Quyển 2 - Chương 8
Vĩ Ngư
17/10/2014
Hơn mười giờ tối, Nhan Phúc Thụy điện đến, Tần Phóng vừa mới bấm nút
nghe thì đầu bên kia đã lập tức vang lên tiếng mắng chửi như tát nước
vào mặt: “Các người là bọn đê tiện không biết xấu hổ.”
Có ý gì đây? Vương Càn Khôn chết rồi à? Tần Phóng thầm căng thẳng, vừa định nói gì đó thì đầu bên kia điện thoại truyền đến một giọng nói đàn ông trung niên chững chạc: “Đạo trưởng Nhan, ông tỉnh táo lại một chút, để tôi nói với cậu ta.”
Tần Phóng hơi khó hiểu, hoàn cảnh bên kia ồn ào như bùng nổ. Có người thì liều mạng ho khan, có người thì hoảng hốt la hét, cũng có người giậm chân mắng chửi. Tiếng nói người đàn ông kia rất trấn định: “Tiểu thư Tư Đằng có ở đó không? Có thể nói với cô ấy đôi câu hay không?”
“Đạo trưởng Vương không sao chứ?”
“Tạm thời … không việc gì.”
Không việc gì là tốt rồi. Tần Phóng vừa an tâm thì đầu bên kia bỗng có tiếng người quát lên: “Cầu xin yêu quái à! Dù sao cũng chết, liều mạng với nó đi!”
Giọng điệu này không giống bình an vô sự. Sao còn liên lụy đến người không liên quan vậy chứ? Tần Phóng hỏi một câu theo bản năng: “Sao vậy?”
Đầu bên kia im lặng một chút, cuối cùng thở dài nói: “Cũng là hai mươi sinh mạng, sống hay chết đều trong một ý niệm của tiểu thư Tư Đằng thôi.”
Lúc Tần Phóng đưa điện thoại cho Tư Đằng, anh nói: “Tư Đằng, làm người phải có lòng khoan dung.”
Tư Đằng như chẳng nghe thấy, cũng không nhận lấy điện thoại, chỉ bảo anh bật loa ngoài lên. Bên kia điện thoại để ý đến tiếng động bên này, hỏi một câu như thăm dò: “Tiểu thư Tư Đằng sao?”
“Xin hỏi vị nào?”
“Tôi họ Bạch, Bạch Kim.”
“Bạch gia ở Ô Y Hạng tại Kim Lăng một trongchín đạo phố?”
Bạch Kim hơi bất ngờ, nói chuyện cũng càng khách sáo: “Ba đời trước còn ở Ô Y Hạng, lúc nhỏ ba tôi đã rời khỏi rồi. Tiểu thư Tư Đằng biết… ông nội tôi à?”
“Từng nghe nói qua. Năm đó trong đạo môn gọi ông ta là Ngọc Diện Thư Sinh, nghe nói là vì ông ta thích mặc đồ trắng, trường sam và áo khoác ngoài đều là màu trắng, kiểu áo Tôn Trung Sơn. Có khi cũng mặc đồ tây đội mũ dạ, tay phe phẩy một cây quạt có cán làm bằng gỗ đàn, trên quạt còn viết hai câu thơ chữ Khải rằng “Én lầu Vương Tạ thuở nào, bây giờ lưu lạc bay vào nhà dân” (1).”
(1) Bài thơ Ô Y Hạng của Lưu Vũ Tích của Trần Trọng San dịch.
Cây quạt của ông nội ư? Bạch Kim vẫn còn nhớ cây quạt đó.
Bạch gia không có ai thừa kế tổ nghiệp. Tuy anh ta nghiên cứu những hiện tượng thần bí chưa giải đáp được tại trường đại học, nhưngcuối cùng những phân tích khoa học này không hề giải thích được thế giới yêu ma bí ẩn kia. Khi còn bé, anh ta thấy cái hộp màu đen mà ông nội đặt trên thanh xà ngang trên nóc. Thừa dịp cha mẹ không có ở nhà, anh ta đã bắc ghế mở ra xem, trong đó có vài bản ghi chép, chiếc áo Tôn Trung Sơn đã ngả vàng, đồng hồ quả lắc và cây quạt này.
Anh ta không cảm thấy hứng thú với những thứ khác, đúng lúc trời nóng nên cây quạt này còn có chút hữu dụng. Anh ta len lén lấy quạt ra, mùa hè nhiều muỗi quạt một chút đã vang lên một tiếng bụp. Anh ta liền mở quạt ra xem thấy bên cạnh con chim yến có một con muỗi đã chết.
Sau đó lại đọc Hồng Lâu Mộng có cảnh Tình Văn xé quạt, anh ta học theo cũng xé cây quạt của ông nội tan tành. Mẹ anh ta tức giận lấy chổi quất anh ta, bà nói: “Dù gì cũng là đồ của trưởng bối để lại, mày là thằng phá của.”
Tiếc nuối thì vẫn là tiếc nuối, một cây quạt rách có giữ lại cũng đâu có ý nghĩa. Cuối cùng hình như là bị vứt đi, hoặc là đem bán chung với mấy món đồ cũ trong nhà.
- Bạch tiên sinh thu phục một con yêu quái thì trên mặt quạt sẽ thêm một con chim yến.
Hóa ra cây quạt này quý giá như vậy, bây giờ mới biết đã hối hận không kịp, muộn màng quá rồi.
Bạch Kim thất thần trong chốc lát, bên cạnh đã có người không nhịn được chửi ầm lên: “Bạch tiên sinh nói chuyện với loại yêu quái không biết xấu hổ này làm cái gì.”
Tư Đằng nghe thấy cũng không giận: “Bạch tiên sinh, anh bật loa ngoài đi, tôi muốn chào hỏi các vị đạo trưởng.”
Bạch Kim chỉ thấy rõ ràng cô ăn nói lịch sự ôn hòa, và yêu cầu đưa ra cũng không có gì quá đáng để từ chối. Anh ta không suy nghĩ nhiều đã đưa tay bật chế độ phát qua loa ngoài.
Khi nãy mọi người tức thì tức, nhưng cuối cùng cơn giận cũng không có chỗ để trút. Bạch Kim vừa bấm di động chuyển thành loa ngoài, bất chợt tất cả mọi người đều có thể trút hết ra khỏi miệng. Mỗi người gần như tức muốn nổ mắt, đúng lúc chất độc cây mây phát tác vào ngay lúc này, từ da đến ruột gan đều như bị bỏ vào dầu sôi. Đinh Đại Thành là đàn ông phương Bắc, tính tình rất nóng nảy, nhào ngay đến bên bàn đập chiếc điện thoại của Bạch Kim vừa đặt xuống. Bạch Kim thầm nhủ tiêu rồi, chiếc điện thoại này nhất định sẽ hỏng cho xem. Nào biết Đinh Đại Thành đột nhiên kêu lên thảm thiết, đau đớn ôm ngực lăn lộn trên mặt đất. Nhan Phúc Thụy nhận thức muộn màng, phản ứng chậm lụt, nổi giận đùng đùng: “Làm hư điện thoại di động của tôi là cậu phải đền đó.”
Tiếng cười Tư Đằng vang lên không ngớt, cô dừng lại một chút, dịu dàng nói: “Các vị đạo trưởng tạm thời hãy bớt giận. Chất độc này đương nhiên một khi phát tác sẽ là đại nạn. Nhưng bình thường nếu không muốn bị hành hạ thì mấu chốt không nên tức giận, phải giữ cho tâm bình khí hòa; Suy nghĩ đến chuyện khác để quên đi, cũng có thể nghe nhạc, đọc sách, luyện chữ, nhắm mắt nghỉ ngơi. Nếu giống như vị đạo trưởng vừa rồi hở một chút là nổi giận vậy thì không ổn lắm đâu. Tự nhiên tôi có kịch vui để xem nhưng đau thì lại là các vị đạo trưởng chịu.”
Mọi người sợ hãi bỗng nghĩ đến: Nói vậy không sai. Từ lúc mọi người bị trúng độc đến nay đều tức giận la lối, đòi đánh đòi giết. Mọi người đều đau đến sống dở chết dở, trong đó Đinh Đại Thành vừa nổi giận bộc phát thì lại đau đớn vô cùng. Lẽ nào yêu quái này nói đúng rồi sao, phải tâm bình khí hòa lại ư?
Mặc kệ là thật hay giả, mau thử xem sao. Bản thân bị đau là thật, cho nên mỗi người đều vội vàng nghĩ đến chuyện vui vẻ nhất trong cuộc đời mình. Lại không ngừng nhắc nhở mình đừng nóng giận, đừng nóng giận. Vừa thử quả nhiên là có hiệu quả, cảm thấy cơn giận trong lòng cũng dần dần bình thản. Lúc Đinh Đại Thành ngã xuống đất trên làn da nổi lên những sợi gân xanh chằng chịt giao nhau như hình dáng dây mây, lúc này cũng đã từ từ lặn xuống.
Lúc đầu nơi này ồn ào như một cái chợ bán thức ăn vang tiếng mài dao ken két, giờ phút này lại yên tĩnh giống như là nhà thiền lúc nửa đêm không có một bóng người.
Tư Đằng nói: “Như vậy rất tốt, bên tai thanh tịnh. Mọi người chia ra ngồi hai bên, ăn vài món, uống chút rượu, tán gẫu vài chuyện không phải rất tốt hay sao. Cứ mắng chửi như mấy phụ nữ đanh đá hay đánh nhau sứt đầu bể trán rất mất thể diện.”
Rõ ràng cô là người khởi xướng lại còn nói như khuyên người ta hòa giải vậy. Phải da mặt dày thế nào mới làm như vậy được chứ? Cả đám người muốn giận nhưng lại không dám giận, chỉ có thể giữ vững tinh thần giả vờ không nghe thấy.
Lúc chuyện xảy ra chỉ có Bạch Kim và Nhan Phúc Thụy là ở ngoài phòng nên không bị trúng độc. Nhan Phúc Thụy hơi có phần đầu đất nên việc đàm phán, thăm dò và giao tiếp với Tư Đằng đành phải do Bạch Kim gánh vác. Anh ta cố hết sức ăn nói khéo léo với Tư Đằng: “Nói ra còn phải cám ơn tiểu thư Tư Đằng đã nương tay. Lúc đó trong ngoài phòng đều bị bịt kín, nếu như phân lượng độc này nặng hơn một chút chỉ sợ là người trong phòng đã chết hết cả rồi. Tiểu thư Tư Đằng có thể giết nhưng không giết hẳn là còn có yêu cầu khác.”
Tư Đằng cũng không trả lời thẳng thắn: “Bên kia gồm có những vị nào?”
Bạch Kim thấy mọi người không có ý phản đối nên giới thiệu sơ qua các môn phái. Tư Đằng lịch sự đều nói câu “ngưỡng mộ đã lâu”. Có điều khi nghe đến động Ma Cô, cô suy nghĩ một chút rồi hỏi: “Năm đó tiên cô Thẩm Thúy Kiều động Ma Cô hưởng tiên thọ bao nhiêu vậy?”
Câu hỏi này quá đột ngột, Bạch Kim không hiểu vì sao nên không biết phải trả lời thế nào. Thẩm Ngân Đăng lạnh lùng trả lời: “Thái sư phụ tôi chưa đến ba mươi tuổi đã chết rồi.”
Tư Đằng ồ một tiếng: “Còn trẻ đã chết sớm, thật là đáng tiếc.”
Thẩm Ngân Đăng sôi máu định nói gì đó thì ngực lại đau quặn lên, cô ta oán hận nắm chặt góc áo nén nhịn. Đúng lúc bị quan chủ Thương Hồng thấy được, ông ta bỗng nghĩ: Tư Đằng này chắc là từng có thù oán với động Ma Cô rồi. Còn mình thì sao đây? Mình từng giáp mặt với Tư Đằng, nhưng cô ta chẳng mảy may có phản ứng khác thường gì. Có lẽ là lúc đó vì mình còn quá nhỏ nên cô ta không nhớ hay là cố ý che giấu không nói ra?
Giới thiệu xong một vòng, tính nhẫn nại mọi người đã sắp cạn kiệt. Sinh tử chưa rõ lấy ai rảnh rỗi trò chuyện khách sáo với cô chứ? Đạo trưởng Mã Khưu Dương không nhịn được trước tiên, ông ta hỏi cô: “Bày ra âm mưu quỷ kế để hạ độc chúng tôi, cuối cùng là cô có ý gì?”
Tư Đằng nhìn Tần Phóng cười, cô nói: “Ông ta hỏi tôi có ý gì kìa, cậu nói xem tôi có ý gì?”
Không hiểu vì sao Tần Phóng thật sự muốntrợn trừng mắt, ngẫm nghĩ nhiều lần đành nén lại: “Làm sao tôi biết cô có ý gì, lẽ nào cô muốn mời người ta ăn cơm.”
Tư Đằng nói: “Đúng, chính là muốn mời người ta ăn cơm.”
Cô kề sát vào loa điện thoại, nghiêm túc nói từng chữ: “Bốn đạo môn, bảy đạo động, chín đạo phố là những đạo phái tiếng tăm lừng lẫy năm xưa. Người tu đạo mộ đạo đều lấy hình tượng này làm niềm kiêu hãnh. Chỉ tiếc các vị cao nhân hành tung bất định, người bình thường cả đời cũng khó gặp được một hai lần. Cho nên nếu không giở một chút thủ đoạn khác thường làm sao có thể mời được các vị đạo trưởng đến dùng cơm chứ?”
Tin cô mới là lạ đó. Mã Khưu Dương lạnh lùng nói: “Cơm chém đầu à?”
“Đạo trưởng quá lo rồi. Thứ nhất tôi không có hứng thú với đầu của đạo trưởng. Thứ hai các vị đều là nhân tài kiệt xuất của đạo môn, tinh anh của đạo giáo. Nếu tôi thật sự bất kính với các vị thì cũng chính là đối địch với đạo môn khắp thiên hạ này. Chỉ là một tiểu yêu nhẹ ký, làm sao tôi dám làm chuyện này chứ.”
Hóa ra cô cũng biết kiêng kỵ. Trong lòng Mã Khưu Dương có vài phần đắc ý. Ngược lại Bạch Kim hơi không dám tin, xác nhận với cô lần nữa: “Tiểu thư Tư Đằng thật sự muốn mời ăn cơm sao?”
“Mời ăn cơm thật mà.”
Cúp điện thoại, Tần Phóng cũng hỏi cùng một câu: “Mời ăn cơm thật hả?”
“Thật sự mời ăn cơm.”
Tần Phóng không biết nói sao, anh dừng một chút mới nói: “Tư Đằng, tính mạng tôi và cô cột chung lại với nhau cũng coi như là người trong nhà. Cô nói như vậy với đám đạo sĩ này cũng tôi cũng chấp nhận . Đốivới người mình, tuy tôi không mong cô tiết lộ hết cho tôi biết, nhưng lẽ nào tiết lộ hai ba phần cũng không được sao? Không cho người khác biết gì hết vui lắm hả? Làm như vậy thể hiện được cô rất thông minh ư?”
Anh lo lắng cho Vương Càn Khôn cả đêm, mà cô lại diễn trò miệng nam mô bụng bồ dao găm khiến Tần Phóng cũng uất nghẹn.
Tư Đằng ngẩng đầu nhìn Tần Phóng: “Anh không nghe hiểu tiếng người à? Tôi muốn mời cơm. Thân làm một người trợ lý thì bây giờ anh phải làm cái gì? Nên chọn giờ, chọn địa điểm, chọn nhà hàng, chọn phòng rồi báo cho mấy vị khách khi nào đến, đi đâu ăn cơm; Lúc quan trọng còn phải sắp xếp đưa đón. Tôi căn dặn rõ ràng như vậy mà anh còn hỏi lại nữa à. Đổi lại là kẻ khác thì tên trợ lý ngu ngốc như anh đã sớm bị đuổi cổ rồi.”
Chỉ có cô thông minh, cả nhà cô đều thông minh. Tần Phóng thật sự tức muốn ói máu, biết tức tối với cô cũng không có kết quả gì, anh nhẫn nhịn quay người chuẩn bị trở về phòng. Cô lại bổ sung thêm một câu.
“Phải chọn nhà hàng cao cấp một chút, đừng để mấy tên đạo sĩ kia nói tôi quá keo kiệt.”
Có ý gì đây? Vương Càn Khôn chết rồi à? Tần Phóng thầm căng thẳng, vừa định nói gì đó thì đầu bên kia điện thoại truyền đến một giọng nói đàn ông trung niên chững chạc: “Đạo trưởng Nhan, ông tỉnh táo lại một chút, để tôi nói với cậu ta.”
Tần Phóng hơi khó hiểu, hoàn cảnh bên kia ồn ào như bùng nổ. Có người thì liều mạng ho khan, có người thì hoảng hốt la hét, cũng có người giậm chân mắng chửi. Tiếng nói người đàn ông kia rất trấn định: “Tiểu thư Tư Đằng có ở đó không? Có thể nói với cô ấy đôi câu hay không?”
“Đạo trưởng Vương không sao chứ?”
“Tạm thời … không việc gì.”
Không việc gì là tốt rồi. Tần Phóng vừa an tâm thì đầu bên kia bỗng có tiếng người quát lên: “Cầu xin yêu quái à! Dù sao cũng chết, liều mạng với nó đi!”
Giọng điệu này không giống bình an vô sự. Sao còn liên lụy đến người không liên quan vậy chứ? Tần Phóng hỏi một câu theo bản năng: “Sao vậy?”
Đầu bên kia im lặng một chút, cuối cùng thở dài nói: “Cũng là hai mươi sinh mạng, sống hay chết đều trong một ý niệm của tiểu thư Tư Đằng thôi.”
Lúc Tần Phóng đưa điện thoại cho Tư Đằng, anh nói: “Tư Đằng, làm người phải có lòng khoan dung.”
Tư Đằng như chẳng nghe thấy, cũng không nhận lấy điện thoại, chỉ bảo anh bật loa ngoài lên. Bên kia điện thoại để ý đến tiếng động bên này, hỏi một câu như thăm dò: “Tiểu thư Tư Đằng sao?”
“Xin hỏi vị nào?”
“Tôi họ Bạch, Bạch Kim.”
“Bạch gia ở Ô Y Hạng tại Kim Lăng một trongchín đạo phố?”
Bạch Kim hơi bất ngờ, nói chuyện cũng càng khách sáo: “Ba đời trước còn ở Ô Y Hạng, lúc nhỏ ba tôi đã rời khỏi rồi. Tiểu thư Tư Đằng biết… ông nội tôi à?”
“Từng nghe nói qua. Năm đó trong đạo môn gọi ông ta là Ngọc Diện Thư Sinh, nghe nói là vì ông ta thích mặc đồ trắng, trường sam và áo khoác ngoài đều là màu trắng, kiểu áo Tôn Trung Sơn. Có khi cũng mặc đồ tây đội mũ dạ, tay phe phẩy một cây quạt có cán làm bằng gỗ đàn, trên quạt còn viết hai câu thơ chữ Khải rằng “Én lầu Vương Tạ thuở nào, bây giờ lưu lạc bay vào nhà dân” (1).”
(1) Bài thơ Ô Y Hạng của Lưu Vũ Tích của Trần Trọng San dịch.
Cây quạt của ông nội ư? Bạch Kim vẫn còn nhớ cây quạt đó.
Bạch gia không có ai thừa kế tổ nghiệp. Tuy anh ta nghiên cứu những hiện tượng thần bí chưa giải đáp được tại trường đại học, nhưngcuối cùng những phân tích khoa học này không hề giải thích được thế giới yêu ma bí ẩn kia. Khi còn bé, anh ta thấy cái hộp màu đen mà ông nội đặt trên thanh xà ngang trên nóc. Thừa dịp cha mẹ không có ở nhà, anh ta đã bắc ghế mở ra xem, trong đó có vài bản ghi chép, chiếc áo Tôn Trung Sơn đã ngả vàng, đồng hồ quả lắc và cây quạt này.
Anh ta không cảm thấy hứng thú với những thứ khác, đúng lúc trời nóng nên cây quạt này còn có chút hữu dụng. Anh ta len lén lấy quạt ra, mùa hè nhiều muỗi quạt một chút đã vang lên một tiếng bụp. Anh ta liền mở quạt ra xem thấy bên cạnh con chim yến có một con muỗi đã chết.
Sau đó lại đọc Hồng Lâu Mộng có cảnh Tình Văn xé quạt, anh ta học theo cũng xé cây quạt của ông nội tan tành. Mẹ anh ta tức giận lấy chổi quất anh ta, bà nói: “Dù gì cũng là đồ của trưởng bối để lại, mày là thằng phá của.”
Tiếc nuối thì vẫn là tiếc nuối, một cây quạt rách có giữ lại cũng đâu có ý nghĩa. Cuối cùng hình như là bị vứt đi, hoặc là đem bán chung với mấy món đồ cũ trong nhà.
- Bạch tiên sinh thu phục một con yêu quái thì trên mặt quạt sẽ thêm một con chim yến.
Hóa ra cây quạt này quý giá như vậy, bây giờ mới biết đã hối hận không kịp, muộn màng quá rồi.
Bạch Kim thất thần trong chốc lát, bên cạnh đã có người không nhịn được chửi ầm lên: “Bạch tiên sinh nói chuyện với loại yêu quái không biết xấu hổ này làm cái gì.”
Tư Đằng nghe thấy cũng không giận: “Bạch tiên sinh, anh bật loa ngoài đi, tôi muốn chào hỏi các vị đạo trưởng.”
Bạch Kim chỉ thấy rõ ràng cô ăn nói lịch sự ôn hòa, và yêu cầu đưa ra cũng không có gì quá đáng để từ chối. Anh ta không suy nghĩ nhiều đã đưa tay bật chế độ phát qua loa ngoài.
Khi nãy mọi người tức thì tức, nhưng cuối cùng cơn giận cũng không có chỗ để trút. Bạch Kim vừa bấm di động chuyển thành loa ngoài, bất chợt tất cả mọi người đều có thể trút hết ra khỏi miệng. Mỗi người gần như tức muốn nổ mắt, đúng lúc chất độc cây mây phát tác vào ngay lúc này, từ da đến ruột gan đều như bị bỏ vào dầu sôi. Đinh Đại Thành là đàn ông phương Bắc, tính tình rất nóng nảy, nhào ngay đến bên bàn đập chiếc điện thoại của Bạch Kim vừa đặt xuống. Bạch Kim thầm nhủ tiêu rồi, chiếc điện thoại này nhất định sẽ hỏng cho xem. Nào biết Đinh Đại Thành đột nhiên kêu lên thảm thiết, đau đớn ôm ngực lăn lộn trên mặt đất. Nhan Phúc Thụy nhận thức muộn màng, phản ứng chậm lụt, nổi giận đùng đùng: “Làm hư điện thoại di động của tôi là cậu phải đền đó.”
Tiếng cười Tư Đằng vang lên không ngớt, cô dừng lại một chút, dịu dàng nói: “Các vị đạo trưởng tạm thời hãy bớt giận. Chất độc này đương nhiên một khi phát tác sẽ là đại nạn. Nhưng bình thường nếu không muốn bị hành hạ thì mấu chốt không nên tức giận, phải giữ cho tâm bình khí hòa; Suy nghĩ đến chuyện khác để quên đi, cũng có thể nghe nhạc, đọc sách, luyện chữ, nhắm mắt nghỉ ngơi. Nếu giống như vị đạo trưởng vừa rồi hở một chút là nổi giận vậy thì không ổn lắm đâu. Tự nhiên tôi có kịch vui để xem nhưng đau thì lại là các vị đạo trưởng chịu.”
Mọi người sợ hãi bỗng nghĩ đến: Nói vậy không sai. Từ lúc mọi người bị trúng độc đến nay đều tức giận la lối, đòi đánh đòi giết. Mọi người đều đau đến sống dở chết dở, trong đó Đinh Đại Thành vừa nổi giận bộc phát thì lại đau đớn vô cùng. Lẽ nào yêu quái này nói đúng rồi sao, phải tâm bình khí hòa lại ư?
Mặc kệ là thật hay giả, mau thử xem sao. Bản thân bị đau là thật, cho nên mỗi người đều vội vàng nghĩ đến chuyện vui vẻ nhất trong cuộc đời mình. Lại không ngừng nhắc nhở mình đừng nóng giận, đừng nóng giận. Vừa thử quả nhiên là có hiệu quả, cảm thấy cơn giận trong lòng cũng dần dần bình thản. Lúc Đinh Đại Thành ngã xuống đất trên làn da nổi lên những sợi gân xanh chằng chịt giao nhau như hình dáng dây mây, lúc này cũng đã từ từ lặn xuống.
Lúc đầu nơi này ồn ào như một cái chợ bán thức ăn vang tiếng mài dao ken két, giờ phút này lại yên tĩnh giống như là nhà thiền lúc nửa đêm không có một bóng người.
Tư Đằng nói: “Như vậy rất tốt, bên tai thanh tịnh. Mọi người chia ra ngồi hai bên, ăn vài món, uống chút rượu, tán gẫu vài chuyện không phải rất tốt hay sao. Cứ mắng chửi như mấy phụ nữ đanh đá hay đánh nhau sứt đầu bể trán rất mất thể diện.”
Rõ ràng cô là người khởi xướng lại còn nói như khuyên người ta hòa giải vậy. Phải da mặt dày thế nào mới làm như vậy được chứ? Cả đám người muốn giận nhưng lại không dám giận, chỉ có thể giữ vững tinh thần giả vờ không nghe thấy.
Lúc chuyện xảy ra chỉ có Bạch Kim và Nhan Phúc Thụy là ở ngoài phòng nên không bị trúng độc. Nhan Phúc Thụy hơi có phần đầu đất nên việc đàm phán, thăm dò và giao tiếp với Tư Đằng đành phải do Bạch Kim gánh vác. Anh ta cố hết sức ăn nói khéo léo với Tư Đằng: “Nói ra còn phải cám ơn tiểu thư Tư Đằng đã nương tay. Lúc đó trong ngoài phòng đều bị bịt kín, nếu như phân lượng độc này nặng hơn một chút chỉ sợ là người trong phòng đã chết hết cả rồi. Tiểu thư Tư Đằng có thể giết nhưng không giết hẳn là còn có yêu cầu khác.”
Tư Đằng cũng không trả lời thẳng thắn: “Bên kia gồm có những vị nào?”
Bạch Kim thấy mọi người không có ý phản đối nên giới thiệu sơ qua các môn phái. Tư Đằng lịch sự đều nói câu “ngưỡng mộ đã lâu”. Có điều khi nghe đến động Ma Cô, cô suy nghĩ một chút rồi hỏi: “Năm đó tiên cô Thẩm Thúy Kiều động Ma Cô hưởng tiên thọ bao nhiêu vậy?”
Câu hỏi này quá đột ngột, Bạch Kim không hiểu vì sao nên không biết phải trả lời thế nào. Thẩm Ngân Đăng lạnh lùng trả lời: “Thái sư phụ tôi chưa đến ba mươi tuổi đã chết rồi.”
Tư Đằng ồ một tiếng: “Còn trẻ đã chết sớm, thật là đáng tiếc.”
Thẩm Ngân Đăng sôi máu định nói gì đó thì ngực lại đau quặn lên, cô ta oán hận nắm chặt góc áo nén nhịn. Đúng lúc bị quan chủ Thương Hồng thấy được, ông ta bỗng nghĩ: Tư Đằng này chắc là từng có thù oán với động Ma Cô rồi. Còn mình thì sao đây? Mình từng giáp mặt với Tư Đằng, nhưng cô ta chẳng mảy may có phản ứng khác thường gì. Có lẽ là lúc đó vì mình còn quá nhỏ nên cô ta không nhớ hay là cố ý che giấu không nói ra?
Giới thiệu xong một vòng, tính nhẫn nại mọi người đã sắp cạn kiệt. Sinh tử chưa rõ lấy ai rảnh rỗi trò chuyện khách sáo với cô chứ? Đạo trưởng Mã Khưu Dương không nhịn được trước tiên, ông ta hỏi cô: “Bày ra âm mưu quỷ kế để hạ độc chúng tôi, cuối cùng là cô có ý gì?”
Tư Đằng nhìn Tần Phóng cười, cô nói: “Ông ta hỏi tôi có ý gì kìa, cậu nói xem tôi có ý gì?”
Không hiểu vì sao Tần Phóng thật sự muốntrợn trừng mắt, ngẫm nghĩ nhiều lần đành nén lại: “Làm sao tôi biết cô có ý gì, lẽ nào cô muốn mời người ta ăn cơm.”
Tư Đằng nói: “Đúng, chính là muốn mời người ta ăn cơm.”
Cô kề sát vào loa điện thoại, nghiêm túc nói từng chữ: “Bốn đạo môn, bảy đạo động, chín đạo phố là những đạo phái tiếng tăm lừng lẫy năm xưa. Người tu đạo mộ đạo đều lấy hình tượng này làm niềm kiêu hãnh. Chỉ tiếc các vị cao nhân hành tung bất định, người bình thường cả đời cũng khó gặp được một hai lần. Cho nên nếu không giở một chút thủ đoạn khác thường làm sao có thể mời được các vị đạo trưởng đến dùng cơm chứ?”
Tin cô mới là lạ đó. Mã Khưu Dương lạnh lùng nói: “Cơm chém đầu à?”
“Đạo trưởng quá lo rồi. Thứ nhất tôi không có hứng thú với đầu của đạo trưởng. Thứ hai các vị đều là nhân tài kiệt xuất của đạo môn, tinh anh của đạo giáo. Nếu tôi thật sự bất kính với các vị thì cũng chính là đối địch với đạo môn khắp thiên hạ này. Chỉ là một tiểu yêu nhẹ ký, làm sao tôi dám làm chuyện này chứ.”
Hóa ra cô cũng biết kiêng kỵ. Trong lòng Mã Khưu Dương có vài phần đắc ý. Ngược lại Bạch Kim hơi không dám tin, xác nhận với cô lần nữa: “Tiểu thư Tư Đằng thật sự muốn mời ăn cơm sao?”
“Mời ăn cơm thật mà.”
Cúp điện thoại, Tần Phóng cũng hỏi cùng một câu: “Mời ăn cơm thật hả?”
“Thật sự mời ăn cơm.”
Tần Phóng không biết nói sao, anh dừng một chút mới nói: “Tư Đằng, tính mạng tôi và cô cột chung lại với nhau cũng coi như là người trong nhà. Cô nói như vậy với đám đạo sĩ này cũng tôi cũng chấp nhận . Đốivới người mình, tuy tôi không mong cô tiết lộ hết cho tôi biết, nhưng lẽ nào tiết lộ hai ba phần cũng không được sao? Không cho người khác biết gì hết vui lắm hả? Làm như vậy thể hiện được cô rất thông minh ư?”
Anh lo lắng cho Vương Càn Khôn cả đêm, mà cô lại diễn trò miệng nam mô bụng bồ dao găm khiến Tần Phóng cũng uất nghẹn.
Tư Đằng ngẩng đầu nhìn Tần Phóng: “Anh không nghe hiểu tiếng người à? Tôi muốn mời cơm. Thân làm một người trợ lý thì bây giờ anh phải làm cái gì? Nên chọn giờ, chọn địa điểm, chọn nhà hàng, chọn phòng rồi báo cho mấy vị khách khi nào đến, đi đâu ăn cơm; Lúc quan trọng còn phải sắp xếp đưa đón. Tôi căn dặn rõ ràng như vậy mà anh còn hỏi lại nữa à. Đổi lại là kẻ khác thì tên trợ lý ngu ngốc như anh đã sớm bị đuổi cổ rồi.”
Chỉ có cô thông minh, cả nhà cô đều thông minh. Tần Phóng thật sự tức muốn ói máu, biết tức tối với cô cũng không có kết quả gì, anh nhẫn nhịn quay người chuẩn bị trở về phòng. Cô lại bổ sung thêm một câu.
“Phải chọn nhà hàng cao cấp một chút, đừng để mấy tên đạo sĩ kia nói tôi quá keo kiệt.”
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.