Chương 29: Nhìn cảnh nhớ người quê xa gặp tuấn mã - Thần cơ diệu toán dụ địch vào vũng lầy
Lương Vũ Sinh
04/10/2013
Gió bấc lạnh căm căm, Trương Đan Phong và Vân Lối đứng đối diện nhau lặng lẽ đau buồn. Đàm Đài Diệt Minh lắc đầu thở dài, rồi rỉ tai Trương Đan Phong: “Công tử có thể bỏ cả non sông gấm vóc chín vạn dặm, chả lẽ không thể xa rời được một người con gái?”
Trương Đan Phong giật mình, nói: “Sao?”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Chúa công bảo công tử dựng lại Đại Châu, công tử vì không muốn để cho non sông gấm vóc Trung Hoa rơi vào tay Di địch, đã trải qua rất nhiều gian nan, dâng hiến bảo tàng, cứu thiên hạ đại Minh. Nghiệp đế vương công tử còn có thể bỏ được, còn có ân oán gì mà không thể buông xuôi?”
Trương Đan Phong sững người ra, nói: “Ta coi nghiệp đế vương như phấn thổ...”.
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Giang sơn tổ quốc đang đợi công tử trở về”.
Trương Đan Phong biến sắc, Đàm Đài Diệt Minh nói tuy không lớn, nhưng trong lòng chàng như có tiếng sấm nổ, trong khoảnh khắc, chàng nhớ lại mình từ Mạc Bắc đến miền Giang Nam, từ miền Giang Nam trở về Mạc Bắc, vượt qua trăm sông nghìn suối, trải qua muôn vàn khó khăn là vì cái gì? Phải chăng là vì tráng chí của mình, vì bảo vệ giang sơn gấm vóc Trung Hoa, vì muốn thay nước Trung Hoa và Ngõa Thích sống hòa bình bên nhau. Nay lý tưởng này đã thực hiện, nhưng mình thì lại rầu rĩ như thế! Trương Đan Phong vốn rất thông minh, là người hiểu biết thị phi, chàng nghĩ như thế chợt cảm thấy máu nóng nhộn nhạo, thần trì đã rất tỉnh táo, thế là nghiến răng nói: “Đàm Đài tướng quân, đa tạ ông đã đến đón tôi, chúng ta đi thôi”.
Rồi chàng quay sang chào sư phụ, sư thúc bá, khi ánh mắt lướt qua Vân Lối thì vội vàng xoay người đi. Tạ Thiên Hoa và Diệp Doanh Doanh đứng ở phía sau chỉ thở dài. Vân Lối buồn bã ngồi dưới đất, nước mắt chẳng thể nào rơi được nữa. May mà Trương Đan Phong không dám quay đầu, nếu chàng quay đầu nhìn nàng, hai người e rằng sẽ ôm nhau mà khóc, không ai nỡ ra đi nữa.
Trương Đan Phong và Đàm Đài Diệt Minh bước xuống núi, mặt trời đã lặn, muôn vàn vì sao lấp lánh trên bầu trời, hai người đã tá túc trong nhà thợ săn dưới chân núi một đêm. Sáng sớm hôm sau, Trương Đan Phong tìm được con Chiếu dạ sư tử mã của chàng, nó vẫn ở dưới chân núi chờ chủ nhân, không bỏ đi, vừa thấy chủ nhân thì đã hí lên vui sướng. Trương Đan Phong vỗ cổ ngựa, nhớ lại lúc cùng Vân Lối rong ruổi trên miền thảo nguyên, lại buồn bã rơi nước mắt.
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Có ngựa tốt, không cần mười ngày thì chúng ta cũng về được với kinh thành”.
Trương Đan Phong nói: “Tình hình kinh thành Ngõa Thích gần đây thế nào?”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Bề ngoài tuy tĩnh lặng nhưng giông tố sắp nổi lên”.
Trương Đan Phong nói: “Sao?”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Tri viện A Thích liên lạc các bộ tộc sắp dấy binh khởi nghĩa. Dã Tiên thì nôn nóng muốn cầu hòa với Trung Hoa, ngày tôi rời kinh thành, nghe nói nhà Minh đã sai sứ giả đến giảng hòa. Mong rằng sứ giả nhà Minh có thể đến trước khi họ giao chiến”.
Trương Đan Phong nói: “Còn cha tôi?”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Chúa công đã không còn là tể tướng nữa, giờ đây đợi sứ già triều Minh tới”.
Trương Đan Phong nói: “Người có muốn về nước không?”
Đàm Đài Diệt Minh lắc đầu: “Hiện giờ không ai dám khuyên chúa công. Chúa công ở lại kinh thành Ngõa Thích, tuy đã không còn chức vị, nhưng Dã Tiên vẫn không yên tâm đối với ông ta. Nếu ở lại nơi này e rằng sẽ có nguy hiểm, xem ra chỉ có công tử mới khuyên được người”.
Trương Đan Phong nghe xong, nghĩ lại mấy ngày hôm nay mình đã làm hỏng chuyện lớn, trong lòng thầm hổ thẹn. Thế rồi nhảy lên ngựa, ra roi tiến về phía trước.
Trên suốt quãng đường, Đàm Đài Diệt Minh không dám nhắc đến Vân Lối, ngựa chạy rất nhanh, đến trưa thì đã tới nơi ở của bộ tộc Ngạc La, mười ngày trước Trương Đan Phong đã cùng Vân Lối gặp Tù trưởng của tộc này, vài mục dân trên thảo nguyên vẫn còn nhận ra chàng nên từ xa đã vẫn tay, Trương Đan Phong vội vàng thúc ngựa chạy nhanh hơn khiến cho Đàm Đài Diệt Minh khó khăn lắm mới đuổi theo kịp.
Đàm Đài Diệt Minh cười rằng: “Nhân duyên của công tử thật tốt!”
Trương Đan Phong im lặng không nói. Chợt nghe tiếng ngựa hí, con Chiếu dạ sư tử mã chậm bước chân, hí dài trả lời. Trương Đan Phong ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy bên một căn nhà rách nát ở ven đường, có một thớt ngựa hồng, té ra chàng đang đi ngang qua nhà Vân Lối, Vân Lối đã đưa cha già lên núi, cho nên để ngựa ở đây. Hai con ngựa hí dài chào nhau, bốn vó tung cao, Đàm Đài Diệt Minh ngạc nhiên nói: “Đây là nhà của ai, không ngờ chủ nhân của căn nhà này lại có được một con ngựa tốt như thế. Công tử, sao... sao ngựa của công tử...” đang định nói “Sao ngựa của công tử tựa như quen biết với nó” chợt thấy Trương Đan Phong tái mặt, đôi mắt rướm lệ, Đàm Đài Diệt Minh rất kinh hãi, vội vàng im lặng. Chỉ nghe Trương Đan Phong thở dài, ngửa đầu ngâm rằng: “Quay lại nơi đau lòng, lá vàng gió tây làm ta đứt ruột. Ôi, ngựa cũng như thế, người thì làm sao?” Trong nhà chợt vọng ra tiếng người nói, tựa như chủ nhân của căn nhà sắp chạy ra, Trương Đan Phong vội vàng vung roi vỗ vào lưng con ngựa trắng, thớt ngựa này đã theo Trương Đan Phong nhiều năm, chưa bao giờ bị chủ nhân dùng roi đánh, lập tức tung vó phóng như điện chớp, bỏ Đàm Đài Diệt Minh ở phía sau. Đàm Đài Diệt Minh lắc đầu, nói: “Công tử, công tử không vui, cần gì phải trút giận lên con súc sinh?”
Trương Đan Phong khóc rống lên, chàng nhẹ nhàng vỗ lưng ngựa, chỉ trong khoảnh khắc đã chạy được mười mấy dặm đường, khi Đàm Đài Diệt Minh đuổi theo, chỉ thấy Trương Đan Phong đứng trước một quán rượu bên vệ đường. Đàm Đài Diệt Minh dừng ngựa hỏi: “Công tử sao thế?” Trương Đan Phong lớn giọng đáp: “Nào, chúng ta hãy uống một trận cho thỏa thích”.
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Chúng ta còn phải lên đường”.
Trương Đan Phong cười nói: “Có rượu phải nên say, say rồi mới lên đường. Đàm Đài tướng quân, sao hôm nay tướng quân chẳng sảng khoái tý nào thế?” Rồi chàng kéo Đàm Đài Diệt Minh vào trong quán rượu, kêu: “Có rượu sữa ngựa không?”
Rượu sữa ngựa là loại rượu rẻ tiền bình dân nhất ở Mông Cổ, chủ quán nghe thế thì trợn mắt, nói: “Có, khách quan muốn bao nhiêu, nhưng phải trả tiền trước”.
Trương Đan Phong lớn giọng nói: “Hãy đem bảy cân rượu đến đây”. Rồi ném một đĩnh bạc lớn vào quầy rượu, nói: “Đây là tiền rượu, đừng nói nhiều, ta không thích nhà ngươi xem thường kẻ khác, ngươi có biết không?”
Chủ quán rượu hoảng hồn, vội vàng mỉm cười, lòng nhủ thầm: “Té ra tên tiểu tử này đã uống say ở nơi khác”.
Rượu sữa ngựa ở đây vừa chua vừa chát, Đàm Đài Diệt Minh uống hai hớp thì nhíu mày, còn Trương Đan Phong thì uống cạn hết sáu bảy chén, luôn miệng khen: “Rượu ngon, rượu ngon!” Trong mơ hồ chàng lại thấy hình bóng của Vân Lối.
Trương Đan Phong nhớ rõ cảnh tượng lúc mình và Vân Lối kết giao, lúc đó chàng đã uống một bình rượu lớn, vừa ca vừa khóc, nay nhìn lại thì người xưa đã chẳng còn, bất giác nỗi bi thương lại dâng lên trong lòng.
Đàm Đài Diệt Minh chỉ uống được vài ngụm, thấy Trương Đan Phong đã sắp uống hết bảy cân rượu. Y vội vàng thúc giục: “Thôi được, chúng ta lên đường thôi”.
Trương Đan Phong đặt chén rượu xuống, chợt nghe bên ngoài có tiếng ngựa hí, có người nói; “Thúy Phượng, muội xem, đó có phải là con Chiếu dạ sư tử mã của Trương Đan Phong không?”
Chỉ thấy một nam một nữ bước vào, người đi phía trước là Châu Sơn Dân, còn ở phía sau là Thạch Thúy Phượng. Châu Sơn Dân nói: “Đan Phong, chúng tôi tìm huynh đến khổ, không ngờ lại gặp nhau ở đây”.
Thạch Thúy Phượng kêu ồ một tiếng, ngạc nhiên nói: “Đan Phong, Vân Lối tỷ tỷ đâu? Sao tỷ ấy không đi cùng huynh?”
Trương Đan Phong gật gù ngâm rằng: “Người có bi hoan li hợp, trăng có tròn lúc khuyết, cô nương không giữ được nàng, ta làm sao có thể giữ được nàng!”
Thạch Thúy Phượng chỉ nghĩ Trương Đan Phong đem chuyện xưa của mình ra đùa, thế rồi đỏ mặt nói: “Người ta có chuyện đàng hoàng tử tế tìm huynh, huynh lại cứ nói càn rỡ!”
Trương Đan Phong giật mình, hỏi: “Sao các người tìm đến nơi này?”
Thạch Thúy Phượng cười: “Chúng tôi đã đến nhà Vân Lối tỷ tỷ, đã gặp Vân bá mẫu. Có phải huynh và Vân tỷ tỷ có chuyện gì hay không? nghe nói huynh muốn cùng Vân Lối đến tìm người, sau đó lại bỏ đi một mình. Vân bá mẫu bảo Vân tỷ tỷ mấy ngày trước đã đi cùng Vân bá bà, muội còn tưởng họ đi tìm huynh”.
Trương Đan Phong nói: “Chả trách nào lúc nãy tôi đi ngang, hình như bên trong có tiếng người nói chuyện, té ra là các người”.
Thạch Thúy Phượng nói: “Chúng tôi vừa mới tìm đến nơi, mới ngồi một lát thì nghe tiếng con Chiếu dạ sư tử mã hí vang, chúng tôi chạy ra thì huynh đã đi xa. Chúng tôi vội vàng đuổi theo. Tại sao huynh không ghé vào? Vân bá mẫu thật đáng thương, huynh cũng nên đến thăm bà”.
Trương Đan Phong mặt biến sắc, cúi đầu buồn bã. Thạch Thúy Phượng ngạc nhiên nói: “Vân Lối tỷ tỷ rất dịu dàng, chắc chắn là huynh đã có lỗi cho nên tỷ ấy mới không thèm để ý đến huynh. Có chuyện gì, hãy nói cho muội nghe, muội sẽ giúp huynh”.
Đàm Đài Diệt Minh vội vàng chen vào: “Các người tìm công tử nhà tôi có việc gì? Ai đã cho các người biết nơi ở của Vân Lối?”
Châu Sơn Dân nói: “Triều Minh đã phái sứ thần sắp đến giảng hòa với Ngõa Thích”.
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Chúng tôi đã biết điều này”.
Châu Sơn Dân nói: “Các người có đoán được sứ thần là ai không?”
Trương Đan Phong đã định thần, hỏi: “Là ai?”
Châu Sơn Dân nói: “Là đại ca của Vân Lối!”
Trương Đan Phong sững người ra, nhớ lại Vân Trọng xưa nay không có thiện cảm với mình, nếu cứ như thế, e rằng chuyện của mình và Vân Lối càng chẳng có hy vọng. Thạch Thúy Phượng hỏi: “Sao, huynh không vui ư?”
Trương Đan Phong nói: “Sao lại không vui, Vân Trọng làm sứ thần thì tốt còn gì bằng!”
Trương Đan Phong nói toàn những lời từ gan ruột. Gia gia của Vân Lối năm xưa đi sứ sang Ngõa Thích, bị bắt lại hành hạ đủ đều. Nay Trung Quốc đã cường thịnh, cháu nội của ông ta lại đi sứ, đó là chuyện đáng mừng. Huống chi Vân Trọng một lòng vì nước, giỏi hơn cả gia gia của chàng, quả thật Vu Khiêm đã sáng suốt khi sai chàng đi sứ.
Trương Đan Phong tuy cảm thấy Vân Trọng không có thiện cảm với mình, đó là điều đáng tiếc, nhưng lại là chuyện riêng, cho nên nghe Vân Trọng đi sứ thì không khỏi ngạc nhiên, nhưng lại thầm mừng cho nước nhà.
Châu Sơn Dân nói: “Khi Vân Trọng vượt Nhạn Môn quan, đã từng gặp gỡ chúng tôi, y đã nhờ tôi đến báo tin cho bá mẫu, mời người đến kinh thành Ngõa Thích gặp gỡ. Không ngờ cha của y vẫn còn sống. Bá mẫu nói, khi đợi Vân Lối trở về sẽ cùng cha con nàng lên kinh. Không cần chúng tôi đi cùng”.
Trương Đan Phong nghe có hai chữ Vân Lối thì người run bần bật, Châu Sơn Dân liếc nhìn chàng, nói: “Vân Trọng dắt theo mười tám Ngự tiền thị vệ, ngoài ra còn có vài phụ nữ theo cùng”.
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Cái gì, sao lại có đàn bà con gái đi cùng?”
Châu Sơn Dân nói: “Đàm Đài tướng quân, nghe nói trong số đó có cả lệnh muội Đàm Đài Chính Minh”.
Đàm Đài Diệt Minh mừng rỡ nói: “Chắc là Đường thúc của ta bảo muội ấy đến đón ta”.
Châu Sơn Dân nói: “Không sai tý nào, xin chúc mừng, các người đều có thể trở về nước”. Chàng ngừng một lát rồi lại nói: “Những phụ nữ ấy đều là người trong làng Đàm Đài, lệnh muội đã gọi họ đi cùng cho có bạn”.
Đàm Đài Diệt Minh nghĩ bụng: “Chính Minh suy nghĩ thật chu đáo, vì không muốn miệng đời cười chê cho nên mới gọi nhiều người đi cùng. Công tử đang u uất như thế này, nếu hứa gả Chính Minh cho y, sẽ là một chuyện đẹp cả đôi đàng”. Y đang suy nghĩ thì nghe Châu Sơn Dân lại nói: “Họ là sư giả của thiên triều, trên đường đều có người tiếp đón, mỗi ngày chỉ có thể đi được năm sáu mươi dặm đường. Có lẽ hơn mười ngày nữa mới đến được kinh thành Ngõa Thích. Tôi đang lo cho họ”.
Trương Đan Phong nói: “Sao?”
Châu Sơn Dân nói: “Sau khi hai nước chiến loạn, khắp nơi đều có các nhân vật hắc đạo nổi lên. Vân Trọng tuy có mang theo mười tám Ngự tiền thị vệ nhưng cũng phải đề phòng chuyện bất ngờ. Trong Nhạn Môn quan, đã có tôi truyền Lục Lâm tiễn nên không có chuyện gì xảy ra. Ra ngoài Nhạn Môn quan, chúng tôi chẳng thể giúp gì được”.
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Lần này Dã Tiên có ý cầu hòa với Minh triều, sứ giả Minh triều xảy ra chuyện ở Ngõa Thích, y cũng sẽ phiền phức”.
Châu Sơn Dân nói: “Tuy là nói thế, nhưng ai cũng biết Dã Tiên xảo quyệt. Huống chi Ngõa Thích đang trong lúc chia năm xẻ bảy, chưa chắc gì nghe lệnh Dã Tiên. Đạo tặc lục lâm Ngõa Thích thì càng ghê gớm hơn. Chi bằng đề phòng vẫn hơn. Tôi muốn bàn bạc với các người, xem thử có nên sai vài người đón họ hay không?”
Trương Đan Phong im lặng không nói, nghe đến đây thì đột nhiên kêu: “Châu đại ca, Thạch hiền muội, tôi xin kính các người một chén!” Rồi bưng chén rượu lên uống cạn. Châu Sơn Dân, Thạch Thúy Phượng ngạc nhiên nhìn chàng, chỉ thấy Trương Đan Phong uống xong thì ném vỡ cái bát rồi cười rằng: “Châu đại ca, ngựa của tôi nhanh sẽ đi trước một bước. Các người yên tâm, tôi đảm bảo Vân đại ca sẽ đến kinh thành Ngõa Thích bình an!”
Rồi chàng phóng lên lưng ngựa, thớt ngựa hí dài tung vó chạy về phía trước. Đàm Đài Diệt Minh cùng mọi người cũng phóng lên ngựa đuổi theo.
Ba ngày sau, Trương Đan Phong về đến kinh thành Ngõa Thích, thấy người đi đường đông đúc, ai nấy cũng tranh mua lương thực. Té ra họ nghe tin phong thanh, sợ rằng Thái sư Dã Tiên sẽ đánh nhau với tri viện A Thích, cho nên mới tích trữ thức ăn.
Trương Đan Phong thầm than: “Nếu thiên hạ mãi mãi thanh bình, không có chiến tranh thì tốt bao nhiêu!” Rồi chợt nghĩ: “Sắp có đánh nhau to, Dã Tiên càng nôn nóng cầu hòa với Trung Quốc. Xem ra Vân Trọng may mắn hơn gia gia của y nhiều, lần này y sẽ hoàn thành sứ mệnh, lại có thể đón Hoàng đế của y trở về”.
Về đến nhà, chỉ thấy gia nhân bẩm cáo: “Thiếu gia, lão gia ngày đêm mong ngóng thiếu gia. Mấy ngày hôm nay lão gia đều nằm trên giường, cứ bảo mọi người ra ngoài thăm chừng xem thiếu gia đã về hay chưa”.
Trương Đan Phong thất kinh, vội vàng chạy vào thư phòng, chỉ thấy Trương Tôn Châu ngồi viết chữ một mình, nghe có tiếng người thì hỏi: “Ai thế?”
Trương Đan Phong mới thở phào, trả lời: “Là con. Cha, cha không sao chứ?”
Trương Tôn Châu quay đầu lại, nói: “Đàm Đài tướng quân đâu?”
Trương Đan Phong nói: “Ngựa của y chạy chậm, có lẽ sáng mai mới về đến nhà. Nghe người nhà nói, cha không khỏe, cha bị bệnh ư? Đã mời thầy thuốc chưa?”
Trương Tôn Châu nói: “Hiếm khi nào con quan tâm đến cha như thế. Cũng chẳng sao cả, chỉ là bệnh già, nửa tháng nay khí trời không tốt, mưa đến mười mấy ngày, hôm qua mới tạnh, khớp gối ta hơi đau mà thôi”.
Trương Đan Phong hỏi: “Sao không mời thầy thuốc?”
Trương Tôn Châu cười rằng: “Ta cũng định nói cho con biết, mấy quyển sách của Bành hòa thượng mà con mang về rất có ích. Té ra trong đó có ghi cách trị bệnh đau khớp, trong sách nói, dù cho chân tay có bị què, cũng có thể dùng cành liễu nối xương phối hợp với chữa trị bằng châm cứu sẽ khỏi hẳn”.
Năm xưa Bành hòa thượng đi đến nơi nào cũng viết, trong đó có những phần viết về phong thổ nhân tình, có những lời bàn luận về hình thế sông núi, lại còn ghi những kinh nghiệm dân gian... Những cuốn sách ở trong thạch động vốn rời rạc với nhau, Trương Đan Phong sau khi đem về thì sắp xếp, đóng lại thành sách để ở trong nhà, nay nghe cha nói như thế thì mới nhớ quả nhiên những quyển sách này rất có ích, chợt hỏi: “Cha, cha có thử chưa?”
Trương Tôn Châu đứng dậy đi mấy bước, rồi lại vung chân tung cước, nói: “Hôm qua ta đã thử, quả nhiên hôm nay có thể đi lại được”.
Trương Đan Phong nói: “Nếu linh nghiệm như thế thật là tốt. Con cũng phải đọc kỹ lại sách này”.
Trương Tôn Châu nói: “Bành hòa thượng là Quốc sư của Đại Châu chúng ta, là sư phụ của hai Thiên tử, học rộng hiểu nhiều, con phải nên đọc kỹ”.
Rồi lấy một quyển sách đưa cho Trương Đan Phong, bảo chàng ngồi xuống bên cạnh mình, uống chén trà rồi nói: “Nghe nói sứ giả của triều Minh sắp tới, ta đã yên tâm nhưng không biết đó là ai? Nếu người đó có thể giống như Vân Tĩnh thì thật là tốt”. Khi đang nói thì giọng điệu trở nên buồn bã, Trương Đan Phong biết ông nhớ lại chuyện xưa, trong lòng dấy lên nỗi ân hận, trong khoảnh khắc này, vẻ mặt tiều tụy của Vân Đăng, dáng dấp cứng cỏi của Vân Trọng, bộ dáng đáng thương của Vân Lối hiện lên trong lòng chàng, nghĩ bụng: “Cha mình tuy muốn giải mối thù trước, nhưng làm sao có thể giải được mối oan thù này?”
Trương Tôn Châu nói: “Đan Phong, con đang nghĩ gì thế?”
Trương Đan Phong gượng cười rồi nói: “Không có gì, con cũng đang đoán sứ thần của triều Minh là ai”.
Lúc đầu chàng vốn muốn cho cha biết chuyện Vân Trọng đi sứ, nhưng nghĩ lại, cha con Vân Đăng có thù sâu với cả nhà mình như thế, nếu nói thực cho cha biết, ông ta chắc chắn sẽ đau lòng hơn, áy náy hơn, cho nên chàng mới im lặng.
Hai cha con ngồi trầm ngâm một lúc lâu, Trương Đan Phong nói: “Cha, cha không đổi ý ư?”
Trương Tôn Châu biết chàng nói gì, cười khổ nói: “Sau khi sứ thần triều Minh đến, con cứ theo y trở về nước. Nhưng con không được làm quan cho triều Minh”.
Trương Đan Phong nói: “Thế còn cha?”
Trương Tôn Châu nói: “Kiếp này ta chỉ có thể trở về Giang Nam trong mơ. Con đừng nhắc chuyện này nữa!”
Sáng sớm hôm sau, gia nhân gõ cửa phòng Trương Tôn Châu nói: “Đàm Đài tướng quân và thiếu gia xin thỉnh an đại nhân”.
Trương Tôn Châu lập tức khoác áo bước vào thư phòng, Đàm Đài Diệt Minh đã chờ ở đấy, còn Trương Đan Phong đứng một bên.
Trương Tôn Châu nói: “Đàm Đài tướng quân, ông đã quay về rồi đấy ư? Đan Phong không hiểu chuyện, đã bỏ ông mà chạy về trước, thật là không nên”.
Trương Đan Phong chợt nhoúi lòng, nghĩ bụng: “Cha, cha nào biết con vội vàng trở về là vì phải vội vàng ra đi”.
Đàm Đài Diệt Minh: “Khởi bẩm chúa công, công tử muốn cùng tôi đến miền nam, cho nên xin cáo từ chúa công”.
Trương Tôn Châu giật mình, nói: “Sao? Mới về mà đã đi rồi ư?”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Nghe nói sứ thần triều Minh đã vào Ngõa Thích, chúng tôi muốn đi trước đón y”.
Trương Tôn Châu nói: “Ông quen với sứ thần triều Minh ư?”
Đàm Đài Diệt Minh đã được Trương Đan Phong căn dặn, lắc đầu nói: “Tuy không biết nhưng lần trước công tử về nước, tôi đi sứ cùng A Thích, đều được Vu Khiêm tiếp đãi trọng hậu, nghe nói sứ thần này là do Vu Khiêm tuyển chọn, chúng tôi cũng nên đi rước y để y khỏi gặp nguy hiểm”.
Khi nói chỉ thấy trong mắt Trương Đan Phong rướm lệ, Đàm Đài Diệt Minh biết tâm sự của chàng, cũng chính vì chàng cho nên y mới nói dối. Đàm Đài Diệt Minh liếc nhìn Trương Đan Phong, trong lòng cũng cảm thấy chua xót.
Trương Tôn Châu chậm rãi đứng dậy, thở dài nói: “Ta đã già, không thể ra sức vì Trung Quốc nữa, các người còn trẻ, thôi được, các người hãy đi đi!”
Nước mắt lăn dài trên má Trương Đan Phong, bình thường tuy cảm thấy giữa hai cha con có khoảng cách, nhưng trong khoảnh khắc, hai cha con tựa như tâm ý tương thông. Trương Đan Phong ôm cha rồi nói: “Cha, cha hãy bảo trọng!” Rồi chàng xoay người bước ra khỏi thư phòng.
Trương Đan Phong không dám quay đầu vội vàng chạy ra cửa, phóng lên lưng ngựa.
Họ đang nôn nóng đến miền nam đón sứ giả của triều Minh. Sứ giả của triều Minh cũng nôn nóng đến kinh thành của Ngõa Thích gặp họ.
Ngày mừng hai tháng Giêng bọn Vân Trọng rời Bắc Kinh, lúc này đã đi hơn một tháng, vào sâu địa phận Ngõa Thích. Đông qua xuân đến, tuyết bắt đầu tan, núi non đã có màu xanh, lúc này họ đang đi ngang qua một vùng núi non hoang vắng, mấy chục dặm đường mà không thấy nhà dân, trên đỉnh núi đôi khi có vài con chim ưng xà xuống tìm thức ăn, trên sườn núi chỉ có vài cây du thưa thớt mới nảy mầm xanh. Đàm Đài Chính Minh chép miệng: “Không ngờ Mông Cổ lại hoang vắng như thế, đừng nói là Giang Nam, ngay cả Bắc Kinh hoa đào cũng đã nở”.
Một người tùy tùng đã từng đến Mông Cổ cười rằng: “Nơi này vẫn chưa phải là hoang vắng, đến miền bắc, khắp nơi tuyết phủ càng hoang vắng hơn. Khi Tô Vũ chăn dê ở Bắc Hải, đừng nói là bóng người, cả bóng chim cũng chẳng thấy, chỉ uống nước tuyết, ăn thịt dê nướng”.
Vân Trọng nghe y nhắc chuyện Tô Vũ chăn dê, không khỏi nhớ đến gia gia của mình, lòng buồn bã cho nên chẳng nói gì cả. Đàm Đài Chính Minh dịu dàng nhìn chàng, cười rằng: “Nơi đây có thảo nguyên và sơn động, ngựa có thể nghỉ ngơi, muội thấy đêm nay chúng ta phải cắm trại ở đây”.
Vân Trọng vội vàng nói: “Đúng thế, dù sao hôm nay cũng không thể vượn khỏi thảo nguyên này, ngày mai đi cũng được. Muội lần đầu tiên đến Mông Cổ chắc chắn không quen. Hãy nghỉ ngơi sớm”.
Đàm Đài Chính Minh nói: “Cũng không sao cả, chỉ là hơi lạnh mà thôi, dần dần sẽ quen”.
Thật ra nàng vẫn chưa quen với khí hậu Mông Cổ, nhưng đã dần dần quen với tính khí của Vân Trọng. Vân Trọng là một hán tử cứng cỏi, tuy không nho nhã như Trương Đan Phong, nhưng cũng rất dịu dàng đối với nàng.
Vân Trọng chọn một góc núi khuất gió hạ trại. Cùng mọi người nhặt củi khô nổi lửa, ăn cơm tối xong, Vân Trọng tìm Đàm Đài Chính Minh trò chuyện. Đàm Đài Chính Minh chợt nói: “Trương Đan Phong và lệnh muội nếu biết chúng ta đến đây thì sẽ vui biết bao nhiêu! Sơn Dân ca ca đi trước báo tin chắc là đã gặp được họ. Chúng ta đến Ngõa Thích, chắc sẽ vài ngày sau mới trao quốc thư, huynh thấy có cần đến nhà họ Trương tìm họ không?”
Vân Trọng hừ một tiếng, nói: “Muội đến nhà họ Trương tìm ai? Có lẽ Trương Đan Phong đang chờ muội, nếu Vân Lối ở nhà họ Trương thì chẳng phải là muội muội của ta”.
Đàm Đài Chính Minh bật cười, nói: “Huynh đổi tính từ lúc nào thế? Có kẻ thù không đội trời chung nào đáng nhớ như thế không? Nếu lần này không nhờ Trương Đan Phong, Vu các lão đã không biết nội tình của Ngõa Thích, hai nước cũng sẽ không mau chóng giảng hòa như thế này, nếu không nhờ y, làm sao huynh trở thành sứ giả được?”
Vân Trọng nghe thế thì cúi đầu, nghĩ bụng Trương Đan Phong quả nhiên có một tấm lòng son, cho nên chàng không nói gì cả. Nhưng trong lòng vẫn không hy vọng em gái mình ở nhà họ Trương. Đàm Đài Chính Minh lại nói: “Lần này đến Ngõa Thích, huynh phải nên đến gặp Đan Phong, nói lời cảm tạ y”.
Vân Trọng nói: “Vu Các Lão có thư gởi cho y, ta đương nhiên phải gặp y. Chỉ là hai nhà chúng ta thù sâu như biển, nhưng lần này y bôn ba vì giang sơn đại Minh, cho nên ta không nhớ đến thù trước, nhưng muốn ta chuyển địch thành bạn với y thật không thể được!”
Đàm Đài Chính Minh mỉm cười, nói: “Thật hổ thẹn cho huynh là một đại trượng phu, khí lượng lại hẹp hòi như thế, chẳng bằng hạng nữ lưu chúng tôi, chúng tôi và Thiên tử họ Chu của huynh có thù mấy đời, nhưng Trương Đan Phong vẫn dâng bảo tàng cho triều đình. Nếu Trương Đan Phong nhớ thù xưa, y sẽ không giúp Vu Các Lão đón Hoàng đế trở về”.
Đàm Đài Chính Minh rất ngay thẳng, nghĩ đâu nói đó. Vân Trọng nghe thế thì giật mình, lòng dạ xốn xang, nghĩ bụng: “Chả lẽ mình không bằng Trương Đan Phong?”
Trong khoảnh khắc ấy, nỗi ám ảnh của bức huyết thư bằng da dê lại kéo tới, lòng chàng đang rối như tơ vò.
Đàm Đài Chính Minh định nói tiếp, chợt thấy Vân Trọng ngồi phục xuống đất, sắc mặt thay đổi, Đàm Đài Chính Minh ngạc nhiên nói: “Huynh làm gì thế?”
Vân Trọng nhảy bật dậy, nói: “Có đại đội quân mã kéo tới đây!” Nói chưa dứt, chỉ nghe tiếng tù và rúc lên, tiếp theo là tiếng tên bay xé gió lướt qua trại. Thị vệ chạy vào báo: “Phía trước phát hiện có một đội nhân mã bao vây chúng ta, không biết có bao nhiêu người, cũng không thấy cờ hiệu. Mời Vân đại nhân hạ lệnh đối phó!”
Vân Trọng nói: “Ở nơi thung lũng hoang vắng, chắc là có cường đạo đến cướp trại, các người hãy rời khỏi trại, cứ hai người một nhóm tự tìm chỗ ẩn nấp, thấy bóng người thì lập tức phóng tên bắn”.
Người ấy vâng một tiếng rồi lui ra. Đàm Đài Chính Minh nói: “Còn huynh thì sao?”
Vân Trọng nói: “Các người hãy tới trại của ta”.
Đàm Đài Chính Minh nói: “Huynh không ra ngoài ư?”
Vân Trọng nói: “Ta đang cầm cờ tiết, trong người có mang quốc thư, trong trại là lễ vật dâng cho vua Ngõa Thích, làm sao có thể rời khỏi nơi này. Những người đi cùng với muội không tiện ra ngoài chống địch, chi bằng cứ cùng ta giữ trại, bọn giặc cỏ ấy chẳng có gì đáng sợ”.
Đàm Đài Chính Minh nghe xong lòng thầm cảm kích, Vân Trọng bảo phải giữ lễ vật của triều đình là thật, nhưng còn một nguyên nhân nữa mà chàng không nói, Đàm Đài Chính Minh biết chàng đã ở lại vì họ. Chàng sợ họ chạy ra ngoài sẽ bị kẻ địch bắt sống rồi làm nhục; chàng biết mấy ngày hôm nay Đàm Đài Chính Minh đã đuối sức, đi đứng rất chậm chạp cho nên giữ nàng lại trong trại.
Mọi việc đã bố trí xong xuôi, kẻ địch cũng kéo tới, chỉ nghe bên ngoài tiếng tên bay vun vút, tiếp theo là tiếng binh khí giao nhau. Vân Trọng cười rằng: “Bọn này rồi sẽ no đòn”.
Vân Trọng đang ngồi chợt nghe xoạt một tiếng, một mũi tên có đốt lửa cắm vào vách trại, lớp trại bên ngoài bốc cháy. Vân Trọng kêu lên: “Không xong!” Chàng vội vàng xông ra dập lửa, rèm trại vừa mở ra, bên ngoài có một luồng kình phong chém tới, bốn năm kẻ bịt mặt xông vào. Những kẻ này nhớ có tiếng tên bay yểm hộ, cho nên lướt vào tới nơi Vân Trọng mới phát hiện.
Những kẻ che mặt ra tay rất lanh lẹ, vừa xông vào thì đã tung ra những đòn sát thủ, Vân Trọng quát lớn một tiếng, trở tay vỗ lại một chưởng đánh bật một kẻ che mặt bay ra ngoài trại.
Vân Trọng vỗ chưởng trái ra, chưởng phải đánh lối theo, chợt thấy người che mặt co mười đầu ngón tay lại chụp xuống, té ra y dùng công phu Đại lực ưng trảo. Vân Trọng hóp ngực thu bụng, chưởng trái chụp vào trong, người ấy kêu ồ lên một tiếng, trầm chưởng xỉa xuống, dưới ánh đèn, chỉ thấy bàn tay của y có màu tím đen, Vân Trọng thất kinh, xoay người tung một cước khiến người ấy ngã nhào, lúc này Đàm Đài Chính Minh cũng dẵ rút kiếm.
Vân Trọng kêu lên: “Bàn tay của bọn chúng có độc!”
Người phía trước mặt tựa như là một lão già, lão ta cười lạnh rồi cùng một tên khác tấn công Vân Trọng. Vân Trọng vừa đánh vừa nhìn, chỉ thấy Đàm Đài Chính Minh đang đấu ác liệt với hai kẻ che mặt, một trong hai kẻ đó có dáng dấp rất quen thuộc, kẻ này sử dụng Xích sa chưởng và Ưng trảo công, chưởng pháp rất kỳ dị, hơn ông già phía trước mặt vài lần. Đàm Đài Chính Minh sử dụng Nam nhạc kiếm pháp gia truyền, vẫn cố gắng chống chọi được, nhưng nàng cử động hơi chậm chạp. Hai kẻ che mặt ấy mau chóng thấy được nhược điểm của nàng, thế là đều tấn công xuống phần hạ bàn, ngay lúc ấy người che mặt sử dụng một chiêu quái dị, vỗ hai chưởng vào mặt Đàm Đài Chính Minh, nàng vung kiếm chặn lại, y đột nhiên ngã người xuống đất, hai tay tóm lấy chân Đàm Đài Chính Minh. Đàm Đài Chính Minh tung ra một cước, bị y nắm lấy gót chân trái đẩy mạnh, Đàm Đài Chính Minh phóng vọt người lên, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, tên đồng bọn phóng ra một sợi dây về phía trước toan bắt sống nàng.
Vân Trọng quát lớn một tiếng, quét ra một chưởng, tiếp lấy một chưởng của ông già che mặt. Chưởng này có thể mở núi phá đá, nếu hai người chạm vào, Vân Trọng sẽ bị trúng độc, còn cánh tay của ông già sẽ gãy lìa, ông già nào dám chạm vào, thế là lui người né tránh, người che mặt ở phía sau lao tới vung đao ra, bị Vân Trọng tóm lấy chui đao, kéo giật y tới, rồi vung chưởng phải chém vào đầu y.
Hai đòn này đều nhanh như điện chớp, Vân Trọng đẩy lùi được hai kẻ che mặt đang định lao về phía trước, chợt nghe một tiếng kêu thảm thiết vang lên. Té ra Đàm Đài Chính Minh tuy bị đau khớp vì lạnh, không còn nhanh nhẹn như bình thường, nàng bị người che mặt tóm lấy chân đẩy tới về phía trước, nàng đã mượn lực đẩy ấy phóng lên đỉnh trại, rồi xoay người trên không trung đâm thẳng xuống. Người sử dụng đao đã bị nàng đâm trúng cổ họng, sợi dây y vừa mới vung ra cũng chạm vào người nàng.
Người che mặt ấy vội vàng đứng dậy, chưởng thế của Vân Trọng đã dồn tới như dời núi lấp biển, y nào dám tiếp lấy, vội vàng thối lui ra sau. Ông già che mặt cũng từ sau đánh tới, trong chưởng phong có mùi tanh, lão ta chụp vào vai Vân Trọng, Vân Trọng vỗ vù ra một chưởng, tưởng rằng đắc thủ thì chợt cảm thấy vai đau nhói, chàng vội vàng trầm vai, chưởng phong tuy vẫn đánh trúng người che mặt, nhưng chưởng lực đã bị chặn lại một nửa. Dù như thế, kẻ che mặt cũng chẳng gượng dậy nổi. Vân Trọng nhảy vọt ra, vội vàng quay lại nhìn Đàm Đài Chính Minh. Ông già che mặt chỉ hừ một tiếng, tóm lấy kẻ đồng bọn bị thương lập tức phóng ra khỏi trại. Đàm Đài Chính Minh tháo sợi dây trên người mình, mỉm cười đứng dậy nói: “Thật nguy hiểm!”
Vân Trọng hỏi: “Có sao không?”
Đàm Đài Chính Minh nói: “Không sao cả”.
Vân Trọng nhíu mày nói: “Giày của muội đã tuột ra, cả vớ cũng tuột ra, để ta xem bàn chân của muội”.
Đàm Đài Chính Minh đỏ mặt, nói: “Làm gì thế?”
Vân Trọng nói: “Lần trước ta đã bị thương, toàn là nhờ muội chăm sóc, lúc này đến lượt ta chăm sóc cho muội”.
Đàm Đài Chính Minh nói: “Vớ của muội bị y cào rách, làm sao bị thương được?” Rồi nàng cởi vớ giở bàn chân lên xem, quả nhiên ở dưới bàn chân có một dấu màu đỏ to như đồng tiền. Vân Trọng nói: “Thật lợi hại. May mà còn cách một lớp vớ”. Rồi nhặt thanh kiếm của Đàm Đài Chính Minh vạch một vòng tròn xung quanh dấu ấn màu đỏ ấy rồi nặn máu ra, bội thuốc khử độc lên rồi nói: “Muội hãy nghỉ ngơi một lát, để ngày mai xem thương thế thế nào rồi sẽ trị tiếp”.
Vân Trọng nói có vẻ thản nhiên, nhưng thật sự trong lòng lo lắng lạ thường. Chàng dùng không đúng thuốc giải, tuy đã nặn máu độc ra, loại thuốc này cũng có tác dụng khử độc, nhưng rốt cuộc vẫn không yên lòng, chàng sợ rằng độc khí vẫn còn, tuy không đến nỗi chết nhưng cũng có thể khiến cho nàng tàn phế.
Đàm Đài Chính Minh tựa như không hề hay biết, trong lòng cảm thấy an ủi vô hạn vì Vân Trọng rất quan tâm cho nàng, chăm sóc cho nàng rất cẩn thận. Đàm Đài Chính Minh rất cảm động, nàng nghĩ bụng: “So với Trương Đan Phong, chàng có hơi thô lỗ hơn, nhưng đối với mình cũng rất chân thành, chẳng khác gì Trương Đan Phong đối với Vân Lối”.
Thế rồi mỉm cười nói với Vân Trọng: “Huynh đừng chỉ lo cho muội, lúc nãy huynh cũng bị lão già che mặt chụp trúng”.
Vân Trọng cười: “Huynh đã có mặc áo giáp, không sao cả”. Rồi chàng cởi áo giáp ra xem, áo giáp cũng bị cào rách một mảng may mà chưa trúng da thịt. Đàm Đài Chính Minh chép miệng: “Người che mặt ấy thật lợi hại, công lực cao hơn kẻ ám toán muội”.
Khi hai người đang ngồi nói chuyện thì các nữ binh dã dập tắt lửa, vệ sĩ bên ngoài vào báo cáo: “Nhờ phước lớn của Vân đại nhân, kẻ địch đã thối lui”.
Vân Trọng nói: “Có còn tên nào nữa không?”
Vệ sĩ nói: “Hình như bọn chúng chỉ đứng ở nơi cao bắn tên về phía chúng ta nhưng không xông tới”.
Vân Trọng nói: “Bọn chúng tấn công không được, e rằng sẽ đánh lén, các người hãy cẩn thận không được lơi lỏng. Có ai bị thương không?”
Vệ sĩ trả lời: “Chỉ có hai người bị trúng tên, một người bị trúng đao nhưng không nghiêm trọng”.
Vân Trọng nói: “Đỡ họ vào lều, bảo nữ binh băng bó vết thương cho họ”.
Mười tám Ngự tiền thị vệ đi theo Vân Trọng võ công đều cao cường, ai cũng có thể địch lại cả trăm người. Ba vệ sĩ vừa được băng bó xong thì đã có người vào báo: “Kẻ địch đốt một đống lửa lớn ở trên núi, không biết là để làm gì?” nói chưa dứt thì có tiếng tù và lại rúc lên bên ngoài.
Tiếng tù và rúc lên nhưng chẳng thấy có kẻ nào xông tới. Vân Trọng nói: “Không xong, bọn lục chúng đốt lửa, thổi tù và chắc chắn là kêu viện binh, chỉ e trước khi trời sáng lại sẽ có một trận ác đấu nữa”.
Rồi bảo tùy tung chia ra, cứ mỗi nhóm hai người nấp xung quanh trại.
Quân địch lại rúc tù và lên rồi ngừng hẳn, chỉ có khói lửa vẫn bốc cao, Vân Trọng bước tới nhìn kỹ Đàm Đài Chính Minh rồi hỏi: “Có đỡ hơn chưa?”
Đàm Đài Chính Minh nói: “Đã thoải mái hơn nhiều”. Rồi nàng nhíu mày, chợt nói: “Muội thấy kẻ địch ấy không phải là kẻ cường đạo bình thường”.
Vân Trọng nói: “Sao?”
Đàm Đài Chính Minh nói: “Nếu chỉ là một cường đạo bình thường, bọn chúng không cần che mặt”.
Vân Trọng nói: “Muội cho rằng đó là quân Mông Cổ? Ta nghĩ Dã Tiên không dám làm càn như thế, ta đã sai người kiểm tra ba cái xác, bọn chúng đều là người Hán”.
Đàm Đài Chính Minh nói: “Tại sao bọn chúng phải che mặt? Sao lại có nhiều người Hán làm cường đạo ở đất Mông Cổ?”
Vân Trọng nhíu mày, chợt nói: “Bọn chúng sợ bị chúng ta nhận mặt, kẻ che mặt đả thương muội trông rất quen thuộc, hình như ta đã gặp ở đâu đó”.
Đàm Đài Chính Minh nói: “Huynh hãy nghĩ thử xem”.
Vân Trọng nói: “Ồ, ta đã nhớ, khi ta tỉ thí đoạt Võ trạng nguyên, ta đã từng gặp người này. Lúc đó cử tử tỉ võ rất nhiều, ta không giao thủ với y, nhưng không nhớ nổi y là ai”.
Nghĩ ngợi một lát, Vân Trọng lại thở dài: “Đáng tiếc lúc nãy không bắt sống y được”.
Nói đến đây, đỉnh trại chợt như có vật nặng đè xuống, Vân Trọng cả kinh đứng vọt lên. Chỉ thấy mái trại rách toạc ra, một người rơi xuống, đó chính là kẻ đã đả thương Đàm Đài Chính Minh. Vân Trọng kêu: “Là cao nhân nào đùa với chúng ta thế này?” Chợt thấy lại có một người chui tọt vào nữa, người đó cười ha hả nói: “Tôi đã giúp huynh bắt sống ác tặc, sao bảo là đùa cợt?”
Đàm Đài Chính Minh cả mừng, té ra đó chính là Trương Đan Phong.
Vân Trọng trợn mắt không lên tiếng, chỉ nghĩ bụng: “Trương Đan Phong quả thật xuất thần nhập quỷ”.
Trương Đan Phong nói: “Huynh hãy lột mặt nạ của y xem thử”.
Hình như người che mặt đã bị Trương Đan Phong điểm huyệt đạo ngã xuống đất, chẳng hề động đậy được. Vân Trọng kéo mặt nạ của y xuống, té ra đó là Sa Vô Kỵ. Vân Trọng nhớ khi tỉ võ, y đã bị sư điệt của Thiết Tý Kim Viên là Lục Triển Bằng đánh rơi xuống đài, lúc đó chỉ tưởng y là một cử tử bình thường, không ngờ y là một tên đại tặc tung hoành ở biên giới hai nước.
Vân Trọng nổi giận, nói: “Trương huynh, hãy giải huyệt đạo cho y, để tôi thẩm vấn y”.
Trương Đan Phong mỉm cười, nói: “Viện binh của bọn chúng đã tới, có rất nhiều cao thủ sẽ tấn công vào, đâu có thời gian để huynh thẩm vấn?”
Đàm Đài Chính Minh biết Trương Đan Phong túc trí đa mưu, chắc chắn chàng đã tính toán trước, thế là lập tức nói: “Trương đại ca, chúng ta ít người e rằng không chống chọi lại lâu. Huynh có nghĩ ra cách nào chưa?”
Trương Đan Phong nói: “Vân huynh, tôi đã có cách”.
Vân Trọng đã khâm phục Trương Đan Phong, nói: “Mời huynh cứ ra lệnh”.
Trương Đan Phong nói: “Lập tức rút lui!”
Vân Trọng nói: “Trong đêm tối không biết hư thực của địch, lại có cả phụ nữ, rút lui chẳng phải sẽ càng nguy hiểm hơn hay sao?”
Đàm Đài Chính Minh mỉm cười: “Trương đại ca chắc chắn sẽ có cao kiến”.
Vân Trọng im lặng. Trương Đan Phong nói: “Huynh hãy mang tất cả lễ vật đặt lên ngựa. Bảo những người khác đều bỏ ngựa cùng tôi xông ra, đảm bảo huynh sẽ không hề tổn thương mà còn lập công lớn”.
Vân Trọng nửa tin nửa ngờ, liếc nhìn Đàm Đài Chính Minh, Đàm Đài Chính Minh nói: “Huynh không cần lo lắng cho muội, muội vẫn còn có thể đi được”. Rồi chợt nàng đứng dậy. Trương Đan Phong nói: “Té ra Đàm Đài muội muội đã bị thương! Nếu có thể đi lại được thì không sao, một lát nữa huynh sẽ chữa trị cho muội”.
Rồi bảo nữ binh chọn ra một thớt ngựa tốt, lấy vải dày bọc vó ngựa lại, bỏ tất cả đồ đạc lên lưng ngựa. Vân Trọng gởi tất cả mười tám vệ sĩ lại, lẳng lặng cùng Trương Đan Phong rút đi. Trước khi đi, Trương Đan Phong bảo họ đâm dao lên mông ngựa, những thớt ngựa ấy chạy về phía trận địa của quân địch, trong đêm tối quân địch tưởng họ đánh lén cho nên vội vàng nghênh chiến. Nhân lúc hỗn loạn, Trương Đan Phong đã dắt mọi người âm thầm vượt ra bằng một con đường nhỏ ở phía tây.
Bọn họ đều có khinh công cao cường, vó ngựa đều được bọc vải dày, cho nên khi đi đường không phát ra tiếng, lại là lúc hỗn loạn nên kẻ địch không phát giác. Đi được một hồi, Vân Trọng ngạc nhiên hỏi: “Sao con đường này không có kẻ địch canh giữ?”
Trương Đan Phong cười nói: “Con đường này không có lối ra, hơn mười tên tiêu binh đã bị tôi kết liễu. Yên tâm, đoạn đường bên dưới càng hiểm trở hơn”.
Hai bên đá núi lô nhô, dưới mặt đất dây gai che lối, Trương Đan Phong tay cầm kiếm dắt ngựa dẫn đầu mở đường, trong khoảnh khắc đã ra đến bên ngoài. Ánh trăng bị mây đen che khuất, chỉ có vài ánh sao lấp lánh, hình như ở phía trước có một thung lũng rộng, hai bên là vách núi.
Vân Trọng nói: “Ở phía trước có núi lớn cản đường, trong đêm tối làm sao vượt qua? Rốt cuộc cũng bị bọn chúng phát giác”.
Trương Đan Phong cười nói: “Tôi đang dụ bọn chúng đến đây”. Thế rồi chỉ huy mọi người tìm chỗ cao mai phục. Một lát sau chỉ thấy ánh lửa nối đuôi nhau tiến vào, quả nhiên kẻ địch đã phát hiện đuổi tới. Trương Đan Phong đột nhiên cười ha hả, tiếng cười của chàng vang vọng khắp nơi trong đêm tối, kẻ địch không biết bọn họ nấp ở nơi nào cho nên chạy tán loạn, đột nhiên nghe tiếng kêu cứu vang lên. Trương Đan Phong quát: “Lăn đá xuống!”
Trên núi có rất nhiều tảng đá to, bình thường nhiều người chẳng lay nổi, nhưng tùy tùng của Vân Trọng đều là những kẻ có võ công cao cường, Trương Đan Phong vừa hạ lệnh, đá từ trên cao đã đổ ầm ầm xuống. Dưới ánh lửa, chỉ thấy kẻ địch chạy tán loạn dưới thung lũng, tám chín phần hình như đều đã bị đá đè không đứng dậy nổi.
Vân Trọng nhìn kỹ lại, chỉ thấy bên dưới mặt đất bồng bềnh như nước hồ. Té ra phía dưới là một đầm lớn, bên trên có phủ lục bình, trong đêm tối nhìn cứ tưởng là một mặt đất rộng lớn. Kẻ địch xa vào trong đầm đã khó thoát ra, lại bị đá rơi trúng nên càng thê thảm hơn. Vân Trọng cả kinh, té ra lúc nãy họ vừa đi ngang qua bờ đầm, nếu không phải Trương Đan Phong quen đường thì họ đã sa chân xuống đầm.
Đàm Đài Chính Minh nói: “Tha cho bọn chúng”.
Trương Đan Phong hạ lệnh ngừng lăn đá, nói với Vân Trọng: “Bọn lâu la có thể tha, nhưng không nên để sổng kẻ thủ lĩnh. Tôi và huynh sẽ đi bắt bọn chúng. Đàm Đài muội muội, muội hãy chờ một lát”.
Trương Đan Phong dắt Vân Trọng ra khỏi núi, lúc này quân địch đã rối loạn, hùa nhau tháo chạy, hai người Trương, Vân lặng lẽ xuất hiện, chỉ thấy có một ông già che mặt và một người khác đang đoạn hậu, trên đường cứ quát tháo gọi bọn lâu la tập hợp lại.
Trương Đan Phong và Vân Trọng đột nhiên nhảy ra, Vân Trọng đâm một kiếm về phía ông già che mặt, ông già ấy lách ra vỗ vù ra một chưởng, nào ngờ thân pháp của Trương Đan Phong càng nhanh hơn, tựa như đã biết trước đường rút của lão, thế là mũi kiếm chệch qua đâm trúng vào vai của lão ta, lão già vỗ vù một chưởng đã sớm mất trọng tâm, lại bị trúng một kiếm cho nên té sầm xuống đất. Trương Đan Phong nắm lấy cổ áo của y giở lên. Vân Trọng nhảy bổ về phía người che mặt kia, trở tay vỗ ra một chưởng, nhưng kẻ này vẫn không ngã xuống, té ra y đã mặc áo da hộ thận. Vân Trọng vỗ thêm một chưởng khiến áo da của y rách toác, Vân Trọng lại vỗ ra tiếp chưởng thứ ba, người ấy hừ một tiếng, xỉa chỉ vào eo Vân Trọng, xoay người tung ra một cước, mũi chân hất vào cổ tay của Vân Trọng. Hai chiêu này hiểm hóc lạ thường, đó chính là võ công thượng thừa của phái Thiên Long ở Tây Tạng, Vân Trọng chỉ đành rút chưởng hộ thân, người ấy lập tức tháo chạy.
Trương Đan Phong bắt xong lão già che mặt, xoay người lại thì chạm phải kẻ ấy, kẻ ấy đánh ra một quyền, Trương Đan Phong đẩy ông già về phía trước chặn lại, rồi chàng xoay người vung chưởng trái ra, chỉ nghe ông già che mặt gào lên như lợn bị chọc tiết, kẻ che mặt lúc nãy cũng rú lên. Trương Đan Phong cười ha hả, nhìn lại ông già che mặt thì ra đã bị đồng bọn đánh bất tỉnh.
Vân Trọng chỉ về phía kẻ ấy hỏi: “Người này võ công cao cường, sao Trương huynh lại tha cho y?”
Trương Đan Phong cười nói: “Nên bắt thì bắt, nên thả thì thả, chi bằng cứ thả y chạy thì hơn”.
Vân Trọng cảm thấy chàng cố ý tỏ ra bí hiểm, cho nên không vui, nhưng cũng không hỏi nữa.
Hai người quay lại chỗ cũ, Đàm Đài Chính Minh khen: “Hay lắm! Quan Công uống rượu chém Hoa Hùng chẳng qua chỉ có thế!”
Trương Đan Phong nói: “Hay lắm, đêm nay không có chuyện gì nữa, chúng ta hãy ngủ cho khỏe. Vân huynh, giờ đây đã đến lúc huynh thăng đường xét xử”.
Rồi gọi mọi người dựng trại, ai nấy đều quay về trại nghỉ ngơi, Trương Đan Phong cùng Vân Trọng, Đàm Đài Chính Minh khiêng ông già che mặt vào trong trại.
Trương Đan Phong đã sớm đoán được kẻ này là ai cho nên vừa kéo mặt nạ xuống quả nhiên đó chính là Sa Đào. Trương Đan Phong lạnh lùng hỏi: “Ngươi bán bạn cầu vinh, thông gian bán nước, chết trăm lần cũng không đủ chuộc tội, may mà đêm nay ta đã đoán được mọi chuyện, nếu không hai nước sẽ đánh nhau vì các ngươi!”
Vân Trọng cũng quát: “Sứ giả đại Minh chẳng có thù oán gì với các ngươi, tại sao ngươi cố ý giết hại bọn ta? Hãy mau khai thực, nếu không sẽ chịu khổ”.
Sa Đào nói: “Ta không hề có ý giết hại các người, càng chẳng muốn khuấy động can qua giữa hai nước”.
Vân Trọng nói: “Vậy tại sao ngươi lại đánh lén bọn ta?”
Sa Đào nói: “Điều này... điều này...” nhưng y ấp úng không nói ra lời. Trương Đan Phong cười lạnh, nói: “Ngươi có nói hay không?” Rồi xỉa hai ngón tay xuống be sườn Sa Đào. Sa Đào lập tức cảm thấy trong người như có hàng trăm ngàn mũi kim, đau đớn vô cùng, y vội vàng nói: “Ngài hãy tha cho tôi, tôi nói, tôi nói”.
Trương Đan Phong giải huyệt đạo cho y, nói: “Nếu nói dối nửa lời, ngươi lại phải chịu khổ”.
Sa Đào nói: “Là Dã Tiên sai khiến tôi”.
Vân Trọng thất kinh, nói: “Nói bậy”.
Sa Đào nói: “Dã Tiên vốn bảo chúng tôi bắt sống ngài, sau đó y sẽ phái binh cứu về, lúc đó ngài sẽ chịu ơn của y”.
Vân Trọng nghĩ mà chẳng thông, Trương Đan Phong cười nói: “Kế sách này thật độc địa, đúng là một viên đá ném chết ba con chim. Đầu tiên là sứ giả thiên triều sẽ mất mặt”.
Đàm Đài Chính Minh nói: “Y đem quân cứu huynh trở về, huynh lọt vào tay y, lúc này đã là tù binh của y”.
Trương Đan Phong nói: “Như thế trong lúc giảng hòa, y sẽ lấn lướt, lúc đó huynh sẽ không dám chống đối”.
Vân Trọng suy nghĩ kỹ lại thì thầm than mình kém trí, không nhanh nhạy bằng Trương Đan Phong và Đàm Đài Chính Minh.
Trương Đan Phong nói: “Dã Tiên sẽ sai người đón các người ở đâu?”
Sa Đào nói: “Ở núi phía trước”.
Trương Đan Phong nói: “Quả nhiên ngươi không nói dối, được, tha cho ngươi”.
Thế rồi chàng vỗ hai chưởng vào người y, đánh vỡ xương tỳ bà của y, khiến cho y không còn sức phải tàn phế suốt đời, dù có độc chưởng cũng không thể đả thương người. Rồi cũng đối phó với Sa Vô Kỵ như thế.
Vân Trọng nói: “Ngày mai chúng ta làm sao đối phó với quan binh của Ngõa Thích?”
Trương Đan Phong nói: “Huynh hãy ngủ một giấc cho khỏe, giữ đủ tinh thần thì có thể ứng phó được. Tóm lại ngày mai tôi sẽ không mất mặt”.
Đàm Đài Chính Minh nói: “Trương đại ca thần cơ diệu toán, quả thật không ai bì nổi, sao huynh đoán được tất cả mọi chuyện? Chả lẽ huynh có thể biết trước được sự việc?” Vân Trọng cũng rất nghi hoặc, muốn bảo Trương Đan Phong giải thích, Trương Đan Phong mỉm cười xua tay: “Thiên cơ không thể tiết lộ, sáng sớm ngày mai các người sẽ biết cả, cần gì gấp gáp. Vân huynh, các người nên đi ngủ thôi”.
Vân Trọng định đi ngủ, Trương Đan Phong chợt nói: “Ta suýt nữa quên một chuyện, huynh hãy đợi cho một lát. Đàm Đài muội muội, chân của muội thế nào?”
Đàm Đài Chính Minh đi thử hai bước, nói: “Hình như còn hơi đau”. Rồi vén ống quần lên xem, Vân Trọng kêu hoảng: “Chân đã xưng to, Đan Phong, huynh có cách nào trị cho nàng không?”
Trương Đan Phong nói: “Đúng thế, nhưng huynh phải trị cho Đàm Đài muội muội”. Rồi chàng lấy ra một cây ngân châm, nói: “Huynh hãy đâm hai mũi vào huyệt Thông Tuyền ở dưới gót chân, hai mũi vào huyệt Phượng Vĩ, sáng sớm ngày mai sẽ không còn sưng nữa, được, huynh không cần phải lo, ta sẽ chỉ cho huynh cách châm cứu”. Rồi thuận ta vẽ một bàn chân, nói: “Khí hậu Ngõa Thích không tốt, có rất nhiều người bị chứng đau khớp, cách châm cứu này của tôi không những có thể chữa trị vết thương của Đàm Đài muội muội, mà còn có thể chữa được những người bị què, Vân huynh, huynh phải học”.
Vân Trọng nghĩ bụng: “Nàng không phải là người què, cần gì phải học nhiều như thế!” Rồi nói: “Ngày sau học cũng không muộn”.
Trương Đan Phong nói: “Không học không được! Huynh không chịu học phải không? Được, tôi sẽ trao cuốn sách này cho huynh, Đàm Đài muội muội, muội hãy thúc giục Vân huynh học đấy nhé”. Rồi lấy ra một quyển sách, xé một chương trong đó nhét vào tay Vân Trọng. Vân Trọng cảm thấy rất ngạc nhiên.
Đó chính là:
Ý tốt này người chẳng hay, nhưng rồi sau sẽ biết.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau phân giải.
Trương Đan Phong giật mình, nói: “Sao?”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Chúa công bảo công tử dựng lại Đại Châu, công tử vì không muốn để cho non sông gấm vóc Trung Hoa rơi vào tay Di địch, đã trải qua rất nhiều gian nan, dâng hiến bảo tàng, cứu thiên hạ đại Minh. Nghiệp đế vương công tử còn có thể bỏ được, còn có ân oán gì mà không thể buông xuôi?”
Trương Đan Phong sững người ra, nói: “Ta coi nghiệp đế vương như phấn thổ...”.
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Giang sơn tổ quốc đang đợi công tử trở về”.
Trương Đan Phong biến sắc, Đàm Đài Diệt Minh nói tuy không lớn, nhưng trong lòng chàng như có tiếng sấm nổ, trong khoảnh khắc, chàng nhớ lại mình từ Mạc Bắc đến miền Giang Nam, từ miền Giang Nam trở về Mạc Bắc, vượt qua trăm sông nghìn suối, trải qua muôn vàn khó khăn là vì cái gì? Phải chăng là vì tráng chí của mình, vì bảo vệ giang sơn gấm vóc Trung Hoa, vì muốn thay nước Trung Hoa và Ngõa Thích sống hòa bình bên nhau. Nay lý tưởng này đã thực hiện, nhưng mình thì lại rầu rĩ như thế! Trương Đan Phong vốn rất thông minh, là người hiểu biết thị phi, chàng nghĩ như thế chợt cảm thấy máu nóng nhộn nhạo, thần trì đã rất tỉnh táo, thế là nghiến răng nói: “Đàm Đài tướng quân, đa tạ ông đã đến đón tôi, chúng ta đi thôi”.
Rồi chàng quay sang chào sư phụ, sư thúc bá, khi ánh mắt lướt qua Vân Lối thì vội vàng xoay người đi. Tạ Thiên Hoa và Diệp Doanh Doanh đứng ở phía sau chỉ thở dài. Vân Lối buồn bã ngồi dưới đất, nước mắt chẳng thể nào rơi được nữa. May mà Trương Đan Phong không dám quay đầu, nếu chàng quay đầu nhìn nàng, hai người e rằng sẽ ôm nhau mà khóc, không ai nỡ ra đi nữa.
Trương Đan Phong và Đàm Đài Diệt Minh bước xuống núi, mặt trời đã lặn, muôn vàn vì sao lấp lánh trên bầu trời, hai người đã tá túc trong nhà thợ săn dưới chân núi một đêm. Sáng sớm hôm sau, Trương Đan Phong tìm được con Chiếu dạ sư tử mã của chàng, nó vẫn ở dưới chân núi chờ chủ nhân, không bỏ đi, vừa thấy chủ nhân thì đã hí lên vui sướng. Trương Đan Phong vỗ cổ ngựa, nhớ lại lúc cùng Vân Lối rong ruổi trên miền thảo nguyên, lại buồn bã rơi nước mắt.
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Có ngựa tốt, không cần mười ngày thì chúng ta cũng về được với kinh thành”.
Trương Đan Phong nói: “Tình hình kinh thành Ngõa Thích gần đây thế nào?”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Bề ngoài tuy tĩnh lặng nhưng giông tố sắp nổi lên”.
Trương Đan Phong nói: “Sao?”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Tri viện A Thích liên lạc các bộ tộc sắp dấy binh khởi nghĩa. Dã Tiên thì nôn nóng muốn cầu hòa với Trung Hoa, ngày tôi rời kinh thành, nghe nói nhà Minh đã sai sứ giả đến giảng hòa. Mong rằng sứ giả nhà Minh có thể đến trước khi họ giao chiến”.
Trương Đan Phong nói: “Còn cha tôi?”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Chúa công đã không còn là tể tướng nữa, giờ đây đợi sứ già triều Minh tới”.
Trương Đan Phong nói: “Người có muốn về nước không?”
Đàm Đài Diệt Minh lắc đầu: “Hiện giờ không ai dám khuyên chúa công. Chúa công ở lại kinh thành Ngõa Thích, tuy đã không còn chức vị, nhưng Dã Tiên vẫn không yên tâm đối với ông ta. Nếu ở lại nơi này e rằng sẽ có nguy hiểm, xem ra chỉ có công tử mới khuyên được người”.
Trương Đan Phong nghe xong, nghĩ lại mấy ngày hôm nay mình đã làm hỏng chuyện lớn, trong lòng thầm hổ thẹn. Thế rồi nhảy lên ngựa, ra roi tiến về phía trước.
Trên suốt quãng đường, Đàm Đài Diệt Minh không dám nhắc đến Vân Lối, ngựa chạy rất nhanh, đến trưa thì đã tới nơi ở của bộ tộc Ngạc La, mười ngày trước Trương Đan Phong đã cùng Vân Lối gặp Tù trưởng của tộc này, vài mục dân trên thảo nguyên vẫn còn nhận ra chàng nên từ xa đã vẫn tay, Trương Đan Phong vội vàng thúc ngựa chạy nhanh hơn khiến cho Đàm Đài Diệt Minh khó khăn lắm mới đuổi theo kịp.
Đàm Đài Diệt Minh cười rằng: “Nhân duyên của công tử thật tốt!”
Trương Đan Phong im lặng không nói. Chợt nghe tiếng ngựa hí, con Chiếu dạ sư tử mã chậm bước chân, hí dài trả lời. Trương Đan Phong ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy bên một căn nhà rách nát ở ven đường, có một thớt ngựa hồng, té ra chàng đang đi ngang qua nhà Vân Lối, Vân Lối đã đưa cha già lên núi, cho nên để ngựa ở đây. Hai con ngựa hí dài chào nhau, bốn vó tung cao, Đàm Đài Diệt Minh ngạc nhiên nói: “Đây là nhà của ai, không ngờ chủ nhân của căn nhà này lại có được một con ngựa tốt như thế. Công tử, sao... sao ngựa của công tử...” đang định nói “Sao ngựa của công tử tựa như quen biết với nó” chợt thấy Trương Đan Phong tái mặt, đôi mắt rướm lệ, Đàm Đài Diệt Minh rất kinh hãi, vội vàng im lặng. Chỉ nghe Trương Đan Phong thở dài, ngửa đầu ngâm rằng: “Quay lại nơi đau lòng, lá vàng gió tây làm ta đứt ruột. Ôi, ngựa cũng như thế, người thì làm sao?” Trong nhà chợt vọng ra tiếng người nói, tựa như chủ nhân của căn nhà sắp chạy ra, Trương Đan Phong vội vàng vung roi vỗ vào lưng con ngựa trắng, thớt ngựa này đã theo Trương Đan Phong nhiều năm, chưa bao giờ bị chủ nhân dùng roi đánh, lập tức tung vó phóng như điện chớp, bỏ Đàm Đài Diệt Minh ở phía sau. Đàm Đài Diệt Minh lắc đầu, nói: “Công tử, công tử không vui, cần gì phải trút giận lên con súc sinh?”
Trương Đan Phong khóc rống lên, chàng nhẹ nhàng vỗ lưng ngựa, chỉ trong khoảnh khắc đã chạy được mười mấy dặm đường, khi Đàm Đài Diệt Minh đuổi theo, chỉ thấy Trương Đan Phong đứng trước một quán rượu bên vệ đường. Đàm Đài Diệt Minh dừng ngựa hỏi: “Công tử sao thế?” Trương Đan Phong lớn giọng đáp: “Nào, chúng ta hãy uống một trận cho thỏa thích”.
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Chúng ta còn phải lên đường”.
Trương Đan Phong cười nói: “Có rượu phải nên say, say rồi mới lên đường. Đàm Đài tướng quân, sao hôm nay tướng quân chẳng sảng khoái tý nào thế?” Rồi chàng kéo Đàm Đài Diệt Minh vào trong quán rượu, kêu: “Có rượu sữa ngựa không?”
Rượu sữa ngựa là loại rượu rẻ tiền bình dân nhất ở Mông Cổ, chủ quán nghe thế thì trợn mắt, nói: “Có, khách quan muốn bao nhiêu, nhưng phải trả tiền trước”.
Trương Đan Phong lớn giọng nói: “Hãy đem bảy cân rượu đến đây”. Rồi ném một đĩnh bạc lớn vào quầy rượu, nói: “Đây là tiền rượu, đừng nói nhiều, ta không thích nhà ngươi xem thường kẻ khác, ngươi có biết không?”
Chủ quán rượu hoảng hồn, vội vàng mỉm cười, lòng nhủ thầm: “Té ra tên tiểu tử này đã uống say ở nơi khác”.
Rượu sữa ngựa ở đây vừa chua vừa chát, Đàm Đài Diệt Minh uống hai hớp thì nhíu mày, còn Trương Đan Phong thì uống cạn hết sáu bảy chén, luôn miệng khen: “Rượu ngon, rượu ngon!” Trong mơ hồ chàng lại thấy hình bóng của Vân Lối.
Trương Đan Phong nhớ rõ cảnh tượng lúc mình và Vân Lối kết giao, lúc đó chàng đã uống một bình rượu lớn, vừa ca vừa khóc, nay nhìn lại thì người xưa đã chẳng còn, bất giác nỗi bi thương lại dâng lên trong lòng.
Đàm Đài Diệt Minh chỉ uống được vài ngụm, thấy Trương Đan Phong đã sắp uống hết bảy cân rượu. Y vội vàng thúc giục: “Thôi được, chúng ta lên đường thôi”.
Trương Đan Phong đặt chén rượu xuống, chợt nghe bên ngoài có tiếng ngựa hí, có người nói; “Thúy Phượng, muội xem, đó có phải là con Chiếu dạ sư tử mã của Trương Đan Phong không?”
Chỉ thấy một nam một nữ bước vào, người đi phía trước là Châu Sơn Dân, còn ở phía sau là Thạch Thúy Phượng. Châu Sơn Dân nói: “Đan Phong, chúng tôi tìm huynh đến khổ, không ngờ lại gặp nhau ở đây”.
Thạch Thúy Phượng kêu ồ một tiếng, ngạc nhiên nói: “Đan Phong, Vân Lối tỷ tỷ đâu? Sao tỷ ấy không đi cùng huynh?”
Trương Đan Phong gật gù ngâm rằng: “Người có bi hoan li hợp, trăng có tròn lúc khuyết, cô nương không giữ được nàng, ta làm sao có thể giữ được nàng!”
Thạch Thúy Phượng chỉ nghĩ Trương Đan Phong đem chuyện xưa của mình ra đùa, thế rồi đỏ mặt nói: “Người ta có chuyện đàng hoàng tử tế tìm huynh, huynh lại cứ nói càn rỡ!”
Trương Đan Phong giật mình, hỏi: “Sao các người tìm đến nơi này?”
Thạch Thúy Phượng cười: “Chúng tôi đã đến nhà Vân Lối tỷ tỷ, đã gặp Vân bá mẫu. Có phải huynh và Vân tỷ tỷ có chuyện gì hay không? nghe nói huynh muốn cùng Vân Lối đến tìm người, sau đó lại bỏ đi một mình. Vân bá mẫu bảo Vân tỷ tỷ mấy ngày trước đã đi cùng Vân bá bà, muội còn tưởng họ đi tìm huynh”.
Trương Đan Phong nói: “Chả trách nào lúc nãy tôi đi ngang, hình như bên trong có tiếng người nói chuyện, té ra là các người”.
Thạch Thúy Phượng nói: “Chúng tôi vừa mới tìm đến nơi, mới ngồi một lát thì nghe tiếng con Chiếu dạ sư tử mã hí vang, chúng tôi chạy ra thì huynh đã đi xa. Chúng tôi vội vàng đuổi theo. Tại sao huynh không ghé vào? Vân bá mẫu thật đáng thương, huynh cũng nên đến thăm bà”.
Trương Đan Phong mặt biến sắc, cúi đầu buồn bã. Thạch Thúy Phượng ngạc nhiên nói: “Vân Lối tỷ tỷ rất dịu dàng, chắc chắn là huynh đã có lỗi cho nên tỷ ấy mới không thèm để ý đến huynh. Có chuyện gì, hãy nói cho muội nghe, muội sẽ giúp huynh”.
Đàm Đài Diệt Minh vội vàng chen vào: “Các người tìm công tử nhà tôi có việc gì? Ai đã cho các người biết nơi ở của Vân Lối?”
Châu Sơn Dân nói: “Triều Minh đã phái sứ thần sắp đến giảng hòa với Ngõa Thích”.
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Chúng tôi đã biết điều này”.
Châu Sơn Dân nói: “Các người có đoán được sứ thần là ai không?”
Trương Đan Phong đã định thần, hỏi: “Là ai?”
Châu Sơn Dân nói: “Là đại ca của Vân Lối!”
Trương Đan Phong sững người ra, nhớ lại Vân Trọng xưa nay không có thiện cảm với mình, nếu cứ như thế, e rằng chuyện của mình và Vân Lối càng chẳng có hy vọng. Thạch Thúy Phượng hỏi: “Sao, huynh không vui ư?”
Trương Đan Phong nói: “Sao lại không vui, Vân Trọng làm sứ thần thì tốt còn gì bằng!”
Trương Đan Phong nói toàn những lời từ gan ruột. Gia gia của Vân Lối năm xưa đi sứ sang Ngõa Thích, bị bắt lại hành hạ đủ đều. Nay Trung Quốc đã cường thịnh, cháu nội của ông ta lại đi sứ, đó là chuyện đáng mừng. Huống chi Vân Trọng một lòng vì nước, giỏi hơn cả gia gia của chàng, quả thật Vu Khiêm đã sáng suốt khi sai chàng đi sứ.
Trương Đan Phong tuy cảm thấy Vân Trọng không có thiện cảm với mình, đó là điều đáng tiếc, nhưng lại là chuyện riêng, cho nên nghe Vân Trọng đi sứ thì không khỏi ngạc nhiên, nhưng lại thầm mừng cho nước nhà.
Châu Sơn Dân nói: “Khi Vân Trọng vượt Nhạn Môn quan, đã từng gặp gỡ chúng tôi, y đã nhờ tôi đến báo tin cho bá mẫu, mời người đến kinh thành Ngõa Thích gặp gỡ. Không ngờ cha của y vẫn còn sống. Bá mẫu nói, khi đợi Vân Lối trở về sẽ cùng cha con nàng lên kinh. Không cần chúng tôi đi cùng”.
Trương Đan Phong nghe có hai chữ Vân Lối thì người run bần bật, Châu Sơn Dân liếc nhìn chàng, nói: “Vân Trọng dắt theo mười tám Ngự tiền thị vệ, ngoài ra còn có vài phụ nữ theo cùng”.
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Cái gì, sao lại có đàn bà con gái đi cùng?”
Châu Sơn Dân nói: “Đàm Đài tướng quân, nghe nói trong số đó có cả lệnh muội Đàm Đài Chính Minh”.
Đàm Đài Diệt Minh mừng rỡ nói: “Chắc là Đường thúc của ta bảo muội ấy đến đón ta”.
Châu Sơn Dân nói: “Không sai tý nào, xin chúc mừng, các người đều có thể trở về nước”. Chàng ngừng một lát rồi lại nói: “Những phụ nữ ấy đều là người trong làng Đàm Đài, lệnh muội đã gọi họ đi cùng cho có bạn”.
Đàm Đài Diệt Minh nghĩ bụng: “Chính Minh suy nghĩ thật chu đáo, vì không muốn miệng đời cười chê cho nên mới gọi nhiều người đi cùng. Công tử đang u uất như thế này, nếu hứa gả Chính Minh cho y, sẽ là một chuyện đẹp cả đôi đàng”. Y đang suy nghĩ thì nghe Châu Sơn Dân lại nói: “Họ là sư giả của thiên triều, trên đường đều có người tiếp đón, mỗi ngày chỉ có thể đi được năm sáu mươi dặm đường. Có lẽ hơn mười ngày nữa mới đến được kinh thành Ngõa Thích. Tôi đang lo cho họ”.
Trương Đan Phong nói: “Sao?”
Châu Sơn Dân nói: “Sau khi hai nước chiến loạn, khắp nơi đều có các nhân vật hắc đạo nổi lên. Vân Trọng tuy có mang theo mười tám Ngự tiền thị vệ nhưng cũng phải đề phòng chuyện bất ngờ. Trong Nhạn Môn quan, đã có tôi truyền Lục Lâm tiễn nên không có chuyện gì xảy ra. Ra ngoài Nhạn Môn quan, chúng tôi chẳng thể giúp gì được”.
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Lần này Dã Tiên có ý cầu hòa với Minh triều, sứ giả Minh triều xảy ra chuyện ở Ngõa Thích, y cũng sẽ phiền phức”.
Châu Sơn Dân nói: “Tuy là nói thế, nhưng ai cũng biết Dã Tiên xảo quyệt. Huống chi Ngõa Thích đang trong lúc chia năm xẻ bảy, chưa chắc gì nghe lệnh Dã Tiên. Đạo tặc lục lâm Ngõa Thích thì càng ghê gớm hơn. Chi bằng đề phòng vẫn hơn. Tôi muốn bàn bạc với các người, xem thử có nên sai vài người đón họ hay không?”
Trương Đan Phong im lặng không nói, nghe đến đây thì đột nhiên kêu: “Châu đại ca, Thạch hiền muội, tôi xin kính các người một chén!” Rồi bưng chén rượu lên uống cạn. Châu Sơn Dân, Thạch Thúy Phượng ngạc nhiên nhìn chàng, chỉ thấy Trương Đan Phong uống xong thì ném vỡ cái bát rồi cười rằng: “Châu đại ca, ngựa của tôi nhanh sẽ đi trước một bước. Các người yên tâm, tôi đảm bảo Vân đại ca sẽ đến kinh thành Ngõa Thích bình an!”
Rồi chàng phóng lên lưng ngựa, thớt ngựa hí dài tung vó chạy về phía trước. Đàm Đài Diệt Minh cùng mọi người cũng phóng lên ngựa đuổi theo.
Ba ngày sau, Trương Đan Phong về đến kinh thành Ngõa Thích, thấy người đi đường đông đúc, ai nấy cũng tranh mua lương thực. Té ra họ nghe tin phong thanh, sợ rằng Thái sư Dã Tiên sẽ đánh nhau với tri viện A Thích, cho nên mới tích trữ thức ăn.
Trương Đan Phong thầm than: “Nếu thiên hạ mãi mãi thanh bình, không có chiến tranh thì tốt bao nhiêu!” Rồi chợt nghĩ: “Sắp có đánh nhau to, Dã Tiên càng nôn nóng cầu hòa với Trung Quốc. Xem ra Vân Trọng may mắn hơn gia gia của y nhiều, lần này y sẽ hoàn thành sứ mệnh, lại có thể đón Hoàng đế của y trở về”.
Về đến nhà, chỉ thấy gia nhân bẩm cáo: “Thiếu gia, lão gia ngày đêm mong ngóng thiếu gia. Mấy ngày hôm nay lão gia đều nằm trên giường, cứ bảo mọi người ra ngoài thăm chừng xem thiếu gia đã về hay chưa”.
Trương Đan Phong thất kinh, vội vàng chạy vào thư phòng, chỉ thấy Trương Tôn Châu ngồi viết chữ một mình, nghe có tiếng người thì hỏi: “Ai thế?”
Trương Đan Phong mới thở phào, trả lời: “Là con. Cha, cha không sao chứ?”
Trương Tôn Châu quay đầu lại, nói: “Đàm Đài tướng quân đâu?”
Trương Đan Phong nói: “Ngựa của y chạy chậm, có lẽ sáng mai mới về đến nhà. Nghe người nhà nói, cha không khỏe, cha bị bệnh ư? Đã mời thầy thuốc chưa?”
Trương Tôn Châu nói: “Hiếm khi nào con quan tâm đến cha như thế. Cũng chẳng sao cả, chỉ là bệnh già, nửa tháng nay khí trời không tốt, mưa đến mười mấy ngày, hôm qua mới tạnh, khớp gối ta hơi đau mà thôi”.
Trương Đan Phong hỏi: “Sao không mời thầy thuốc?”
Trương Tôn Châu cười rằng: “Ta cũng định nói cho con biết, mấy quyển sách của Bành hòa thượng mà con mang về rất có ích. Té ra trong đó có ghi cách trị bệnh đau khớp, trong sách nói, dù cho chân tay có bị què, cũng có thể dùng cành liễu nối xương phối hợp với chữa trị bằng châm cứu sẽ khỏi hẳn”.
Năm xưa Bành hòa thượng đi đến nơi nào cũng viết, trong đó có những phần viết về phong thổ nhân tình, có những lời bàn luận về hình thế sông núi, lại còn ghi những kinh nghiệm dân gian... Những cuốn sách ở trong thạch động vốn rời rạc với nhau, Trương Đan Phong sau khi đem về thì sắp xếp, đóng lại thành sách để ở trong nhà, nay nghe cha nói như thế thì mới nhớ quả nhiên những quyển sách này rất có ích, chợt hỏi: “Cha, cha có thử chưa?”
Trương Tôn Châu đứng dậy đi mấy bước, rồi lại vung chân tung cước, nói: “Hôm qua ta đã thử, quả nhiên hôm nay có thể đi lại được”.
Trương Đan Phong nói: “Nếu linh nghiệm như thế thật là tốt. Con cũng phải đọc kỹ lại sách này”.
Trương Tôn Châu nói: “Bành hòa thượng là Quốc sư của Đại Châu chúng ta, là sư phụ của hai Thiên tử, học rộng hiểu nhiều, con phải nên đọc kỹ”.
Rồi lấy một quyển sách đưa cho Trương Đan Phong, bảo chàng ngồi xuống bên cạnh mình, uống chén trà rồi nói: “Nghe nói sứ giả của triều Minh sắp tới, ta đã yên tâm nhưng không biết đó là ai? Nếu người đó có thể giống như Vân Tĩnh thì thật là tốt”. Khi đang nói thì giọng điệu trở nên buồn bã, Trương Đan Phong biết ông nhớ lại chuyện xưa, trong lòng dấy lên nỗi ân hận, trong khoảnh khắc này, vẻ mặt tiều tụy của Vân Đăng, dáng dấp cứng cỏi của Vân Trọng, bộ dáng đáng thương của Vân Lối hiện lên trong lòng chàng, nghĩ bụng: “Cha mình tuy muốn giải mối thù trước, nhưng làm sao có thể giải được mối oan thù này?”
Trương Tôn Châu nói: “Đan Phong, con đang nghĩ gì thế?”
Trương Đan Phong gượng cười rồi nói: “Không có gì, con cũng đang đoán sứ thần của triều Minh là ai”.
Lúc đầu chàng vốn muốn cho cha biết chuyện Vân Trọng đi sứ, nhưng nghĩ lại, cha con Vân Đăng có thù sâu với cả nhà mình như thế, nếu nói thực cho cha biết, ông ta chắc chắn sẽ đau lòng hơn, áy náy hơn, cho nên chàng mới im lặng.
Hai cha con ngồi trầm ngâm một lúc lâu, Trương Đan Phong nói: “Cha, cha không đổi ý ư?”
Trương Tôn Châu biết chàng nói gì, cười khổ nói: “Sau khi sứ thần triều Minh đến, con cứ theo y trở về nước. Nhưng con không được làm quan cho triều Minh”.
Trương Đan Phong nói: “Thế còn cha?”
Trương Tôn Châu nói: “Kiếp này ta chỉ có thể trở về Giang Nam trong mơ. Con đừng nhắc chuyện này nữa!”
Sáng sớm hôm sau, gia nhân gõ cửa phòng Trương Tôn Châu nói: “Đàm Đài tướng quân và thiếu gia xin thỉnh an đại nhân”.
Trương Tôn Châu lập tức khoác áo bước vào thư phòng, Đàm Đài Diệt Minh đã chờ ở đấy, còn Trương Đan Phong đứng một bên.
Trương Tôn Châu nói: “Đàm Đài tướng quân, ông đã quay về rồi đấy ư? Đan Phong không hiểu chuyện, đã bỏ ông mà chạy về trước, thật là không nên”.
Trương Đan Phong chợt nhoúi lòng, nghĩ bụng: “Cha, cha nào biết con vội vàng trở về là vì phải vội vàng ra đi”.
Đàm Đài Diệt Minh: “Khởi bẩm chúa công, công tử muốn cùng tôi đến miền nam, cho nên xin cáo từ chúa công”.
Trương Tôn Châu giật mình, nói: “Sao? Mới về mà đã đi rồi ư?”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Nghe nói sứ thần triều Minh đã vào Ngõa Thích, chúng tôi muốn đi trước đón y”.
Trương Tôn Châu nói: “Ông quen với sứ thần triều Minh ư?”
Đàm Đài Diệt Minh đã được Trương Đan Phong căn dặn, lắc đầu nói: “Tuy không biết nhưng lần trước công tử về nước, tôi đi sứ cùng A Thích, đều được Vu Khiêm tiếp đãi trọng hậu, nghe nói sứ thần này là do Vu Khiêm tuyển chọn, chúng tôi cũng nên đi rước y để y khỏi gặp nguy hiểm”.
Khi nói chỉ thấy trong mắt Trương Đan Phong rướm lệ, Đàm Đài Diệt Minh biết tâm sự của chàng, cũng chính vì chàng cho nên y mới nói dối. Đàm Đài Diệt Minh liếc nhìn Trương Đan Phong, trong lòng cũng cảm thấy chua xót.
Trương Tôn Châu chậm rãi đứng dậy, thở dài nói: “Ta đã già, không thể ra sức vì Trung Quốc nữa, các người còn trẻ, thôi được, các người hãy đi đi!”
Nước mắt lăn dài trên má Trương Đan Phong, bình thường tuy cảm thấy giữa hai cha con có khoảng cách, nhưng trong khoảnh khắc, hai cha con tựa như tâm ý tương thông. Trương Đan Phong ôm cha rồi nói: “Cha, cha hãy bảo trọng!” Rồi chàng xoay người bước ra khỏi thư phòng.
Trương Đan Phong không dám quay đầu vội vàng chạy ra cửa, phóng lên lưng ngựa.
Họ đang nôn nóng đến miền nam đón sứ giả của triều Minh. Sứ giả của triều Minh cũng nôn nóng đến kinh thành của Ngõa Thích gặp họ.
Ngày mừng hai tháng Giêng bọn Vân Trọng rời Bắc Kinh, lúc này đã đi hơn một tháng, vào sâu địa phận Ngõa Thích. Đông qua xuân đến, tuyết bắt đầu tan, núi non đã có màu xanh, lúc này họ đang đi ngang qua một vùng núi non hoang vắng, mấy chục dặm đường mà không thấy nhà dân, trên đỉnh núi đôi khi có vài con chim ưng xà xuống tìm thức ăn, trên sườn núi chỉ có vài cây du thưa thớt mới nảy mầm xanh. Đàm Đài Chính Minh chép miệng: “Không ngờ Mông Cổ lại hoang vắng như thế, đừng nói là Giang Nam, ngay cả Bắc Kinh hoa đào cũng đã nở”.
Một người tùy tùng đã từng đến Mông Cổ cười rằng: “Nơi này vẫn chưa phải là hoang vắng, đến miền bắc, khắp nơi tuyết phủ càng hoang vắng hơn. Khi Tô Vũ chăn dê ở Bắc Hải, đừng nói là bóng người, cả bóng chim cũng chẳng thấy, chỉ uống nước tuyết, ăn thịt dê nướng”.
Vân Trọng nghe y nhắc chuyện Tô Vũ chăn dê, không khỏi nhớ đến gia gia của mình, lòng buồn bã cho nên chẳng nói gì cả. Đàm Đài Chính Minh dịu dàng nhìn chàng, cười rằng: “Nơi đây có thảo nguyên và sơn động, ngựa có thể nghỉ ngơi, muội thấy đêm nay chúng ta phải cắm trại ở đây”.
Vân Trọng vội vàng nói: “Đúng thế, dù sao hôm nay cũng không thể vượn khỏi thảo nguyên này, ngày mai đi cũng được. Muội lần đầu tiên đến Mông Cổ chắc chắn không quen. Hãy nghỉ ngơi sớm”.
Đàm Đài Chính Minh nói: “Cũng không sao cả, chỉ là hơi lạnh mà thôi, dần dần sẽ quen”.
Thật ra nàng vẫn chưa quen với khí hậu Mông Cổ, nhưng đã dần dần quen với tính khí của Vân Trọng. Vân Trọng là một hán tử cứng cỏi, tuy không nho nhã như Trương Đan Phong, nhưng cũng rất dịu dàng đối với nàng.
Vân Trọng chọn một góc núi khuất gió hạ trại. Cùng mọi người nhặt củi khô nổi lửa, ăn cơm tối xong, Vân Trọng tìm Đàm Đài Chính Minh trò chuyện. Đàm Đài Chính Minh chợt nói: “Trương Đan Phong và lệnh muội nếu biết chúng ta đến đây thì sẽ vui biết bao nhiêu! Sơn Dân ca ca đi trước báo tin chắc là đã gặp được họ. Chúng ta đến Ngõa Thích, chắc sẽ vài ngày sau mới trao quốc thư, huynh thấy có cần đến nhà họ Trương tìm họ không?”
Vân Trọng hừ một tiếng, nói: “Muội đến nhà họ Trương tìm ai? Có lẽ Trương Đan Phong đang chờ muội, nếu Vân Lối ở nhà họ Trương thì chẳng phải là muội muội của ta”.
Đàm Đài Chính Minh bật cười, nói: “Huynh đổi tính từ lúc nào thế? Có kẻ thù không đội trời chung nào đáng nhớ như thế không? Nếu lần này không nhờ Trương Đan Phong, Vu các lão đã không biết nội tình của Ngõa Thích, hai nước cũng sẽ không mau chóng giảng hòa như thế này, nếu không nhờ y, làm sao huynh trở thành sứ giả được?”
Vân Trọng nghe thế thì cúi đầu, nghĩ bụng Trương Đan Phong quả nhiên có một tấm lòng son, cho nên chàng không nói gì cả. Nhưng trong lòng vẫn không hy vọng em gái mình ở nhà họ Trương. Đàm Đài Chính Minh lại nói: “Lần này đến Ngõa Thích, huynh phải nên đến gặp Đan Phong, nói lời cảm tạ y”.
Vân Trọng nói: “Vu Các Lão có thư gởi cho y, ta đương nhiên phải gặp y. Chỉ là hai nhà chúng ta thù sâu như biển, nhưng lần này y bôn ba vì giang sơn đại Minh, cho nên ta không nhớ đến thù trước, nhưng muốn ta chuyển địch thành bạn với y thật không thể được!”
Đàm Đài Chính Minh mỉm cười, nói: “Thật hổ thẹn cho huynh là một đại trượng phu, khí lượng lại hẹp hòi như thế, chẳng bằng hạng nữ lưu chúng tôi, chúng tôi và Thiên tử họ Chu của huynh có thù mấy đời, nhưng Trương Đan Phong vẫn dâng bảo tàng cho triều đình. Nếu Trương Đan Phong nhớ thù xưa, y sẽ không giúp Vu Các Lão đón Hoàng đế trở về”.
Đàm Đài Chính Minh rất ngay thẳng, nghĩ đâu nói đó. Vân Trọng nghe thế thì giật mình, lòng dạ xốn xang, nghĩ bụng: “Chả lẽ mình không bằng Trương Đan Phong?”
Trong khoảnh khắc ấy, nỗi ám ảnh của bức huyết thư bằng da dê lại kéo tới, lòng chàng đang rối như tơ vò.
Đàm Đài Chính Minh định nói tiếp, chợt thấy Vân Trọng ngồi phục xuống đất, sắc mặt thay đổi, Đàm Đài Chính Minh ngạc nhiên nói: “Huynh làm gì thế?”
Vân Trọng nhảy bật dậy, nói: “Có đại đội quân mã kéo tới đây!” Nói chưa dứt, chỉ nghe tiếng tù và rúc lên, tiếp theo là tiếng tên bay xé gió lướt qua trại. Thị vệ chạy vào báo: “Phía trước phát hiện có một đội nhân mã bao vây chúng ta, không biết có bao nhiêu người, cũng không thấy cờ hiệu. Mời Vân đại nhân hạ lệnh đối phó!”
Vân Trọng nói: “Ở nơi thung lũng hoang vắng, chắc là có cường đạo đến cướp trại, các người hãy rời khỏi trại, cứ hai người một nhóm tự tìm chỗ ẩn nấp, thấy bóng người thì lập tức phóng tên bắn”.
Người ấy vâng một tiếng rồi lui ra. Đàm Đài Chính Minh nói: “Còn huynh thì sao?”
Vân Trọng nói: “Các người hãy tới trại của ta”.
Đàm Đài Chính Minh nói: “Huynh không ra ngoài ư?”
Vân Trọng nói: “Ta đang cầm cờ tiết, trong người có mang quốc thư, trong trại là lễ vật dâng cho vua Ngõa Thích, làm sao có thể rời khỏi nơi này. Những người đi cùng với muội không tiện ra ngoài chống địch, chi bằng cứ cùng ta giữ trại, bọn giặc cỏ ấy chẳng có gì đáng sợ”.
Đàm Đài Chính Minh nghe xong lòng thầm cảm kích, Vân Trọng bảo phải giữ lễ vật của triều đình là thật, nhưng còn một nguyên nhân nữa mà chàng không nói, Đàm Đài Chính Minh biết chàng đã ở lại vì họ. Chàng sợ họ chạy ra ngoài sẽ bị kẻ địch bắt sống rồi làm nhục; chàng biết mấy ngày hôm nay Đàm Đài Chính Minh đã đuối sức, đi đứng rất chậm chạp cho nên giữ nàng lại trong trại.
Mọi việc đã bố trí xong xuôi, kẻ địch cũng kéo tới, chỉ nghe bên ngoài tiếng tên bay vun vút, tiếp theo là tiếng binh khí giao nhau. Vân Trọng cười rằng: “Bọn này rồi sẽ no đòn”.
Vân Trọng đang ngồi chợt nghe xoạt một tiếng, một mũi tên có đốt lửa cắm vào vách trại, lớp trại bên ngoài bốc cháy. Vân Trọng kêu lên: “Không xong!” Chàng vội vàng xông ra dập lửa, rèm trại vừa mở ra, bên ngoài có một luồng kình phong chém tới, bốn năm kẻ bịt mặt xông vào. Những kẻ này nhớ có tiếng tên bay yểm hộ, cho nên lướt vào tới nơi Vân Trọng mới phát hiện.
Những kẻ che mặt ra tay rất lanh lẹ, vừa xông vào thì đã tung ra những đòn sát thủ, Vân Trọng quát lớn một tiếng, trở tay vỗ lại một chưởng đánh bật một kẻ che mặt bay ra ngoài trại.
Vân Trọng vỗ chưởng trái ra, chưởng phải đánh lối theo, chợt thấy người che mặt co mười đầu ngón tay lại chụp xuống, té ra y dùng công phu Đại lực ưng trảo. Vân Trọng hóp ngực thu bụng, chưởng trái chụp vào trong, người ấy kêu ồ lên một tiếng, trầm chưởng xỉa xuống, dưới ánh đèn, chỉ thấy bàn tay của y có màu tím đen, Vân Trọng thất kinh, xoay người tung một cước khiến người ấy ngã nhào, lúc này Đàm Đài Chính Minh cũng dẵ rút kiếm.
Vân Trọng kêu lên: “Bàn tay của bọn chúng có độc!”
Người phía trước mặt tựa như là một lão già, lão ta cười lạnh rồi cùng một tên khác tấn công Vân Trọng. Vân Trọng vừa đánh vừa nhìn, chỉ thấy Đàm Đài Chính Minh đang đấu ác liệt với hai kẻ che mặt, một trong hai kẻ đó có dáng dấp rất quen thuộc, kẻ này sử dụng Xích sa chưởng và Ưng trảo công, chưởng pháp rất kỳ dị, hơn ông già phía trước mặt vài lần. Đàm Đài Chính Minh sử dụng Nam nhạc kiếm pháp gia truyền, vẫn cố gắng chống chọi được, nhưng nàng cử động hơi chậm chạp. Hai kẻ che mặt ấy mau chóng thấy được nhược điểm của nàng, thế là đều tấn công xuống phần hạ bàn, ngay lúc ấy người che mặt sử dụng một chiêu quái dị, vỗ hai chưởng vào mặt Đàm Đài Chính Minh, nàng vung kiếm chặn lại, y đột nhiên ngã người xuống đất, hai tay tóm lấy chân Đàm Đài Chính Minh. Đàm Đài Chính Minh tung ra một cước, bị y nắm lấy gót chân trái đẩy mạnh, Đàm Đài Chính Minh phóng vọt người lên, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, tên đồng bọn phóng ra một sợi dây về phía trước toan bắt sống nàng.
Vân Trọng quát lớn một tiếng, quét ra một chưởng, tiếp lấy một chưởng của ông già che mặt. Chưởng này có thể mở núi phá đá, nếu hai người chạm vào, Vân Trọng sẽ bị trúng độc, còn cánh tay của ông già sẽ gãy lìa, ông già nào dám chạm vào, thế là lui người né tránh, người che mặt ở phía sau lao tới vung đao ra, bị Vân Trọng tóm lấy chui đao, kéo giật y tới, rồi vung chưởng phải chém vào đầu y.
Hai đòn này đều nhanh như điện chớp, Vân Trọng đẩy lùi được hai kẻ che mặt đang định lao về phía trước, chợt nghe một tiếng kêu thảm thiết vang lên. Té ra Đàm Đài Chính Minh tuy bị đau khớp vì lạnh, không còn nhanh nhẹn như bình thường, nàng bị người che mặt tóm lấy chân đẩy tới về phía trước, nàng đã mượn lực đẩy ấy phóng lên đỉnh trại, rồi xoay người trên không trung đâm thẳng xuống. Người sử dụng đao đã bị nàng đâm trúng cổ họng, sợi dây y vừa mới vung ra cũng chạm vào người nàng.
Người che mặt ấy vội vàng đứng dậy, chưởng thế của Vân Trọng đã dồn tới như dời núi lấp biển, y nào dám tiếp lấy, vội vàng thối lui ra sau. Ông già che mặt cũng từ sau đánh tới, trong chưởng phong có mùi tanh, lão ta chụp vào vai Vân Trọng, Vân Trọng vỗ vù ra một chưởng, tưởng rằng đắc thủ thì chợt cảm thấy vai đau nhói, chàng vội vàng trầm vai, chưởng phong tuy vẫn đánh trúng người che mặt, nhưng chưởng lực đã bị chặn lại một nửa. Dù như thế, kẻ che mặt cũng chẳng gượng dậy nổi. Vân Trọng nhảy vọt ra, vội vàng quay lại nhìn Đàm Đài Chính Minh. Ông già che mặt chỉ hừ một tiếng, tóm lấy kẻ đồng bọn bị thương lập tức phóng ra khỏi trại. Đàm Đài Chính Minh tháo sợi dây trên người mình, mỉm cười đứng dậy nói: “Thật nguy hiểm!”
Vân Trọng hỏi: “Có sao không?”
Đàm Đài Chính Minh nói: “Không sao cả”.
Vân Trọng nhíu mày nói: “Giày của muội đã tuột ra, cả vớ cũng tuột ra, để ta xem bàn chân của muội”.
Đàm Đài Chính Minh đỏ mặt, nói: “Làm gì thế?”
Vân Trọng nói: “Lần trước ta đã bị thương, toàn là nhờ muội chăm sóc, lúc này đến lượt ta chăm sóc cho muội”.
Đàm Đài Chính Minh nói: “Vớ của muội bị y cào rách, làm sao bị thương được?” Rồi nàng cởi vớ giở bàn chân lên xem, quả nhiên ở dưới bàn chân có một dấu màu đỏ to như đồng tiền. Vân Trọng nói: “Thật lợi hại. May mà còn cách một lớp vớ”. Rồi nhặt thanh kiếm của Đàm Đài Chính Minh vạch một vòng tròn xung quanh dấu ấn màu đỏ ấy rồi nặn máu ra, bội thuốc khử độc lên rồi nói: “Muội hãy nghỉ ngơi một lát, để ngày mai xem thương thế thế nào rồi sẽ trị tiếp”.
Vân Trọng nói có vẻ thản nhiên, nhưng thật sự trong lòng lo lắng lạ thường. Chàng dùng không đúng thuốc giải, tuy đã nặn máu độc ra, loại thuốc này cũng có tác dụng khử độc, nhưng rốt cuộc vẫn không yên lòng, chàng sợ rằng độc khí vẫn còn, tuy không đến nỗi chết nhưng cũng có thể khiến cho nàng tàn phế.
Đàm Đài Chính Minh tựa như không hề hay biết, trong lòng cảm thấy an ủi vô hạn vì Vân Trọng rất quan tâm cho nàng, chăm sóc cho nàng rất cẩn thận. Đàm Đài Chính Minh rất cảm động, nàng nghĩ bụng: “So với Trương Đan Phong, chàng có hơi thô lỗ hơn, nhưng đối với mình cũng rất chân thành, chẳng khác gì Trương Đan Phong đối với Vân Lối”.
Thế rồi mỉm cười nói với Vân Trọng: “Huynh đừng chỉ lo cho muội, lúc nãy huynh cũng bị lão già che mặt chụp trúng”.
Vân Trọng cười: “Huynh đã có mặc áo giáp, không sao cả”. Rồi chàng cởi áo giáp ra xem, áo giáp cũng bị cào rách một mảng may mà chưa trúng da thịt. Đàm Đài Chính Minh chép miệng: “Người che mặt ấy thật lợi hại, công lực cao hơn kẻ ám toán muội”.
Khi hai người đang ngồi nói chuyện thì các nữ binh dã dập tắt lửa, vệ sĩ bên ngoài vào báo cáo: “Nhờ phước lớn của Vân đại nhân, kẻ địch đã thối lui”.
Vân Trọng nói: “Có còn tên nào nữa không?”
Vệ sĩ nói: “Hình như bọn chúng chỉ đứng ở nơi cao bắn tên về phía chúng ta nhưng không xông tới”.
Vân Trọng nói: “Bọn chúng tấn công không được, e rằng sẽ đánh lén, các người hãy cẩn thận không được lơi lỏng. Có ai bị thương không?”
Vệ sĩ trả lời: “Chỉ có hai người bị trúng tên, một người bị trúng đao nhưng không nghiêm trọng”.
Vân Trọng nói: “Đỡ họ vào lều, bảo nữ binh băng bó vết thương cho họ”.
Mười tám Ngự tiền thị vệ đi theo Vân Trọng võ công đều cao cường, ai cũng có thể địch lại cả trăm người. Ba vệ sĩ vừa được băng bó xong thì đã có người vào báo: “Kẻ địch đốt một đống lửa lớn ở trên núi, không biết là để làm gì?” nói chưa dứt thì có tiếng tù và lại rúc lên bên ngoài.
Tiếng tù và rúc lên nhưng chẳng thấy có kẻ nào xông tới. Vân Trọng nói: “Không xong, bọn lục chúng đốt lửa, thổi tù và chắc chắn là kêu viện binh, chỉ e trước khi trời sáng lại sẽ có một trận ác đấu nữa”.
Rồi bảo tùy tung chia ra, cứ mỗi nhóm hai người nấp xung quanh trại.
Quân địch lại rúc tù và lên rồi ngừng hẳn, chỉ có khói lửa vẫn bốc cao, Vân Trọng bước tới nhìn kỹ Đàm Đài Chính Minh rồi hỏi: “Có đỡ hơn chưa?”
Đàm Đài Chính Minh nói: “Đã thoải mái hơn nhiều”. Rồi nàng nhíu mày, chợt nói: “Muội thấy kẻ địch ấy không phải là kẻ cường đạo bình thường”.
Vân Trọng nói: “Sao?”
Đàm Đài Chính Minh nói: “Nếu chỉ là một cường đạo bình thường, bọn chúng không cần che mặt”.
Vân Trọng nói: “Muội cho rằng đó là quân Mông Cổ? Ta nghĩ Dã Tiên không dám làm càn như thế, ta đã sai người kiểm tra ba cái xác, bọn chúng đều là người Hán”.
Đàm Đài Chính Minh nói: “Tại sao bọn chúng phải che mặt? Sao lại có nhiều người Hán làm cường đạo ở đất Mông Cổ?”
Vân Trọng nhíu mày, chợt nói: “Bọn chúng sợ bị chúng ta nhận mặt, kẻ che mặt đả thương muội trông rất quen thuộc, hình như ta đã gặp ở đâu đó”.
Đàm Đài Chính Minh nói: “Huynh hãy nghĩ thử xem”.
Vân Trọng nói: “Ồ, ta đã nhớ, khi ta tỉ thí đoạt Võ trạng nguyên, ta đã từng gặp người này. Lúc đó cử tử tỉ võ rất nhiều, ta không giao thủ với y, nhưng không nhớ nổi y là ai”.
Nghĩ ngợi một lát, Vân Trọng lại thở dài: “Đáng tiếc lúc nãy không bắt sống y được”.
Nói đến đây, đỉnh trại chợt như có vật nặng đè xuống, Vân Trọng cả kinh đứng vọt lên. Chỉ thấy mái trại rách toạc ra, một người rơi xuống, đó chính là kẻ đã đả thương Đàm Đài Chính Minh. Vân Trọng kêu: “Là cao nhân nào đùa với chúng ta thế này?” Chợt thấy lại có một người chui tọt vào nữa, người đó cười ha hả nói: “Tôi đã giúp huynh bắt sống ác tặc, sao bảo là đùa cợt?”
Đàm Đài Chính Minh cả mừng, té ra đó chính là Trương Đan Phong.
Vân Trọng trợn mắt không lên tiếng, chỉ nghĩ bụng: “Trương Đan Phong quả thật xuất thần nhập quỷ”.
Trương Đan Phong nói: “Huynh hãy lột mặt nạ của y xem thử”.
Hình như người che mặt đã bị Trương Đan Phong điểm huyệt đạo ngã xuống đất, chẳng hề động đậy được. Vân Trọng kéo mặt nạ của y xuống, té ra đó là Sa Vô Kỵ. Vân Trọng nhớ khi tỉ võ, y đã bị sư điệt của Thiết Tý Kim Viên là Lục Triển Bằng đánh rơi xuống đài, lúc đó chỉ tưởng y là một cử tử bình thường, không ngờ y là một tên đại tặc tung hoành ở biên giới hai nước.
Vân Trọng nổi giận, nói: “Trương huynh, hãy giải huyệt đạo cho y, để tôi thẩm vấn y”.
Trương Đan Phong mỉm cười, nói: “Viện binh của bọn chúng đã tới, có rất nhiều cao thủ sẽ tấn công vào, đâu có thời gian để huynh thẩm vấn?”
Đàm Đài Chính Minh biết Trương Đan Phong túc trí đa mưu, chắc chắn chàng đã tính toán trước, thế là lập tức nói: “Trương đại ca, chúng ta ít người e rằng không chống chọi lại lâu. Huynh có nghĩ ra cách nào chưa?”
Trương Đan Phong nói: “Vân huynh, tôi đã có cách”.
Vân Trọng đã khâm phục Trương Đan Phong, nói: “Mời huynh cứ ra lệnh”.
Trương Đan Phong nói: “Lập tức rút lui!”
Vân Trọng nói: “Trong đêm tối không biết hư thực của địch, lại có cả phụ nữ, rút lui chẳng phải sẽ càng nguy hiểm hơn hay sao?”
Đàm Đài Chính Minh mỉm cười: “Trương đại ca chắc chắn sẽ có cao kiến”.
Vân Trọng im lặng. Trương Đan Phong nói: “Huynh hãy mang tất cả lễ vật đặt lên ngựa. Bảo những người khác đều bỏ ngựa cùng tôi xông ra, đảm bảo huynh sẽ không hề tổn thương mà còn lập công lớn”.
Vân Trọng nửa tin nửa ngờ, liếc nhìn Đàm Đài Chính Minh, Đàm Đài Chính Minh nói: “Huynh không cần lo lắng cho muội, muội vẫn còn có thể đi được”. Rồi chợt nàng đứng dậy. Trương Đan Phong nói: “Té ra Đàm Đài muội muội đã bị thương! Nếu có thể đi lại được thì không sao, một lát nữa huynh sẽ chữa trị cho muội”.
Rồi bảo nữ binh chọn ra một thớt ngựa tốt, lấy vải dày bọc vó ngựa lại, bỏ tất cả đồ đạc lên lưng ngựa. Vân Trọng gởi tất cả mười tám vệ sĩ lại, lẳng lặng cùng Trương Đan Phong rút đi. Trước khi đi, Trương Đan Phong bảo họ đâm dao lên mông ngựa, những thớt ngựa ấy chạy về phía trận địa của quân địch, trong đêm tối quân địch tưởng họ đánh lén cho nên vội vàng nghênh chiến. Nhân lúc hỗn loạn, Trương Đan Phong đã dắt mọi người âm thầm vượt ra bằng một con đường nhỏ ở phía tây.
Bọn họ đều có khinh công cao cường, vó ngựa đều được bọc vải dày, cho nên khi đi đường không phát ra tiếng, lại là lúc hỗn loạn nên kẻ địch không phát giác. Đi được một hồi, Vân Trọng ngạc nhiên hỏi: “Sao con đường này không có kẻ địch canh giữ?”
Trương Đan Phong cười nói: “Con đường này không có lối ra, hơn mười tên tiêu binh đã bị tôi kết liễu. Yên tâm, đoạn đường bên dưới càng hiểm trở hơn”.
Hai bên đá núi lô nhô, dưới mặt đất dây gai che lối, Trương Đan Phong tay cầm kiếm dắt ngựa dẫn đầu mở đường, trong khoảnh khắc đã ra đến bên ngoài. Ánh trăng bị mây đen che khuất, chỉ có vài ánh sao lấp lánh, hình như ở phía trước có một thung lũng rộng, hai bên là vách núi.
Vân Trọng nói: “Ở phía trước có núi lớn cản đường, trong đêm tối làm sao vượt qua? Rốt cuộc cũng bị bọn chúng phát giác”.
Trương Đan Phong cười nói: “Tôi đang dụ bọn chúng đến đây”. Thế rồi chỉ huy mọi người tìm chỗ cao mai phục. Một lát sau chỉ thấy ánh lửa nối đuôi nhau tiến vào, quả nhiên kẻ địch đã phát hiện đuổi tới. Trương Đan Phong đột nhiên cười ha hả, tiếng cười của chàng vang vọng khắp nơi trong đêm tối, kẻ địch không biết bọn họ nấp ở nơi nào cho nên chạy tán loạn, đột nhiên nghe tiếng kêu cứu vang lên. Trương Đan Phong quát: “Lăn đá xuống!”
Trên núi có rất nhiều tảng đá to, bình thường nhiều người chẳng lay nổi, nhưng tùy tùng của Vân Trọng đều là những kẻ có võ công cao cường, Trương Đan Phong vừa hạ lệnh, đá từ trên cao đã đổ ầm ầm xuống. Dưới ánh lửa, chỉ thấy kẻ địch chạy tán loạn dưới thung lũng, tám chín phần hình như đều đã bị đá đè không đứng dậy nổi.
Vân Trọng nhìn kỹ lại, chỉ thấy bên dưới mặt đất bồng bềnh như nước hồ. Té ra phía dưới là một đầm lớn, bên trên có phủ lục bình, trong đêm tối nhìn cứ tưởng là một mặt đất rộng lớn. Kẻ địch xa vào trong đầm đã khó thoát ra, lại bị đá rơi trúng nên càng thê thảm hơn. Vân Trọng cả kinh, té ra lúc nãy họ vừa đi ngang qua bờ đầm, nếu không phải Trương Đan Phong quen đường thì họ đã sa chân xuống đầm.
Đàm Đài Chính Minh nói: “Tha cho bọn chúng”.
Trương Đan Phong hạ lệnh ngừng lăn đá, nói với Vân Trọng: “Bọn lâu la có thể tha, nhưng không nên để sổng kẻ thủ lĩnh. Tôi và huynh sẽ đi bắt bọn chúng. Đàm Đài muội muội, muội hãy chờ một lát”.
Trương Đan Phong dắt Vân Trọng ra khỏi núi, lúc này quân địch đã rối loạn, hùa nhau tháo chạy, hai người Trương, Vân lặng lẽ xuất hiện, chỉ thấy có một ông già che mặt và một người khác đang đoạn hậu, trên đường cứ quát tháo gọi bọn lâu la tập hợp lại.
Trương Đan Phong và Vân Trọng đột nhiên nhảy ra, Vân Trọng đâm một kiếm về phía ông già che mặt, ông già ấy lách ra vỗ vù ra một chưởng, nào ngờ thân pháp của Trương Đan Phong càng nhanh hơn, tựa như đã biết trước đường rút của lão, thế là mũi kiếm chệch qua đâm trúng vào vai của lão ta, lão già vỗ vù một chưởng đã sớm mất trọng tâm, lại bị trúng một kiếm cho nên té sầm xuống đất. Trương Đan Phong nắm lấy cổ áo của y giở lên. Vân Trọng nhảy bổ về phía người che mặt kia, trở tay vỗ ra một chưởng, nhưng kẻ này vẫn không ngã xuống, té ra y đã mặc áo da hộ thận. Vân Trọng vỗ thêm một chưởng khiến áo da của y rách toác, Vân Trọng lại vỗ ra tiếp chưởng thứ ba, người ấy hừ một tiếng, xỉa chỉ vào eo Vân Trọng, xoay người tung ra một cước, mũi chân hất vào cổ tay của Vân Trọng. Hai chiêu này hiểm hóc lạ thường, đó chính là võ công thượng thừa của phái Thiên Long ở Tây Tạng, Vân Trọng chỉ đành rút chưởng hộ thân, người ấy lập tức tháo chạy.
Trương Đan Phong bắt xong lão già che mặt, xoay người lại thì chạm phải kẻ ấy, kẻ ấy đánh ra một quyền, Trương Đan Phong đẩy ông già về phía trước chặn lại, rồi chàng xoay người vung chưởng trái ra, chỉ nghe ông già che mặt gào lên như lợn bị chọc tiết, kẻ che mặt lúc nãy cũng rú lên. Trương Đan Phong cười ha hả, nhìn lại ông già che mặt thì ra đã bị đồng bọn đánh bất tỉnh.
Vân Trọng chỉ về phía kẻ ấy hỏi: “Người này võ công cao cường, sao Trương huynh lại tha cho y?”
Trương Đan Phong cười nói: “Nên bắt thì bắt, nên thả thì thả, chi bằng cứ thả y chạy thì hơn”.
Vân Trọng cảm thấy chàng cố ý tỏ ra bí hiểm, cho nên không vui, nhưng cũng không hỏi nữa.
Hai người quay lại chỗ cũ, Đàm Đài Chính Minh khen: “Hay lắm! Quan Công uống rượu chém Hoa Hùng chẳng qua chỉ có thế!”
Trương Đan Phong nói: “Hay lắm, đêm nay không có chuyện gì nữa, chúng ta hãy ngủ cho khỏe. Vân huynh, giờ đây đã đến lúc huynh thăng đường xét xử”.
Rồi gọi mọi người dựng trại, ai nấy đều quay về trại nghỉ ngơi, Trương Đan Phong cùng Vân Trọng, Đàm Đài Chính Minh khiêng ông già che mặt vào trong trại.
Trương Đan Phong đã sớm đoán được kẻ này là ai cho nên vừa kéo mặt nạ xuống quả nhiên đó chính là Sa Đào. Trương Đan Phong lạnh lùng hỏi: “Ngươi bán bạn cầu vinh, thông gian bán nước, chết trăm lần cũng không đủ chuộc tội, may mà đêm nay ta đã đoán được mọi chuyện, nếu không hai nước sẽ đánh nhau vì các ngươi!”
Vân Trọng cũng quát: “Sứ giả đại Minh chẳng có thù oán gì với các ngươi, tại sao ngươi cố ý giết hại bọn ta? Hãy mau khai thực, nếu không sẽ chịu khổ”.
Sa Đào nói: “Ta không hề có ý giết hại các người, càng chẳng muốn khuấy động can qua giữa hai nước”.
Vân Trọng nói: “Vậy tại sao ngươi lại đánh lén bọn ta?”
Sa Đào nói: “Điều này... điều này...” nhưng y ấp úng không nói ra lời. Trương Đan Phong cười lạnh, nói: “Ngươi có nói hay không?” Rồi xỉa hai ngón tay xuống be sườn Sa Đào. Sa Đào lập tức cảm thấy trong người như có hàng trăm ngàn mũi kim, đau đớn vô cùng, y vội vàng nói: “Ngài hãy tha cho tôi, tôi nói, tôi nói”.
Trương Đan Phong giải huyệt đạo cho y, nói: “Nếu nói dối nửa lời, ngươi lại phải chịu khổ”.
Sa Đào nói: “Là Dã Tiên sai khiến tôi”.
Vân Trọng thất kinh, nói: “Nói bậy”.
Sa Đào nói: “Dã Tiên vốn bảo chúng tôi bắt sống ngài, sau đó y sẽ phái binh cứu về, lúc đó ngài sẽ chịu ơn của y”.
Vân Trọng nghĩ mà chẳng thông, Trương Đan Phong cười nói: “Kế sách này thật độc địa, đúng là một viên đá ném chết ba con chim. Đầu tiên là sứ giả thiên triều sẽ mất mặt”.
Đàm Đài Chính Minh nói: “Y đem quân cứu huynh trở về, huynh lọt vào tay y, lúc này đã là tù binh của y”.
Trương Đan Phong nói: “Như thế trong lúc giảng hòa, y sẽ lấn lướt, lúc đó huynh sẽ không dám chống đối”.
Vân Trọng suy nghĩ kỹ lại thì thầm than mình kém trí, không nhanh nhạy bằng Trương Đan Phong và Đàm Đài Chính Minh.
Trương Đan Phong nói: “Dã Tiên sẽ sai người đón các người ở đâu?”
Sa Đào nói: “Ở núi phía trước”.
Trương Đan Phong nói: “Quả nhiên ngươi không nói dối, được, tha cho ngươi”.
Thế rồi chàng vỗ hai chưởng vào người y, đánh vỡ xương tỳ bà của y, khiến cho y không còn sức phải tàn phế suốt đời, dù có độc chưởng cũng không thể đả thương người. Rồi cũng đối phó với Sa Vô Kỵ như thế.
Vân Trọng nói: “Ngày mai chúng ta làm sao đối phó với quan binh của Ngõa Thích?”
Trương Đan Phong nói: “Huynh hãy ngủ một giấc cho khỏe, giữ đủ tinh thần thì có thể ứng phó được. Tóm lại ngày mai tôi sẽ không mất mặt”.
Đàm Đài Chính Minh nói: “Trương đại ca thần cơ diệu toán, quả thật không ai bì nổi, sao huynh đoán được tất cả mọi chuyện? Chả lẽ huynh có thể biết trước được sự việc?” Vân Trọng cũng rất nghi hoặc, muốn bảo Trương Đan Phong giải thích, Trương Đan Phong mỉm cười xua tay: “Thiên cơ không thể tiết lộ, sáng sớm ngày mai các người sẽ biết cả, cần gì gấp gáp. Vân huynh, các người nên đi ngủ thôi”.
Vân Trọng định đi ngủ, Trương Đan Phong chợt nói: “Ta suýt nữa quên một chuyện, huynh hãy đợi cho một lát. Đàm Đài muội muội, chân của muội thế nào?”
Đàm Đài Chính Minh đi thử hai bước, nói: “Hình như còn hơi đau”. Rồi vén ống quần lên xem, Vân Trọng kêu hoảng: “Chân đã xưng to, Đan Phong, huynh có cách nào trị cho nàng không?”
Trương Đan Phong nói: “Đúng thế, nhưng huynh phải trị cho Đàm Đài muội muội”. Rồi chàng lấy ra một cây ngân châm, nói: “Huynh hãy đâm hai mũi vào huyệt Thông Tuyền ở dưới gót chân, hai mũi vào huyệt Phượng Vĩ, sáng sớm ngày mai sẽ không còn sưng nữa, được, huynh không cần phải lo, ta sẽ chỉ cho huynh cách châm cứu”. Rồi thuận ta vẽ một bàn chân, nói: “Khí hậu Ngõa Thích không tốt, có rất nhiều người bị chứng đau khớp, cách châm cứu này của tôi không những có thể chữa trị vết thương của Đàm Đài muội muội, mà còn có thể chữa được những người bị què, Vân huynh, huynh phải học”.
Vân Trọng nghĩ bụng: “Nàng không phải là người què, cần gì phải học nhiều như thế!” Rồi nói: “Ngày sau học cũng không muộn”.
Trương Đan Phong nói: “Không học không được! Huynh không chịu học phải không? Được, tôi sẽ trao cuốn sách này cho huynh, Đàm Đài muội muội, muội hãy thúc giục Vân huynh học đấy nhé”. Rồi lấy ra một quyển sách, xé một chương trong đó nhét vào tay Vân Trọng. Vân Trọng cảm thấy rất ngạc nhiên.
Đó chính là:
Ý tốt này người chẳng hay, nhưng rồi sau sẽ biết.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau phân giải.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.