê thất? Không bằng đem Tố Lan nhà chúng ta gả cho anh ta đi!”
“Hả!” Tiết Vũ sợ tới mức cả kinh, đưa tay đẩy Uông Thị từ trên đùi đẩy ra, giáo huấn: “Nàng lại muốn giật dây làm loạn gì vậy!”
Uông Thị bất mãn bĩu môi, nói: “Tố Lan là muội tử của chàng, cũng không phải của thiếp, thiếp đây mới không phải là cố sức lấy lòng! Hơn nữa,” Uông Thị vẫn chưa từ bỏ ý định, lại khuyên: “Hai năm trước, khi Thương soái vẫn còn ở đây, thì Tố Lan hãy còn nhỏ, nay vừa đến tuổi cập kê, dáng vẻ lại xinh đẹp, chẳng phải rất xứng với Mạch tướng quân tuổi trẻ tuấn tú hay sao?”
Tiết Vũ nghe thê tử nói thế liền tâm động, nghĩ ngợi một chút rồi nói: “Nàng đừng gấp, vạn nhất không thành thì thật mất mặt, việc này để ta âm thầm điều tra trước đã rồi nói sau.”
Uông Thị biết trượng phu nói có lý, gật đầu, cười nói: “Thiếp nghe lời chàng.”
————————
Chú thích:
1- Di phu: chồng của chị/em gái của mẹ.
“Nồi a.” Lý Thiếu Hướng cười tủm tỉm đáp.
A Mạch hít sâu một hơi, lúc này mới nói: “Ta biết đây là nồi, là ta hỏi ngươi, ngươi cho người xách mấy cái nồi rách này về để làm gì?”
Nghe A Mạch hỏi thế, Lý Thiếu Hướng trợn tròn mắt, lấy tay chỉ vào mấy cái nồi, kêu lên một cách rất khoa trương: “Đại nhân, đây chính là sắt đấy! Nấu chảy ra làm thành cái gì chả được!”
A Mạch nghẹn lời không thể nói được gì, chỉ đành phẩy phẩy tay áo, ý bảo anh ta mau cho người đem nồi sắt đi. Nồi thủng vừa mang đi, phía sau lại có binh lính ôm một lá cờ Bắc Mạc lại. A Mạch chẳng qua mới nhìn lướt qua, Lý Thiếu Hướng lập tức cầm lấy lá cờ kêu lên: “Đại nhân, ngài sờ thử chất vải này mà xem, rất mềm mại, nếu không thể đem về nhà làm yếm cho thê tử, thì có thể để cho mọi người làm…”
“Ngừng!” A Mạch thật sự không có cách nào có thể tưởng tượng ra mình lại đem lá cờ Bắc Mạc kia mặc lên người, đành phải vội vàng nói: “Ngươi muốn làm thế nào thì cứ làm như thế đi!”
Lý Thiếu Hướng giả dối cười cười, quay đi tiếp tục kiểm kê chiến lợi phẩm. A Mạch không còn hứng thú xem tiếp, quay lại tìm thủ thành Thanh Châu là tướng Tiết Vũ. Người này vốn là một viên tướng tâm phúc của Thương Dịch Chi, năm thứ hai Thịnh Nguyên, Thương Dịch Chi từ Thanh Châu đi cứu viện Thái Hưng, đã lệnh cho anh ta lưu lại trấn giữ Thanh Châu, đến nay đã được hơn hai năm, cuối cùng không đợi được Thương Dịch Chi đến, mà lại là Mạch Tuệ và quân Giang Bắc.
Vốn đã nhận được lệnh từ trước của Thương Dịch Chi, A Mạch vừa vào Thanh Châu, Tiết Vũ đã đem toàn bộ quân vụ thành Thanh Châu giao cho A Mạch. A Mạch tiếp quản Thanh Châu, song vẫn rất tín nhiệm Tiết Vũ, việc canh phòng thành trì phần nhiều vẫn dùng những tướng lãnh cũ của Thanh Châu. Kể từ đó, công việc phòng ngự tiến hành thật sự thuận lợi, chỉ qua một, hai ngày, quân coi giữ tường thành Thanh Châu đều đổi thành quân Giang Bắc.
A Mạch đang cùng Tiết Vũ thương nghị hủy bỏ chế độ hai quân đội để sáp nhập thành một đội quân duy nhất, Vương Thất, tạm lĩnh chức đội trưởng thám báo quân Giang Bắc, từ bên ngoài bước nhanh vào, nói: “Thường Ngọc Thanh đã lui binh.”
A Mạch và Tiết Vũ đều ngẩng đầu lên nhìn Vương Thất, trên mặt Vương Thất vẫn còn lưu lại một tia hưng phấn, nói với A Mạch: “Đúng như đại nhân dự liệu, hai vạn kỵ binh của Thường Ngọc Thanh và mấy ngàn tàn binh của cũng Thường Tu An đã nhổ trại theo hướng tây bắc đi về phía thành Võ An.”
Thành Võ An, cách thành Thanh Châu cùng lắm chỉ hơn một trăm tám mươi dặm, từ Thanh Châu đi về phía tây bắc tất yếu phải qua nơi này.
Tiết Vũ quay đầu nhìn A Mạch, trong ánh mắt hiện lên vài phần khâm phục, lên tiếng hỏi: “Thường Ngọc Thanh quả thật muốn tính đánh lâu dài?”
A Mạch đáp: “Thường Ngọc Thanh là người dũng mãnh nhưng không lỗ mãng, trong tay không đủ binh mã tất nhiên sẽ không dám manh động tấn công Thanh Châu. Huống chi Trần Khởi trước hết phải bình định Ung, Dự, lại vừa muốn đưa tiểu hoàng đế hồi kinh, nhất thời cũng không thể điều thêm quân cho anh ta. Anh ta cũng sợ chúng ta ra khỏi thành đánh lén, nên phải tìm một nơi đóng quân vững chắc đã!”
Tiết Vũ hỏi: “Vậy chúng ta phải đối đãi lại như thế nào?”
A Mạch cười, nói: “Nếu anh ta không công thành, chúng ta trước mắt cũng chẳng cần phải để ý tới anh ta, cứ làm tốt những việc trong thành đã rồi nói sau.” A Mạch quay đầu nhìn Vương Thất phân phó: “Ngày mai triệu tập các đội trưởng trong quân mở đại hội, quán triệt quân kỷ, quân pháp nghiêm minh, phàm kẻ nào dám quấy nhiễu dân chúng, bất luận chức quan hay lai lịch là gì, chỉ có một chữ ‘Trảm’!”
Vương Thất gật đầu: “Đã rõ!”
A Mạch lại hướng Tiết Vũ nói: “Thanh Châu vốn đã bị triều đình cắt nhượng cho thát tử, thỉnh Tiết tướng quân cho người đem chuyện này lan truyền ra bên ngoài, nói gian thần trong triều vì muốn bảo vệ phú quý của bản thân đã xúi giục hoàng đế bỏ rơi Thanh Châu. Sau đó lại tuyên truyền về sự tàn bạo của thát tử, để thu phục nhân tâm của dân chúng trong thành.”
Tiết Vũ chưa kịp lên tiếng đồng ý, Vương Thất đột nhiên nói xen vào: “Thát tử vốn rất tàn bạo, sao còn phải tuyên truyền!”
A Mạch cười hỏi: “Sao ngươi nói thát tử tàn bạo? Trần Khởi ở Dự Châu không hề tơ hào đến bất cứ thứ gì của dân, lại đối đãi với người Nam Hạ không có gì bất đồng so với người Bắc Mạc.”
Vương Thất hừ lạnh một tiếng, mắng: “Không tơ hào cái chó gì! Không tơ hào thì tại sao thành Hán Bảo lại thành thành hoang? Cái gì mà đối đãi không bất đồng? Nếu thế thì ba mươi năm trước, khi xâm chiếm chúng ta cũng đã không đối đãi như thế!”
Sắc mặt A Mạch trở nên ảm đạm, trầm mặc một lát rồi mới tiếp tục nói: “Hán Bảo cách Thanh Châu quá xa, ba mươi năm trước cũng đã trôi qua quá lâu rồi, khó tránh khỏi sẽ có những người không nhìn thấy, không nhớ nổi, nên sẽ ảo tưởng rằng có thể sống yên ổn qua ngày dưới gót sắt của dị tộc.”
Trong phòng, ba người đều trở nên trầm mặc, A Mạch phục hồi lại tinh thần, giao cho Vương Thất xử lý thêm vài công vụ nữa, Vương Thất lĩnh mệnh mà đi, trong phòng lại chỉ còn lại A Mạch và Tiết Vũ. A Mạch cẩn thận cân nhắc, lại nói với Tiết Vũ: “Tuy quân ta vì chống lại thát tử, nhưng trong triều chưa chắc đã nghĩ như vậy, không quá mấy ngày nữa, có lẽ sẽ tuyên bố chúng ta là quân phản loạn, đến lúc đó chỉ sợ chúng ta sẽ rơi vào cảnh hai bề thụ địch! Phía trước đã bị Thường Ngọc Thanh phong kín, phía sau là khe núi Phi Long thì chúng ta lại chưa kịp chuẩn bị.”
Tiết Vũ vốn đã nghĩ tới điều này, nên trước khi quân Giang Bắc đến đã tiến hành an bài rồi, nghe A Mạch nhắc đến, tinh thần theo đó mà rung lên, nói: “Thuộc hạ cũng đã nghĩ đến điều này, nên những cửa ngõ trong núi Phi Long đều đã tăng cường phòng thủ. Hơn nữa,” trên mặt Tiết Vũ lộ ra vẻ đắc ý, nói: “Trước đó vài ngày, thuộc hạ đã trưng thu lương thảo của mấy quận huyện ở phía đông, đồng thời chiêu mộ thêm không ít tráng đinh, tất cả đều có thể sung quân.”
A Mạch nghe xong khen: “Tiết tướng quân quả nhiên có tài tướng soái, không hổ Thương soái nhiều lần khen ngợi.”
“Đại nhân quá khen, thật không dám nhận!” Tiết Vũ vội vàng nói. Khi Thương Dịch Chi còn ở Thanh Châu, anh ta chỉ là một viên tướng giữ thành, hai năm nay mặc dù tạm giữ chức tướng thủ thành, nhưng chẳng qua cũng chỉ là phó tướng mà thôi, hiện được A Mạch khen anh ta là tướng soái có tài, bất giác có chút ngượng ngùng, trên mặt thoáng đỏ ửng, nhưng trong mắt cũng không dấu được tia kích động.
A Mạch nhìn thấy liền hiểu, còn nói thêm: “Quân Giang Bắc khổ chiến cùng thát tử đã lâu, biên chế trong quân đã không còn đầy đủ, nay cùng quân Thanh Châu kết hợp làm một, cũng nên tìm cách bù đắp những vị trí còn khuyết thiếu này.”
Tiết Vũ không phải kẻ ngốc, chỉ vừa nghe A Mạch nói vậy liền hiểu ngay, lập tức đáp: “Lý nào lại như thế, mọi người cứ theo năng lực mà giữ các chức vụ khác nhay, quân ta cũng rất nhanh mà trở nên lớn mạnh.”
A Mạch hỏi: “Không biết Tiết tướng quân có thể tiến cử người tài giỏi nào không?”
Tiết Vũ biết A Mạch hỏi vậy chính là muốn mình tiến cử người thân tín, tâm phúc, bất giác có chút động tâm, nhưng sau khi cân nhắc cẩn thận liền nói: “Tướng lĩnh trong thành đều do Thương soái sử dụng trước đây, đều là người trung hậu thật thà, nên sẽ toàn tâm toàn ý nghe theo sự an bài của đại nhân.”
A Mạch thản nhiên cười, nói: “Nếu đã như vậy, trước hết đều thăng mỗi viên quan lên một cấp, sau đó xét theo sở trường của mỗi người mà sắp xếp trong quân Giang Bắc.”
Tiết Vũ có chút không thể tin được nhìn A Mạch, lại nghe nàng nói tiếp: “Tiết tướng quân, ngươi và ta trước kia tuy đều là thủ hạ của Thương soái, lại vô duyên vô cớ kết thành cộng sự, khó tránh khỏi có điều chưa hiểu rõ về nhau. Song về sau qua tiếp xúc lâu dài, thì dần dần cũng sẽ hiểu.”
Trên mặt A Mạch lộ ra ý cười hoà thuận vui vẻ, chân thành ấm áp, thần thái tinh anh không hề giảm sút, Tiết Vũ nhìn mà nhất thời có chút giật mình.
Cho đến buổi chiều, khi trở về trong phủ của mình, trong đầu Tiết Vũ thỉnh thoảng lại hiện lên hình ảnh A Mạch ôn hòa tươi cười mà không sao nắm bắt được A Mạch rốt cuộc có tâm tư gì! Thê tử của ông ta là Uông Thị tiến đến giúp ông ta cởi giáp, đuổi nha hoàn ra ngoài, vừa tự tay cởi tấm bảo vệ tay, vừa nhỏ giọng hỏi: “Hôm nay mọi việc thế nào? A Mạch tướng quân đã quyết định chức quan cho chàng rồi phải không?”
Tiết Vũ khẽ gật gật đầu.
Uông Thị vội thấp giọng hỏi: “Là chức quan gì?”
Tiết Vũ đáp: “Tả phó tướng quân Giang Bắc.”
Uông Thị nghe xong thất vọng, nhịn không được than thở nói: “Vẫn là phó tướng à, còn tưởng rằng lần này có thể thăng lên làm trưởng quan chứ!”
Tiết Vũ không khỏi chau mày, trợn mắt quát: “Nàng là nữ nhân thì biết cái gì! Phó tướng thành Thanh Châu há có thể so với Tả phó tướng quân Giang Bắc sao!”
Uông Thị cũng chẳng sợ dáng vẻ trừng mắt hung dữ của trượng phu, nhẹ nhàng bĩu môi, nói: “Cái gì mà quân Giang Bắc với chả không quân Giang Bắc, thiếp thấy còn chẳng bằng làm phó tướng thành Thanh Châu, chúng ta đều là người Thanh Châu, nơi này núi cao hoàng đế ở xa, chủ tướng lại không có ở trong thành, chẳng phải đều do chàng định đoạt hay sao! Đột nhiên mở rộng cổng thành nghênh đón quân Giang Bắc, hiện giờ nhìn lại thì có vẻ chức quan của chàng cao hơn trước, nhưng thực ra chẳng phải là chàng đã bị mất quyền lực rồi hay sao!”
Tiết Vũ im lặng không nói gì, quân Giang Bắc vốn do hai quân Thanh, Dự hợp thành, vì vậy không hề thiếu những cựu binh Thanh Châu, sau hai năm chinh chiến trở về, việc thăng chức của họ vốn nhanh hơn so với ông ta ở lại canh giữ Thanh Châu.
Uông Thị liếc mắt nhìn thần sắc trên mặt trượng phu, lại nói tiếp: “Chúng ta giơ đầu gánh tội danh phản quốc mà nghênh đón quân Giang Bắc vào thành, sớm biết như thế chi bằng nghe theo sự an bài của triều đình mà rút khỏi Thanh Châu, đem nơi này giao cho thát tử. Ký Châu so với Thanh Châu không chỉ mạnh hơn gấp trăm lần, lại nói Tiếu lão tướng quân vốn là di phu của chàng, chẳng lẽ lại bạc đãi chàng hay sao? Cho dù vẫn làm phó tướng……”
Lời còn chưa dứt, Tiết Vũ đột nhiên đẩy mạnh Uông Thị ngã xuống đất. Uông Thị nhất thời bị quẳng xuống đất mà choáng váng, chằm chằm nhìn trượng phu, hỏi: “Chàng! Thế này… Là sao chứ?”
Trên mặt Tiết Vũ lạnh băng, nghiến răng mắng: “Ngươi là phụ nữ đã có chồng mà không biết giữ mồm giữ miệng, ta sớm muộn gì cũng phải cắt lưỡi ngươi!”
Uông Thị và Tiết Vũ thuở nhỏ là thanh mai trúc mã, từ lúc thiếu niên đến giờ đã kết thành vợ chồng, chưa từng bị trượng phu mắng cay độc như vậy, trong lúc nhất thời vừa thẹn vừa giận, xoay người nằm dưới đất òa khóc, vừa khóc vừa mắng: “Chàng ở bên ngoài bị người ta làm cho uất giận mà không dám lên tiếng, về nhà lại trút lên đầu thiếp, như thế mà gọi là đàn ông sao!”
Tiết Vũ lại tức giận đến sắc mặt xanh mét, đưa mắt nhìn về phía cửa phòng, lại cúi lưng hạ giọng nói tiếp với Uông Thị: “Nàng nếu muốn sớm thành quả phụ, thì cứ việc khóc, cứ việc mắng cho lớn tiếng vào, khiến cho cả thành Thanh Châu đều đồn ầm lên rằng Tiết Vũ ta là kẻ đầu hàng thát tử!”
Uông Thị mặc dù có chút ngang bướng, nhưng không phải là một thôn phụ ngu muội, vừa nghe trượng phu nói vậy, nàng nhất thời cả kinh, lập tức dừng khóc, ngẩng đầu nhìn trượng phu, thấy sắc mặt Tiết Vũ vẫn vô cùng giận dữ, không hề có ý sẽ đỡ mình dậy, liền tự mình đứng lên.
Tiết Vũ nói xong, cũng không buồn để ý tới Uông Thị, xoay người sang chỗ khác tự mình cởi áo giáp trên người. Uông Thị từ phía sau Tiết Vũ cởi thắt lưng, áo giáp giúp chồng, mềm giọng nói: “Tứ lang đừng tức giận, là thiếp sai rồi.”
Uông Thị có một điểm tốt, đó là có lúc thì rất ngang bướng nhưng cũng có thể mềm mại uyển chuyển được. Mấy lời vừa rồi khiến Tiết Vũ cũng không thể tiếp tục làm mặt lạnh với nàng nữa, chỉ nói: “Nàng là phụ nữ, kiến thức nông cạn! Nếu Thanh Châu mà mất thì Ký Châu còn có giữ được sao? Lại nói nếu ta chống lại thát tử khôi phục non sông, sau này chẳng phải sẽ được an nhàn mà hưởng phú quý hay sao!”
Uông Thị cũng là phì cười một tiếng, nói: “Vâng, vâng, Tiết tứ lang là đại anh hùng trung can nghĩa đảm, vì nước vì dân, thiếp tóc dài nhưng trí ngắn, chàng còn nổi giận với thiếp làm gì?”
Lời này nói ra khiến Tiết Vũ không khỏi xoay chuyển tâm tư, quay người lại nhìn Uông Thị, dịu dàng hỏi: “Vừa rồi cũng là nhất thời tức giận, nàng có đau không?”
Uông Thị lúc này lại cảm thấy vô cùng ủy khuất, đôi mắt cũng đỏ hoe, nhưng không khóc, chỉ nói: “Tứ lang còn biết quan tâm xem thiếp có đau hay không ư, vừa rồi chẳng phải chàng còn hận không thể lấy kiếm mà đâm thiếp hay sao.”
Tiết Vũ thấp giọng an ủi Uông Thị vài câu, rồi nói: “Nàng không biết đấy thôi, trong triều cắt đất nghị hòa cũng là bất đắc dĩ, Thanh Châu là nơi cửa ngõ hiểm yếu, thật sự không thể giao cho thát tử. Nhưng lại bị thát tử bức bách đến không còn cách nào khác, nên bề ngoài đành phải thượng cho thát tử, nhưng bên trong thì âm thầm dung túng cho quân Giang Bắc chiếm lấy Thanh Châu, chống lại thát tử. Nếu không, Thanh Châu là nơi đất bạc, dân nghèo, chỉ cần Ký Châu cắt đứt nguồn cung ứng lương thảo thì không cần đánh, thành này cũng bị phá. Quân Giang Bắc đã phản Thái Hưng hơn một tháng, vì sao không thấy Ký Châu có chút động tĩnh gì? Trước đó vài ngày, ta đã đi mấy quận huyện phía đông trưng thu lương thảo và tráng đinh, di phu(1) đều làm bộ như không thấy, không biết.”
Uông Thị chần chờ một lát, hỏi: “Nói như vậy, hoàng đế cũng không phải là kẻ hồ đồ ?”
Tiết Vũ lạnh lùng cười, nói: “Có thể lên làm hoàng đế, thì còn hồ đồ được sao? Chỉ là trước mắt không thể làm khác được mà thôi. Hơn nữa quân Giang Bắc lại giương cao lá cờ chống thát tử, Mạch tướng quân đến giờ cũng chỉ xưng là tướng quân, mà không tự phong là nguyên soái, nên cũng không mang danh mưu phản.”
Uông Thị nghe cũng minh bạch được vài điều, nhưng phần lớn là chẳng hiểu gì, nghe nói A Mạch thật ra cũng chỉ là một tướng quân, trong lòng nhất thời cân bằng lại, vì thế liền nói: “Thôi, Tứ lang đừng nói chuyện quan trường với thiếp nữa, thiếp nghe mà đau hết cả đầu.”
Tiết Vũ đã thay xong thường phục, xoay người ngồi xuống ghế, cười nói: “Nàng nhớ cho kỹ, cho dù chúng ta có giao thành Thanh Châu cho thát tử, đến Ký Châu có di phu chiếu cố, thì chưa chắc đã tốt.”
Uông Thị cười cười, lại tiến lên nhẹ nhàng xoa bóp bả vai trượng phu, cười hỏi: “Nếu Tứ lang đều đã nhìn thấu như vậy, sao còn mang bộ mặt như thế trở về?”
Tiết Vũ nghĩ nghĩ, thấp giọng nói: “Vì vừa rồi Mạch tướng quân bỗng nhiên lại hỏi ta có thể tiến cử người thân tín hay không, ta sợ anh ta là cố ý thử ta, cũng không dám nhiều lời, không ngờ anh ta lại thăng chức cho tất cả các viên quan trong quân Thanh Châu lên một cấp, rồi căn cứ theo năng lực mà an bài chức vụ. Người này… thật khiến cho người ta không thể đoán ra tâm tư.”
Uông Thị cũng cười nói: “Tứ lang trung thành với chủ, thành tâm làm việc, nghiền ngẫm tâm tư của anh ta làm gì? Anh ta tâm cơ có thâm trầm đến mấy thì liệu có thể bằng Thương soái được không? Tứ lang chẳng phải vẫn được Thương soái tín nhiệm trọng dụng hay sao! Theo thiếp thì chàng chẳng cần phải cân nhắc này nọ làm gì, không dò được tâm tư thì đừng dò nữa, anh ta cho chàng làm gì thì chàng cứ làm cái đó là được rồi! Về lâu về dài, tự anh ta sẽ hiểu được cách làm người của Tứ lang!”
Uông Thị nói một hồi khiến trong lòng Tiết Vũ trở nên minh bạch sáng tỏ, liền kéo Uông Thị ôm vào lòng, khen: “Đúng là đạo lý này, chỉ có nàng là hiểu được!”
Uông Thị tươi cười đắc ý, nhãn châu chuyển động, ghé miệng sát đến bên tai Tiết Vũ thấp giọng hỏi: “Nghe nói Mạch tướng quân so với Thương soái dáng vẻ còn tuấn tú hơn, có phải thật không?”
Tiết Vũ trước mắt lại thoáng hiện lên hình ảnh A Mạch với nụ cười ấm áp trên môi, không khỏi gật đầu. Trong giọng nói của Uông Thị liền để lộ ra vẻ hưng phấn, nói: “Nhưng vẫn chưa có thê thất? Không bằng đem Tố Lan nhà chúng ta gả cho anh ta đi!”
“Hả!” Tiết Vũ sợ tới mức cả kinh, đưa tay đẩy Uông Thị từ trên đùi đẩy ra, giáo huấn: “Nàng lại muốn giật dây làm loạn gì vậy!”
Uông Thị bất mãn bĩu môi, nói: “Tố Lan là muội tử của chàng, cũng không phải của thiếp, thiếp đây mới không phải là cố sức lấy lòng! Hơn nữa,” Uông Thị vẫn chưa từ bỏ ý định, lại khuyên: “Hai năm trước, khi Thương soái vẫn còn ở đây, thì Tố Lan hãy còn nhỏ, nay vừa đến tuổi cập kê, dáng vẻ lại xinh đẹp, chẳng phải rất xứng với Mạch tướng quân tuổi trẻ tuấn tú hay sao?”
Tiết Vũ nghe thê tử nói thế liền tâm động, nghĩ ngợi một chút rồi nói: “Nàng đừng gấp, vạn nhất không thành thì thật mất mặt, việc này để ta âm thầm điều tra trước đã rồi nói sau.”
Uông Thị biết trượng phu nói có lý, gật đầu, cười nói: “Thiếp nghe lời chàng.”
————————
Chú thích:
1- Di phu: chồng của chị/em gái của mẹ.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.