Chương 20
Mạc Ngôn
06/01/2014
Chúng tôi với tư cách là khách mời đặc biệt leo lên đèo Trâu Nằm, xem Tư lệnh Tư Mã Khố và thanh niên Mỹ Bác-bít biểu diễn kỹ thuật bay. Hôm ấy có gió dông nam, nắng đẹp. Tôi cưỡi la chung với chị Lai Đệ. Chị Chiêu Đệ thì cưỡi chung với Tư Mã Lương. Tôi ngồi phía trước, chị Lai Đệ vòng tay ôm ngực tôi Chị Chiêu Đệ ngồi trước, Tư Mã Lương chỉ níu dưới nách áo chị, không sao ôm vòng cái bụng to tướng đang mang thai cửa chị. Đội ngũ chúng tôi men theo đuôi, leo dần lên sống lưng núi Trâu Nằm mọc đầy cỏ lau sắc cạnh và cây bồ công anh nở hoa vàng. Những con la chở chúng tôi tỏ ra nhẹ nhõm.
Tư Mã Khố và Bác-bít cưỡi ngựa vượt lên trước chúng tôi. Hai người tỏ ra vô cùng phấn chấn. Tư Mã Khố còn giơ nắm tay lên huơ huơ với chúng tôi. Trên đỉnh núi có một tốp người mặc quần áo vàng hét lên gì đó với những người ở dưới. Tư Mã Khố giơ cái roi ngắn vụt cho con ngựa lai liền hai roi, con ngựa từng bước trèo lên đèo. Ngựa của Bác-bít theo sau. Bác-bít ngồi trên lưng ngựa rất giống tư thế ngồi trên lưng lạc đà, dù lắc lư đến mấy, phần thân của anh ta vẫn thẳng đơ. Hai chân dài ngoẵng, bàn đạp gần như sát mặt đất, con ngựa kẹp giữa hai chân trông vừa thương hại vừa buồn cười, vậy mà nó chạy rất nhanh.
- Chúng mình cũng phải nhanh lên! - Chị Hai nói.
Chị dùng gót chân thúc vào bụng con la. Chị là thủ lĩnh của đoàn khách, đường đường là Tư lệnh phu nhân, ai dám không tôn trọng? Đám đại biểu dân chúng, những nhân vật nổi tiếng của địa phương đi phía sau, tuy thở phì phò nhưng không một ai ca thán. Con la của tôi và chị Lai Đệ theo sát con la của chị Chiêu Đệ và Tư Mã Lương, cặp vú lẩn sau lần áo choàng đen cọ vào lưng tôi, khiến tôi nhớ lại trò chơi vỡ lòng bên máng cỏ, tôi cảm thấy rất vui.
Lên tới đỉnh núi, gió mạnh hơn. Lá cờ do hướng gió bay phần phật, dải cờ màu đỏ múa lượn trong gió như cái đuôi con gà gấm. Hơn chục lính khuân vác các thứ trên lưng lạc đà xuống. Những con lạc đà mặt mày đau khổ, đuôi và khuỷu chân dính phân lỏng. Cỏ vùng Cao Mật vỗ béo những con la của chi đội Tư Mã Khố, vỗ béo bò dê của dân trong vùng, nhưng lại làm khổ những con lạc đà Chúng không quen thủy thổ, gầy lõ đít, chân như que củi, cái bướu trên lưng rắn chắc là thế mà nay nhăn nheo, xẹp lại như cái túi vải.
Bọn lính trải rộng một tấm thảm cực lớn trên mặt đất. Tư Mã Khố ra lệnh:
- Dìu bà đến đây? Bọn lính dìu Chiêu Đệ với cái bụng to tướng, bế Tư Mã Lương, rồi đỡ Lai Đệ, cậu Kim Đồng, dì Ngọc Nữ xuống đất. Chúng tôi là khách quí đuợc ngồi trên thảm, còn những người khác thì đứng đằng sau. Tiên Chim cứ thập thò đằng sau, chị Hai giơ tay vẫy, chị giấu mặt sau lưng Tư Mã Đình. Tư Mã Đình bị đau răng, tay ôm má sưng vù. Chỗ chúng tôi ngồi tương đương với đầu trâu, phía trước là mặt. Con trâu này cố ý rúc đầu vào ngực, mặt nó là vách đá cheo leo, ở độ cao năm trăm thước so với mặt biển. Gió lướt trên đầu thổi về hướng thôn trấn, những đám mây mỏng như sương lơ lửng trên bầu trời. Tôi tìm ngôi nhà của tôi nhưng lại tìm thấy khối nhà bảy lớp sân của nhà Tư Mã. Tháp chuông nhà thờ, vọng gác kết cấu gỗ trông nhỏ bé như đồ chơi. Cánh đồng, dòng sông, ao đầm, vạt cỏ, những vạt cỏ khảm gương là những ao chuôm. Có một đàn ngựa chỉ to bằng con dê, một đàn la chỉ to bằng con chó, cả hai đàn đều là gia súc của nhà Tư Mã. Có sáu con dê chỉ to bằng con thỏ, đó là đàn dê nhà tôi. Con dê trắng to nhất trong đàn là con dê của tôi, con dê mà theo lời yêu cầu của mẹ, chị Hai cử phó quan phụ trách quân nhu của anh rể, phó quan quân nhu cử người đi Kỳ Mông mua về. Đúng bên con dê trắng của tôi là một bé gái, đầu nó bé hơn quả bóng nhỏ bằng da. Nhưng tôi biết đó không phải cô gái nhỏ, mà là một cô gái lớn, đầu cô ta lớn hơn quả bóng da. Đó là chị Niệm Đệ. Hôm nay chị chăn dê rất xa. Chị đi xa thế không phải vì lũ dê, mà vì chị. Chị cũng muốn xem biểu diễn. Tư Mã Khố và Bác-bít đã xuống ngựa từ lâu. Hai con ngựa đang đi lại thung dung trên đầu trâu, tìm ăn cỏ linh lăng hoa tía. Bác-bít đến bên bờ vục nhìn xuống hình như đang ước lượng độ cao, một thái độ trang nghiêm hiện trên khuôn mặt trẻ thơ của anh ta. Anh ta hết cúi nhìn vực thẳm, lại ngẩng lên nhìn trời. Trời xanh ngắt, không còn gì phải tính toán chi li nữa. Anh ta lim dim mắt, giơ một tay lên hình như để ước lượng sức gió. Tôi cho anh ta làm như vậy là thừa, cờ bay phấn phật, áo bị thổi phồng lên, diều hâu bị lật cánh xoay như chong chóng, vậy thì còn giơ tay làm gì? Trong khi Bác-bít làm như vậy, Tư Mã Khố đi theo anh ta từng bước chân và cứ tự nhiên lặp lại những động tác của anh ta. Nét mặt Tư Mã Khố cũng rất căng thẳng, nhưng tôi cảm thấy anh ta chỉ làm ra vẻ thế thôi.
- Được rồi? - Bác-bít giọng cứng nhắc - Nào, bắt đầu!
- Được rồi - Tư Mã Khố giọng cứng nhắc - Nào, bắt đầu!
Các binh sĩ khênh hai cái bọc đến, mở một cái ra. Đó là một tấm lụa rộng mênh mông, phía dưới là những dây màu trắng.
Bác-bít chỉ huy bọn lính buộc dây vào ngực vào mông Tư Mã Khố. Buộc xong, anh ta kéo những sợi dây xem đã chắc chưa. Tiếp theo, anh ta mở tấm lụa ra, bảo đám lính cầm lấy hai góc. Gió thốc tới, tấm lụa hình chữ nhật loạt soạt căng phồng lên. Các binh sĩ bỏ tay ra, tấm vải phồng lên như một cánh buồm hình cánh cung, kéo căng tất cả những sợi đây, kéo theo Tư Mã Khố. Tư Mã Khố muốn đứng lên nhưng không đứng được, lăn lông lốc như một con lừa đang tắm khan. Bác-bít chạy đến sau lưng anh ta, túm lấy sợi thùng ở sau lưng, bảo:
- Giữ chặt sợi dây này, đây là dây điều khiển.
Tư Mã Khố như chợt tỉnh, cất giọng chửi:
- Tiên sư nhà mi, Bác-bít, định hại ông hả?...
Chị Hai chồm dậy đuổi theo Tư Mã Khố. Mới chạy được vài bước, Tư Mã Khố đã lăn xuống mép vực, tiếng chửi cũng ngừng bặt. Bác-bít gào to:
- Kéo sợi dây bên trái, kéo đi, đồ ngu!
Chúng tôi chạy ra mép vục, cả chị Tám cũng chạy theo. Chị bước đi loạng choạng, chị Cả vội giữ lại. Tấm lụa đã biến thành một đám mây trắng như bông, lắc lư, bồng bềnh trôi đi. Tư Mã Khố ở phía dưới, giãy giụa như con cá mắc câu. Bác-bít gọi với theo:
- Giữ cho ổn định, đồ ngu! Chú ý động tác tiếp đất.
Đám mây trắng bay theo chiều gió, vừa bay vừa hạ độ cao, cuối cùng hạ xuống bãi cỏ xa tít, màu trắng lóa mắt trùm lên cỏ xanh.
Chúng tôi há hốc miệng, nín thở, mắt dõi theo mảng màu trắng cho đến khi nó tiếp đất mới thở ra một hơi. Nhưng tiếng khóc của chị Hai khiến chúng tôi lúng túng. Sao chị lại khóc? Chắc hẳn chị không vì vui mà khóc, mà vì buồn. Tôi nghĩ ngay đến chuyện Tư Mã Khố bị ngã chết. Thế là mọi người chú mục vào mảng trắng trên bãi cỏ, mong chuyện thần kỳ xảy ra. Chuyện thần kỳ đã xảy ra thật: Mảng trắng động đậy, nhô cao, một vật đen chui ra, đứng dậy. Anh ta khua cả hai tay về phía chúng tôi, tiếng reo vọng lên đình núi, chúng tôi đồng thanh hoan hô.
Bác-bít đỏ mặt, chóp mũi bóng lộn như thoa một lớp đầu. Anh ta tự buộc dây cho mình, cõng cái bọc trắng lên lưng, đứng lên co giãn hai cánh tay, chậm rãi lùi lại. Chúng tôi đều nhìn vào anh ta. Anh ta không thèm nhìn ai, mặt vác lên nhìn về phía trước. Anh ta đi giật lùi đến mười mấy bước thì dừng lại, nhắm mắt, môi run run, chắc là cầu nguyện. Cầu nguyện xong, anh ta mở mắt, cất bước chạy, khi chạy ngang qua chỗ tôi, anh ta duớn người lên một cái rồi như một mũi tên lao vào khoảng không. Trong một thoáng, tôi có cảm giác không phải anh ta rơi xuống, mà là vách đá dâng lên, đồng cỏ dâng lên. Đột nhiên một đóa hoa trắng nở bung ra, lần đầu tiên tôi trông thấy một đóa hoa lớn đến như thế nở giữa trời xanh và đồng cỏ. Chúng tôi vỗ tay hoan hô. Bông hoa từ từ trôi, bên dưới là Bác-bít bình ổn như một quả cân bằng sắt. Rất nhanh, quả cân tiếp đất, rơi đúng chỗ đàn dê nhà tôi. Đàn dê chạy tán loạn. Quả cân chỉ di chuyển một đoạn ngắn, bông hoa trắng đã xẹp lại, chỉ còn như một cái phao khổng lồ, trùm lên người Bác-bít, đồng thời trùm luôn cả Niệm Đệ. Niệm Đệ hoảng hốt kêu lên, trước mắt chỉ là một màu trắng, chị trông thấy nụ cười nở bừng trên khuôn mặt hồng hào của Bác-bít. Đúng là thiên thần giáng thế Chị nghĩ. Chị ngước nhìn anh ta, trong lòng rộn lên niềm kính phục và ngưỡng mộ.
Mọi người đều chạy đến bên bờ vực nhìn xuống.
- Hôm nay mới được chứng kiến chuyện lạ như thế này? - Ông chủ hiệu nhà đòn Hoàng Thiên Phúc nói - Thiên thần, lão sống đã bảy mươi tuổi, giờ mới được xem thiên thần giáng thế!
Thầy giáo Tần, từng dạy ở trường tư thục, vừa vuốt râu vừa nói:
- Tư lệnh Tư Mã từ nhỏ đã khác người, khi là học sinh của tôi, tôi đã biết ông ấy sẽ làm nên chuyện!
Những người có vai vế trong trấn đứng xung quanh thầy giáo Tần và ông chủ nhà đòn đều ca ngợi Tư Mã Khố băng những lời lẽ khác nhau, tán thưởng kỳ tích vừa được chứng kiến.
- Các vị không thể tưởng tượng ông ấy khác người như thế nào đâu? - Thầy Tần cao giọng át cả những lời bàn tán, tỏ ra thầy có mối quan hệ đặc biệt với nhà Tư Mã- Ông ấy bỏ hai con cóc vào trong cái bô đi tiểu của tôi. Còn nữa, ông ấy sửa lại lời thánh hiền. Thánh nhân nói: Nhân chi sơ, tính bản thiện, tính dễ gần, thói dễ xa, nếu không dạy, thiện tiêu ma. Ông ấy sửa lại ra sao, cái vị không đoán nổi đâu. Ông ấy sửa là: Nhân chi sơ, nói lăng nhăng, chó không dạy, mèo không học, tẩu thuốc nồi chảo xào trứng gà, thầy giáo xực, học trò ngó...Ha ha ha...
Thầy Tần cười ha hả, vênh váo nhìn mọi người xung quanh.
Giữa khi ấy, một tiếng kêu thất thanh vang lên, tiếng kêu như tiếng chó con sục tìm vú mẹ, càng giống tiếng kêu của con hải âu năm xưa theo đoàn thuyền đến bãi sông Thuồng Luồng. Thầy giáo Tần sững người nụ cười vụt tắt, vẻ vênh váo cũng tan biến. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía có tiếng kêu. Đó là chị ba Lãnh Đệ, nhưng những nét đặc trung của chị Ba không còn nữa. Giờ đây chị đã nhập vào trạng thái Tiên Chim, mũi khoằm xuống, con người chuyển sang màu vàng, cổ rụt giữa hai vai, tóc biến thành lông mao, hai tay biến thành hai cánh. Chị giương hai cánh, miệng kêu như chim, chạy theo sườn dốc rồi lao xuống vực. Tư Mã Đình giơ tay túm lấy chị nhưng không trúng, chỉ giữ lại được một mẩu vạt áo. Khi chúng tôi chợt tỉnh, thì đã thấy chị bay - tôi thích nói là chị bay, mà không nói là rơi. Đám cỏ dưới vực tung lên một làn bụi nhỏ.
Chị Hai khóc đầu tiên. Tôi không thoải mái khi nghe chị khóc. Tiên Chim ba xuống vực là chuyện bình thường, sao lại khóc? Tiếp theo, chị Cả, con người điên điên khùng khùng, coi trời bằng vung, cũng khóc, thậm chí chị Tám không hề nhìn thấy gì, không hiểu đầu đuôi ra sao, nhưng bằng vào sự mẫn cảm, cũng khóc òa lên. Chị Tám khóc, kèm theo những lời như trong cơn mê sảng, những lời cầu xin cho chị được khóc cho đã. Về sau, chị nói với tôi, chị nghe rõ tiếng rơi rất gọn của chị Ba, còn tôi khi ấy chỉ nhìn thấy những giọt nước mắt tuôn ra như suối của chị. Đám người đang ồn ào, bỗng tất cả ngây ra như phỗng, mặt băng giá, mắt như có màng bao phủ. Chị Hai gọi đám lính dắt la lại, không cần ai giúp, chị ôm cái cổ vừa ngắn vừa thô của con la, trèo lên, dùng gót chân thúc cho nó chạy. Tư Mã Lương chạy theo được hai bước thì một binh sĩ xốc nách nó đặt lên lưng con ngựa của Tư Mã Khố.
Chúng tôi như một đám lính thất trận thất thểu xuống núi. Lúc này, Bác-bit còn đang bận làm gì đó với chị Niệm Đệ dưới đám mây trắng? Trên đường xuống núi, tôi vắt óc tưởng tượng ra cảnh tượng Bác-bit và chị Niệm Đệ dưới cái dù. Tôi mường tượng Bác-bit quì bên chị, tay cầm nhánh cỏ đuôi chó với những túm lông, cà vào vú chị như trước đây tôi đã từng làm. Còn chị thì nằm đuổi thăng, mắt nhắm, miệng rên lên khoan khoái như con chó cái gãi ngứa. Trông kìa, hai chân chị giơ lên, cái đuôi quệt trái quệt phải trên cỏ, chị đã dâng hiến cho thằng cha Bác-bit trời đánh? Vậy mà cách đây không lâu, tôi lấy cọng cỏ chọc chị, chị gần như đánh dập đít tôi. Nghĩ tới đây, trong lòng tôi đầy uất hận, cũng không hoàn toàn là uất hận, mà là một tình cảm ngang trái như những ngọn lửa đốt cháy tim tôi.
- Đồ chó cái! - tôi chửi, đồng thời hai tay xiết chặt như đang bóp cổ chị.
Chị Lai Đệ ngoảnh lại, hỏi:
- Em làm sao thế!
Vì vội xuống núi, đám lính đặt tôi lên sau lưng chị. Tôi ôm chặt hai bầu vú lạnh ngắt của chị, áp mặt vào tấm lưng gầy guộc của chị, miệng lẩm bẩm:
- Bác-bit, Bác-bit, tên giặc Mỹ Bác-bit, hắn đã phủ lên người chị Sáu rồi! Chúng tôi đi một vòng dài lê thê mới đến chỗ thảm cỏ Tư Mã Khố và Bác-bit đã tháo gỡ xong dây nhợ trên người. Cả hai đầu cúi gằm, trước mặt là bãi cỏ xanh mượt và dầy. Chị Ba như khảm trên đám cỏ, nằm ngửa, mình lún trong bùn. Xung quanh chị, bùn bắn tung tóe cùng với những khóm cỏ bật rễ. Dáng dấp của loài chim không còn thấy trên khuôn mặt chị. Mắt mở hé, nét mặt bình thản, phảng phất nụ cười, hai tia mắt hồi quang như xuyên vào ngực tôi. Sắc mặt chị trắng bợt, trán và môi bôi một lớp phấn trắng. Máu rỉ ra từ lỗ mũi, lỗ tai và hai bên mép. Một con kiến càng màu đỏ hốt hoảng chạy trên mặt chị. Đây là nơi những người chăn súc vật rất ít đến, cỏ hoa mặc sức mọc, ong bướm không sợ người, mùi mục rữa vấn vương đây đó. Trước mặt mười mấy thước là vách đá dựng đứng màu nâu, chân lõm vào thành một đầm nước đen kịt. Những giọt nước từ vách đá rơi xuống tí tách.
Chị Hai chồm tới, quì bên chị Ba, gọi:
- Em Ba, em Ba, em Ba!
Chị luồn tay dưới đầu chị Ba định nâng dậy, nhưng cổ chị Ba như biết co giãn vươn dài ra, chẳng khác con thiên nga đã chết. Chị Hai lập tức để đầu chị Ba lại chỗ cũ, kéo tay, nhưng tay chị Ba dàn hồi như cao su Chị Hai khóc rống lên, vừa khóc vừa gào:
- Em Ba ơi, em Ba, em như thế này mà đi hay sao?
Chị Cả không khóc, cũng không gào. Chị quì bên chị Ba, ngẩng nhìn mọi người xung quanh, nhìn mà không nhìn vào đâu. Tôi nghe chị thở dài, thấy chị quài tay sang bên ngắt một bông tú cầu to bằng quả trứng gà, cầm bông hoa lau máu trên mắt, mũi, tai cho chị Ba.
Lau xong, chị đưa bông hoa lên mũi ngửi rồi lại ngửi, tôi trông thấy một nét cười quái đản lẽ ra không nên có trên mặt chị, còn ánh mắt thì chỉ người nào đang chìm đắm trong một tâm thức nào đó mới có ánh mắt như thế. Tôi mơ hồ cảm thấy rằng, qua bông hoa tú cầu đỏ tía, tinh thần siêu phàm thoát tục của chị Ba đã chuyền sang chị Lai Đệ.
Tôi để ý nhất chị Sáu. Chị rẽ đám dông, chậm rãi bước tới bên thi thể chị Ba. Chị không quì cũng không khóc, chỉ im lặng cúi đầu, hai tay vặn bím tóc, mặt hết đỏ lại trắng nhợt, y như chị đã làm điều sai trái gì đó. Nhưng chị đã là một cô gái bước vào thời kỳ sung mãn, tóc đen nhánh, mông vổng lên như buộc khóm hồng mao vào đốt xương cùng. Chị mặc chiếc áo dài bằng lụa trắng của chị Chiêu Đệ cho, chiếc áo mở kích rất cao, lộ ra cặp dùi thon dài. Chị đi chân đất, bắp chân có những vết xước do cỏ lau để lại, vạt sau còn in dấu vết của cỏ non và hoa dại bị đổ nát, xanh có, đỏ có...
Sự suy nghĩ của tôi chợt nhảy sang cái dù đã trùm lên chị và Bác-bit, nhánh cỏ đuôi chó, cái đuôi cỏ đầy lông tơ... Mắt tôi như mắt ruồi trâu, dính vào ngực chị. Hai núm vú như hai hạt anh dào nhô lên sau lần áo. Tôi ứa nước miếng, tôi khao khát được nâng bầu vú lên để ngậm miệng vào đấy. Tôi khao khát được quì trước những bầu vú đẹp đẽ trên đời này, được làm đứa con trung thành của chúng...Chính giữa chỗ nổi cộm trên áo còn lưu một vết ố như nước bọt của chó. Trong lòng tôi cuộn đau, hình dung sống động đến nỗi như phơi bày trước mắt cái cảnh Bác-bit cắn xé bầu vú chị Sáu, cặp mắt xanh biếc của hắn ngước nhìn lên cằm chị, còn chị thì vuốt ve mái tóc bạch kim của hắn. Chính bàn tay đã từng phát vào mông tôi đau điếng, mà tôi chỉ mới chọc khẽ nhánh cỏ vào ngực chị, còn hắn thì đang cắn chị. Nỗi đau không chính đáng khiến tôi tê liệt trước cái chết của chị Ba, cảm thấy rối bời trước tiếng khóc của chị Hai. Tiếng khóc của chị Tám như tiếng của đất trời, khiến người ta nhớ lại vẻ đẹp mê hồn của chị Ba khi còn sống, những hành vi khác người quỉ khóc thần sầu của chị. Bác-bit tiến lên mấy bước, tôi nhìn càng rõ đôi môi của hắn đỏ mọng khiến tôi không ưa chút nào, và khuôn mặt hồng hào, trên má phủ một lớp lông tơ. Những sợi lông mi trắng, cái mũi cao, cái cổ dài đều khiến tôi không thích. Hắn ngả hai tay làm như định cho chúng tôi thứ gì đó nói:
- Rất tiếc rất tiếc, đây là điều tôi không thể ngờ!...
Hắn nói một tràng tiếng Tây mà chúng tôi không thể hiểu, rồi lại nói mấy câu tiếng Trung Quốc:
- Đây là chứng hoang tưởng, cô ta tưởng mình là chim nhưng cô ta không phải là chim!...
Những người đứng bên bắt đầu bàn tán. Tôi đoán họ chỉ xoay quanh mối quan hệ giữa Tiên Chim và Hàn Chim, có lẽ còn bàn đôi câu về Tôn Bất Ngôn hoặc đề cập đến hai đứa con trai. Tôi không thích nghe từng câu, mà cũng không sao nghe được từng câu, tai tôi có tiếng vo ve, mấy con ong đất đang bay, chúng có tổ cực lớn trên vách đá, phía dưới tổ có một con sơn miêu ngồi chồm hổm, trước mặt nó là con chuột chũi hai chân trước phát triển quá cỡ, béo mập, hai mắt ti hí rất gần nhau. Quách Phúc là ông thầy cúng của thôn, biết lên đồng, biết trừ tà, hai mắt ti hí gần sát nhau, có biệt hiệu là Chuột Chũi. Ông ta bước ra khỏi đám đông, nói:
- Thưa ông trẻ, người thì đã chết rồi, có khóc cũng không sống lại được! Trời nóng nực nên khênh về ngay để nhập liệm, chôn cất cô ấy mồ yên mả đẹp.
Không hiểu dây mơ rễ má ra sao mà ông ta gọi Tư Mã Khố bằng ông trẻ? Tôi không rõ, và cũng không ai biết vì sao ông ta gọi Tư Mã Khố bằng ông trẻ? Tư Mã Khố gật đầu, xoa xoa tay, nói:
- Mẹ kiếp, mất cả hứng!
Chuột Chũi đứng phía sau chị Hai, đảo cặp mắt ti hí, giọng làm ra vẻ rầu rĩ:
- Bà trẻ, người chết thì đã chết, còn phải nghĩ đến người sống. Bà trẻ đang bụng mang dạ chửa, khóc lóc quá, ốm ra đấy thì nguy. Với lại bà dì đâu phải người thường! Dứt khoát bà không phải người thường, bà vốn là Tiên của các loài chim, vì ăn bàn đào của Tây vương mẫu bị đày xuống trần, giờ đây niên hạn đã hết, bà lại trở về cõi tiên. Mọi người thử nghĩ coi, ai cũng thấy bà rơi xuống vục nhẹ nhàng như không, yên ngủ cùng trời đất, người trần mắt thịt làm sao ung dung thanh thản như thế!
Chuột Chũi nói những chuyện trên trời dưới đất, vực chị Hai đứng dậy.
Chị Hai núc nở:
- Em Ba, em chết thảm quá!
- Thôi, thôi - Tư Mã Khố sốt ruột xua tay về phía chị Hai - Đừng khóc nữa. Người như cô ấy, sống chịu tội sống, chết thành Tiên.
Chị Hai nói:
- Tại anh cả, bày ra cái thí nghiệm người bay.
Tư Mã Khố nói:
- Tôi chẳng đã bay rồi đấy sao? Chuyện tày trời này, phụ nữ các người không hiểu được! Tham mưu Mã, khiêng cô ấy về, mua quan tài khâm liệm cho cô ấy. Phó quan Lưu, cuộn dù đem lên núi, ta và cố vấn Bác-bit phải bay lần nữa.
Chuột Chũi xốc chị Hai dậy, oai vệ bảo mọi người:
- Tất cả giúp một tay!
Chị Cả vẫn quì mà ngửi bông hoa dính máu chị Ba. Chuột Chũi nói:
-Thưa bà Cả, bà đừng nên đau xót quá, bà Ba trở về cõi Tiên, ta phải vui mới phải.
Chuột Chũi chưa nói hết câu, chị Cả đã ngẩng lên mỉm cười bí hiểm nhìn ông ta. Ông ta lúng búng trong miệng không dám nói tiếp, vội vã lẫn vào đám dông. Chị Cả giơ cao bông tú cầu vừa cười vừa đứng lên, bước qua thi thể Tiên Chim, đăm đăm nhìn Bác-bit, cặp mông uốn éo sau lần áo dài đen, thái độ nôn nóng chẳng khác người ta mót đi tiểu. Chị tiến lên, vứt bông tú cầm trong tay, ôm choàng lấy cổ Bác-bit, ép sát vào người hắn, miệng lảm nhảm như nói mê sảng:
- Chết rồi?... đau xót quá!
Bác-bit gỡ mãi mới thoát khỏi vòng tay chị, mặt đầy mồ hôi, tiếng tây xen lẫn tiếng địa phương:
- Không... không nên... người mà tôi yêu không phải cô!...
Chị Cả mắt đỏ như mắt chó điên, miệng lảm nhảm những lời dâm đãng, chồm tới định ôm Bác-bit. Hắn né, né mãi rồi nấp sau lưng chị Sáu. Chị Sáu trở thành cái bình phong mà chị không muốn. Chị Sáu cứ xoay tròn chẳng khác con cún định rũ bỏ cái lục lạc mà lũ trẻ tinh nghịch buộc vào đuôi nó, chạy quanh đến nỗi mắt tôi nảy đom đóm, chỉ thấy những cái mông vổng lên, những bộ ngực ưỡn ra, những cái gáy trắng mịn, những bộ mặt đầy mồ hôi, những cẳng chân vụng về. Tôi đầu váng mắt hoa, tâm trí rối bời. Tiếng quát tháo của chị Cả, tiếng kêu của chị Sáu, tiếng thở của Bác-bit, những cặp mắt ngây dại của đám đông. Thái độ cười cợt của bọn lính, những cái miệng há ra, những cái cằm rung rung. Đàn dê thủng thẳng đi về nhà, đi đầu là con dê của tôi với bầu sữa lặc lè. Đàn ngựa, đàn la bóng mượt. Những con chim kêu thất thanh lượn vòng trên đầu chúng tôi, chắc chắn có trứng hoặc chim non trong đám cỏ. Cỏ mục. Những bông hoa dại bị xéo gãy cổ. Cuối cùng, chị Hai túm được áo chị Cả. Chị Cả cố giằng ra, hai tay vươn về phía Bác-bit, miệng tuôn ra những câu còn hạ lưu hơn. Chiếc áo dài đen bị rách toạc, lộ ra mảng vai và lưng. Chị Hai vọt tới trước mặt, đánh chị Cả một bạt tai. Chị Cả không giằng ra nữa, nước bọt sùi hai bên mép, mắt đờ đẫn. Chị Hai tát liên hồi, ngày càng mạnh. Chị Cả đổ máu mũi, đầu gục xuống như bông hướng dương, ngã sóng soài trên cỏ.
Chị Hai mệt mỏi ngồi thở trên bãi cỏ rất lâu. Tiếng thở chuyển thành tiếng khóc, hai tay vỗ đầu gối như đánh nhịp cho tiếng khóe của chị.
Tư Mã Khố không giấu được niềm vui trên khuôn mặt. Mắt anh ta nhìn như đóng đinh vào mảng lưng để lộ của chị Cả, thở dồn dập, hai tay cà vào quần làm như tay bị dính chất keo rửa không sạch.
Tư Mã Khố và Bác-bít cưỡi ngựa vượt lên trước chúng tôi. Hai người tỏ ra vô cùng phấn chấn. Tư Mã Khố còn giơ nắm tay lên huơ huơ với chúng tôi. Trên đỉnh núi có một tốp người mặc quần áo vàng hét lên gì đó với những người ở dưới. Tư Mã Khố giơ cái roi ngắn vụt cho con ngựa lai liền hai roi, con ngựa từng bước trèo lên đèo. Ngựa của Bác-bít theo sau. Bác-bít ngồi trên lưng ngựa rất giống tư thế ngồi trên lưng lạc đà, dù lắc lư đến mấy, phần thân của anh ta vẫn thẳng đơ. Hai chân dài ngoẵng, bàn đạp gần như sát mặt đất, con ngựa kẹp giữa hai chân trông vừa thương hại vừa buồn cười, vậy mà nó chạy rất nhanh.
- Chúng mình cũng phải nhanh lên! - Chị Hai nói.
Chị dùng gót chân thúc vào bụng con la. Chị là thủ lĩnh của đoàn khách, đường đường là Tư lệnh phu nhân, ai dám không tôn trọng? Đám đại biểu dân chúng, những nhân vật nổi tiếng của địa phương đi phía sau, tuy thở phì phò nhưng không một ai ca thán. Con la của tôi và chị Lai Đệ theo sát con la của chị Chiêu Đệ và Tư Mã Lương, cặp vú lẩn sau lần áo choàng đen cọ vào lưng tôi, khiến tôi nhớ lại trò chơi vỡ lòng bên máng cỏ, tôi cảm thấy rất vui.
Lên tới đỉnh núi, gió mạnh hơn. Lá cờ do hướng gió bay phần phật, dải cờ màu đỏ múa lượn trong gió như cái đuôi con gà gấm. Hơn chục lính khuân vác các thứ trên lưng lạc đà xuống. Những con lạc đà mặt mày đau khổ, đuôi và khuỷu chân dính phân lỏng. Cỏ vùng Cao Mật vỗ béo những con la của chi đội Tư Mã Khố, vỗ béo bò dê của dân trong vùng, nhưng lại làm khổ những con lạc đà Chúng không quen thủy thổ, gầy lõ đít, chân như que củi, cái bướu trên lưng rắn chắc là thế mà nay nhăn nheo, xẹp lại như cái túi vải.
Bọn lính trải rộng một tấm thảm cực lớn trên mặt đất. Tư Mã Khố ra lệnh:
- Dìu bà đến đây? Bọn lính dìu Chiêu Đệ với cái bụng to tướng, bế Tư Mã Lương, rồi đỡ Lai Đệ, cậu Kim Đồng, dì Ngọc Nữ xuống đất. Chúng tôi là khách quí đuợc ngồi trên thảm, còn những người khác thì đứng đằng sau. Tiên Chim cứ thập thò đằng sau, chị Hai giơ tay vẫy, chị giấu mặt sau lưng Tư Mã Đình. Tư Mã Đình bị đau răng, tay ôm má sưng vù. Chỗ chúng tôi ngồi tương đương với đầu trâu, phía trước là mặt. Con trâu này cố ý rúc đầu vào ngực, mặt nó là vách đá cheo leo, ở độ cao năm trăm thước so với mặt biển. Gió lướt trên đầu thổi về hướng thôn trấn, những đám mây mỏng như sương lơ lửng trên bầu trời. Tôi tìm ngôi nhà của tôi nhưng lại tìm thấy khối nhà bảy lớp sân của nhà Tư Mã. Tháp chuông nhà thờ, vọng gác kết cấu gỗ trông nhỏ bé như đồ chơi. Cánh đồng, dòng sông, ao đầm, vạt cỏ, những vạt cỏ khảm gương là những ao chuôm. Có một đàn ngựa chỉ to bằng con dê, một đàn la chỉ to bằng con chó, cả hai đàn đều là gia súc của nhà Tư Mã. Có sáu con dê chỉ to bằng con thỏ, đó là đàn dê nhà tôi. Con dê trắng to nhất trong đàn là con dê của tôi, con dê mà theo lời yêu cầu của mẹ, chị Hai cử phó quan phụ trách quân nhu của anh rể, phó quan quân nhu cử người đi Kỳ Mông mua về. Đúng bên con dê trắng của tôi là một bé gái, đầu nó bé hơn quả bóng nhỏ bằng da. Nhưng tôi biết đó không phải cô gái nhỏ, mà là một cô gái lớn, đầu cô ta lớn hơn quả bóng da. Đó là chị Niệm Đệ. Hôm nay chị chăn dê rất xa. Chị đi xa thế không phải vì lũ dê, mà vì chị. Chị cũng muốn xem biểu diễn. Tư Mã Khố và Bác-bít đã xuống ngựa từ lâu. Hai con ngựa đang đi lại thung dung trên đầu trâu, tìm ăn cỏ linh lăng hoa tía. Bác-bít đến bên bờ vục nhìn xuống hình như đang ước lượng độ cao, một thái độ trang nghiêm hiện trên khuôn mặt trẻ thơ của anh ta. Anh ta hết cúi nhìn vực thẳm, lại ngẩng lên nhìn trời. Trời xanh ngắt, không còn gì phải tính toán chi li nữa. Anh ta lim dim mắt, giơ một tay lên hình như để ước lượng sức gió. Tôi cho anh ta làm như vậy là thừa, cờ bay phấn phật, áo bị thổi phồng lên, diều hâu bị lật cánh xoay như chong chóng, vậy thì còn giơ tay làm gì? Trong khi Bác-bít làm như vậy, Tư Mã Khố đi theo anh ta từng bước chân và cứ tự nhiên lặp lại những động tác của anh ta. Nét mặt Tư Mã Khố cũng rất căng thẳng, nhưng tôi cảm thấy anh ta chỉ làm ra vẻ thế thôi.
- Được rồi? - Bác-bít giọng cứng nhắc - Nào, bắt đầu!
- Được rồi - Tư Mã Khố giọng cứng nhắc - Nào, bắt đầu!
Các binh sĩ khênh hai cái bọc đến, mở một cái ra. Đó là một tấm lụa rộng mênh mông, phía dưới là những dây màu trắng.
Bác-bít chỉ huy bọn lính buộc dây vào ngực vào mông Tư Mã Khố. Buộc xong, anh ta kéo những sợi dây xem đã chắc chưa. Tiếp theo, anh ta mở tấm lụa ra, bảo đám lính cầm lấy hai góc. Gió thốc tới, tấm lụa hình chữ nhật loạt soạt căng phồng lên. Các binh sĩ bỏ tay ra, tấm vải phồng lên như một cánh buồm hình cánh cung, kéo căng tất cả những sợi đây, kéo theo Tư Mã Khố. Tư Mã Khố muốn đứng lên nhưng không đứng được, lăn lông lốc như một con lừa đang tắm khan. Bác-bít chạy đến sau lưng anh ta, túm lấy sợi thùng ở sau lưng, bảo:
- Giữ chặt sợi dây này, đây là dây điều khiển.
Tư Mã Khố như chợt tỉnh, cất giọng chửi:
- Tiên sư nhà mi, Bác-bít, định hại ông hả?...
Chị Hai chồm dậy đuổi theo Tư Mã Khố. Mới chạy được vài bước, Tư Mã Khố đã lăn xuống mép vực, tiếng chửi cũng ngừng bặt. Bác-bít gào to:
- Kéo sợi dây bên trái, kéo đi, đồ ngu!
Chúng tôi chạy ra mép vục, cả chị Tám cũng chạy theo. Chị bước đi loạng choạng, chị Cả vội giữ lại. Tấm lụa đã biến thành một đám mây trắng như bông, lắc lư, bồng bềnh trôi đi. Tư Mã Khố ở phía dưới, giãy giụa như con cá mắc câu. Bác-bít gọi với theo:
- Giữ cho ổn định, đồ ngu! Chú ý động tác tiếp đất.
Đám mây trắng bay theo chiều gió, vừa bay vừa hạ độ cao, cuối cùng hạ xuống bãi cỏ xa tít, màu trắng lóa mắt trùm lên cỏ xanh.
Chúng tôi há hốc miệng, nín thở, mắt dõi theo mảng màu trắng cho đến khi nó tiếp đất mới thở ra một hơi. Nhưng tiếng khóc của chị Hai khiến chúng tôi lúng túng. Sao chị lại khóc? Chắc hẳn chị không vì vui mà khóc, mà vì buồn. Tôi nghĩ ngay đến chuyện Tư Mã Khố bị ngã chết. Thế là mọi người chú mục vào mảng trắng trên bãi cỏ, mong chuyện thần kỳ xảy ra. Chuyện thần kỳ đã xảy ra thật: Mảng trắng động đậy, nhô cao, một vật đen chui ra, đứng dậy. Anh ta khua cả hai tay về phía chúng tôi, tiếng reo vọng lên đình núi, chúng tôi đồng thanh hoan hô.
Bác-bít đỏ mặt, chóp mũi bóng lộn như thoa một lớp đầu. Anh ta tự buộc dây cho mình, cõng cái bọc trắng lên lưng, đứng lên co giãn hai cánh tay, chậm rãi lùi lại. Chúng tôi đều nhìn vào anh ta. Anh ta không thèm nhìn ai, mặt vác lên nhìn về phía trước. Anh ta đi giật lùi đến mười mấy bước thì dừng lại, nhắm mắt, môi run run, chắc là cầu nguyện. Cầu nguyện xong, anh ta mở mắt, cất bước chạy, khi chạy ngang qua chỗ tôi, anh ta duớn người lên một cái rồi như một mũi tên lao vào khoảng không. Trong một thoáng, tôi có cảm giác không phải anh ta rơi xuống, mà là vách đá dâng lên, đồng cỏ dâng lên. Đột nhiên một đóa hoa trắng nở bung ra, lần đầu tiên tôi trông thấy một đóa hoa lớn đến như thế nở giữa trời xanh và đồng cỏ. Chúng tôi vỗ tay hoan hô. Bông hoa từ từ trôi, bên dưới là Bác-bít bình ổn như một quả cân bằng sắt. Rất nhanh, quả cân tiếp đất, rơi đúng chỗ đàn dê nhà tôi. Đàn dê chạy tán loạn. Quả cân chỉ di chuyển một đoạn ngắn, bông hoa trắng đã xẹp lại, chỉ còn như một cái phao khổng lồ, trùm lên người Bác-bít, đồng thời trùm luôn cả Niệm Đệ. Niệm Đệ hoảng hốt kêu lên, trước mắt chỉ là một màu trắng, chị trông thấy nụ cười nở bừng trên khuôn mặt hồng hào của Bác-bít. Đúng là thiên thần giáng thế Chị nghĩ. Chị ngước nhìn anh ta, trong lòng rộn lên niềm kính phục và ngưỡng mộ.
Mọi người đều chạy đến bên bờ vực nhìn xuống.
- Hôm nay mới được chứng kiến chuyện lạ như thế này? - Ông chủ hiệu nhà đòn Hoàng Thiên Phúc nói - Thiên thần, lão sống đã bảy mươi tuổi, giờ mới được xem thiên thần giáng thế!
Thầy giáo Tần, từng dạy ở trường tư thục, vừa vuốt râu vừa nói:
- Tư lệnh Tư Mã từ nhỏ đã khác người, khi là học sinh của tôi, tôi đã biết ông ấy sẽ làm nên chuyện!
Những người có vai vế trong trấn đứng xung quanh thầy giáo Tần và ông chủ nhà đòn đều ca ngợi Tư Mã Khố băng những lời lẽ khác nhau, tán thưởng kỳ tích vừa được chứng kiến.
- Các vị không thể tưởng tượng ông ấy khác người như thế nào đâu? - Thầy Tần cao giọng át cả những lời bàn tán, tỏ ra thầy có mối quan hệ đặc biệt với nhà Tư Mã- Ông ấy bỏ hai con cóc vào trong cái bô đi tiểu của tôi. Còn nữa, ông ấy sửa lại lời thánh hiền. Thánh nhân nói: Nhân chi sơ, tính bản thiện, tính dễ gần, thói dễ xa, nếu không dạy, thiện tiêu ma. Ông ấy sửa lại ra sao, cái vị không đoán nổi đâu. Ông ấy sửa là: Nhân chi sơ, nói lăng nhăng, chó không dạy, mèo không học, tẩu thuốc nồi chảo xào trứng gà, thầy giáo xực, học trò ngó...Ha ha ha...
Thầy Tần cười ha hả, vênh váo nhìn mọi người xung quanh.
Giữa khi ấy, một tiếng kêu thất thanh vang lên, tiếng kêu như tiếng chó con sục tìm vú mẹ, càng giống tiếng kêu của con hải âu năm xưa theo đoàn thuyền đến bãi sông Thuồng Luồng. Thầy giáo Tần sững người nụ cười vụt tắt, vẻ vênh váo cũng tan biến. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía có tiếng kêu. Đó là chị ba Lãnh Đệ, nhưng những nét đặc trung của chị Ba không còn nữa. Giờ đây chị đã nhập vào trạng thái Tiên Chim, mũi khoằm xuống, con người chuyển sang màu vàng, cổ rụt giữa hai vai, tóc biến thành lông mao, hai tay biến thành hai cánh. Chị giương hai cánh, miệng kêu như chim, chạy theo sườn dốc rồi lao xuống vực. Tư Mã Đình giơ tay túm lấy chị nhưng không trúng, chỉ giữ lại được một mẩu vạt áo. Khi chúng tôi chợt tỉnh, thì đã thấy chị bay - tôi thích nói là chị bay, mà không nói là rơi. Đám cỏ dưới vực tung lên một làn bụi nhỏ.
Chị Hai khóc đầu tiên. Tôi không thoải mái khi nghe chị khóc. Tiên Chim ba xuống vực là chuyện bình thường, sao lại khóc? Tiếp theo, chị Cả, con người điên điên khùng khùng, coi trời bằng vung, cũng khóc, thậm chí chị Tám không hề nhìn thấy gì, không hiểu đầu đuôi ra sao, nhưng bằng vào sự mẫn cảm, cũng khóc òa lên. Chị Tám khóc, kèm theo những lời như trong cơn mê sảng, những lời cầu xin cho chị được khóc cho đã. Về sau, chị nói với tôi, chị nghe rõ tiếng rơi rất gọn của chị Ba, còn tôi khi ấy chỉ nhìn thấy những giọt nước mắt tuôn ra như suối của chị. Đám người đang ồn ào, bỗng tất cả ngây ra như phỗng, mặt băng giá, mắt như có màng bao phủ. Chị Hai gọi đám lính dắt la lại, không cần ai giúp, chị ôm cái cổ vừa ngắn vừa thô của con la, trèo lên, dùng gót chân thúc cho nó chạy. Tư Mã Lương chạy theo được hai bước thì một binh sĩ xốc nách nó đặt lên lưng con ngựa của Tư Mã Khố.
Chúng tôi như một đám lính thất trận thất thểu xuống núi. Lúc này, Bác-bit còn đang bận làm gì đó với chị Niệm Đệ dưới đám mây trắng? Trên đường xuống núi, tôi vắt óc tưởng tượng ra cảnh tượng Bác-bit và chị Niệm Đệ dưới cái dù. Tôi mường tượng Bác-bit quì bên chị, tay cầm nhánh cỏ đuôi chó với những túm lông, cà vào vú chị như trước đây tôi đã từng làm. Còn chị thì nằm đuổi thăng, mắt nhắm, miệng rên lên khoan khoái như con chó cái gãi ngứa. Trông kìa, hai chân chị giơ lên, cái đuôi quệt trái quệt phải trên cỏ, chị đã dâng hiến cho thằng cha Bác-bit trời đánh? Vậy mà cách đây không lâu, tôi lấy cọng cỏ chọc chị, chị gần như đánh dập đít tôi. Nghĩ tới đây, trong lòng tôi đầy uất hận, cũng không hoàn toàn là uất hận, mà là một tình cảm ngang trái như những ngọn lửa đốt cháy tim tôi.
- Đồ chó cái! - tôi chửi, đồng thời hai tay xiết chặt như đang bóp cổ chị.
Chị Lai Đệ ngoảnh lại, hỏi:
- Em làm sao thế!
Vì vội xuống núi, đám lính đặt tôi lên sau lưng chị. Tôi ôm chặt hai bầu vú lạnh ngắt của chị, áp mặt vào tấm lưng gầy guộc của chị, miệng lẩm bẩm:
- Bác-bit, Bác-bit, tên giặc Mỹ Bác-bit, hắn đã phủ lên người chị Sáu rồi! Chúng tôi đi một vòng dài lê thê mới đến chỗ thảm cỏ Tư Mã Khố và Bác-bit đã tháo gỡ xong dây nhợ trên người. Cả hai đầu cúi gằm, trước mặt là bãi cỏ xanh mượt và dầy. Chị Ba như khảm trên đám cỏ, nằm ngửa, mình lún trong bùn. Xung quanh chị, bùn bắn tung tóe cùng với những khóm cỏ bật rễ. Dáng dấp của loài chim không còn thấy trên khuôn mặt chị. Mắt mở hé, nét mặt bình thản, phảng phất nụ cười, hai tia mắt hồi quang như xuyên vào ngực tôi. Sắc mặt chị trắng bợt, trán và môi bôi một lớp phấn trắng. Máu rỉ ra từ lỗ mũi, lỗ tai và hai bên mép. Một con kiến càng màu đỏ hốt hoảng chạy trên mặt chị. Đây là nơi những người chăn súc vật rất ít đến, cỏ hoa mặc sức mọc, ong bướm không sợ người, mùi mục rữa vấn vương đây đó. Trước mặt mười mấy thước là vách đá dựng đứng màu nâu, chân lõm vào thành một đầm nước đen kịt. Những giọt nước từ vách đá rơi xuống tí tách.
Chị Hai chồm tới, quì bên chị Ba, gọi:
- Em Ba, em Ba, em Ba!
Chị luồn tay dưới đầu chị Ba định nâng dậy, nhưng cổ chị Ba như biết co giãn vươn dài ra, chẳng khác con thiên nga đã chết. Chị Hai lập tức để đầu chị Ba lại chỗ cũ, kéo tay, nhưng tay chị Ba dàn hồi như cao su Chị Hai khóc rống lên, vừa khóc vừa gào:
- Em Ba ơi, em Ba, em như thế này mà đi hay sao?
Chị Cả không khóc, cũng không gào. Chị quì bên chị Ba, ngẩng nhìn mọi người xung quanh, nhìn mà không nhìn vào đâu. Tôi nghe chị thở dài, thấy chị quài tay sang bên ngắt một bông tú cầu to bằng quả trứng gà, cầm bông hoa lau máu trên mắt, mũi, tai cho chị Ba.
Lau xong, chị đưa bông hoa lên mũi ngửi rồi lại ngửi, tôi trông thấy một nét cười quái đản lẽ ra không nên có trên mặt chị, còn ánh mắt thì chỉ người nào đang chìm đắm trong một tâm thức nào đó mới có ánh mắt như thế. Tôi mơ hồ cảm thấy rằng, qua bông hoa tú cầu đỏ tía, tinh thần siêu phàm thoát tục của chị Ba đã chuyền sang chị Lai Đệ.
Tôi để ý nhất chị Sáu. Chị rẽ đám dông, chậm rãi bước tới bên thi thể chị Ba. Chị không quì cũng không khóc, chỉ im lặng cúi đầu, hai tay vặn bím tóc, mặt hết đỏ lại trắng nhợt, y như chị đã làm điều sai trái gì đó. Nhưng chị đã là một cô gái bước vào thời kỳ sung mãn, tóc đen nhánh, mông vổng lên như buộc khóm hồng mao vào đốt xương cùng. Chị mặc chiếc áo dài bằng lụa trắng của chị Chiêu Đệ cho, chiếc áo mở kích rất cao, lộ ra cặp dùi thon dài. Chị đi chân đất, bắp chân có những vết xước do cỏ lau để lại, vạt sau còn in dấu vết của cỏ non và hoa dại bị đổ nát, xanh có, đỏ có...
Sự suy nghĩ của tôi chợt nhảy sang cái dù đã trùm lên chị và Bác-bit, nhánh cỏ đuôi chó, cái đuôi cỏ đầy lông tơ... Mắt tôi như mắt ruồi trâu, dính vào ngực chị. Hai núm vú như hai hạt anh dào nhô lên sau lần áo. Tôi ứa nước miếng, tôi khao khát được nâng bầu vú lên để ngậm miệng vào đấy. Tôi khao khát được quì trước những bầu vú đẹp đẽ trên đời này, được làm đứa con trung thành của chúng...Chính giữa chỗ nổi cộm trên áo còn lưu một vết ố như nước bọt của chó. Trong lòng tôi cuộn đau, hình dung sống động đến nỗi như phơi bày trước mắt cái cảnh Bác-bit cắn xé bầu vú chị Sáu, cặp mắt xanh biếc của hắn ngước nhìn lên cằm chị, còn chị thì vuốt ve mái tóc bạch kim của hắn. Chính bàn tay đã từng phát vào mông tôi đau điếng, mà tôi chỉ mới chọc khẽ nhánh cỏ vào ngực chị, còn hắn thì đang cắn chị. Nỗi đau không chính đáng khiến tôi tê liệt trước cái chết của chị Ba, cảm thấy rối bời trước tiếng khóc của chị Hai. Tiếng khóc của chị Tám như tiếng của đất trời, khiến người ta nhớ lại vẻ đẹp mê hồn của chị Ba khi còn sống, những hành vi khác người quỉ khóc thần sầu của chị. Bác-bit tiến lên mấy bước, tôi nhìn càng rõ đôi môi của hắn đỏ mọng khiến tôi không ưa chút nào, và khuôn mặt hồng hào, trên má phủ một lớp lông tơ. Những sợi lông mi trắng, cái mũi cao, cái cổ dài đều khiến tôi không thích. Hắn ngả hai tay làm như định cho chúng tôi thứ gì đó nói:
- Rất tiếc rất tiếc, đây là điều tôi không thể ngờ!...
Hắn nói một tràng tiếng Tây mà chúng tôi không thể hiểu, rồi lại nói mấy câu tiếng Trung Quốc:
- Đây là chứng hoang tưởng, cô ta tưởng mình là chim nhưng cô ta không phải là chim!...
Những người đứng bên bắt đầu bàn tán. Tôi đoán họ chỉ xoay quanh mối quan hệ giữa Tiên Chim và Hàn Chim, có lẽ còn bàn đôi câu về Tôn Bất Ngôn hoặc đề cập đến hai đứa con trai. Tôi không thích nghe từng câu, mà cũng không sao nghe được từng câu, tai tôi có tiếng vo ve, mấy con ong đất đang bay, chúng có tổ cực lớn trên vách đá, phía dưới tổ có một con sơn miêu ngồi chồm hổm, trước mặt nó là con chuột chũi hai chân trước phát triển quá cỡ, béo mập, hai mắt ti hí rất gần nhau. Quách Phúc là ông thầy cúng của thôn, biết lên đồng, biết trừ tà, hai mắt ti hí gần sát nhau, có biệt hiệu là Chuột Chũi. Ông ta bước ra khỏi đám đông, nói:
- Thưa ông trẻ, người thì đã chết rồi, có khóc cũng không sống lại được! Trời nóng nực nên khênh về ngay để nhập liệm, chôn cất cô ấy mồ yên mả đẹp.
Không hiểu dây mơ rễ má ra sao mà ông ta gọi Tư Mã Khố bằng ông trẻ? Tôi không rõ, và cũng không ai biết vì sao ông ta gọi Tư Mã Khố bằng ông trẻ? Tư Mã Khố gật đầu, xoa xoa tay, nói:
- Mẹ kiếp, mất cả hứng!
Chuột Chũi đứng phía sau chị Hai, đảo cặp mắt ti hí, giọng làm ra vẻ rầu rĩ:
- Bà trẻ, người chết thì đã chết, còn phải nghĩ đến người sống. Bà trẻ đang bụng mang dạ chửa, khóc lóc quá, ốm ra đấy thì nguy. Với lại bà dì đâu phải người thường! Dứt khoát bà không phải người thường, bà vốn là Tiên của các loài chim, vì ăn bàn đào của Tây vương mẫu bị đày xuống trần, giờ đây niên hạn đã hết, bà lại trở về cõi tiên. Mọi người thử nghĩ coi, ai cũng thấy bà rơi xuống vục nhẹ nhàng như không, yên ngủ cùng trời đất, người trần mắt thịt làm sao ung dung thanh thản như thế!
Chuột Chũi nói những chuyện trên trời dưới đất, vực chị Hai đứng dậy.
Chị Hai núc nở:
- Em Ba, em chết thảm quá!
- Thôi, thôi - Tư Mã Khố sốt ruột xua tay về phía chị Hai - Đừng khóc nữa. Người như cô ấy, sống chịu tội sống, chết thành Tiên.
Chị Hai nói:
- Tại anh cả, bày ra cái thí nghiệm người bay.
Tư Mã Khố nói:
- Tôi chẳng đã bay rồi đấy sao? Chuyện tày trời này, phụ nữ các người không hiểu được! Tham mưu Mã, khiêng cô ấy về, mua quan tài khâm liệm cho cô ấy. Phó quan Lưu, cuộn dù đem lên núi, ta và cố vấn Bác-bit phải bay lần nữa.
Chuột Chũi xốc chị Hai dậy, oai vệ bảo mọi người:
- Tất cả giúp một tay!
Chị Cả vẫn quì mà ngửi bông hoa dính máu chị Ba. Chuột Chũi nói:
-Thưa bà Cả, bà đừng nên đau xót quá, bà Ba trở về cõi Tiên, ta phải vui mới phải.
Chuột Chũi chưa nói hết câu, chị Cả đã ngẩng lên mỉm cười bí hiểm nhìn ông ta. Ông ta lúng búng trong miệng không dám nói tiếp, vội vã lẫn vào đám dông. Chị Cả giơ cao bông tú cầu vừa cười vừa đứng lên, bước qua thi thể Tiên Chim, đăm đăm nhìn Bác-bit, cặp mông uốn éo sau lần áo dài đen, thái độ nôn nóng chẳng khác người ta mót đi tiểu. Chị tiến lên, vứt bông tú cầm trong tay, ôm choàng lấy cổ Bác-bit, ép sát vào người hắn, miệng lảm nhảm như nói mê sảng:
- Chết rồi?... đau xót quá!
Bác-bit gỡ mãi mới thoát khỏi vòng tay chị, mặt đầy mồ hôi, tiếng tây xen lẫn tiếng địa phương:
- Không... không nên... người mà tôi yêu không phải cô!...
Chị Cả mắt đỏ như mắt chó điên, miệng lảm nhảm những lời dâm đãng, chồm tới định ôm Bác-bit. Hắn né, né mãi rồi nấp sau lưng chị Sáu. Chị Sáu trở thành cái bình phong mà chị không muốn. Chị Sáu cứ xoay tròn chẳng khác con cún định rũ bỏ cái lục lạc mà lũ trẻ tinh nghịch buộc vào đuôi nó, chạy quanh đến nỗi mắt tôi nảy đom đóm, chỉ thấy những cái mông vổng lên, những bộ ngực ưỡn ra, những cái gáy trắng mịn, những bộ mặt đầy mồ hôi, những cẳng chân vụng về. Tôi đầu váng mắt hoa, tâm trí rối bời. Tiếng quát tháo của chị Cả, tiếng kêu của chị Sáu, tiếng thở của Bác-bit, những cặp mắt ngây dại của đám đông. Thái độ cười cợt của bọn lính, những cái miệng há ra, những cái cằm rung rung. Đàn dê thủng thẳng đi về nhà, đi đầu là con dê của tôi với bầu sữa lặc lè. Đàn ngựa, đàn la bóng mượt. Những con chim kêu thất thanh lượn vòng trên đầu chúng tôi, chắc chắn có trứng hoặc chim non trong đám cỏ. Cỏ mục. Những bông hoa dại bị xéo gãy cổ. Cuối cùng, chị Hai túm được áo chị Cả. Chị Cả cố giằng ra, hai tay vươn về phía Bác-bit, miệng tuôn ra những câu còn hạ lưu hơn. Chiếc áo dài đen bị rách toạc, lộ ra mảng vai và lưng. Chị Hai vọt tới trước mặt, đánh chị Cả một bạt tai. Chị Cả không giằng ra nữa, nước bọt sùi hai bên mép, mắt đờ đẫn. Chị Hai tát liên hồi, ngày càng mạnh. Chị Cả đổ máu mũi, đầu gục xuống như bông hướng dương, ngã sóng soài trên cỏ.
Chị Hai mệt mỏi ngồi thở trên bãi cỏ rất lâu. Tiếng thở chuyển thành tiếng khóc, hai tay vỗ đầu gối như đánh nhịp cho tiếng khóe của chị.
Tư Mã Khố không giấu được niềm vui trên khuôn mặt. Mắt anh ta nhìn như đóng đinh vào mảng lưng để lộ của chị Cả, thở dồn dập, hai tay cà vào quần làm như tay bị dính chất keo rửa không sạch.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.