Chương 11
Jeffrey Archer
18/05/2015
Jack giật mình vì một tiếng nổ giống tiếng bom ở phía bên kia phố. Sally chạy vào phòng và nói với anh rằng một chiếc máy bay đã đâm vào Tháp Bắc của Trung tâm Thương mại Thế giới.
“Hy vọng là nó đâm thẳng vào văn phòng của Fenston”, anh nói.
Những suy nghĩ tiếp theo của anh trở nên nghiêm túc hơn và được anh thể hiện rõ khi cùng bàn bạc với Dick Macy, chỉ huy trưởng, và những nhân viên mật vụ cao cấp khác tại chỉ huy sở. Trong khi các nhân viên khác ôm lấy điện thoại để tìm hiểu xem đích thực chuyện gì đang diễn ra ở cách đó một dặm, Jack nói với viên chỉ huy trưởng rằng anh tin chắc đó là một vụ tấn công khủng bố đã được lên kế hoạch tỉ mỉ. Khi chiếc máy bay thứ hai lao vào Tháp Nam vào lúc 9:03, tất cả những gì Macy nói là, “Đúng, nhưng là tổ chức khủng bố nào?”
Suy nghĩ tiếp theo của anh đến một cách bất chợt. Anh đã hy vọng rằng Anna Petrescu sẽ bình yên vô sự, nhưng khi Tháp Nam đổ sụp xuống năm mươi sáu phút sau đó, anh đoán rằng Tháp Bắc cũng sẽ chung số phận.
Anh quay trở lại bàn làm việc và bật máy tính lên. Thông tin đổ về như thác từ văn phòng tiền tiêu của họ ở Massachusetts. Các báo cáo cho biết hai chiếc máy bay đó cất cánh từ bên ngoài Boston, và còn hai chiếc nữa đang bay trên bầu trời. Những cuộc gọi điện thoại của hành khách cho thấy hai chiếc máy bay này cũng đã bị bọn khủng bố chiếm giữ. Một trong hai chiếc đang bay về phía New York.
Tổng thống George Bush đang thăm một trường học ở Florida khi vụ tấn công thứ nhất xảy ra, và ông ta ngay lập tức được đưa tới căn cứ không quân Barksdale ở Louisiana. Phó Tổng thống Dick Cheney đang ở Washington. Ông ta đã ra lệnh bắn hạ hai chiếc còn lại. Mệnh lệnh của ông ta đã không được thực hiện. Cheney cũng muốn biết tổ chức khủng bố nào đã thực hiện các vụ tấn công này, bởi vì tối hôm đó Tổng thống sẽ phải lên truyền hình để trấn an dân chúng, và ông ta phải có câu trả lời. Jack vẫn ngồi tại bàn làm việc, nhận những cú điện thoại của đồng nghiệp tại hiện trường, và báo cáo lại cho Macy. Một trong số các nhân viên mật vụ, Joe Corrigan, báo cáo rằng có người trông thấy Fenston và Leapman bước vào một toà nhà ở Phố Wall ngay trước khi chiếc máy bay thứ nhất đâm vào Tháp Bắc. Jack nhìn chồng hồ sơ trên bàn và chia tay với mong ước của mình về một “Vụ việc đã được khép lại”.
“Thế còn Petrescu?” anh hỏi.
“Không biết”, Joe đáp. “Tất cả những gì tôi có thể nói với anh là người ta thấy cô ấy bước vào toà tháp lúc 7 giờ 46 phút, và chưa thấy bước ra”.
Jack trông lên màn hình tivi. Chiếc máy bay thứ ba đã lao vào Lầu Năm góc. Nhà trắng sẽ là mục tiêu tiếp theo, anh nghĩ.
“Một chiếc máy bay thứ hai đã đâm vào Tháp Nam”, một phụ nữ ở bậc cầu thang ngay phía trên Anna lặp lại câu nói. Anna không tin rằng loại tai nạn khủng khiếp như vậy lại có thể xảy ra hai lần trong một ngày.
“Không phải là tai nạn”, một giọng nói phía sau cô cất lên như đọc được suy nghĩ của cô. “Chiếc máy bay duy nhất đâm vào một toà nhà ở New York là vào năm 45. Bay vào tầng thứ 79 của toà nhà Empire State Building. Nhưng hôm đó sương mù dầy đặc, và thời đó cũng chưa có những thiết bị định hướng và điều khiển hiện đại như ngày nay. Và đừng quên là vùng trời trên thành phố này là vùng cấm bay, vì vậy đây là một âm mưu đã được lên kế hoạch kỹ lưỡng. Tôi cá rằng chúng ta không phải là những nạn nhân duy nhất”.
Mọi người bắt đầu nói về đủ thứ âm mưu, những vụ tai nạn kỳ quái hay những câu chuyện về các vụ tấn công khủng bố. Nếu di chuyển nhanh hơn, họ sẽ tạo nên một tình trạng hỗn loạn. Anna nhận thấy mọi người tranh nhau nói vì muốn che dấu sự sợ hãi tột cùng của họ.
“Tránh sang bên phải, giữ đều tốc độ”, là tiếng la không ngớt phát ra từ những bộ đồng phục đang đi ngược chiều với dòng người. Một số người trong dòng di tản dừng lại vì quá mệt, tạo cơ hội cho Anna vượt lên phía trước. Cô cảm thấy biết ơn những giờ luyện tập tại công viên Central Park và những mũi adrenalin đã giúp cô giữ vững phong độ.
Khi xuống đến khoảng tầng thứ 40, Anna bắt đầu ngửi thấy mùi khói, và cô có thể nghe thấy ai đó ở tầng dưới đang ho rũ rượi. Khi cô xuống đến chiếu nghỉ tiếp theo, khói trở nên dầy đặc hơn ùa vào lồng phổi cô. Cô lấy tay che mắt và gập người lại vì ho. Anna nhớ lại cô đã đọc thấy ở đâu đó rằng chín mươi phần trăm những ca tử vong trong các vụ hoả hoạn là do hít phải khói. Nỗi sợ hãi của cô ngày càng gia tăng khi cô thấy dòng người ở đằng trước mình đi chậm lại rồi dừng hẳn, Chứng ho đã trở thành một đại dịch. Phải chăng họ đã bị kẹt vào bẫy, lên cũng không xong mà xuống cũng không được?
“Tiếp tục đi đi”, một lính cứu hoả đi ngược chiều ra lệnh. “Vài tầng dưới còn tệ hơn nữa, nhưng rồi mọi người sẽ thoát khỏi đám khói này”, anh ta an ủi những người còn lưỡng lự. Anna nhìn chằm chằm vào khuôn mặt người lính cứu hoả vừa đưa ra mệnh lệnh ấy. Cô quyết định nghe theo lời anh lính, và tin tưởng rằng những gì tồi tệ nhất đã ở lại phía sau. Cô tiếp tục vừa che mắt vừa ho và dò dẫm đi xuống. Người lính cứu hoả nói đúng, khi cô xuống được thêm ba tầng nữa, khói đã tan hết. Anna quyết định chỉ nghe theo lời những người lính cứu hoả đang đi ngược chiều và không thèm để ý đến bất cứ nhận định nào của những kẻ nghiệp dư đang di tản xuống dưới.
Một cảm giác nhẹ nhõm xâm chiếm những người vừa thoát ra khỏi đám khói, và họ ngay lập tức cố tăng tốc. Nhưng dòng người không thể tiến nhanh được vì bị một số người chậm chân ngáng đường. Anna cố giữ bình tĩnh khi cô phải đi sau một ông già mù được một con chó dẫn đường. “Đừng sợ khói, Rosie”, ông già nói. Con chó ve vẩy đuôi.
Xuống, xuống, xuống, tốc độ là do người đi trước quyết định. Khi Anna xuống đến quán cà phê không người ở tầng thứ 39, dòng lính cứu hoả đông nghịt được tiếp viện thêm những nhân viên của Cảng vụ và các sỹ quan cảnh sát của Đơn vị Cứu trợ Khẩn cấp, những viên sỹ quan được yêu mến nhất ở New York vì họ chỉ xuất hiện để cứu người, không vé phạt, không bắt bớ. Anna cảm thấy như mình có lỗi. Trong khi cô tìm mọi cách để đi xuống cho nhanh thì lại có biết bao nhiêu người đang cố làm điều ngược lại.
Khi Anna xuống đến tầng thứ 24, một số người đi trước cô dừng bước để thở, một số khác thậm chí còn dừng lại để tán chuyện, trong khi một số khác nữa thì vẫn chưa chịu rời khỏi bàn làm việc vì không tin rằng chuyện xảy ra ở tầng thứ 94 lại có thể ảnh hưởng tới họ. Anna nhìn quanh, cố tìm kiếm một khuôn mặt quen thuộc, Tina, Rebecca, hoặc thậm chí là Barry, nhưng chẳng có ai, cô đang ở trong một miền đất lạ.
“Tôi đang rà soát tất cả các tầng”, cô trông thấy một viên sỹ quan đang nói trên bộ đàm. Anna nhìn theo viên sỹ quan trong khi anh ta đi kiểm tra từng phòng. Đó không phải là một chuyện có thể làm xong trong chốc lát, bởi vì mỗi một tầng rộng bằng cả một sân bóng đá.
Ở tầng thứ 21, một người vẫn ngồi lỳ ở bàn làm việc của mình; ông ta vừa thực hiện một vụ giao dịch tiền tệ trị giá một tỉ đôla và đang chờ câu trả lời xác nhận.
“Ra ngoài ngay”, viên sỹ quan quát lên, nhưng người đàn ông ăn mặc bảnh bao kia phớt lờ mệnh lệnh của anh ta và vẫn tiếp tục gõ lên bàn phím. “Tôi nói RA NGOÀI NGAY”, viên sỹ quan chỉ huy cứu hoả lại quát lên, trong khi hai lính cứu hoả dưới quyền của anh ta nhấc người đàn ông ra khỏi ghế và khiêng ông ta ra ngoài cầu thang. Nhà môi giới tiền tệ miễn cưỡng gia nhập vào dòng người.
Khi Anna xuống đến tầng thứ 20, cô gặp phải một vấn đề mới. Giờ đây cô phải lội qua những vũng nước và đi dưới những dòng nước đang đổ lên đầu mình từ những bình phun và những đường ống nước vỡ ở khắp các tầng. Cô thận trọng bước qua những tấm kính vỡ và những mẩu nhiên liệu đang cháy. Dòng người đi chậm lại. Cô cảm thấy mình giống như một cổ động viên bóng đá đang tìm cách len ra khỏi sân vận động đen đặc toàn người là người và chỉ có một cổng mở. Khi xuống đến gần tầng 10, tốc độ của cô tăng lên đáng kể. Tất cả những tầng bên dưới đều đã được sơ tán hết, và ngày càng có ít người cản đường cô.
Tại tầng 10, Anna nhìn vào một căn phòng không người qua chiếc cửa mở toang. Màn hình vi tính vẫn nhấp nháy, và những chiếc ghế như đang chờ chủ nhân quay trở lại từ phòng vệ sinh. Những ly cà phê và những lon Coke uống dở vẫn còn đó. Giấy vương vãi khắp nơi, nhưng một bức ảnh gia đình vẫn nằm nguyên chỗ. Một ai đó phía sau va vào cô, vì vậy cô lại vội đi tiếp.
Khi Anna xuống đến tầng 7, nước và những đồ vật nổi lềnh bềnh bao lấy cô. Khi cô đang thận trọng bước qua những mảnh vỡ đủ loại quanh mình thì nghe thấy một giọng nói cất lên từ một chiếc loa đâu đó bên dưới. Ban đầu cô không nghe rõ, nhưng rồi tiếng nói trên loa to dần, thúc giục cô tiến bước, “Tiến lên, không được nhìn lại phía sau, không được sử dụng điện thoại di động làm cản đường người khác”.
Thêm ba tầng nữa và Anna đã xuống đến đại sảnh. Cô lội bì bõm trong nước, và đi qua chỗ chiếc thang máy vừa đưa cô lên văn phòng của mình vài giờ trước đó. Nước ở đâu bỗng nhiên dội ào ào xuống đầu cô, nhưng dù sao thì cô cũng đã ướt như chuột lột từ đầu đến chân.
Những mệnh lệnh phát ra từ chiếc loa ngày càng rõ hơn và thúc ép hơn. “Tiến lên, ra khỏi toà nhà ngay, càng nhanh càng tốt”. Không dễ như thế đâu, Anna muốn nói với họ như vậy. Khi ra đến chiếc cửa quay mà cô vừa đi qua ban sáng, cô thấy nó đã bị bẹp dúm. Chắc là nó đã bị những làn sóng lính cứu hoả đập vỡ để lấy lối mang những dụng cụ của họ vào toà nhà.
Anna cảm thấy mất phương hướng và không biết phải làm gì tiếp theo. Cô có nên đứng đây chờ đồng nghiệp của mình không? Cô đứng gần như bất động, nhưng chỉ trong vài giây, trước khi cô nghe thấy một mệnh lệnh gấp gáp khác gần như đang chĩa thẳng vào một mình cô. “Đi tiếp đi, thưa quý bà, không được sử dụng điện thoại di động, đừng nhìn lại phía sau”.
“Nhưng đi đâu?” một ai đó la lên.
“Qua thang cuốn, xuống khu mua bán, và rời khỏi toà nhà càng nhanh càng tốt”.
Anna hoà vào đoàn người mệt mỏi bước về phía cầu thang cuốn. Cô để mặc chiếc thang cuốn đưa mình xuống khu phòng chờ trước khi bước lên một chiếc thang cuốn khác để đi lên khu dạo chơi, nơi cô vẫn thường cùng Tina và Rebecca ăn trưa và nghe hoà nhạc ngoài trời. Không còn không khí trong lành nữa và tất nhiên là cũng chẳng có tiếng đàn viôlông, chỉ còn tiếng loa vang lên, “Đừng nhìn lại phía sau, đừng nhìn lại phía sau”. Anna phớt lờ mệnh lệnh ấy, và chuyện đó chẳng những làm cô chậm bước lại mà còn khiến cô bị ngã. Đầu gối cô đập mạnh xuống nền nhà. Cô trông thấy một người, người đầu tiên, rồi một người nữa, chắc là những người bị kẹt lại trên những tầng từ thứ 90 trở lên, nhảy ra khỏi cửa sổ để chọn một cái chết tức thì thay vì phải chịu đau đớn trong biển lửa. “Đứng dậy đi, thưa bà và đi tiếp đi”.
Anna cố gượng dậy và loạng choạng đi về phía trước, thình lình cô nhận ra rằng những viên sỹ quan đang làm nhiệm vụ di tản đều cố tránh không nhìn vào mắt những người đang chạy ra khỏi toà nhà và không chịu trả lời bất kỳ một câu hỏi cá nhân nào. Cô cho rằng họ phải làm thế vì không muốn làm chậm lại quá trình di tản và cản đường những người còn đang mắc kẹt trong toà nhà.
Khi Anna đi qua cửa hàng sách Border, cô liếc nhìn vào cửa kính và trông thấy trên giá một cuốn sách đang bán rất chạy có tựa đề Valhalla Rising.
“Đi tiếp đi, thưa bà”, một giọng nói nhắc lại, lần này thậm chí còn to hơn.
“Tới đâu”, cô hỏi một cách tuyệt vọng.
“Tới đâu cũng được, nhưng cứ đi đi”.
“Theo hướng nào?”
“Hướng nào cũng được, miễn là rời xa toà nhà này càng nhanh càng tốt”.
Anna nôn ra tất cả những gì còn sót lại trong dạ dày rồi lại tiếp tục cất bước.
Khi tới lối ra vào khu Plaza, cô đi qua những chiếc xe cứu hoả và trông thấy rất nhiều những chiếc xe cứu thương đang chăm sóc những người bị thương và những người kiệt sức không còn nhấc nổi chân. Anna không muốn họ phải lãng phí thời gian vì mình. Khi ra tới đường, cô nhìn lên và trông thấy một biển chỉ dẫn có một mũi tên màu đen. Cô căng mắt nhìn và chỉ trông thấy dòng chữ “Toà thị chính”. Anna bước nhanh. Cô bắt đầu chạy và chẳng mấy chốc đã vượt qua những người thoát ra khỏi toà nhà trước cô vì họ làm việc ở những tầng dưới. Rồi cô nghe thấy một tiếng động lạ phía sau mình. Nó giống một tiếng sấm đang ngày càng to dần, từng giây một. Cô quay đầu lại nhìn, dù không muốn.
Anna đứng như trời trồng. Trước mắt cô là toà Tháp Nam đang đổ sụp xuống như nó chỉ là một mô hình được làm bằng tre. Chỉ trong vài giây, toàn bộ phần còn lại của toà tháp đều vỡ tan và rơi xuống, bụi và những mảnh vỡ tung lên phủ kín cả khu vực, kèm theo đó là một núi lửa và khói dày đặc lơ lửng trên bầu trời một lúc, rồi bắt đầu luồn qua những con phố đông nghẹt người, nhấn chìm bất kỳ ai trên đường đi của nó.
Anna chạy như chưa từng chạy bao giờ, nhưng cô biết chuyện đó chẳng có ích gì. Chỉ vài giây nữa, con mãng xà màu xám kia sẽ đuổi kịp cô và bóp nghẹt cô bằng hơi thở chỉ toàn lửa và khói của nó. Anna tin chắc rằng mình sắp chết. Cô chỉ mong sao không phải chịu đựng sự tra tấn quá lâu.
Từ một căn phòng an toàn trên Phố Wall, Fenston nhìn chằm chằm vào toà tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới.
Ông ta không dám tin vào mắt mình khi thấy chiếc máy bay thứ hai đâm thẳng vào Tháp Nam.
Trong khi phần lớn người dân New York đang nghĩ cách cứu giúp bạn bè, đồng nghiệp và người thân vượt qua bi kịch này, một số người khác nghĩ cách đưa nước Mỹ ra khỏi đau thương này, Fenston chỉ nghĩ đến một điều duy nhất.
Ông ta và Leapman tới Phố Wall để gặp một khách hàng chỉ vài giây trước khi chiếc máy bay thứ nhất lao vào Tháp Bắc. Fenston huỷ cuộc hẹn, và suốt một tiếng đồng hồ sau đó, ông ta tìm cách liên lạc bằng điện thoại công cộng với văn phòng của mình. Không có ai trả lời. Leapman cũng cố làm theo chủ mình bằng điện thoại di động.
Khi Fenston nghe thấy tiếng động thứ hai giống như một vụ phun trào núi lửa, ông ta quẳng ống nghe và lao ra phía cửa sổ. Leapman cũng vội vã chạy theo. Cả hai cùng đứng yên lặng nhìn cảnh toà Tháp Nam đang đổ xuống.
“Chẳng bao lâu nữa Tháp Bắc cũng sẽ đổ”, Fenston nói.
“Và Petrescu chắc sẽ không thể sống sót”, Leapman nói.
“Tôi không quan tâm tới đồ khỉ gió ấy”, Fenston nói. “Vấn đề là nếu Tháp Bắc đổ, tôi sẽ mất tiền, và lượng tiền đó chưa được bảo hiểm”.
“Hy vọng là nó đâm thẳng vào văn phòng của Fenston”, anh nói.
Những suy nghĩ tiếp theo của anh trở nên nghiêm túc hơn và được anh thể hiện rõ khi cùng bàn bạc với Dick Macy, chỉ huy trưởng, và những nhân viên mật vụ cao cấp khác tại chỉ huy sở. Trong khi các nhân viên khác ôm lấy điện thoại để tìm hiểu xem đích thực chuyện gì đang diễn ra ở cách đó một dặm, Jack nói với viên chỉ huy trưởng rằng anh tin chắc đó là một vụ tấn công khủng bố đã được lên kế hoạch tỉ mỉ. Khi chiếc máy bay thứ hai lao vào Tháp Nam vào lúc 9:03, tất cả những gì Macy nói là, “Đúng, nhưng là tổ chức khủng bố nào?”
Suy nghĩ tiếp theo của anh đến một cách bất chợt. Anh đã hy vọng rằng Anna Petrescu sẽ bình yên vô sự, nhưng khi Tháp Nam đổ sụp xuống năm mươi sáu phút sau đó, anh đoán rằng Tháp Bắc cũng sẽ chung số phận.
Anh quay trở lại bàn làm việc và bật máy tính lên. Thông tin đổ về như thác từ văn phòng tiền tiêu của họ ở Massachusetts. Các báo cáo cho biết hai chiếc máy bay đó cất cánh từ bên ngoài Boston, và còn hai chiếc nữa đang bay trên bầu trời. Những cuộc gọi điện thoại của hành khách cho thấy hai chiếc máy bay này cũng đã bị bọn khủng bố chiếm giữ. Một trong hai chiếc đang bay về phía New York.
Tổng thống George Bush đang thăm một trường học ở Florida khi vụ tấn công thứ nhất xảy ra, và ông ta ngay lập tức được đưa tới căn cứ không quân Barksdale ở Louisiana. Phó Tổng thống Dick Cheney đang ở Washington. Ông ta đã ra lệnh bắn hạ hai chiếc còn lại. Mệnh lệnh của ông ta đã không được thực hiện. Cheney cũng muốn biết tổ chức khủng bố nào đã thực hiện các vụ tấn công này, bởi vì tối hôm đó Tổng thống sẽ phải lên truyền hình để trấn an dân chúng, và ông ta phải có câu trả lời. Jack vẫn ngồi tại bàn làm việc, nhận những cú điện thoại của đồng nghiệp tại hiện trường, và báo cáo lại cho Macy. Một trong số các nhân viên mật vụ, Joe Corrigan, báo cáo rằng có người trông thấy Fenston và Leapman bước vào một toà nhà ở Phố Wall ngay trước khi chiếc máy bay thứ nhất đâm vào Tháp Bắc. Jack nhìn chồng hồ sơ trên bàn và chia tay với mong ước của mình về một “Vụ việc đã được khép lại”.
“Thế còn Petrescu?” anh hỏi.
“Không biết”, Joe đáp. “Tất cả những gì tôi có thể nói với anh là người ta thấy cô ấy bước vào toà tháp lúc 7 giờ 46 phút, và chưa thấy bước ra”.
Jack trông lên màn hình tivi. Chiếc máy bay thứ ba đã lao vào Lầu Năm góc. Nhà trắng sẽ là mục tiêu tiếp theo, anh nghĩ.
“Một chiếc máy bay thứ hai đã đâm vào Tháp Nam”, một phụ nữ ở bậc cầu thang ngay phía trên Anna lặp lại câu nói. Anna không tin rằng loại tai nạn khủng khiếp như vậy lại có thể xảy ra hai lần trong một ngày.
“Không phải là tai nạn”, một giọng nói phía sau cô cất lên như đọc được suy nghĩ của cô. “Chiếc máy bay duy nhất đâm vào một toà nhà ở New York là vào năm 45. Bay vào tầng thứ 79 của toà nhà Empire State Building. Nhưng hôm đó sương mù dầy đặc, và thời đó cũng chưa có những thiết bị định hướng và điều khiển hiện đại như ngày nay. Và đừng quên là vùng trời trên thành phố này là vùng cấm bay, vì vậy đây là một âm mưu đã được lên kế hoạch kỹ lưỡng. Tôi cá rằng chúng ta không phải là những nạn nhân duy nhất”.
Mọi người bắt đầu nói về đủ thứ âm mưu, những vụ tai nạn kỳ quái hay những câu chuyện về các vụ tấn công khủng bố. Nếu di chuyển nhanh hơn, họ sẽ tạo nên một tình trạng hỗn loạn. Anna nhận thấy mọi người tranh nhau nói vì muốn che dấu sự sợ hãi tột cùng của họ.
“Tránh sang bên phải, giữ đều tốc độ”, là tiếng la không ngớt phát ra từ những bộ đồng phục đang đi ngược chiều với dòng người. Một số người trong dòng di tản dừng lại vì quá mệt, tạo cơ hội cho Anna vượt lên phía trước. Cô cảm thấy biết ơn những giờ luyện tập tại công viên Central Park và những mũi adrenalin đã giúp cô giữ vững phong độ.
Khi xuống đến khoảng tầng thứ 40, Anna bắt đầu ngửi thấy mùi khói, và cô có thể nghe thấy ai đó ở tầng dưới đang ho rũ rượi. Khi cô xuống đến chiếu nghỉ tiếp theo, khói trở nên dầy đặc hơn ùa vào lồng phổi cô. Cô lấy tay che mắt và gập người lại vì ho. Anna nhớ lại cô đã đọc thấy ở đâu đó rằng chín mươi phần trăm những ca tử vong trong các vụ hoả hoạn là do hít phải khói. Nỗi sợ hãi của cô ngày càng gia tăng khi cô thấy dòng người ở đằng trước mình đi chậm lại rồi dừng hẳn, Chứng ho đã trở thành một đại dịch. Phải chăng họ đã bị kẹt vào bẫy, lên cũng không xong mà xuống cũng không được?
“Tiếp tục đi đi”, một lính cứu hoả đi ngược chiều ra lệnh. “Vài tầng dưới còn tệ hơn nữa, nhưng rồi mọi người sẽ thoát khỏi đám khói này”, anh ta an ủi những người còn lưỡng lự. Anna nhìn chằm chằm vào khuôn mặt người lính cứu hoả vừa đưa ra mệnh lệnh ấy. Cô quyết định nghe theo lời anh lính, và tin tưởng rằng những gì tồi tệ nhất đã ở lại phía sau. Cô tiếp tục vừa che mắt vừa ho và dò dẫm đi xuống. Người lính cứu hoả nói đúng, khi cô xuống được thêm ba tầng nữa, khói đã tan hết. Anna quyết định chỉ nghe theo lời những người lính cứu hoả đang đi ngược chiều và không thèm để ý đến bất cứ nhận định nào của những kẻ nghiệp dư đang di tản xuống dưới.
Một cảm giác nhẹ nhõm xâm chiếm những người vừa thoát ra khỏi đám khói, và họ ngay lập tức cố tăng tốc. Nhưng dòng người không thể tiến nhanh được vì bị một số người chậm chân ngáng đường. Anna cố giữ bình tĩnh khi cô phải đi sau một ông già mù được một con chó dẫn đường. “Đừng sợ khói, Rosie”, ông già nói. Con chó ve vẩy đuôi.
Xuống, xuống, xuống, tốc độ là do người đi trước quyết định. Khi Anna xuống đến quán cà phê không người ở tầng thứ 39, dòng lính cứu hoả đông nghịt được tiếp viện thêm những nhân viên của Cảng vụ và các sỹ quan cảnh sát của Đơn vị Cứu trợ Khẩn cấp, những viên sỹ quan được yêu mến nhất ở New York vì họ chỉ xuất hiện để cứu người, không vé phạt, không bắt bớ. Anna cảm thấy như mình có lỗi. Trong khi cô tìm mọi cách để đi xuống cho nhanh thì lại có biết bao nhiêu người đang cố làm điều ngược lại.
Khi Anna xuống đến tầng thứ 24, một số người đi trước cô dừng bước để thở, một số khác thậm chí còn dừng lại để tán chuyện, trong khi một số khác nữa thì vẫn chưa chịu rời khỏi bàn làm việc vì không tin rằng chuyện xảy ra ở tầng thứ 94 lại có thể ảnh hưởng tới họ. Anna nhìn quanh, cố tìm kiếm một khuôn mặt quen thuộc, Tina, Rebecca, hoặc thậm chí là Barry, nhưng chẳng có ai, cô đang ở trong một miền đất lạ.
“Tôi đang rà soát tất cả các tầng”, cô trông thấy một viên sỹ quan đang nói trên bộ đàm. Anna nhìn theo viên sỹ quan trong khi anh ta đi kiểm tra từng phòng. Đó không phải là một chuyện có thể làm xong trong chốc lát, bởi vì mỗi một tầng rộng bằng cả một sân bóng đá.
Ở tầng thứ 21, một người vẫn ngồi lỳ ở bàn làm việc của mình; ông ta vừa thực hiện một vụ giao dịch tiền tệ trị giá một tỉ đôla và đang chờ câu trả lời xác nhận.
“Ra ngoài ngay”, viên sỹ quan quát lên, nhưng người đàn ông ăn mặc bảnh bao kia phớt lờ mệnh lệnh của anh ta và vẫn tiếp tục gõ lên bàn phím. “Tôi nói RA NGOÀI NGAY”, viên sỹ quan chỉ huy cứu hoả lại quát lên, trong khi hai lính cứu hoả dưới quyền của anh ta nhấc người đàn ông ra khỏi ghế và khiêng ông ta ra ngoài cầu thang. Nhà môi giới tiền tệ miễn cưỡng gia nhập vào dòng người.
Khi Anna xuống đến tầng thứ 20, cô gặp phải một vấn đề mới. Giờ đây cô phải lội qua những vũng nước và đi dưới những dòng nước đang đổ lên đầu mình từ những bình phun và những đường ống nước vỡ ở khắp các tầng. Cô thận trọng bước qua những tấm kính vỡ và những mẩu nhiên liệu đang cháy. Dòng người đi chậm lại. Cô cảm thấy mình giống như một cổ động viên bóng đá đang tìm cách len ra khỏi sân vận động đen đặc toàn người là người và chỉ có một cổng mở. Khi xuống đến gần tầng 10, tốc độ của cô tăng lên đáng kể. Tất cả những tầng bên dưới đều đã được sơ tán hết, và ngày càng có ít người cản đường cô.
Tại tầng 10, Anna nhìn vào một căn phòng không người qua chiếc cửa mở toang. Màn hình vi tính vẫn nhấp nháy, và những chiếc ghế như đang chờ chủ nhân quay trở lại từ phòng vệ sinh. Những ly cà phê và những lon Coke uống dở vẫn còn đó. Giấy vương vãi khắp nơi, nhưng một bức ảnh gia đình vẫn nằm nguyên chỗ. Một ai đó phía sau va vào cô, vì vậy cô lại vội đi tiếp.
Khi Anna xuống đến tầng 7, nước và những đồ vật nổi lềnh bềnh bao lấy cô. Khi cô đang thận trọng bước qua những mảnh vỡ đủ loại quanh mình thì nghe thấy một giọng nói cất lên từ một chiếc loa đâu đó bên dưới. Ban đầu cô không nghe rõ, nhưng rồi tiếng nói trên loa to dần, thúc giục cô tiến bước, “Tiến lên, không được nhìn lại phía sau, không được sử dụng điện thoại di động làm cản đường người khác”.
Thêm ba tầng nữa và Anna đã xuống đến đại sảnh. Cô lội bì bõm trong nước, và đi qua chỗ chiếc thang máy vừa đưa cô lên văn phòng của mình vài giờ trước đó. Nước ở đâu bỗng nhiên dội ào ào xuống đầu cô, nhưng dù sao thì cô cũng đã ướt như chuột lột từ đầu đến chân.
Những mệnh lệnh phát ra từ chiếc loa ngày càng rõ hơn và thúc ép hơn. “Tiến lên, ra khỏi toà nhà ngay, càng nhanh càng tốt”. Không dễ như thế đâu, Anna muốn nói với họ như vậy. Khi ra đến chiếc cửa quay mà cô vừa đi qua ban sáng, cô thấy nó đã bị bẹp dúm. Chắc là nó đã bị những làn sóng lính cứu hoả đập vỡ để lấy lối mang những dụng cụ của họ vào toà nhà.
Anna cảm thấy mất phương hướng và không biết phải làm gì tiếp theo. Cô có nên đứng đây chờ đồng nghiệp của mình không? Cô đứng gần như bất động, nhưng chỉ trong vài giây, trước khi cô nghe thấy một mệnh lệnh gấp gáp khác gần như đang chĩa thẳng vào một mình cô. “Đi tiếp đi, thưa quý bà, không được sử dụng điện thoại di động, đừng nhìn lại phía sau”.
“Nhưng đi đâu?” một ai đó la lên.
“Qua thang cuốn, xuống khu mua bán, và rời khỏi toà nhà càng nhanh càng tốt”.
Anna hoà vào đoàn người mệt mỏi bước về phía cầu thang cuốn. Cô để mặc chiếc thang cuốn đưa mình xuống khu phòng chờ trước khi bước lên một chiếc thang cuốn khác để đi lên khu dạo chơi, nơi cô vẫn thường cùng Tina và Rebecca ăn trưa và nghe hoà nhạc ngoài trời. Không còn không khí trong lành nữa và tất nhiên là cũng chẳng có tiếng đàn viôlông, chỉ còn tiếng loa vang lên, “Đừng nhìn lại phía sau, đừng nhìn lại phía sau”. Anna phớt lờ mệnh lệnh ấy, và chuyện đó chẳng những làm cô chậm bước lại mà còn khiến cô bị ngã. Đầu gối cô đập mạnh xuống nền nhà. Cô trông thấy một người, người đầu tiên, rồi một người nữa, chắc là những người bị kẹt lại trên những tầng từ thứ 90 trở lên, nhảy ra khỏi cửa sổ để chọn một cái chết tức thì thay vì phải chịu đau đớn trong biển lửa. “Đứng dậy đi, thưa bà và đi tiếp đi”.
Anna cố gượng dậy và loạng choạng đi về phía trước, thình lình cô nhận ra rằng những viên sỹ quan đang làm nhiệm vụ di tản đều cố tránh không nhìn vào mắt những người đang chạy ra khỏi toà nhà và không chịu trả lời bất kỳ một câu hỏi cá nhân nào. Cô cho rằng họ phải làm thế vì không muốn làm chậm lại quá trình di tản và cản đường những người còn đang mắc kẹt trong toà nhà.
Khi Anna đi qua cửa hàng sách Border, cô liếc nhìn vào cửa kính và trông thấy trên giá một cuốn sách đang bán rất chạy có tựa đề Valhalla Rising.
“Đi tiếp đi, thưa bà”, một giọng nói nhắc lại, lần này thậm chí còn to hơn.
“Tới đâu”, cô hỏi một cách tuyệt vọng.
“Tới đâu cũng được, nhưng cứ đi đi”.
“Theo hướng nào?”
“Hướng nào cũng được, miễn là rời xa toà nhà này càng nhanh càng tốt”.
Anna nôn ra tất cả những gì còn sót lại trong dạ dày rồi lại tiếp tục cất bước.
Khi tới lối ra vào khu Plaza, cô đi qua những chiếc xe cứu hoả và trông thấy rất nhiều những chiếc xe cứu thương đang chăm sóc những người bị thương và những người kiệt sức không còn nhấc nổi chân. Anna không muốn họ phải lãng phí thời gian vì mình. Khi ra tới đường, cô nhìn lên và trông thấy một biển chỉ dẫn có một mũi tên màu đen. Cô căng mắt nhìn và chỉ trông thấy dòng chữ “Toà thị chính”. Anna bước nhanh. Cô bắt đầu chạy và chẳng mấy chốc đã vượt qua những người thoát ra khỏi toà nhà trước cô vì họ làm việc ở những tầng dưới. Rồi cô nghe thấy một tiếng động lạ phía sau mình. Nó giống một tiếng sấm đang ngày càng to dần, từng giây một. Cô quay đầu lại nhìn, dù không muốn.
Anna đứng như trời trồng. Trước mắt cô là toà Tháp Nam đang đổ sụp xuống như nó chỉ là một mô hình được làm bằng tre. Chỉ trong vài giây, toàn bộ phần còn lại của toà tháp đều vỡ tan và rơi xuống, bụi và những mảnh vỡ tung lên phủ kín cả khu vực, kèm theo đó là một núi lửa và khói dày đặc lơ lửng trên bầu trời một lúc, rồi bắt đầu luồn qua những con phố đông nghẹt người, nhấn chìm bất kỳ ai trên đường đi của nó.
Anna chạy như chưa từng chạy bao giờ, nhưng cô biết chuyện đó chẳng có ích gì. Chỉ vài giây nữa, con mãng xà màu xám kia sẽ đuổi kịp cô và bóp nghẹt cô bằng hơi thở chỉ toàn lửa và khói của nó. Anna tin chắc rằng mình sắp chết. Cô chỉ mong sao không phải chịu đựng sự tra tấn quá lâu.
Từ một căn phòng an toàn trên Phố Wall, Fenston nhìn chằm chằm vào toà tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới.
Ông ta không dám tin vào mắt mình khi thấy chiếc máy bay thứ hai đâm thẳng vào Tháp Nam.
Trong khi phần lớn người dân New York đang nghĩ cách cứu giúp bạn bè, đồng nghiệp và người thân vượt qua bi kịch này, một số người khác nghĩ cách đưa nước Mỹ ra khỏi đau thương này, Fenston chỉ nghĩ đến một điều duy nhất.
Ông ta và Leapman tới Phố Wall để gặp một khách hàng chỉ vài giây trước khi chiếc máy bay thứ nhất lao vào Tháp Bắc. Fenston huỷ cuộc hẹn, và suốt một tiếng đồng hồ sau đó, ông ta tìm cách liên lạc bằng điện thoại công cộng với văn phòng của mình. Không có ai trả lời. Leapman cũng cố làm theo chủ mình bằng điện thoại di động.
Khi Fenston nghe thấy tiếng động thứ hai giống như một vụ phun trào núi lửa, ông ta quẳng ống nghe và lao ra phía cửa sổ. Leapman cũng vội vã chạy theo. Cả hai cùng đứng yên lặng nhìn cảnh toà Tháp Nam đang đổ xuống.
“Chẳng bao lâu nữa Tháp Bắc cũng sẽ đổ”, Fenston nói.
“Và Petrescu chắc sẽ không thể sống sót”, Leapman nói.
“Tôi không quan tâm tới đồ khỉ gió ấy”, Fenston nói. “Vấn đề là nếu Tháp Bắc đổ, tôi sẽ mất tiền, và lượng tiền đó chưa được bảo hiểm”.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.