Chương 7: Nhất phiến huyết thư tâm cừu thùy khả giải - Thập phân tâm sự vô ngữ độc tư lượng
Lương Vũ Sinh
04/10/2013
Vân Lối ngẩng đầu nhìn lên, chỉ nghe Trương Đan Phong nói: “Ngày xưa có hai người nghèo khổ, vốn đều làm việc cho địa chủ, sau đó vì thiên tại nhân họa, một người trở thành ăn mày, một người trở thành kẻ buôn muối lậu, tên ăn mày và kẻ buôn muối lậu cảm thấy hợp nhau nên kết thành huynh đệ. Lúc ấy Trung thổ bị dị tộc thống trị, anh hùng các nơi đều muốn nổi dậy phản kháng, hai người ấy lòng ôm chí lớn, tựa như Trần Thắng, Ngô Quảng thời cổ mưu toan chống Tần, đã vỗ tay thề rằng: “Nếu giành được phú quý, mãi không quên nhau!” Ngoài ra còn có một hòa thượng lớn tuổi hơn hai người này nhiều, đã từng dạy võ nghệ cho hai anh em, hai anh em gọi ông ta là sư phụ. Xưa này chuyện buôn bán muối đều do nhà quan quản lý, người buôn bán muối lậu nếu bị bắt thì sẽ bị xử tử. Kẻ buôn muối lậu là nghĩa huynh, kẻ ăn mày là nghĩa đệ. Kẻ ăn mày không dám mạo hiểm, vào trong một ngôi chùa làm chú tiểu, sau đó vì đói kém nên không ai giúp đỡ cho ngôi chùa này, hòa thượng trong chùa mười thì chết hết bảy tám, kẻ bán muối lậu liều mạng đem một ít tiền đến giúp đỡ cho nghĩa đệ của mình. Sau đó ngôi chùa này sụp đổ, kẻ ăn mày đã trở thành nhà sư hành cước, vẫn đi khắp nơi xin ăn.
Sau đó sư phụ của hai anh em dựng cờ nghĩa, kẻ ăn mày cũng dấy binh theo ông ta, sau một trận đại chiến, hòa thượng ấy mất tích, có người nói ông ta đã chết, có người bảo sau khi mất tích ông ta vẫn là một hòa thượng, nhưng rốt cuộc thế nào thì chẳng ai biết.
Kẻ bán muối lúc này đang buôn bán ở vùng Giang Bắc, tụ tập mấy trăm dân làm muối, dấy binh xưng vương. Qua mấy năm sau, thế lực của người bán muối dần dần mở rộng, xưng đế ở Tô Hàn, mấy tỉnh ở vùng Trường Giang đều thuộc phạm vi thế lực của ông ta. Còn người nghĩa đệ vẫn chưa lập được công danh gì. Lúc đó quần hùng thiên hạ ùn ùn nổi dậy, trong đó có một lộ quân lấy khăn đỏ làm hiệu, thế lực lớn nhất, hai năm trước lãnh tụ của quân khăn đỏ đã chết, do một trung niên anh hùng thay thế, đánh thành cướp đất, thế lực lan đến tận phía nam của Trường Giang. Kẻ bán muối dò hỏi tin tức, thiếu niên lãnh tụ ấy vốn là một lãnh tụ, đến khi dò hỏi kỹ càng mới biết đó là người nghĩa đệ trước đây của mình. Có người nói, kẻ ăn mày đi theo hòa thượng dấy binh, sau khi hòa thượng thất bại y đã âm thầm bán đứng hòa thượng cho nhà quan, còn mình thì giả vờ làm người tốt, thống lĩnh bộ thuộc của hòa thượng, đầu hàng quân khăn đỏ, cho nên đã trở thành một đầu mục của quân khăn đỏ, được chủ soái của quân khăn đỏ coi trọng, do dó sau này mới có thể thay thế vị trí của ông ta. Người nghĩa huynh đã làm Hoàng đế không tin lời đồn này, song sau khi sai người liên lạc thì mới biết được chủ soái mới của toán quân khăn đỏ chính là nghĩa đệ của mình.
Lúc này thế lực của hai người đã chạm nhau ở Trường Giang, người nghĩa huynh sai sứ giả qua sông, đưa thư cho nghĩa đệ bảo rằng: “Ta và đệ ai làm Hoàng đế cũng đều như thế, mời đệ hãy qua sông gặp gỡ, trước tiên nối lại tình huynh đệ, sau đó bàn kế liên minh, cùng nhau chống dị tộc”. Không ngờ người nghĩa đệ ấy xé toạc bức thư, không chịu qua sông, lại còn cắt tai của sứ giả, bảo y về báo rằng: “Một núi không thể có hai cọp, dân không thể có hai chủ, ta và ngươi đều là anh hùng trên đời, nếu ngươi không chết thì ta vong!”
Người nghĩa huynh nhận được thư thì cả giận, cả hai anh em tàn sát lẫn nhau, đánh nhau vài năm, đôi bên đều có thắng bại, lần cuối quyết chiến ở Trường Giang, người em thắng lớn, bắt sống người anh, bảo người anh phải cúi đầu xưng thần, người anh không chịu, cười lớn đáp rằng: “Tên ăn mày kia, ngươi hãy giết ta cho xong”. Người em không nói một lời, lập tức sai người dùng gậy đánh chết người anh, ném xác xuống Trường Giang! Sau khi diệt xong người anh, người em đã tự xưng đế. Mấy năm sau, lại còn đuổi dị tộc ra khỏi Trung Quốc, dẹp tan quần hùng thống nhất thiên hạ, trở thành một vị vua khai quốc. Tiểu huynh đệ, ngươi bảo Hoàng đế ấy có xấu hay không?”
Vân Lối nói: “Người em không màng đến tình thủ túc, đương nhiên rất xấu. Song y có thể xua đuổi dị tộc, lấy lại sông núi của chúng ta, coi như cũng là một bậc anh hùng hào kiệt”.
Trương Đan Phong biến sắc, trả lời: “Hiền đệ, đệ cũng nói như thế ư? Sau khi tên ăn mày ấy làm Hoàng đế, đã giết nhiều công thần, y cũng chẳng tha cho hậu nhân của người nghĩa huynh, cho nên hậu nhân của người nghĩa huynh cùng đời sau của các bậc trung thần đều bỏ chạy khắp nơi. Này, đệ hãy ăn cháo đi, cháo rất ngon, câu chuyện này cũng đã hết”.
Vân Lối ngẩng đầu lên nói: “Đại ca, đệ đã đoán được câu chuyện của đại ca, đó là chuyện Minh triều khai quốc, người nghĩa đệ làm ăn mày chính là Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, còn người nghĩa huynh buôn muối lậu chính là kẻ đã tự xưng Hoàng đế Đại Châu Trương Sĩ Thành! Song đệ chưa nghe nói hai người này đã từng kết bái huynh đệ. Trong sách sử cũng không viết như thế. Sách sử nói Trương Sĩ Thành vốn chỉ là một kẻ tiểu nhân vô lại, Thái Tổ giết ông ta chỉ là trừ giặc cho dân”.
Trương Đan Phong cười lạnh nói: “Thắng thì làm vua, thua thì làm giặc, xưa nay đều như thế cả. Đừng nói sách sử không dám chép chuyện họ kết bái huynh đệ, Chu Nguyên Chương ấy là một kẻ ăn mày, xuất thân từ một nhà sư lang thang, quan chép sử cũng không dám nhắc tới! Thực ra là một kẻ ăn mày, một nhà sư nghèo cũng chẳng có điều gì ô nhục. Hừ, hừ!”
Chuyện Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã làm ăn mày rồi lại đi tu trong chùa Hoàng Giáp, thiên hạ ai cũng biết, sau khi xưng đế thì lại e ngại chuyện này. Một vị quan dâng biểu, trong tờ biểu của mình có bốn chữ “Đốc trí sinh tri” nên đã bị giết, tội danh là vì có chữ sinh đồng âm với chữ tăng, Chu Nguyên Chương nghi ngờ vị quan kia lấy cớ này để mỉa mai ông ta đã là một vị hòa thượng. Một người khác dâng biểu, trong tờ biểu có câu “thủ pháp tượng ngụy”, Chu Nguyên Chương bảo: “Thủ pháp và thúy pháp đồng âm”, cũng có ý mỉa mai ông ta đã là một hòa thượng, cho nên đã ra lệnh giết chết. Những câu chuyện như thế này cứ âm thầm lưu truyền, người trong quan trường ai cũng biết. Vân Lối cũng từng nghe gia gia kể, nghe câu chuyện này của Trương Đan Phong, nàng lại nhớ đến cái chết thê thảm của gia gia, lòng thầm nhủ: “Dầu sao những kẻ làm Hoàng đế cũng chẳng ai là người tốt, dù Chu Nguyên Chương hay Trương Sĩ Thành cũng như thế. Nhưng đại ca kể câu chuyện này có ý gì? Tại sao y lại hận Thái Tổ hoàng đế đến thế?”
Trương Đan Phong không để nàng nói nhiều, lại nhẹ nhàng xoa bóp cho nàng, Vân Lối đã vận công nửa ngày, nguyên khí vẫn chưa hồi phục, nàng cũng không suy nghĩ nhiều, một hồi sau thì chìm vào giấc ngủ.
Sáng sớm hôm sau tỉnh dậy, chỉ thấy Trương Đan Phong ngồi bên cạnh, hai mắt hơi sưng, tựa như đêm qua đã từng khóc, Vân Lối rất cảm kích, lại thấy rất đáng thương, nhủ rằng: “Đợi sau khi y thổ lộ thân thế, mình chắc chắn phải an ủi cho y”.
Trương Đan Phong thấy nàng tỉnh dậy, mỉm cười hỏi: “Đã khỏe hơn chưa?”
Vân Lối đáp: “Đã khỏe nhiều. Đêm qua đại ca không ngủ ư?”
Trương Đan Phong cười rằng: “Ta nhiều đêm không ngủ hay ngủ nhiều đêm đều là chuyện thường, đệ không cần phải lo, hãy đưa chân ra”.
Vân Lối đưa chân trái ra, Trương Đan Phong nói: “Không, là chân phải”.
Rồi cởi giày của nàng, dùng ngón tay đè vào gót chân phải của nàng, men theo mặt trong của gót chân, xoa một vòng tròn trong bàn chân, đó là nơi kinh mạch thái dương của phần chân đi qua, Vân Lối được chàng xoa bóp một hồi, có cảm giác ngứa ngáy, một hồi sau thì thấy thoải mái trong người. Trương Đan Phong nói: “Được rồi, ngày mai huynh sẽ đánh thông ba kinh mạch dương cho đệ, đệ sẽ khỏe hẳn, hôm nay đệ hãy siêng năng vận công”. Thế rồi ngồi xuống đất, lấy ra một bức họa. Chỉ thấy chàng cầm cây đuốc, nhìn kỹ bức họa, xem một lúc lâu tựa như đang tìm thứ gì trong bức họa. Vân Lối vận công cả nửa ngày, cũng thấy chàng xem cả nửa ngày, đột nhiên nghe bên ngoài có bước chân, Trương Đan Phong thở dài, mới cuộn bức họa lại nói: “Tại sao có người cứ thích đến nơi này?” Rồi lắc đầu tỏ ý bảo Vân Lối đừng lên tiếng.
Bên ngoài cửa không chỉ có một người, lúc này có tiếng đào đất, một hồi sau thì chợt nghe ầm một tiếng, cánh cửa đá bị đẩy bật ra, tuy đất ở phía dưới đã bị đào, nhưng người ở ngoài cửa quả là có khí lực không nhỏ.
Bên ngoài cửa có cả thảy năm người, mỗi người cầm một ngọn đuốc nối đuôi đi vào, Vân Lối vừa nhìn thì thấy đó là bốn kẻ đã châu báu, hai kẻ phía trước, hai kẻ ở phía sau, Trang chủ của Hắc Thạch trang Oanh Thiên Lôi Thạch Anh thì đi ở giữa. Vân Lối rất lo lắng, nhủ bụng: “Bốn kẻ mua châu báu chắc chắn biến mật thất này, nếu Thạch Anh gọi mình trở về thì phải làm thế nào?”
Chỉ nghe người đi phía trước nói: “Hai người bọn họ chắc chắn ở đây, Thạch trang chủ, ông phải làm chủ cho chúng tôi”.
Té ra Hắc Bạch Ma Ha tức giận bỏ về Tây Tạng, đã đuổi bốn kẻ thu mua này, kết thúc công việc mua bán ở miền nam, bọn họ đã thua tất cả bảo tàng trong cổ mộ, đã không còn vốn để tiếp tục mua bán nữa. Bốn kẻ này không cam lòng, trên đường lại gặp Thạch Anh đang đuổi theo con gái, liền nhờ Thạch Anh ra mặt cho họ, họ cứ tưởng rằng Trương Đan Phong đêm ấy đến cướp bảo vật ở nhà Thạch Anh, bản lĩnh của Thạch Anh tuy không qua nổi Hắc Bạch Ma Ha, nhưng hảo hán lục lâm ở miền Sơn Tây, Thiểm Tây đều nghe lệnh ông ta, chỉ cần chọc giận Thạch Anh, truyền lục lâm lệnh tiễn thì Trương Đan Phong dù có giỏi cách mấy, mọc cánh cũng khó bay.
Nào ngờ Thạch Anh đang muốn gặp mặt Trương Đan Phong, huống chi cần phải gặp Trương Đan Phong mới biết tung tích của Vân Lối, thế là giả vờ chấp nhận, bảo bốn người họ dẫn đến đây.
Bốn người đi một vòng, kêu lớn: “Tiểu tử kia, hãy mau chui ra đây!”
Thạch Anh vội vàng vái dài lên không trung rồi nói: “Trương công tử, xin mời hãy bước ra, lão phu đang mong muốn gặp mặt, có lão phu ở đây, lão phu sẽ giúp hai bên hóa giải hiềm khích!”
Bốn kẻ kia thấy ông ta cung kính như thế thì đều ngạc nhiên, kẻ đi đầu kề tai Thạch Anh nói nhỏ: “Thạch trang chủ, nếu cả hai người bọn họ đều không bị thương, có thể song kiếm hợp bích, năm người chúng ta đương nhiên cũng chẳng phải là đối thủ của họ. Nhưng lệnh tế đã bị Hắc Ma Ha đánh bị thương, một mình y không phải là đối thủ của chúng ta. Thạch lão anh hùng, chúng tôi đảm bảo có thể trị thương cho lệnh tế, chỉ cần tên tiểu tử ấy trả châu báu lại”.
Bốn kẻ này sợ Thạch Anh trách cứ, ban đầu không dám nói chuyện Vân Lối đã bị thương, lúc này thấy Thạch Anh như thế, tưởng rằng ông ta sợ đối thủ quá mạnh nên không dám chống đối với Trương Đan Phong, cho nên buộc phải nói ra sự thực.
Thạch Anh nghe nói Vân Lối bị thương, trong lòng lo lắng, kêu lên: “Trương công tử, mời hãy ra đây, ngày trước tiểu tế vô tình mạo phạm, mong ngài đừng trách”.
Trương Đan Phong vẫn không lên tiếng, bốn kẻ kia lại nói: “Được, ngươi không ra, bọn chúng ta sẽ vào xem thử!” Thế rồi lấy thanh đá dưới đất, chặn vào chỗ lõm ở ngoài mật thất, dùng lực xoay nhẹ, Trương Đan Phong không đợi cửa mở, căn dặn Vân Lối hai câu, đột nhiên lấy “tự lai thạch”, đẩy cửa phóng vọt người ra, tiện tay đóng cánh cửa mật thất lại.
Bốn tên khách thương đang dùng lực xoay phiến đá, đột nhiên mất đà đều ngã ngửa ra sau, khi đứng dậy thì thây Trương Đan Phong đang nhẹ nhàng phe phẩy chiếc quạt, cả bốn người vội vàng chạy ra bốn góc, ý đồ muốn bao vậy Trương Đan Phong lại, chỉ đợi chàng và Thạch Anh động thủ, sẽ lập tức xông lên.
Dưới ánh đuốc, chỉ thấy Trương Đan Phong nhẹ nhàng tự nhiên, phe phẩy quạt rồi mỉm cười: “Thạch trang chủ, ân tình mấy mươi năm, tôi đã thay tổ tiên bái tạ”.
Thạch Anh đột nhiên bật khóc, quỳ sụp xuống đất, dập đầu bốn cái rồi nói: “Thiếu, thiếu...” Trương Đan Phong xua tay, tỏ ý bảo ông ta đừng nói ra thân phận của mình. Đợi ông ta dập đầu xong thì lập tức đỡ ông ta dậy, cúi người trả lại một lễ, thần thái tuy cung kính, nhưng cũng không quỳ xuống trả lễ, rõ ràng tựa như người bề trên đối với bề dưới.
Hành động ấy của Oanh Thiên Lôi Thạch Anh khiến cho mọi người đều ngạc nhiên. Vân Lối trong mật thất cảm thấy an ủi, nhủ thầm: “Đại ca quả nhiên chẳng phải người xấu, xem ra Thạch lão anh hùng đối với ông ta rất tôn kính! Nhưng đại ca hình như đã quá vô lễ, tuổi còn trẻ mà lại để Thạch lão anh hùng quỳ xuống bái lạy như thế?”
Bốn khách thương càng lúc càng kinh hãi, không ngờ kẻ mình nhờ vả lại cùng một giuộc với kẻ địch, một Trương Đan Phong đã đủ khổ, huống chi nay lại có Thạch Anh nữa.
Chỉ thấy Trương Đan Phong mỉm cười, nói: “Thạch trang chủ ở đây, các người hãy hỏi ông ta rằng ta có phải là kẻ tham tài cướp của hay không?”
Bốn khách thương vội vàng vái dài luôn miệng nói: “Không dám, không dám!”
Trương Đan Phong lại cười ha hả, nói: “Các người hãy chờ đợi, chút tài sản của Hắc Bạch Ma Ha, ta không cần”. Thế rồi đẩy nhẹ cánh cửa một mình lách vào bên trong, căn mật thất rất rộng, Vân Lối ngồi ở góc tường, người ngoài không nhìn thấy nàng.
Bốn người kia và Thạch Anh đều không dám thò đầu vào nhìn, chỉ thấy Trương Đan Phong tay cầm chổi, quét đống châu báu tựa như quét rác ra ngoài, ngửa đầu cười lớn nói: “Người đời cứ thích báu vật, còn ta chỉ mến tài. Nào, nào, các người hãy xem có còn thiếu thứ gì không?”
Bốn người ấy vui mừng ra mặt, bỏ từng món châu báu vào trong túi mang theo, Trương Đan Phong quát: “Cút đi, bảo với Hắc Bạch Ma Ha biết rằng bọn họ phải làm ăn cho đàng hoàng tử tế, không được mua bán bằng cách ép buộc người ta”.
Bốn người ấy luôn miệng kêu: “Vâng, vâng!” Rồi lại ra vẻ khúm núm: “Lệnh hữu bị thương thế nào? Chúng tôi có thể trị được”.
Trương Đan Phong nói: “Chỉ các người có thể trị được hay sao? Ta đã trị cho y khỏe từ sớm, đừng nhiều lời, cút mau!”
Bốn người ấy lại luôn miệng kêu: “Vâng, vâng!”, rồi cúi người bước ra ngoài cửa.
Trương Đan Phong cười lớn nói: “Quét sạch những thứ phế vật này, trong lòng rất sảng khoái! Của cải bất nghĩa không nên dùng, Thạch lão anh hùng, ông nói có phải không?”
Thạch Anh cúi người nói: “Thiếu chủ dạy phải”.
Trương Đan Phong nói: “Thôi được. Ông đã gặp ta, cũng nên trở ề rồi!”
Thạch Anh nói: “Cầu xin thiếu chủ thả tiểu tế trở về”.
Trương Đan Phong nói: “Chuyện nhân duyên của con gái ông cứ giao cho ta và Vân Lối, ông hãy yên tâm, chắc chắn sẽ cho ông một nữ tế tốt, ta không muốn ông ở đây, ông hãy về cho mau!”
Khi nói đến chữ “về”, thì tựa như hạ lệnh.
Thạch Anh cúi người nói: “Vậy tiểu nhân trở về, thiếu chủ còn có gì căn dặn?”
Vân Lối kinh ngạc, nghĩ bụng: “Thạch Anh tốt xấu gì cũng là Minh chủ võ lâm của hai tỉnh Tấn, Thiểm, võ công chẳng kém Trương Đan Phong, tại sao lại cung kính, sợ sệt chàng như thế? Ông ta toàn gọi Trương Đan Phong là thiếu chủ, chả lẽ ông ta từng là hạ nhân của đại ca?”
Chỉ nghe Trương Đan Phong nói: “Không còn gì nữa!”
Thạch Anh nói: “Nếu thiếu chủ cần, tiểu nhân sẽ truyền Lục Lâm tiễn, bằng hữu hắc đạo hai tỉnh, tốt xấu gì cũng phải nể mặt”.
Trương Đan Phong cười ha hả nói: “Chuyện đời đều bất ngờ, e rằng có chuyện không ai giúp được ta!”
Thạch Anh biến sắc, tỏ vẻ ngượng nghịu: “Tiểu nhân tuy vô dụng, nhưng chỉ cần thiếu chủ căn dặn thì dẫu dầu sôi lửa bỏng, tiểu nhân cũng không từ nan”.
Trương Đan Phong vẫy tay buồn bã nói: “Tâm ý của ông ta lãnh nhận, ông hãy đi thôi!”
Thạch Anh lại thi lễ, xoay người bước ra ngoài.
Vân Lối rất nôn nao trong lòng, đợi Trương Đan Phong bước vào trong mật thất thì quay đầu hỏi: “Đại ca, khi Thạch Anh hỏi ông ta có gì căn dặn, sao đại ca không thừa cơ nhờ ông ta một chuyện?”
Trương Đan Phong nói: “Chuyện gì?”
Vân Lối nói lúng búng: “Đêm qua thiếu niên đến cùng Thạch Thúy Phượng, chẳng phải cũng nhắc đến Lục Lâm tiễn hay sao?”
Trương Đan Phong cả cười nói: “Có phải đệ nói Châu thiếu trại chủ ở bên ngoài Nhạn Môn quan phải không? Cha con họ coi như cũng là những người có tiếng tăm. Nếu y bảo Thạch Anh truyền Lục Lâm tiễn, gây bất lợi cho ta, chuyện này ta đã sớm đoán trúng. Ta xưa nay không quen cầu xin người khác, vả lại nếu nhờ vả người khác, ta cũng chẳng thấy vinh quang gì. Nói thực, nếu ta sợ bọn họ truyền Lục Lâm tiễn, lúc đó ta sẽ xông ra, có thể kết liễu nghĩa huynh của đệ, nhưng ta cũng muốn họ thử một lần. Ồ, nếu Thạch Thúy Phượng gả cho Châu Sơn Dân thì thật tốt, chả trách gì trong đêm động phòng, đệ cứ nhắc đến người nghĩa huynh này”.
Lời nói của Trương Đan Phong rất tự phụ mà lại khoáng đạt. Vân Lối nhủ thầm: “Té ra chàng đã biết thân phận của Châu Sơn Dân, khi Châu Sơn Dân mắng chàng, chàng vẫn có thể nén được”. Trong lòng thầm lo lắng, nhưng lại không biết giữa chàng và Châu Kiện có xảy ra hiểu lầm gì. Trương Đan Phong liếc nhìn nàng rồi mỉm cười: “Khí sắc của đệ đã tốt hơn trước, hãy chú ý vận hành nội công. Khi ăn cơm tối, ta lại sẽ kể cho đệ nghe câu chuyện thứ hai”.
Vân Lối có căn cơ nội công, sau khi ăn cơm xong thì bệnh đã bớt đi bảy tám phần, có thể ăn cơm khô. Trương Đan Phong vừa chăm nàng dùng cơm, vừa nói: “Đã rất lâu rồi, có một đất nước, ở đất nước ấy có một trung thần, họ tên như thế nào thì cũng không cần nhắc tới, dù sao triều đại nào cũng đều có trung thần như thế, có thể họ Trương, có thể họ Lý, cũng có thể họ Phương, cũng có thể họ Vân...
Ngoài ra còn có một đất nước láng giềng, hai nước này thường đánh nhau, có lúc nước này xâm nhập vào nước kia, cũng có lúc nước kia lại xâm nhập vào nước này, nhưng dù nước nào thắng, kẻ chịu khổ vẫn là trăm họ.
Khi câu chuyện xảy ra, là lúc đại trung thần của nước kia đắc thế, muốn nước láng giềng phải hàng nắm tiến cống.
Nước kia lại không phục, liền lễ hiền hạ sĩ, chiêu nạp nhân tài, dần dần thế nước đã mạnh lên. Đại trung thần của nước kia thấy không xong, liền phái người đi sứ, đi sứ sang một quốc gia, một mặt là phải dùng thủ đoạn lôi kéo, một mặt là để tìm hiểu hư thực. Không ngờ đại trung thần ấy đã đi đến hai mươi năm. Này, tiểu huynh đệ, đệ sao thế? đệ có biết y tại sao đi một lần đến hai mươi năm không? Té ra là... Này, Lối đệ, Lối đệ!”
Trương Đan Phong đang nói thì thấy sắc mặt của Vân Lối dần dần thay đổi, khi nói đến hai mươi năm, chỉ thấy sắc mặt của Vân Lối tái nhợt, lảo đảo tựa như muốn ngã xuống.
Trương Đan Phong kinh hãi, vội vàng đưa tay đỡ nàng, chỉ nghe Vân Lối kể tiếp câu chuyện rằng: “Huynh hãy nói ông ta tại sao ra đi đến hai mươi năm? Té ra là ông ta bị người ta giữ lại chăn ngựa ở nơi băng thiên tuyết địa! Đại ca, đừng nói nữa, đệ không nghe câu chuyện này!”
Trong chốc lát sắc mặt của Trương Đan Phong trắng bệt, đôi chân mày nhíu lại, tựa như đã suy nghĩ một chuyện gì rất lâu nay đột nhiên vỡ lẽ ra, như bừng tỉnh từ giấc ác mộng, chàng nhìn Vân Lối thắm thiết rồi nói: “Tiểu huynh đệ, té ra đệ cũng biết câu chuyện này! Vậy đêm mai ta sẽ kể câu chuyện thứ ba, đệ sẽ hiểu ra. Tiểu huynh đệ hãy định thần, giờ đây không nên hỏi gì cả, không nên nói gì cả, đệ cần phải được đánh thông thêm ba mạch âm, không nên suy nghĩ phân thần, tiểu huynh đệ, ta sẽ giúp đệ vận công”.
Thế rồi hai chưởng đặt vào lòng bàn tay của Vân Lối, nàng cảm thấy lòng bàn tay mình nóng như lửa đốt, ánh mắt lờ đờ, Trương Đan Phong nói: “Tiểu huynh đệ, trong lòng đệ đang buồn, tạm thời đừng tập công phu thổ nạp nữa”. Thế rồi đi qua đi lại trong phòng, nay quá trình trị liệu thương thế cho Vân Lối đã đến lúc quan trọng, nếu không làm cho nàng bình tĩnh thì bệnh tình sẽ nghiêm trọng.
Vân Lối thấy chàng lo lắng đi lại trong phòng, biết chàng đang lo cho mình, tuy trong lòng muốn hỏi rất nhiều nhưng cố gắng nén lại, đưa tay vuốt tóc, mỉm cười nói: “Đại ca, huynh hãy ngủ sớm đi, đệ sẽ kiên nhẫn chờ đợi câu chuyện vào ngày mai của huynh”.
Thế là tâm trạng lúc này đã bình tĩnh hơn nhiều.
Trương Đan Phong mỉm cười, nhặt một cây đàn hồ trên chiếc ghế ngọc, chỉnh lại dây đàn, vừa đàn vừa cất giọng ca một bài từ tả cảnh Hàn Châu của thư nhân đời Tống Liễu Vĩnh, Vân Lối dần dần quên cả âu sầu. Chỉ thấy Trương Đan Phong đặt cây đàn xuống, bước tới gần, vuốt tóc nàng, nhẹ nhàng nói: “Hãy ngủ đi, hãy ngủ đi!”
Vân Lối tựa như bị thôi miên, quả nhiên chìm vào giấc ngủ.
Đến ngày hôm sau tỉnh dậy, vì ngủ ngon cho nên tinh thần rất xung mãn, Trương Đan Phong cười rằng: “Tiểu huynh đệ, hôm nay đệ hãy ngồi tĩnh tọa một ngày thì sẽ khỏe hẳn, công lực không những không giảm mà còn tăng hơn trước”. Cứ mỗi canh giờ chàng lại giúp nàng hành công một lần, đến giờ ngọ thì đã đả thông ba mạch thái âm, thiếu âm, huyết âm của Vân Lối. Sắc mặt của Vân Lối dần dần hồng hào, Trương Đan Phong mừng rỡ nói: “Tiểu huynh đệ, đệ tiến bộ rất nhiều, thêm hai canh giờ nữa thì sẽ hoàn toàn khỏe”.
Vân Lối ngồi tĩnh tọa vận công, Trương Đan Phong ngồi một mình xem bức họa, nửa canh giờ trôi qua, chợt nghe bên ngoài có tiếng người, Trương Đan Phong nhíu mày nói: “Sao lại có người đến quấy nhiễu nữa!” Nói chưa dứt lời, chỉ nghe con Chiếu dạ sư tử mã hí dài, tiếp theo là ầm một tiếng, cánh cửa đá bật ra, cát bụi tung bay, một kỵ sĩ mặc áo đen cỡi con ngựa trắng phóng vào, thanh thế rất kinh người!
Tuy đất ở trước mộ đêm qua đã bị đào, nhưng sức một người có thể phá cửa mà vào, võ công của người này quả thật rất kinh hãi. Điều đáng kinh ngạc hơn là, con Chiếu dạ sư tử mã chỉ nghe lời chủ nhân, thế nhưng giờ đây đã bị người ta chế phục. Trong mật thất, hai người Trương, Vân đều biến sắc. Chỉ thấy thớt ngựa trắng hí dài, chạy vào thông đạo, phóng lên đại sảnh, kỵ sĩ mặc áo đen nhảy xuống ngựa, lớn giọng nói: “Đan Phong, Đan Phong!” Trong tấm kính gắn trên bức tường, kỵ sĩ mặc áo đen chẳng phải ai khác, đó chính là đệ nhất dũng tướng của nước Ngõa Thích, Đàm Đài Diệt Minh. Vân Lối kinh hãi, kêu lên một tiếng, toan đứng dậy, đột nhiên cảm thấy người cứng đờ, té ra Trương Đan Phong đã ghé bên tai nói: “Tiểu huynh đệ, đừng nên làm càn, hãy ngồi vận công, ta đi ra xong sẽ vào, lúc đó ta sẽ kể cho đệ nghe câu chuyện thứ ba”.
Bên ngoài Đàm Đài Diệt Minh lại kêu: “Đan Phong, ngươi và ai ở trong đó?” Rồi đốt ngọn đuốc lên, Vân Lối tuy không thể lên tiếng, nhưng vẫn có thể nhìn thấy rõ ràng, con ngựa trắng cọ vào người Đàm Đài Diệt Minh, tựa như rất thân quen đối với y.
Trương Đan Phong đẩy cửa, nhảy vọt ra. Chỉ nghe Đàm Đài Diệt Minh nói: “Đan Phong, tướng gia...” Trương Đan Phong suỵt một tiếng, Đàm Đài Diệt Minh đổi giọng nói: “Cha của ngươi bảo ngươi quay về!”
Trương Đan Phong nói: “Đàm Đài tướng quân, phiền ông quay về báo lại với người, tôi đã rời khỏi Mông Cổ thì mãi mãi sẽ là người Trung thổ, không quay về nữa!”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Ngươi không suy nghĩ cho cha mình, cũng phải nghĩ cho bản thân. Ngươi một mình vào Trung thổ, hào kiệt Trung Nguyên, ai có thể biết được lòng ngươi, ai có thể tha thứ cho ngươi?”
Trương Đan Phong trầm giọng nói: “Dù tôi bị phanh thây ra muôn mảnh, cũng phải chết ở cố thổ, còn hơn chết ở quê người. Phiền ông hãy quay về bảo với cha ta rằng người hãy tự bảo trọng”.
Vân Lối kinh hãi, đột nhiên chợt nghĩ: “Nếu y là chiến sĩ người Hán ở đất Mông Cổ, Đàm Đài Diệt Minh sao lại thân mật đối với y như thế? Tướng gia gia, chẳng lẽ y là...” Chợt nghe Đàm Đài Diệt Minh quát lớn một tiếng, Vân Lối bị cắt đứt luồng suy nghĩ, chỉ thấy Đàm Đài Diệt Minh đánh ra một quyền, nói: “Ngươi có chịu theo ta trở về hay không?”
Trương Đan Phong né tránh hai quyền, buồn bã nói: “Đàm Đài tướng quân, ông cớ gì phải ép buộc tôi như thế!”
Đàm Đài Diệt Minh lại tung ra một quyền nữa, Trương Đan Phong giở cánh tay lên gạt ra, Đàm Đài Diệt Minh ra tay nhanh như gió, hóa quyền thành chưởng, quét vào cổ họng của chàng, lại là một chiêu sát thủ!
Lúc này Vân Lối lòng rối như tơ vò, vừa kinh hãi vừa mừng rỡ vừa nghi ngờ, kinh hãi là Đàm Đài Diệt Minh dũng mãnh tựa như sư tử, còn lợi hại hơn cả Hắc Bạch Ma Ha; mừng rỡ là vì Trương Đan Phong ra tay chống cự, rõ ràng không phải là người cùng phe với Đàm Đài Diệt Minh; nghi ngờ là vì hai chữ tướng gia tựa như mũi dao nhọn đâm vào tim nàng, khiến cho nàng càng nghĩ ngợi hơn về thân phận của Trương Đan Phong.
Chỉ thấy Trương Đan Phong cố gắng chống đỡ, bóng người ngang dọc, quyền phong vù vù chấn động cả căn đại sảnh, Đàm Đài Diệt Minh bước đi lanh lẹ tựa như khỉ vượn, ra quyền mạnh như mãnh hổ, lực hùng thế kình, biến hóa khôn lường, từng bước dồn Trương Đan Phong thối lui. Vân Lối tiếc không thể nào nhảy vọt lên, giúp chàng một tay, thế là vội vàng dẫn khí lên, hy vọng có thể tựa giải huyệt đạo. Đang lúc lo lắng, chợt thấy Đàm Đài Diệt Minh vung tay tóm một cái, quát rằng: “Đi!” Thế là nhấc bổng Trương Đan Phong lên ném lên không trung tựa như ném một trái cầu!
Vân Lối hoảng hồn đến nỗi nhắm tịt hai mắt, chợt nghe ồ một tiếng, mở mắt ra thì thấy Trương Đan Phong đã đứng ở dưới đất, tựa như chẳng hề tổn thương. Té ra cú ném của Đàm Đài Diệt Minh xem ra rất hung dữ, nhưng thực sự đã âm thầm thi triển xảo kình, ném Trương Đan Phong lên không trung, rồi lộn người lên sau đó nhẹ nhàng hạ xuống đất. Điều này không những Vân Lối chẳng đoán ra mà cả Trương Đan Phong cũng cảm thấy bất ngờ.
Chỉ thấy Đàm Đài Diệt Minh tiến tới hai bước, mỉm cười nói: “Đan Phong, không uổng sư phụ của ngươi đã khổ công dạy dỗ, võ công của ngươi quả nhiên có chỗ độc đáo, tiếp được năm mươi chiêu của ta, có thể xông pha trên giang hồ. Ngươi hãy tự lo cho mình. Ở trước mặt cha ngươi, đã có ta lên tiếng, ngươi không cần phải lo lắng”.
Lúc này Trương Đan Phong mới biết lòng tốt của Đàm Đài Diệt Minh đối với mình, ban nãy ra tay chỉ là thủ chiêu. Trương Đan Phong vái dài rồi nói: “Đàm Đài tướng quân, tất cả đều nhờ vào ông”.
Đàm Đài Diệt Minh chợt hỏi: “Trong phòng còn có ai nữa?”
Trương Đan Phong nói: “Là một người bằng hữu, y không muốn gặp ông, mong ôn hãy nể mặt tôi, đừng kinh động đến y”.
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Đã không muốn gặp thì không miễn cưỡng, ý của Thái sư, tháng mườị...” Trương Đan Phong lại suỵt một tiếng, Đàm Đài Diệt Minh lập tức lảng sang chuyện khác: “Chúng ta sau này không biết có gặp lại hay không, ngươi hãy cùng ta ra ngoài nói chuyện một lát”.
Thế rồi bỏ Trương Đan Phong lên mình ngựa, phóng vọt ra ngoài cửa.
Vân Lối thở phào một hơi, tựa như đã bỏ được tảng đá nặng ngàn cân trong lòng, nỗi lo lắng chợt tan biến. Cao thủ điểm huyệt, mỗi người đều có thủ pháp độc môn, vốn không dễ dàng tự giải khai, Vân Lối thử dùng tâm pháp của bổn môn, vận khí ba vòng thì chợt có hiệu quả, đó là điều khiến cho nàng bất ngờ.
Vân Lối đứng bật dậy, thầm nhủ: “Mình phải tìm hiểu bí mật thân thế của y”. Thế rồi đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy thanh bảo kiếm của Trương Đan Phong vẫn còn để trong phòng, thế là nhặt lên nhìn, chỉ thấy thanh kiếm có khắc hai chữ Bạch Vân. Thanh Minh và Bạch Vân là kiếm của Huyền Cơ Dật Sĩ, một thanh truyền cho Tạ Thiên Hoa, một thanh truyền cho Diệp Doanh Doanh, Vân Lối vừa nhìn thấy thì tim đánh thình một tiếng nhủ thầm: “Thanh kiếm này tại sao y có? Chả lẽ y là đồ đệ của tam sư bá?” Khi nhìn kỹ lại, chỉ thấy trên tua kiếm có một mảnh ngọc khắc hình rồng, làm trang sức. Vân Lối nhìn kỹ, nàng thấy mảnh ngọc này có khắc bốn chữ “Hữu thừa tướng phủ”, ngoài ra còn có một dòng chữ ghi rõ lai lịch của mảnh ngọc này, dòng chữ ấy chính là: Phong nhi ra đời, quốc chủ ban tặng.
Vân Lối tim đập chân rung.
Keng môt tiếng, thanh Bạch Vân kiếm rơi xuống đất, lúc này nàng đã hiểu hết tất cả, Trương Đan Phong chính là con trai của địa gian tặc Trương Tôn Châu, là con trai của kẻ thù!
Vân Lối chỉ cảm thấy hoang mang, lúc này tựa như cả thế giới không còn tồn tại, trong đầu trống rỗng như chẳng có gì, nàng vô tình đưa tay chạm ngực, đụng phải một thứ, đó chính là bức huyết thư bằng da dê mà gia gia đã để lại, mười năm nay lúc nào Vân Lối cũng mang theo bên mình. Bức huyết thư viết rằng: “Hễ là hậu nhân của nhà họ Vân, gặp phải hậu nhân của Trương Tôn Châu, bất luận là nam nữ già trẻ đều phải giết chết!” Tuy đã qua mười năm, tuy cách một lớp áo nhưng Vân Lối tựa như có thể ngửi thấy mùi máu tanh của tấm da dê!
Vân Lối cảm thấy một cơn lạnh dâng lên trong lòng, điều này thật đáng sợ. Bức da dê tựa như một mảnh băng bao bọc lấy người nàng, tâm hồn của nàng tựa như một mệnh lệnh không thể kháng cự buộc nàng phải chính tay giết chết Trương Đan Phong!
Bên ngoài cửa tiếng ngựa hí dài, Trương Đan Phong lại trở về. Vân Lối định thần, cắn răng cúi đầu ngồi, tựa như đang cố gắng vận công, nàng không muốn Trương Đan Phong thấy sắc mặt trắng bệt của mình. Trương Đan Phong nhẹ nhàng đẩy cửa bước vào, cười rằng, cười rằng: “Ta sẽ tiếp câu chuyện thứ ba này. Tiểu huynh đệ, huynh đệ sao thế?”
Rồi bước tới trước tấm gương đồng, chỉnh sửa lại mái tóc rối bời. Từ tấm gương đồng, chàng đột nhiên thấy Vân Lối trợn tròn hai mắt, cầm kiếm đâm thẳng tới chàng!
Chỉ nghe keng một tiếng bàn tay của Vân Lối run run, kiếm lướt xéo qua cổ chàng, tấm kiếng vỡ toang, Trương Đan Phong vội vàng quay đầu lại: “Tiểu huynh đệ, tiểu huynh đệ, đệ hãy nghe ta nóị...” Vân Lối nhắm mắt, liên tục đâm tới ba nhát kiếm!
Trương Đan Phong phóng người vọt qua chiếc bàn ngọc, chỉ nghe Vân Lối khóc rằng: “Ta đã hoàn toàn hiểu, không cần kể câu chuyện thứ ba nữa!” Thế rồi phóng người vọt lên, đâm soạt ra thêm một kiếm, Trương Đan Phong thở dài, nói: “Đệ có phải là cháu gái của Vân Tĩnh hay không?”
Vân Lối kêu lên: “Ngươi là con trai của kẻ thù nhà ta!” Mũi kiếm đâm tới trước ngực, Trương Đan Phong ưỡn ngực nói: “Tiểu huynh đệ, đệ hãy đâm đi! Ta không cần đệ tha thứ!” Soạt một tiếng, mũi kiếm lướt sang bên phải, tay phải của Trương Đan Phong rách một đường, chỉ nghe Trương Đan Phong nói: “Tiểu huynh đệ, sau khi đệ giết ta, không nên nổi giận, đệ phải ngồi tịnh tọa một canh giờ, trên bàn ngọc có một bình bạc nhỏ, trong bình có thuốc cho đệ, có thể giúp đệ tăng nguyên khí! Được, tiểu huynh đệ, ta không cần tha thứ, đệ hãy cứ đâm tới!” Vân Lối nước mắt dâng trào, tay run tim nhói đau, cây Thanh Minh bảo kiếm suýt nữa rơi xuống đất, nàng đột nhiên cảm thấy bức da dệ ở trước ngực tựa như một quả núi đè vào tim nàng, buộc nàng phải báo thù!
Vân Lối run run mũi kiếm, kêu lên: “Hãy nhặt kiếm lên, ta không giết một người chẳng có tấc sắt trong tay!”
Nàng biết võ công của Trương Đan Phong cao cường hơn mình, nều tỉ thí thì kẻ chết sẽ là bản thân mình chứ không phải là Trương Đan Phong. Nhưng không biết thế nào nàng lại buộc Trương Đan Phong tỉ kiếm, tựa như nếu sau một trận kịch chiến. Bản thân chết dưới kiếm của Trương Đan Phong, coi như không có lỗi với gia gia.
Trương Đan Phong đứng yên, vẻ mặt như cười như mếu, khiến Vân Lối không dám nhìn thẳng. Vân Lối nghiến răng, nhặt thanh Bạch Vân kiếm lên, rồi ném qua cho chàng, miệng nói: “Hai nhà chúng ta có mối thù sâu không đội trời chung, không phải ngươi chết thì là ta vong, hãy mau rút kiếm ra”.
Trương Đan Phong nhận lấy thanh kiếm, buồn bã nói: “Tiẻu huynh đệ, ta thề suốt đời này không động thủ với đệ, đệ muốn giết thì cứ giết, nếu đệ không ra tay, ta đi đây!”
Vân Lối quét một luồng kiếm quang trước mặt Trương Đan Phong, nhưng vẫn không chém vào, Trương Đan Phong thở dài, nhảy lên con ngựa trắng rồi nói: “Tiểu huynh đệ, từ nay đệ hãy bảo trọng, ta đi đây!” Bên ngoài cửa tiếng ngựa hí dài, một lát sau tất cả đều rơi vào tĩnh lặng. Vân Lối đứng trân người ra ở đấy, cây trường kiếm rơi xuống đất, trước mắt tối sầm.
Đúng là:
Là yêu là thù cũng khó biết, chỉ khiến ngọc nữ đau lòng thôi.
Muốn biết chuyện sau đó thế nào, mời hãy xem hồi sau phân giải.
Sau đó sư phụ của hai anh em dựng cờ nghĩa, kẻ ăn mày cũng dấy binh theo ông ta, sau một trận đại chiến, hòa thượng ấy mất tích, có người nói ông ta đã chết, có người bảo sau khi mất tích ông ta vẫn là một hòa thượng, nhưng rốt cuộc thế nào thì chẳng ai biết.
Kẻ bán muối lúc này đang buôn bán ở vùng Giang Bắc, tụ tập mấy trăm dân làm muối, dấy binh xưng vương. Qua mấy năm sau, thế lực của người bán muối dần dần mở rộng, xưng đế ở Tô Hàn, mấy tỉnh ở vùng Trường Giang đều thuộc phạm vi thế lực của ông ta. Còn người nghĩa đệ vẫn chưa lập được công danh gì. Lúc đó quần hùng thiên hạ ùn ùn nổi dậy, trong đó có một lộ quân lấy khăn đỏ làm hiệu, thế lực lớn nhất, hai năm trước lãnh tụ của quân khăn đỏ đã chết, do một trung niên anh hùng thay thế, đánh thành cướp đất, thế lực lan đến tận phía nam của Trường Giang. Kẻ bán muối dò hỏi tin tức, thiếu niên lãnh tụ ấy vốn là một lãnh tụ, đến khi dò hỏi kỹ càng mới biết đó là người nghĩa đệ trước đây của mình. Có người nói, kẻ ăn mày đi theo hòa thượng dấy binh, sau khi hòa thượng thất bại y đã âm thầm bán đứng hòa thượng cho nhà quan, còn mình thì giả vờ làm người tốt, thống lĩnh bộ thuộc của hòa thượng, đầu hàng quân khăn đỏ, cho nên đã trở thành một đầu mục của quân khăn đỏ, được chủ soái của quân khăn đỏ coi trọng, do dó sau này mới có thể thay thế vị trí của ông ta. Người nghĩa huynh đã làm Hoàng đế không tin lời đồn này, song sau khi sai người liên lạc thì mới biết được chủ soái mới của toán quân khăn đỏ chính là nghĩa đệ của mình.
Lúc này thế lực của hai người đã chạm nhau ở Trường Giang, người nghĩa huynh sai sứ giả qua sông, đưa thư cho nghĩa đệ bảo rằng: “Ta và đệ ai làm Hoàng đế cũng đều như thế, mời đệ hãy qua sông gặp gỡ, trước tiên nối lại tình huynh đệ, sau đó bàn kế liên minh, cùng nhau chống dị tộc”. Không ngờ người nghĩa đệ ấy xé toạc bức thư, không chịu qua sông, lại còn cắt tai của sứ giả, bảo y về báo rằng: “Một núi không thể có hai cọp, dân không thể có hai chủ, ta và ngươi đều là anh hùng trên đời, nếu ngươi không chết thì ta vong!”
Người nghĩa huynh nhận được thư thì cả giận, cả hai anh em tàn sát lẫn nhau, đánh nhau vài năm, đôi bên đều có thắng bại, lần cuối quyết chiến ở Trường Giang, người em thắng lớn, bắt sống người anh, bảo người anh phải cúi đầu xưng thần, người anh không chịu, cười lớn đáp rằng: “Tên ăn mày kia, ngươi hãy giết ta cho xong”. Người em không nói một lời, lập tức sai người dùng gậy đánh chết người anh, ném xác xuống Trường Giang! Sau khi diệt xong người anh, người em đã tự xưng đế. Mấy năm sau, lại còn đuổi dị tộc ra khỏi Trung Quốc, dẹp tan quần hùng thống nhất thiên hạ, trở thành một vị vua khai quốc. Tiểu huynh đệ, ngươi bảo Hoàng đế ấy có xấu hay không?”
Vân Lối nói: “Người em không màng đến tình thủ túc, đương nhiên rất xấu. Song y có thể xua đuổi dị tộc, lấy lại sông núi của chúng ta, coi như cũng là một bậc anh hùng hào kiệt”.
Trương Đan Phong biến sắc, trả lời: “Hiền đệ, đệ cũng nói như thế ư? Sau khi tên ăn mày ấy làm Hoàng đế, đã giết nhiều công thần, y cũng chẳng tha cho hậu nhân của người nghĩa huynh, cho nên hậu nhân của người nghĩa huynh cùng đời sau của các bậc trung thần đều bỏ chạy khắp nơi. Này, đệ hãy ăn cháo đi, cháo rất ngon, câu chuyện này cũng đã hết”.
Vân Lối ngẩng đầu lên nói: “Đại ca, đệ đã đoán được câu chuyện của đại ca, đó là chuyện Minh triều khai quốc, người nghĩa đệ làm ăn mày chính là Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, còn người nghĩa huynh buôn muối lậu chính là kẻ đã tự xưng Hoàng đế Đại Châu Trương Sĩ Thành! Song đệ chưa nghe nói hai người này đã từng kết bái huynh đệ. Trong sách sử cũng không viết như thế. Sách sử nói Trương Sĩ Thành vốn chỉ là một kẻ tiểu nhân vô lại, Thái Tổ giết ông ta chỉ là trừ giặc cho dân”.
Trương Đan Phong cười lạnh nói: “Thắng thì làm vua, thua thì làm giặc, xưa nay đều như thế cả. Đừng nói sách sử không dám chép chuyện họ kết bái huynh đệ, Chu Nguyên Chương ấy là một kẻ ăn mày, xuất thân từ một nhà sư lang thang, quan chép sử cũng không dám nhắc tới! Thực ra là một kẻ ăn mày, một nhà sư nghèo cũng chẳng có điều gì ô nhục. Hừ, hừ!”
Chuyện Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã làm ăn mày rồi lại đi tu trong chùa Hoàng Giáp, thiên hạ ai cũng biết, sau khi xưng đế thì lại e ngại chuyện này. Một vị quan dâng biểu, trong tờ biểu của mình có bốn chữ “Đốc trí sinh tri” nên đã bị giết, tội danh là vì có chữ sinh đồng âm với chữ tăng, Chu Nguyên Chương nghi ngờ vị quan kia lấy cớ này để mỉa mai ông ta đã là một vị hòa thượng. Một người khác dâng biểu, trong tờ biểu có câu “thủ pháp tượng ngụy”, Chu Nguyên Chương bảo: “Thủ pháp và thúy pháp đồng âm”, cũng có ý mỉa mai ông ta đã là một hòa thượng, cho nên đã ra lệnh giết chết. Những câu chuyện như thế này cứ âm thầm lưu truyền, người trong quan trường ai cũng biết. Vân Lối cũng từng nghe gia gia kể, nghe câu chuyện này của Trương Đan Phong, nàng lại nhớ đến cái chết thê thảm của gia gia, lòng thầm nhủ: “Dầu sao những kẻ làm Hoàng đế cũng chẳng ai là người tốt, dù Chu Nguyên Chương hay Trương Sĩ Thành cũng như thế. Nhưng đại ca kể câu chuyện này có ý gì? Tại sao y lại hận Thái Tổ hoàng đế đến thế?”
Trương Đan Phong không để nàng nói nhiều, lại nhẹ nhàng xoa bóp cho nàng, Vân Lối đã vận công nửa ngày, nguyên khí vẫn chưa hồi phục, nàng cũng không suy nghĩ nhiều, một hồi sau thì chìm vào giấc ngủ.
Sáng sớm hôm sau tỉnh dậy, chỉ thấy Trương Đan Phong ngồi bên cạnh, hai mắt hơi sưng, tựa như đêm qua đã từng khóc, Vân Lối rất cảm kích, lại thấy rất đáng thương, nhủ rằng: “Đợi sau khi y thổ lộ thân thế, mình chắc chắn phải an ủi cho y”.
Trương Đan Phong thấy nàng tỉnh dậy, mỉm cười hỏi: “Đã khỏe hơn chưa?”
Vân Lối đáp: “Đã khỏe nhiều. Đêm qua đại ca không ngủ ư?”
Trương Đan Phong cười rằng: “Ta nhiều đêm không ngủ hay ngủ nhiều đêm đều là chuyện thường, đệ không cần phải lo, hãy đưa chân ra”.
Vân Lối đưa chân trái ra, Trương Đan Phong nói: “Không, là chân phải”.
Rồi cởi giày của nàng, dùng ngón tay đè vào gót chân phải của nàng, men theo mặt trong của gót chân, xoa một vòng tròn trong bàn chân, đó là nơi kinh mạch thái dương của phần chân đi qua, Vân Lối được chàng xoa bóp một hồi, có cảm giác ngứa ngáy, một hồi sau thì thấy thoải mái trong người. Trương Đan Phong nói: “Được rồi, ngày mai huynh sẽ đánh thông ba kinh mạch dương cho đệ, đệ sẽ khỏe hẳn, hôm nay đệ hãy siêng năng vận công”. Thế rồi ngồi xuống đất, lấy ra một bức họa. Chỉ thấy chàng cầm cây đuốc, nhìn kỹ bức họa, xem một lúc lâu tựa như đang tìm thứ gì trong bức họa. Vân Lối vận công cả nửa ngày, cũng thấy chàng xem cả nửa ngày, đột nhiên nghe bên ngoài có bước chân, Trương Đan Phong thở dài, mới cuộn bức họa lại nói: “Tại sao có người cứ thích đến nơi này?” Rồi lắc đầu tỏ ý bảo Vân Lối đừng lên tiếng.
Bên ngoài cửa không chỉ có một người, lúc này có tiếng đào đất, một hồi sau thì chợt nghe ầm một tiếng, cánh cửa đá bị đẩy bật ra, tuy đất ở phía dưới đã bị đào, nhưng người ở ngoài cửa quả là có khí lực không nhỏ.
Bên ngoài cửa có cả thảy năm người, mỗi người cầm một ngọn đuốc nối đuôi đi vào, Vân Lối vừa nhìn thì thấy đó là bốn kẻ đã châu báu, hai kẻ phía trước, hai kẻ ở phía sau, Trang chủ của Hắc Thạch trang Oanh Thiên Lôi Thạch Anh thì đi ở giữa. Vân Lối rất lo lắng, nhủ bụng: “Bốn kẻ mua châu báu chắc chắn biến mật thất này, nếu Thạch Anh gọi mình trở về thì phải làm thế nào?”
Chỉ nghe người đi phía trước nói: “Hai người bọn họ chắc chắn ở đây, Thạch trang chủ, ông phải làm chủ cho chúng tôi”.
Té ra Hắc Bạch Ma Ha tức giận bỏ về Tây Tạng, đã đuổi bốn kẻ thu mua này, kết thúc công việc mua bán ở miền nam, bọn họ đã thua tất cả bảo tàng trong cổ mộ, đã không còn vốn để tiếp tục mua bán nữa. Bốn kẻ này không cam lòng, trên đường lại gặp Thạch Anh đang đuổi theo con gái, liền nhờ Thạch Anh ra mặt cho họ, họ cứ tưởng rằng Trương Đan Phong đêm ấy đến cướp bảo vật ở nhà Thạch Anh, bản lĩnh của Thạch Anh tuy không qua nổi Hắc Bạch Ma Ha, nhưng hảo hán lục lâm ở miền Sơn Tây, Thiểm Tây đều nghe lệnh ông ta, chỉ cần chọc giận Thạch Anh, truyền lục lâm lệnh tiễn thì Trương Đan Phong dù có giỏi cách mấy, mọc cánh cũng khó bay.
Nào ngờ Thạch Anh đang muốn gặp mặt Trương Đan Phong, huống chi cần phải gặp Trương Đan Phong mới biết tung tích của Vân Lối, thế là giả vờ chấp nhận, bảo bốn người họ dẫn đến đây.
Bốn người đi một vòng, kêu lớn: “Tiểu tử kia, hãy mau chui ra đây!”
Thạch Anh vội vàng vái dài lên không trung rồi nói: “Trương công tử, xin mời hãy bước ra, lão phu đang mong muốn gặp mặt, có lão phu ở đây, lão phu sẽ giúp hai bên hóa giải hiềm khích!”
Bốn kẻ kia thấy ông ta cung kính như thế thì đều ngạc nhiên, kẻ đi đầu kề tai Thạch Anh nói nhỏ: “Thạch trang chủ, nếu cả hai người bọn họ đều không bị thương, có thể song kiếm hợp bích, năm người chúng ta đương nhiên cũng chẳng phải là đối thủ của họ. Nhưng lệnh tế đã bị Hắc Ma Ha đánh bị thương, một mình y không phải là đối thủ của chúng ta. Thạch lão anh hùng, chúng tôi đảm bảo có thể trị thương cho lệnh tế, chỉ cần tên tiểu tử ấy trả châu báu lại”.
Bốn kẻ này sợ Thạch Anh trách cứ, ban đầu không dám nói chuyện Vân Lối đã bị thương, lúc này thấy Thạch Anh như thế, tưởng rằng ông ta sợ đối thủ quá mạnh nên không dám chống đối với Trương Đan Phong, cho nên buộc phải nói ra sự thực.
Thạch Anh nghe nói Vân Lối bị thương, trong lòng lo lắng, kêu lên: “Trương công tử, mời hãy ra đây, ngày trước tiểu tế vô tình mạo phạm, mong ngài đừng trách”.
Trương Đan Phong vẫn không lên tiếng, bốn kẻ kia lại nói: “Được, ngươi không ra, bọn chúng ta sẽ vào xem thử!” Thế rồi lấy thanh đá dưới đất, chặn vào chỗ lõm ở ngoài mật thất, dùng lực xoay nhẹ, Trương Đan Phong không đợi cửa mở, căn dặn Vân Lối hai câu, đột nhiên lấy “tự lai thạch”, đẩy cửa phóng vọt người ra, tiện tay đóng cánh cửa mật thất lại.
Bốn tên khách thương đang dùng lực xoay phiến đá, đột nhiên mất đà đều ngã ngửa ra sau, khi đứng dậy thì thây Trương Đan Phong đang nhẹ nhàng phe phẩy chiếc quạt, cả bốn người vội vàng chạy ra bốn góc, ý đồ muốn bao vậy Trương Đan Phong lại, chỉ đợi chàng và Thạch Anh động thủ, sẽ lập tức xông lên.
Dưới ánh đuốc, chỉ thấy Trương Đan Phong nhẹ nhàng tự nhiên, phe phẩy quạt rồi mỉm cười: “Thạch trang chủ, ân tình mấy mươi năm, tôi đã thay tổ tiên bái tạ”.
Thạch Anh đột nhiên bật khóc, quỳ sụp xuống đất, dập đầu bốn cái rồi nói: “Thiếu, thiếu...” Trương Đan Phong xua tay, tỏ ý bảo ông ta đừng nói ra thân phận của mình. Đợi ông ta dập đầu xong thì lập tức đỡ ông ta dậy, cúi người trả lại một lễ, thần thái tuy cung kính, nhưng cũng không quỳ xuống trả lễ, rõ ràng tựa như người bề trên đối với bề dưới.
Hành động ấy của Oanh Thiên Lôi Thạch Anh khiến cho mọi người đều ngạc nhiên. Vân Lối trong mật thất cảm thấy an ủi, nhủ thầm: “Đại ca quả nhiên chẳng phải người xấu, xem ra Thạch lão anh hùng đối với ông ta rất tôn kính! Nhưng đại ca hình như đã quá vô lễ, tuổi còn trẻ mà lại để Thạch lão anh hùng quỳ xuống bái lạy như thế?”
Bốn khách thương càng lúc càng kinh hãi, không ngờ kẻ mình nhờ vả lại cùng một giuộc với kẻ địch, một Trương Đan Phong đã đủ khổ, huống chi nay lại có Thạch Anh nữa.
Chỉ thấy Trương Đan Phong mỉm cười, nói: “Thạch trang chủ ở đây, các người hãy hỏi ông ta rằng ta có phải là kẻ tham tài cướp của hay không?”
Bốn khách thương vội vàng vái dài luôn miệng nói: “Không dám, không dám!”
Trương Đan Phong lại cười ha hả, nói: “Các người hãy chờ đợi, chút tài sản của Hắc Bạch Ma Ha, ta không cần”. Thế rồi đẩy nhẹ cánh cửa một mình lách vào bên trong, căn mật thất rất rộng, Vân Lối ngồi ở góc tường, người ngoài không nhìn thấy nàng.
Bốn người kia và Thạch Anh đều không dám thò đầu vào nhìn, chỉ thấy Trương Đan Phong tay cầm chổi, quét đống châu báu tựa như quét rác ra ngoài, ngửa đầu cười lớn nói: “Người đời cứ thích báu vật, còn ta chỉ mến tài. Nào, nào, các người hãy xem có còn thiếu thứ gì không?”
Bốn người ấy vui mừng ra mặt, bỏ từng món châu báu vào trong túi mang theo, Trương Đan Phong quát: “Cút đi, bảo với Hắc Bạch Ma Ha biết rằng bọn họ phải làm ăn cho đàng hoàng tử tế, không được mua bán bằng cách ép buộc người ta”.
Bốn người ấy luôn miệng kêu: “Vâng, vâng!” Rồi lại ra vẻ khúm núm: “Lệnh hữu bị thương thế nào? Chúng tôi có thể trị được”.
Trương Đan Phong nói: “Chỉ các người có thể trị được hay sao? Ta đã trị cho y khỏe từ sớm, đừng nhiều lời, cút mau!”
Bốn người ấy lại luôn miệng kêu: “Vâng, vâng!”, rồi cúi người bước ra ngoài cửa.
Trương Đan Phong cười lớn nói: “Quét sạch những thứ phế vật này, trong lòng rất sảng khoái! Của cải bất nghĩa không nên dùng, Thạch lão anh hùng, ông nói có phải không?”
Thạch Anh cúi người nói: “Thiếu chủ dạy phải”.
Trương Đan Phong nói: “Thôi được. Ông đã gặp ta, cũng nên trở ề rồi!”
Thạch Anh nói: “Cầu xin thiếu chủ thả tiểu tế trở về”.
Trương Đan Phong nói: “Chuyện nhân duyên của con gái ông cứ giao cho ta và Vân Lối, ông hãy yên tâm, chắc chắn sẽ cho ông một nữ tế tốt, ta không muốn ông ở đây, ông hãy về cho mau!”
Khi nói đến chữ “về”, thì tựa như hạ lệnh.
Thạch Anh cúi người nói: “Vậy tiểu nhân trở về, thiếu chủ còn có gì căn dặn?”
Vân Lối kinh ngạc, nghĩ bụng: “Thạch Anh tốt xấu gì cũng là Minh chủ võ lâm của hai tỉnh Tấn, Thiểm, võ công chẳng kém Trương Đan Phong, tại sao lại cung kính, sợ sệt chàng như thế? Ông ta toàn gọi Trương Đan Phong là thiếu chủ, chả lẽ ông ta từng là hạ nhân của đại ca?”
Chỉ nghe Trương Đan Phong nói: “Không còn gì nữa!”
Thạch Anh nói: “Nếu thiếu chủ cần, tiểu nhân sẽ truyền Lục Lâm tiễn, bằng hữu hắc đạo hai tỉnh, tốt xấu gì cũng phải nể mặt”.
Trương Đan Phong cười ha hả nói: “Chuyện đời đều bất ngờ, e rằng có chuyện không ai giúp được ta!”
Thạch Anh biến sắc, tỏ vẻ ngượng nghịu: “Tiểu nhân tuy vô dụng, nhưng chỉ cần thiếu chủ căn dặn thì dẫu dầu sôi lửa bỏng, tiểu nhân cũng không từ nan”.
Trương Đan Phong vẫy tay buồn bã nói: “Tâm ý của ông ta lãnh nhận, ông hãy đi thôi!”
Thạch Anh lại thi lễ, xoay người bước ra ngoài.
Vân Lối rất nôn nao trong lòng, đợi Trương Đan Phong bước vào trong mật thất thì quay đầu hỏi: “Đại ca, khi Thạch Anh hỏi ông ta có gì căn dặn, sao đại ca không thừa cơ nhờ ông ta một chuyện?”
Trương Đan Phong nói: “Chuyện gì?”
Vân Lối nói lúng búng: “Đêm qua thiếu niên đến cùng Thạch Thúy Phượng, chẳng phải cũng nhắc đến Lục Lâm tiễn hay sao?”
Trương Đan Phong cả cười nói: “Có phải đệ nói Châu thiếu trại chủ ở bên ngoài Nhạn Môn quan phải không? Cha con họ coi như cũng là những người có tiếng tăm. Nếu y bảo Thạch Anh truyền Lục Lâm tiễn, gây bất lợi cho ta, chuyện này ta đã sớm đoán trúng. Ta xưa nay không quen cầu xin người khác, vả lại nếu nhờ vả người khác, ta cũng chẳng thấy vinh quang gì. Nói thực, nếu ta sợ bọn họ truyền Lục Lâm tiễn, lúc đó ta sẽ xông ra, có thể kết liễu nghĩa huynh của đệ, nhưng ta cũng muốn họ thử một lần. Ồ, nếu Thạch Thúy Phượng gả cho Châu Sơn Dân thì thật tốt, chả trách gì trong đêm động phòng, đệ cứ nhắc đến người nghĩa huynh này”.
Lời nói của Trương Đan Phong rất tự phụ mà lại khoáng đạt. Vân Lối nhủ thầm: “Té ra chàng đã biết thân phận của Châu Sơn Dân, khi Châu Sơn Dân mắng chàng, chàng vẫn có thể nén được”. Trong lòng thầm lo lắng, nhưng lại không biết giữa chàng và Châu Kiện có xảy ra hiểu lầm gì. Trương Đan Phong liếc nhìn nàng rồi mỉm cười: “Khí sắc của đệ đã tốt hơn trước, hãy chú ý vận hành nội công. Khi ăn cơm tối, ta lại sẽ kể cho đệ nghe câu chuyện thứ hai”.
Vân Lối có căn cơ nội công, sau khi ăn cơm xong thì bệnh đã bớt đi bảy tám phần, có thể ăn cơm khô. Trương Đan Phong vừa chăm nàng dùng cơm, vừa nói: “Đã rất lâu rồi, có một đất nước, ở đất nước ấy có một trung thần, họ tên như thế nào thì cũng không cần nhắc tới, dù sao triều đại nào cũng đều có trung thần như thế, có thể họ Trương, có thể họ Lý, cũng có thể họ Phương, cũng có thể họ Vân...
Ngoài ra còn có một đất nước láng giềng, hai nước này thường đánh nhau, có lúc nước này xâm nhập vào nước kia, cũng có lúc nước kia lại xâm nhập vào nước này, nhưng dù nước nào thắng, kẻ chịu khổ vẫn là trăm họ.
Khi câu chuyện xảy ra, là lúc đại trung thần của nước kia đắc thế, muốn nước láng giềng phải hàng nắm tiến cống.
Nước kia lại không phục, liền lễ hiền hạ sĩ, chiêu nạp nhân tài, dần dần thế nước đã mạnh lên. Đại trung thần của nước kia thấy không xong, liền phái người đi sứ, đi sứ sang một quốc gia, một mặt là phải dùng thủ đoạn lôi kéo, một mặt là để tìm hiểu hư thực. Không ngờ đại trung thần ấy đã đi đến hai mươi năm. Này, tiểu huynh đệ, đệ sao thế? đệ có biết y tại sao đi một lần đến hai mươi năm không? Té ra là... Này, Lối đệ, Lối đệ!”
Trương Đan Phong đang nói thì thấy sắc mặt của Vân Lối dần dần thay đổi, khi nói đến hai mươi năm, chỉ thấy sắc mặt của Vân Lối tái nhợt, lảo đảo tựa như muốn ngã xuống.
Trương Đan Phong kinh hãi, vội vàng đưa tay đỡ nàng, chỉ nghe Vân Lối kể tiếp câu chuyện rằng: “Huynh hãy nói ông ta tại sao ra đi đến hai mươi năm? Té ra là ông ta bị người ta giữ lại chăn ngựa ở nơi băng thiên tuyết địa! Đại ca, đừng nói nữa, đệ không nghe câu chuyện này!”
Trong chốc lát sắc mặt của Trương Đan Phong trắng bệt, đôi chân mày nhíu lại, tựa như đã suy nghĩ một chuyện gì rất lâu nay đột nhiên vỡ lẽ ra, như bừng tỉnh từ giấc ác mộng, chàng nhìn Vân Lối thắm thiết rồi nói: “Tiểu huynh đệ, té ra đệ cũng biết câu chuyện này! Vậy đêm mai ta sẽ kể câu chuyện thứ ba, đệ sẽ hiểu ra. Tiểu huynh đệ hãy định thần, giờ đây không nên hỏi gì cả, không nên nói gì cả, đệ cần phải được đánh thông thêm ba mạch âm, không nên suy nghĩ phân thần, tiểu huynh đệ, ta sẽ giúp đệ vận công”.
Thế rồi hai chưởng đặt vào lòng bàn tay của Vân Lối, nàng cảm thấy lòng bàn tay mình nóng như lửa đốt, ánh mắt lờ đờ, Trương Đan Phong nói: “Tiểu huynh đệ, trong lòng đệ đang buồn, tạm thời đừng tập công phu thổ nạp nữa”. Thế rồi đi qua đi lại trong phòng, nay quá trình trị liệu thương thế cho Vân Lối đã đến lúc quan trọng, nếu không làm cho nàng bình tĩnh thì bệnh tình sẽ nghiêm trọng.
Vân Lối thấy chàng lo lắng đi lại trong phòng, biết chàng đang lo cho mình, tuy trong lòng muốn hỏi rất nhiều nhưng cố gắng nén lại, đưa tay vuốt tóc, mỉm cười nói: “Đại ca, huynh hãy ngủ sớm đi, đệ sẽ kiên nhẫn chờ đợi câu chuyện vào ngày mai của huynh”.
Thế là tâm trạng lúc này đã bình tĩnh hơn nhiều.
Trương Đan Phong mỉm cười, nhặt một cây đàn hồ trên chiếc ghế ngọc, chỉnh lại dây đàn, vừa đàn vừa cất giọng ca một bài từ tả cảnh Hàn Châu của thư nhân đời Tống Liễu Vĩnh, Vân Lối dần dần quên cả âu sầu. Chỉ thấy Trương Đan Phong đặt cây đàn xuống, bước tới gần, vuốt tóc nàng, nhẹ nhàng nói: “Hãy ngủ đi, hãy ngủ đi!”
Vân Lối tựa như bị thôi miên, quả nhiên chìm vào giấc ngủ.
Đến ngày hôm sau tỉnh dậy, vì ngủ ngon cho nên tinh thần rất xung mãn, Trương Đan Phong cười rằng: “Tiểu huynh đệ, hôm nay đệ hãy ngồi tĩnh tọa một ngày thì sẽ khỏe hẳn, công lực không những không giảm mà còn tăng hơn trước”. Cứ mỗi canh giờ chàng lại giúp nàng hành công một lần, đến giờ ngọ thì đã đả thông ba mạch thái âm, thiếu âm, huyết âm của Vân Lối. Sắc mặt của Vân Lối dần dần hồng hào, Trương Đan Phong mừng rỡ nói: “Tiểu huynh đệ, đệ tiến bộ rất nhiều, thêm hai canh giờ nữa thì sẽ hoàn toàn khỏe”.
Vân Lối ngồi tĩnh tọa vận công, Trương Đan Phong ngồi một mình xem bức họa, nửa canh giờ trôi qua, chợt nghe bên ngoài có tiếng người, Trương Đan Phong nhíu mày nói: “Sao lại có người đến quấy nhiễu nữa!” Nói chưa dứt lời, chỉ nghe con Chiếu dạ sư tử mã hí dài, tiếp theo là ầm một tiếng, cánh cửa đá bật ra, cát bụi tung bay, một kỵ sĩ mặc áo đen cỡi con ngựa trắng phóng vào, thanh thế rất kinh người!
Tuy đất ở trước mộ đêm qua đã bị đào, nhưng sức một người có thể phá cửa mà vào, võ công của người này quả thật rất kinh hãi. Điều đáng kinh ngạc hơn là, con Chiếu dạ sư tử mã chỉ nghe lời chủ nhân, thế nhưng giờ đây đã bị người ta chế phục. Trong mật thất, hai người Trương, Vân đều biến sắc. Chỉ thấy thớt ngựa trắng hí dài, chạy vào thông đạo, phóng lên đại sảnh, kỵ sĩ mặc áo đen nhảy xuống ngựa, lớn giọng nói: “Đan Phong, Đan Phong!” Trong tấm kính gắn trên bức tường, kỵ sĩ mặc áo đen chẳng phải ai khác, đó chính là đệ nhất dũng tướng của nước Ngõa Thích, Đàm Đài Diệt Minh. Vân Lối kinh hãi, kêu lên một tiếng, toan đứng dậy, đột nhiên cảm thấy người cứng đờ, té ra Trương Đan Phong đã ghé bên tai nói: “Tiểu huynh đệ, đừng nên làm càn, hãy ngồi vận công, ta đi ra xong sẽ vào, lúc đó ta sẽ kể cho đệ nghe câu chuyện thứ ba”.
Bên ngoài Đàm Đài Diệt Minh lại kêu: “Đan Phong, ngươi và ai ở trong đó?” Rồi đốt ngọn đuốc lên, Vân Lối tuy không thể lên tiếng, nhưng vẫn có thể nhìn thấy rõ ràng, con ngựa trắng cọ vào người Đàm Đài Diệt Minh, tựa như rất thân quen đối với y.
Trương Đan Phong đẩy cửa, nhảy vọt ra. Chỉ nghe Đàm Đài Diệt Minh nói: “Đan Phong, tướng gia...” Trương Đan Phong suỵt một tiếng, Đàm Đài Diệt Minh đổi giọng nói: “Cha của ngươi bảo ngươi quay về!”
Trương Đan Phong nói: “Đàm Đài tướng quân, phiền ông quay về báo lại với người, tôi đã rời khỏi Mông Cổ thì mãi mãi sẽ là người Trung thổ, không quay về nữa!”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Ngươi không suy nghĩ cho cha mình, cũng phải nghĩ cho bản thân. Ngươi một mình vào Trung thổ, hào kiệt Trung Nguyên, ai có thể biết được lòng ngươi, ai có thể tha thứ cho ngươi?”
Trương Đan Phong trầm giọng nói: “Dù tôi bị phanh thây ra muôn mảnh, cũng phải chết ở cố thổ, còn hơn chết ở quê người. Phiền ông hãy quay về bảo với cha ta rằng người hãy tự bảo trọng”.
Vân Lối kinh hãi, đột nhiên chợt nghĩ: “Nếu y là chiến sĩ người Hán ở đất Mông Cổ, Đàm Đài Diệt Minh sao lại thân mật đối với y như thế? Tướng gia gia, chẳng lẽ y là...” Chợt nghe Đàm Đài Diệt Minh quát lớn một tiếng, Vân Lối bị cắt đứt luồng suy nghĩ, chỉ thấy Đàm Đài Diệt Minh đánh ra một quyền, nói: “Ngươi có chịu theo ta trở về hay không?”
Trương Đan Phong né tránh hai quyền, buồn bã nói: “Đàm Đài tướng quân, ông cớ gì phải ép buộc tôi như thế!”
Đàm Đài Diệt Minh lại tung ra một quyền nữa, Trương Đan Phong giở cánh tay lên gạt ra, Đàm Đài Diệt Minh ra tay nhanh như gió, hóa quyền thành chưởng, quét vào cổ họng của chàng, lại là một chiêu sát thủ!
Lúc này Vân Lối lòng rối như tơ vò, vừa kinh hãi vừa mừng rỡ vừa nghi ngờ, kinh hãi là Đàm Đài Diệt Minh dũng mãnh tựa như sư tử, còn lợi hại hơn cả Hắc Bạch Ma Ha; mừng rỡ là vì Trương Đan Phong ra tay chống cự, rõ ràng không phải là người cùng phe với Đàm Đài Diệt Minh; nghi ngờ là vì hai chữ tướng gia tựa như mũi dao nhọn đâm vào tim nàng, khiến cho nàng càng nghĩ ngợi hơn về thân phận của Trương Đan Phong.
Chỉ thấy Trương Đan Phong cố gắng chống đỡ, bóng người ngang dọc, quyền phong vù vù chấn động cả căn đại sảnh, Đàm Đài Diệt Minh bước đi lanh lẹ tựa như khỉ vượn, ra quyền mạnh như mãnh hổ, lực hùng thế kình, biến hóa khôn lường, từng bước dồn Trương Đan Phong thối lui. Vân Lối tiếc không thể nào nhảy vọt lên, giúp chàng một tay, thế là vội vàng dẫn khí lên, hy vọng có thể tựa giải huyệt đạo. Đang lúc lo lắng, chợt thấy Đàm Đài Diệt Minh vung tay tóm một cái, quát rằng: “Đi!” Thế là nhấc bổng Trương Đan Phong lên ném lên không trung tựa như ném một trái cầu!
Vân Lối hoảng hồn đến nỗi nhắm tịt hai mắt, chợt nghe ồ một tiếng, mở mắt ra thì thấy Trương Đan Phong đã đứng ở dưới đất, tựa như chẳng hề tổn thương. Té ra cú ném của Đàm Đài Diệt Minh xem ra rất hung dữ, nhưng thực sự đã âm thầm thi triển xảo kình, ném Trương Đan Phong lên không trung, rồi lộn người lên sau đó nhẹ nhàng hạ xuống đất. Điều này không những Vân Lối chẳng đoán ra mà cả Trương Đan Phong cũng cảm thấy bất ngờ.
Chỉ thấy Đàm Đài Diệt Minh tiến tới hai bước, mỉm cười nói: “Đan Phong, không uổng sư phụ của ngươi đã khổ công dạy dỗ, võ công của ngươi quả nhiên có chỗ độc đáo, tiếp được năm mươi chiêu của ta, có thể xông pha trên giang hồ. Ngươi hãy tự lo cho mình. Ở trước mặt cha ngươi, đã có ta lên tiếng, ngươi không cần phải lo lắng”.
Lúc này Trương Đan Phong mới biết lòng tốt của Đàm Đài Diệt Minh đối với mình, ban nãy ra tay chỉ là thủ chiêu. Trương Đan Phong vái dài rồi nói: “Đàm Đài tướng quân, tất cả đều nhờ vào ông”.
Đàm Đài Diệt Minh chợt hỏi: “Trong phòng còn có ai nữa?”
Trương Đan Phong nói: “Là một người bằng hữu, y không muốn gặp ông, mong ôn hãy nể mặt tôi, đừng kinh động đến y”.
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Đã không muốn gặp thì không miễn cưỡng, ý của Thái sư, tháng mườị...” Trương Đan Phong lại suỵt một tiếng, Đàm Đài Diệt Minh lập tức lảng sang chuyện khác: “Chúng ta sau này không biết có gặp lại hay không, ngươi hãy cùng ta ra ngoài nói chuyện một lát”.
Thế rồi bỏ Trương Đan Phong lên mình ngựa, phóng vọt ra ngoài cửa.
Vân Lối thở phào một hơi, tựa như đã bỏ được tảng đá nặng ngàn cân trong lòng, nỗi lo lắng chợt tan biến. Cao thủ điểm huyệt, mỗi người đều có thủ pháp độc môn, vốn không dễ dàng tự giải khai, Vân Lối thử dùng tâm pháp của bổn môn, vận khí ba vòng thì chợt có hiệu quả, đó là điều khiến cho nàng bất ngờ.
Vân Lối đứng bật dậy, thầm nhủ: “Mình phải tìm hiểu bí mật thân thế của y”. Thế rồi đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy thanh bảo kiếm của Trương Đan Phong vẫn còn để trong phòng, thế là nhặt lên nhìn, chỉ thấy thanh kiếm có khắc hai chữ Bạch Vân. Thanh Minh và Bạch Vân là kiếm của Huyền Cơ Dật Sĩ, một thanh truyền cho Tạ Thiên Hoa, một thanh truyền cho Diệp Doanh Doanh, Vân Lối vừa nhìn thấy thì tim đánh thình một tiếng nhủ thầm: “Thanh kiếm này tại sao y có? Chả lẽ y là đồ đệ của tam sư bá?” Khi nhìn kỹ lại, chỉ thấy trên tua kiếm có một mảnh ngọc khắc hình rồng, làm trang sức. Vân Lối nhìn kỹ, nàng thấy mảnh ngọc này có khắc bốn chữ “Hữu thừa tướng phủ”, ngoài ra còn có một dòng chữ ghi rõ lai lịch của mảnh ngọc này, dòng chữ ấy chính là: Phong nhi ra đời, quốc chủ ban tặng.
Vân Lối tim đập chân rung.
Keng môt tiếng, thanh Bạch Vân kiếm rơi xuống đất, lúc này nàng đã hiểu hết tất cả, Trương Đan Phong chính là con trai của địa gian tặc Trương Tôn Châu, là con trai của kẻ thù!
Vân Lối chỉ cảm thấy hoang mang, lúc này tựa như cả thế giới không còn tồn tại, trong đầu trống rỗng như chẳng có gì, nàng vô tình đưa tay chạm ngực, đụng phải một thứ, đó chính là bức huyết thư bằng da dê mà gia gia đã để lại, mười năm nay lúc nào Vân Lối cũng mang theo bên mình. Bức huyết thư viết rằng: “Hễ là hậu nhân của nhà họ Vân, gặp phải hậu nhân của Trương Tôn Châu, bất luận là nam nữ già trẻ đều phải giết chết!” Tuy đã qua mười năm, tuy cách một lớp áo nhưng Vân Lối tựa như có thể ngửi thấy mùi máu tanh của tấm da dê!
Vân Lối cảm thấy một cơn lạnh dâng lên trong lòng, điều này thật đáng sợ. Bức da dê tựa như một mảnh băng bao bọc lấy người nàng, tâm hồn của nàng tựa như một mệnh lệnh không thể kháng cự buộc nàng phải chính tay giết chết Trương Đan Phong!
Bên ngoài cửa tiếng ngựa hí dài, Trương Đan Phong lại trở về. Vân Lối định thần, cắn răng cúi đầu ngồi, tựa như đang cố gắng vận công, nàng không muốn Trương Đan Phong thấy sắc mặt trắng bệt của mình. Trương Đan Phong nhẹ nhàng đẩy cửa bước vào, cười rằng, cười rằng: “Ta sẽ tiếp câu chuyện thứ ba này. Tiểu huynh đệ, huynh đệ sao thế?”
Rồi bước tới trước tấm gương đồng, chỉnh sửa lại mái tóc rối bời. Từ tấm gương đồng, chàng đột nhiên thấy Vân Lối trợn tròn hai mắt, cầm kiếm đâm thẳng tới chàng!
Chỉ nghe keng một tiếng bàn tay của Vân Lối run run, kiếm lướt xéo qua cổ chàng, tấm kiếng vỡ toang, Trương Đan Phong vội vàng quay đầu lại: “Tiểu huynh đệ, tiểu huynh đệ, đệ hãy nghe ta nóị...” Vân Lối nhắm mắt, liên tục đâm tới ba nhát kiếm!
Trương Đan Phong phóng người vọt qua chiếc bàn ngọc, chỉ nghe Vân Lối khóc rằng: “Ta đã hoàn toàn hiểu, không cần kể câu chuyện thứ ba nữa!” Thế rồi phóng người vọt lên, đâm soạt ra thêm một kiếm, Trương Đan Phong thở dài, nói: “Đệ có phải là cháu gái của Vân Tĩnh hay không?”
Vân Lối kêu lên: “Ngươi là con trai của kẻ thù nhà ta!” Mũi kiếm đâm tới trước ngực, Trương Đan Phong ưỡn ngực nói: “Tiểu huynh đệ, đệ hãy đâm đi! Ta không cần đệ tha thứ!” Soạt một tiếng, mũi kiếm lướt sang bên phải, tay phải của Trương Đan Phong rách một đường, chỉ nghe Trương Đan Phong nói: “Tiểu huynh đệ, sau khi đệ giết ta, không nên nổi giận, đệ phải ngồi tịnh tọa một canh giờ, trên bàn ngọc có một bình bạc nhỏ, trong bình có thuốc cho đệ, có thể giúp đệ tăng nguyên khí! Được, tiểu huynh đệ, ta không cần tha thứ, đệ hãy cứ đâm tới!” Vân Lối nước mắt dâng trào, tay run tim nhói đau, cây Thanh Minh bảo kiếm suýt nữa rơi xuống đất, nàng đột nhiên cảm thấy bức da dệ ở trước ngực tựa như một quả núi đè vào tim nàng, buộc nàng phải báo thù!
Vân Lối run run mũi kiếm, kêu lên: “Hãy nhặt kiếm lên, ta không giết một người chẳng có tấc sắt trong tay!”
Nàng biết võ công của Trương Đan Phong cao cường hơn mình, nều tỉ thí thì kẻ chết sẽ là bản thân mình chứ không phải là Trương Đan Phong. Nhưng không biết thế nào nàng lại buộc Trương Đan Phong tỉ kiếm, tựa như nếu sau một trận kịch chiến. Bản thân chết dưới kiếm của Trương Đan Phong, coi như không có lỗi với gia gia.
Trương Đan Phong đứng yên, vẻ mặt như cười như mếu, khiến Vân Lối không dám nhìn thẳng. Vân Lối nghiến răng, nhặt thanh Bạch Vân kiếm lên, rồi ném qua cho chàng, miệng nói: “Hai nhà chúng ta có mối thù sâu không đội trời chung, không phải ngươi chết thì là ta vong, hãy mau rút kiếm ra”.
Trương Đan Phong nhận lấy thanh kiếm, buồn bã nói: “Tiẻu huynh đệ, ta thề suốt đời này không động thủ với đệ, đệ muốn giết thì cứ giết, nếu đệ không ra tay, ta đi đây!”
Vân Lối quét một luồng kiếm quang trước mặt Trương Đan Phong, nhưng vẫn không chém vào, Trương Đan Phong thở dài, nhảy lên con ngựa trắng rồi nói: “Tiểu huynh đệ, từ nay đệ hãy bảo trọng, ta đi đây!” Bên ngoài cửa tiếng ngựa hí dài, một lát sau tất cả đều rơi vào tĩnh lặng. Vân Lối đứng trân người ra ở đấy, cây trường kiếm rơi xuống đất, trước mắt tối sầm.
Đúng là:
Là yêu là thù cũng khó biết, chỉ khiến ngọc nữ đau lòng thôi.
Muốn biết chuyện sau đó thế nào, mời hãy xem hồi sau phân giải.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.