Chương 33
Jeffrey Archer
18/05/2015
Anna bước ra khỏi vòi tắm hoa sen, với tay lấy một chiếc khăn tắm và lau khô người. Cô liếc nhìn chiếc đồng hồ điện tử ở góc màn hình tivi. Mới 12 giờ trưa, giờ mà phần lớn các thương gia người Nhật tới câu lạc bộ của họ để ăn trưa. Không phải là lúc có thể quấy rầy Nakamura.
Sau khi lau khô người, Anna lấy một chiếc áo choàng mỏng treo sau cửa nhà tắm. Cô ngồi xuống cuối giường và bật máy tính xách tay lên. Cô gõ mật khẩu của mình, MIDAS, và truy cập vào tệp lưu trữ thông tin về những nhà sưu tầm giàu có nhất trên thế giới: Gates, Cohen, Lauder, Magnier, Nakamura, Rales, Wynn. Cô rê con trỏ tới cái tên của ông ta. Nakamura, nhà tư bản công nghiệp. Đại học Tokyo 1966-1970, Kỹ sư xây dựng. UCLA 1971-1973, Thạc sỹ Kinh tế. Bắt đầu làm việc cho công ty Maruha từ năm 1974, Thành viên ban Giám đốc năm 1989, Tổng giám đốc năm 1997, Chủ tịch năm 2001. Anna lướt xuống phần thông tin về công ty thép Maruha. Bản cân đối thường niên năm trước cho thấy doanh thu của công ty là gần 3 tỷ đôla, lợi nhuận ròng là 400 triệu. Ông Nakamura nắm giữ 22 % cổ phần của công ty này, và theo xếp hạng của Forbes, ông ta là người giàu thứ chín trên thứ giới. Một vợ, ba con, hai gái một trai. Sở thích: gôn và nghệ thuật. Không có thông tin chi tiết về những tật nguyền của ông ta theo tin đồn, cũng không có thông tin chi tiết về bộ sưu tập ấn tượng của ông ta, một bộ sưu tập được nhiều người đánh giá là toàn mỹ nhất trong số các bộ sưu tập cá nhân. Nakamura đã một vài lần nói về bộ sưu tập này và khẳng định đó là tài sản của công ty. Cho dù hãng Christie luôn giấu kín thông tin về khách mua trong các vụ đấu giá tranh, những ai làm trong lĩnh vực nghệ thuật đều biết rằng Nakamura chính là người tranh mua sau cùng trong cuộc bán đấu giá bức Hoa Hướng Dương của Van Gogh vào năm 1987, khi ông ta bị một người bạn cũ và cũng là đối thủ của mình là Yasuo Goto, chủ tịch công ty bảo hiểm Yasuda Fire & Marine Insurance, người đã trả 39.921.750 bảng Anh để có được bức tranh ấy. Kể từ khi rời khỏi Sotheby, Anna hầu như không cập nhật được thông tin gì về Nakamura. Bức tranh Lớp khiêu vũ của quý bà Minette của Degas mà cô đã mua cho ông ta tỏ ra là một vụ đầu tư khôn ngoan, và Anna hy vọng ông ta nhớ rõ điều đó. Cô hoàn toàn tin chắc rằng cô đã chọn đúng người có thể giúp mình thoát ra khỏi tình cảnh khó khăn này.
Cô mở vali ra và chọn một bộ vét màu xanh dương cùng một chiếc áo sơ mi màu kem, một chiếc váy ngắn, một đôi giày da có đế thấp; không trang điểm, không trang sức. Vừa là quần áo, Anna vừa nghĩ tới người đàn ông mà cô chỉ mới gặp một lần, và băn khoăn không hiểu cô có để lại ấn tượng gì đối với ông ta không. Sau khi thay quần áo, Anna nhìn lại mình trong gương. Đúng cách ăn mặc mà một thương gia Nhật Bản kỳ vọng ở một thành viên ban giám đốc của hãng Sotheby.
Anna kiểm tra số điện thoại riêng của ông ta trong máy tính. Cô ngồi xuống đuôi giường, cầm điện thoại lên, hít một hơi thật sâu và quay số.
“Hai, Shacho-Shitso desu”, một giọng nói cất lên trong máy.
“Xin chào, tên tôi là Anna Petrescu. Ông Nakamura có thể còn nhớ tôi là người của nhà đấu giá Sotheby”.
“Cô muốn được phỏng vấn à?”.
“Ờ, không, tôi chỉ muốn nói chuyện với ông Nakamura”.
“Xin chờ một lát, để tôi xem ông ấy có thể nói chuyện với cô không”.
Làm sao ông ta có thể nhớ nổi cô chỉ sau một lần gặp?
“Tiến sỹ Petrescu, rất vui khi được nói chuyện với cô. Hy vọng cô lâu nay vẫn khoẻ?”.
“Vâng, cảm ơn ông, Nakamura San”.
“Cô đang ở Tokyo à? Bởi vì nếu tôi không nhầm thì giờ này đang là nửa đêm ở New York”.
“Vâng, tôi đang ở Tokyo, và không biết ông có thể bố trí cho tôi được gặp một lát không?”.
“Cô không đăng ký phỏng vấn, nhưng bây giờ đã có tên trong danh sách rồi. Tôi có ba mươi phút rảnh vào lúc 4 giờ chiều nay. Có tiện cho cô không?”.
“Thế thì hay quá”, Anna nói.
“Cô có biết văn phòng của tôi không?”.
“Tôi có địa chỉ”.
“Cô ở khách sạn nào vậy?”.
“Khách sạn Seiyo”.
“Nếu tôi nhớ không nhầm thì người của Sotheby thường ở tại khách sạn Imperial”. Anna thấy miệng mình khô lại. “Văn phòng của tôi cách khách sạn đó khoảng 20 phút xe chạy. Tôi mong được đón tiếp cô vào lúc 4 giờ chiều nay. Tạm biệt, Tiến sỹ Petrescu”.
Anna đặt ống nghe xuống và ngồi yên tại chỗ một lúc. Cô cố nhớ lại chính xác những lời ông ta nói. Cô thư ký của ông ta muốn nói gì khi hỏi cô. “Cô muốn được phỏng vấn à?” và tại sao ông Nakamura lại nói, “Cô không đăng ký phỏng vấn, nhưng bây giờ đã có tên trong danh sách rồi”? Hay ông ta đã biết rằng cô sẽ gọi?
Jack cúi người về phía trước để nhìn cho rõ hơn. Hai người trực tầng đang bước ra khỏi khách sạn, vác theo chiếc thùng gỗ mà Anna đã đổi cho Anton Teodorescu trên bậc thềm của Học viện tại Bucharest. Một trong hai người trực tầng nói gì đó với người tài xế trên chiếc tắc xi đỗ ở đầu hàng, và người tài xế ra khỏi xe rồi cẩn thận đặt chiếc thùng gỗ vào cốp sau. Jack đứng dậy và bước về phía cửa sổ, cẩn thận đề phòng để không ai nhìn thấy anh. Anh chờ và nghĩ rằng có thể lại là một báo động giả. Anh nhìn lại hàng tắc xi đang chờ, có tất cả bốn chiếc. Anh nhìn về phía cửa ra vào phòng tập thể dục và tính rằng mình có thể ra đến chiếc tắc xi thứ hai trong vòng hai mươi giây.
Anh nhìn về phía những cánh cửa trượt của khách sạn và băn khoăn không hiểu Petrescu bao giờ thì xuất hiện. Nhưng người tiếp theo làm cho các cánh cửa trượt mở ra lại là Người Lùn. Cô ta đi qua chỗ người gác cửa rồi bước nhanh ra đường. Jack biết cô ta không bao giờ bắt tắc xi của khách sạn để có nguy cơ bị nhớ mặt; với những người như cô ta, anh không bao giờ có được cơ hội ấy.
Jack hướng sự chú ý của mình tới cửa khách sạn, bởi vì anh biết rằng Người Lùn lúc này đang ngồi trên một chiếc tắc xi ở một chỗ khuất nào đó để chờ cả Anna và anh.
Vài giây sau, Petrescu xuất hiện. Cô ăn mặc như thể sắp tham dự một cuộc họp của ban giám đốc. Người gác cửa hộ tống cô ra tới chiếc tắc xi ở đầu hàng chờ và mở cửa sau ra cho cô. Chiếc tắc xi từ từ lăn bánh rồi hoà vào dòng xe cộ trên đường.
Jack đã ngồi vào ghế sau của chiếc tắc xi thứ hai trước khi người gác cửa có cơ hội mở cửa cho anh.
“Đuổi theo chiếc tắc xi kia”, Jack vừa nói vừa chỉ tay về phía trước, “và nếu anh không để mất dấu, anh sẽ được thưởng gấp đôi tiền”. Người tắc xi tăng tốc. “Nhưng”, Jack nói thêm, “đừng lộ liễu quá”. Anh biết Người Lùn đang ngồi trên một chiếc tắc xi màu xanh nào đó trước mặt họ.
Chiếc tắc xi chở Anna rẽ trái tại Ginza rồi chạy theo hướng Bắc, rời xa khu mua sắm nhộn nhịp, hướng về quận Marunouchi, khu văn phòng nổi tiếng của thành phố. Jack băn khoăn không hiểu có phải cô đang đi gặp khách hàng tiềm năng hay không.
Chiếc tắc xi màu xanh kia rẽ trái ở ngã tư tiếp theo, và Jack lại nhắc người tài xế của mình: “Đừng để mất dấu cô ta”. Người lái xe chuyển làn đường, rồi vượt lên và bám theo chiếc xe kia, giữ một khoảng cách bằng ba thân xe. Cả hai chiếc tắc xi dừng lại tại điểm đèn đỏ tiếp theo. Chiếc tắc xi của Petrescu bật xi nhan báo rẽ phải, và khi đèn tín hiệu chuyển sang màu xanh, một vài chiếc xe khác chạy theo. Jack biết Người Lùn đang ngồi trên một trong những chiếc xe ấy. Khi họ chạy v%2
Sau khi lau khô người, Anna lấy một chiếc áo choàng mỏng treo sau cửa nhà tắm. Cô ngồi xuống cuối giường và bật máy tính xách tay lên. Cô gõ mật khẩu của mình, MIDAS, và truy cập vào tệp lưu trữ thông tin về những nhà sưu tầm giàu có nhất trên thế giới: Gates, Cohen, Lauder, Magnier, Nakamura, Rales, Wynn. Cô rê con trỏ tới cái tên của ông ta. Nakamura, nhà tư bản công nghiệp. Đại học Tokyo 1966-1970, Kỹ sư xây dựng. UCLA 1971-1973, Thạc sỹ Kinh tế. Bắt đầu làm việc cho công ty Maruha từ năm 1974, Thành viên ban Giám đốc năm 1989, Tổng giám đốc năm 1997, Chủ tịch năm 2001. Anna lướt xuống phần thông tin về công ty thép Maruha. Bản cân đối thường niên năm trước cho thấy doanh thu của công ty là gần 3 tỷ đôla, lợi nhuận ròng là 400 triệu. Ông Nakamura nắm giữ 22 % cổ phần của công ty này, và theo xếp hạng của Forbes, ông ta là người giàu thứ chín trên thứ giới. Một vợ, ba con, hai gái một trai. Sở thích: gôn và nghệ thuật. Không có thông tin chi tiết về những tật nguyền của ông ta theo tin đồn, cũng không có thông tin chi tiết về bộ sưu tập ấn tượng của ông ta, một bộ sưu tập được nhiều người đánh giá là toàn mỹ nhất trong số các bộ sưu tập cá nhân. Nakamura đã một vài lần nói về bộ sưu tập này và khẳng định đó là tài sản của công ty. Cho dù hãng Christie luôn giấu kín thông tin về khách mua trong các vụ đấu giá tranh, những ai làm trong lĩnh vực nghệ thuật đều biết rằng Nakamura chính là người tranh mua sau cùng trong cuộc bán đấu giá bức Hoa Hướng Dương của Van Gogh vào năm 1987, khi ông ta bị một người bạn cũ và cũng là đối thủ của mình là Yasuo Goto, chủ tịch công ty bảo hiểm Yasuda Fire & Marine Insurance, người đã trả 39.921.750 bảng Anh để có được bức tranh ấy. Kể từ khi rời khỏi Sotheby, Anna hầu như không cập nhật được thông tin gì về Nakamura. Bức tranh Lớp khiêu vũ của quý bà Minette của Degas mà cô đã mua cho ông ta tỏ ra là một vụ đầu tư khôn ngoan, và Anna hy vọng ông ta nhớ rõ điều đó. Cô hoàn toàn tin chắc rằng cô đã chọn đúng người có thể giúp mình thoát ra khỏi tình cảnh khó khăn này.
Cô mở vali ra và chọn một bộ vét màu xanh dương cùng một chiếc áo sơ mi màu kem, một chiếc váy ngắn, một đôi giày da có đế thấp; không trang điểm, không trang sức. Vừa là quần áo, Anna vừa nghĩ tới người đàn ông mà cô chỉ mới gặp một lần, và băn khoăn không hiểu cô có để lại ấn tượng gì đối với ông ta không. Sau khi thay quần áo, Anna nhìn lại mình trong gương. Đúng cách ăn mặc mà một thương gia Nhật Bản kỳ vọng ở một thành viên ban giám đốc của hãng Sotheby.
Anna kiểm tra số điện thoại riêng của ông ta trong máy tính. Cô ngồi xuống đuôi giường, cầm điện thoại lên, hít một hơi thật sâu và quay số.
“Hai, Shacho-Shitso desu”, một giọng nói cất lên trong máy.
“Xin chào, tên tôi là Anna Petrescu. Ông Nakamura có thể còn nhớ tôi là người của nhà đấu giá Sotheby”.
“Cô muốn được phỏng vấn à?”.
“Ờ, không, tôi chỉ muốn nói chuyện với ông Nakamura”.
“Xin chờ một lát, để tôi xem ông ấy có thể nói chuyện với cô không”.
Làm sao ông ta có thể nhớ nổi cô chỉ sau một lần gặp?
“Tiến sỹ Petrescu, rất vui khi được nói chuyện với cô. Hy vọng cô lâu nay vẫn khoẻ?”.
“Vâng, cảm ơn ông, Nakamura San”.
“Cô đang ở Tokyo à? Bởi vì nếu tôi không nhầm thì giờ này đang là nửa đêm ở New York”.
“Vâng, tôi đang ở Tokyo, và không biết ông có thể bố trí cho tôi được gặp một lát không?”.
“Cô không đăng ký phỏng vấn, nhưng bây giờ đã có tên trong danh sách rồi. Tôi có ba mươi phút rảnh vào lúc 4 giờ chiều nay. Có tiện cho cô không?”.
“Thế thì hay quá”, Anna nói.
“Cô có biết văn phòng của tôi không?”.
“Tôi có địa chỉ”.
“Cô ở khách sạn nào vậy?”.
“Khách sạn Seiyo”.
“Nếu tôi nhớ không nhầm thì người của Sotheby thường ở tại khách sạn Imperial”. Anna thấy miệng mình khô lại. “Văn phòng của tôi cách khách sạn đó khoảng 20 phút xe chạy. Tôi mong được đón tiếp cô vào lúc 4 giờ chiều nay. Tạm biệt, Tiến sỹ Petrescu”.
Anna đặt ống nghe xuống và ngồi yên tại chỗ một lúc. Cô cố nhớ lại chính xác những lời ông ta nói. Cô thư ký của ông ta muốn nói gì khi hỏi cô. “Cô muốn được phỏng vấn à?” và tại sao ông Nakamura lại nói, “Cô không đăng ký phỏng vấn, nhưng bây giờ đã có tên trong danh sách rồi”? Hay ông ta đã biết rằng cô sẽ gọi?
Jack cúi người về phía trước để nhìn cho rõ hơn. Hai người trực tầng đang bước ra khỏi khách sạn, vác theo chiếc thùng gỗ mà Anna đã đổi cho Anton Teodorescu trên bậc thềm của Học viện tại Bucharest. Một trong hai người trực tầng nói gì đó với người tài xế trên chiếc tắc xi đỗ ở đầu hàng, và người tài xế ra khỏi xe rồi cẩn thận đặt chiếc thùng gỗ vào cốp sau. Jack đứng dậy và bước về phía cửa sổ, cẩn thận đề phòng để không ai nhìn thấy anh. Anh chờ và nghĩ rằng có thể lại là một báo động giả. Anh nhìn lại hàng tắc xi đang chờ, có tất cả bốn chiếc. Anh nhìn về phía cửa ra vào phòng tập thể dục và tính rằng mình có thể ra đến chiếc tắc xi thứ hai trong vòng hai mươi giây.
Anh nhìn về phía những cánh cửa trượt của khách sạn và băn khoăn không hiểu Petrescu bao giờ thì xuất hiện. Nhưng người tiếp theo làm cho các cánh cửa trượt mở ra lại là Người Lùn. Cô ta đi qua chỗ người gác cửa rồi bước nhanh ra đường. Jack biết cô ta không bao giờ bắt tắc xi của khách sạn để có nguy cơ bị nhớ mặt; với những người như cô ta, anh không bao giờ có được cơ hội ấy.
Jack hướng sự chú ý của mình tới cửa khách sạn, bởi vì anh biết rằng Người Lùn lúc này đang ngồi trên một chiếc tắc xi ở một chỗ khuất nào đó để chờ cả Anna và anh.
Vài giây sau, Petrescu xuất hiện. Cô ăn mặc như thể sắp tham dự một cuộc họp của ban giám đốc. Người gác cửa hộ tống cô ra tới chiếc tắc xi ở đầu hàng chờ và mở cửa sau ra cho cô. Chiếc tắc xi từ từ lăn bánh rồi hoà vào dòng xe cộ trên đường.
Jack đã ngồi vào ghế sau của chiếc tắc xi thứ hai trước khi người gác cửa có cơ hội mở cửa cho anh.
“Đuổi theo chiếc tắc xi kia”, Jack vừa nói vừa chỉ tay về phía trước, “và nếu anh không để mất dấu, anh sẽ được thưởng gấp đôi tiền”. Người tắc xi tăng tốc. “Nhưng”, Jack nói thêm, “đừng lộ liễu quá”. Anh biết Người Lùn đang ngồi trên một chiếc tắc xi màu xanh nào đó trước mặt họ.
Chiếc tắc xi chở Anna rẽ trái tại Ginza rồi chạy theo hướng Bắc, rời xa khu mua sắm nhộn nhịp, hướng về quận Marunouchi, khu văn phòng nổi tiếng của thành phố. Jack băn khoăn không hiểu có phải cô đang đi gặp khách hàng tiềm năng hay không.
Chiếc tắc xi màu xanh kia rẽ trái ở ngã tư tiếp theo, và Jack lại nhắc người tài xế của mình: “Đừng để mất dấu cô ta”. Người lái xe chuyển làn đường, rồi vượt lên và bám theo chiếc xe kia, giữ một khoảng cách bằng ba thân xe. Cả hai chiếc tắc xi dừng lại tại điểm đèn đỏ tiếp theo. Chiếc tắc xi của Petrescu bật xi nhan báo rẽ phải, và khi đèn tín hiệu chuyển sang màu xanh, một vài chiếc xe khác chạy theo. Jack biết Người Lùn đang ngồi trên một trong những chiếc xe ấy. Khi họ chạy v%2
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.