Quyển 5 - Chương 194: Ăn miếng trả miếng
Nguyệt Quan
20/03/2013
Dương Hạo nghe Mục Thanh Tuyền nói mấy câu, không chịu nổi nữa, hắn lập tức ra chỗ xe, đi thẳng đến tri phủ nha môn, lại lệnh cho Bích Túc, Mục Vũ chia nhau đi tìm các quan, hẹn đến gặp mặt ở tri phủ nha môn. Dương Hạo ngồi xe đến tri phủ nha môn, phủi sạch quần áo, thay quan bào, đi thẳng đến đại đường. Nhóm người phụ tá tri phủ là Phạm Tư Kỳ và Bôi Bằng Vũ lúc này cũng đã nghe được tin mà đến.
Dương Hạo thấy các quan chưa đến, liền hỏi phụ tá tri phủ: “Nghe nói họ hàng của Mộc đoàn luyện sứ tìm nơi nương tựa trên thảo nguyên? Dân số khoảng bao nhiêu, giờ bố trí ra sao?”
Bôi Bằng Vũ vội nói: “Đúng vậy đại nhân, họ hàng của Mộc đoàn luyện sứ đã nghe tin mà đến nương tựa, ước tính có khoảng 1322 lều, 5446 người, trong đó phụ nữ, trẻ em và người già đã bố trí ở sau cốc, đào hầm trú ẩn, xây dựng lều lán cho bọn họ ở, tộc người đó mang theo rất nhiều trâu dê ngựa, để tiện cho chăn thả, người già chăn thả ở ngoài bãi cỏ cách cốc hơn mười dặm, xây dựng lều trại chăn thả ở đó”.
Lô Lĩnh cốc nói là một cốc, đó là vì ngoài phía trước có lối ra, thì xung quanh đều là dãy núi bao quanh. Sơn cốc này uốn lượn theo từng khúc, thế núi kéo dài về phía sau, nó không phải là một con đường thẳng tắp. Chỗ rộng nhất trong sơn cốc là mười lăm, mười sáu dặm, chỗ hẹp nhất chỉ có năm sáu dặm, qua tri phủ nha môn của Dương Hạo, đi về phía hậu viện, còn có một khoảng không rộng lớn, phải đi ra gần hai mươi dặm, mặt đất mới từ từ bị bó hẹp, mất đi dãy núi trùng điệp.
Theo sự bố trí của Dương Hạo, sau khi mấy vạn dân đăng khí chải vuốt sợi, theo khu hành chính ở trong thôn mà phân biệt hoạch định khu rồi bố trí, từng thôn trang và chợ nhỏ trong sơn cốc được mở ra vô số, kéo dài về phía sau. Không gian mở ra khi vừa mới vào cốc là chi phủ nha môn, bên trái bên phải của tri phủ nha môn dựa vào núi, xây nhà ở cho các quan cấp dưới. Hai bên phía trước cốc, một bên kinh doanh và chỗ ăn chơi như nhà trọ bình dân, hiệu buôn, quán rượu. Tòa nhà hầm gần hai bên cửa cốc được đào thông với nhau, là hầm binh ẩn nấp.
Sự bố trí của Bôi Bằng Vũ, theo tập quán sinh sống của tộc người Lý Quang Sầm, đều đưa đàn bà trẻ em người già vào trong cốc làm công thương, hoặc làm nghề nông, sự sắp xếp đó là hợp lý. Dương Hạo gật đầu nói:
“Bố trí như vậy là rất tốt, cho dù là Khiết Đan hay là các tộc người khác, có nhiều tộc người rất phức tạp, theo tập quán của dân chúng mà đưa ra các điều lệ quản lý khác nhau, ví dụ như xây Nam viện, Bắc viện để phân biệt người Hán và người Khiết Đan. Ở với nhau một thời gian thì chắc chắn sẽ xảy ra xung đột, việc này…mất khá nhiều thời gian”.
Bôi Bằng Vũ vâng vâng dạ dạ, Dương Hạo lại bỏ một khoảng thời gian để tìm hiểu thêm tình hình dân chúng từ phía bọn họ. Những quan văn võ như Trình Đức Huyền, Lý Quang Sầm, Kha Trấn Ác đều đã lần lượt đến, Dương Hạo ngồi vào vị trí của mình, sau đó mời bọn họ ngồi xuống, rồi mới hỏi tình hình gần đây có sự xung đột với các bộ lạc khác.
Hóa ra, những ngày Dương Hạo không có mặt, việc làm ăn buôn bán của dân chúng Lô Lĩnh Châu và Đảng Hạng Thất Thị rất tấp nập. Phần nhiều dân chúng tạm thời chưa có công ăn việc làm đã cùng nhau vào núi săn thú, hái quả dại, để bán hoặc phơi phóng cất giữ, những động vật mà săn bắt được ướp muối cẩn thận rồi cất, dùng lông thú làm áo lông chuẩn bị cho mùa đông gía lạnh. Cách săn bắt này có tác dụng rất tốt, dân chúng có việc làm, nỗi lo âu trước đây của dân chúng giờ cũng đã mất.
Nhưng một khi thợ săn bọn họ đi xa thì sẽ chạm mặt với các bộ lạc người Khương. Bộ lạc này không lớn, vào khoảng mấy trăm người. Có vài người Khương của bộ lạc sau khi chạm mặt với họ, biết được sự tồn tại của người Hán Lô Hà Lĩnh, liền đem da lông thú vật mà mình săn được đến Lô Hà Lĩnh bán, vì thương nhân qua lại Lô Hà Lĩnh rất nhiều, nên da thú vật của họ đều được bán với giá rất cao, rồi đi mua muối, trà, vải vóc về nhà, họ rất vui vì điều này, sau khi tin này được truyền ra xa, thì có thêm người Khương từ nơi xa đến buôn bán với bọn họ.
Nhưng bộ lạc người Khương không phải tất cả đều là người tốt, họ biết buôn bán, người ở bộ lạc còn tàn ác dã man, có lúc chúng ép mua ép bán, không khỏi phát sinh tranh chấp với Lô Hà Lĩnh. Đồng thời, những thương nhân người Hán này cũng khôn, biết làm giả những thứ đem bán rồi mang bán cho họ, xung đột hai bên ngày càng căng thẳng.
Người Khương bị thiệt, trở về tập trung tộc người gây rối, ban đầu chỉ là đánh nhau của họ hàng, bạn bè, sau thì trở thành chiến tranh của toàn bộ lạc. Trình Đức Huyền vốn còn mang những chuyện này làm thành tranh cãi của toàn dân, muốn để cho triều đình xử lý, nhưng người Khương nào biết Vương pháp là gì, ban đầu là chúng tìm đến gây sự, sau thì trở thành đánh giữa đường cho hả giận, cướp bóc những thương nhân giàu có.
Nhân mã được tập hợp lại ngày càng nhiều, bọn chúng gào thét núi rừng, làm cường đạo, coi Lô Hà Lĩnh là miếng mồi ngon mà xâu xé. Hai vị đoàn luyện sứ Lý Quang Sầm và Kha Trấn Ác vội tổ chức phòng thủ, đánh vài trận với chúng, xung đột hai bên ngày càng khốc liệt, trở thành trận chiến giữa người Hán Lô Hà Lĩnh và người Khương.
Để phòng bọn chúng bất ngờ tấn công dân chúng Lô Hà Lĩnh, cướp đoạt hàng hóa, nên Kha đoàn luyện mới lệnh cho trạm canh gác tứ phía, nhưng những dân tráng canh gác này không phải là đối thủ của người Khương, dân chúng Lô Lĩnh Châu bị thiệt thòi lớn. May mà lúc này mấy nghìn tộc người của Lý Quang Sầm đã từ thảo nguyên trở về, bộ tộc bất luận là già trẻ trai gái, có vũ khí hay không, Mộc Ân chọn ra trai tráng trong đó thêm vào bát dân đoàn, lúc này sức chiến đấu mới mạnh lên.
Dương Hạo nghe xong, hai mày nhíu lại, quay sang nói với Lý Quang Sầm:
“Mộc lão, những tên người Khương này là tộc người của Đảng Hạng Thị nào?”
Lúc đó hắn mới nghĩ ra, hắn có mối quan hệ mật thiết với Đảng Hạng Thất Thị, là cộng chúa của Thất Thị, lẽ nào trói buộc không nổi những tên người Khương này.
Lý Quang Sầm nhìn hắn liền hiểu được bụng dạ hắn đang nghĩ gì, liền nói:
“Phủ đài đại nhân, người Khương có rất nhiều nhánh bộ lạc không lệ thuộc, cái gọi là Đảng Hạng Bát Thị, chỉ là Bát Thị lớn nhất của khu Hoành Sơn. Bộ lớn nhất chính là Dã Ly Thị, nhưng còn có rất nhiều bộ lạc khác, có lớn có nhỏ, rải rác ở khu Hoành Sơn, đông thì có khoảng ba năm trăm chiếc lều tộc người, nhỏ thì chỉ có mấy chục lều tộc người, tổng số là 1340000 lều. Chúng vừa săn bắt, vừa học được cách trồng trọt của người Hán, có một bộ lạc thiện chiến như bộ lạc người Khương và Dã Ly Thị, hơn nữa còn am hiểu tác chiến vùng núi, không bị Hạ Châu và Lân phủ quản lý”.
Dương Hạo vuốt mũi, ngạc nhiên nói:
“Người Khương có hàng vạn lều, ít nhất thì cũng có sáu bảy vạn người, đông như vậy giữa trời đất mênh mông, ba thế lực không để ý đến sao?”
Khi Trình Đức Huyền từ Phách Châu hướng Bắc Hán đã cẩn thận nghiên cứu về tình hình địa lý, trình độ hiểu biết của người tây bắc, tình hình ở đây cũng có hiểu một chút, thấy Dương Hạo không hiểu, bèn nói:
“Phủ đài đại nhân, người Khương phân tán ở khu núi non Hoành Sơn, vốn không dễ quản lý, vả lại dân chúng dũng mãnh, cho nên cho dù là Hạ Châu hay Phủ Châu đều lấy việc trấn an bọn chúng là chính”.
Dương Hạo hơi nheo mắt lại, trầm giọng nói:
“Cái gì gọi là trấn an?”
Trình Đức Huyền mỉm cười, từ từ nói:
“Cái gọi là trấn an, chính là chức quan mà người Khương Hoành Sơn này nắm giữ, cho bổng lộc, không nộp thuế, chỉ mong bọn chúng không đến gây chuyện là tốt lắm rồi. Người Khương Hoành Sơn dã tính khó lường, cư dân hỗn tạp hơn người Hán. Nếu chúng mà hướng Hạ Châu thì sẽ ảnh hưởng luôn đến Lân Châu, khó cai quản lũ người này”.
Hắn không biết đảng người của Mộc Ân là người Khương, cho nên không kiêng dè gì mà bình xét, thấy Dương Hạo chăm chú nghe, liền uống một hớp trà, chậm rãi nói:
“Người Tống ta và người Khương kia có thói quen khác nhau. Khác ở chỗ về địa lý, có khai hóa hay không, nhưng điểm thực dụng nhất là thủ lĩnh của các bộ lạc có phải là người Tống hay không. Có tuân thủ theo người Tống là thục hộ. Nhưng thục hộ này luôn không đổi, khi thần phục Tống thành thục phiên, một ngày nào đó làm phản, thì lại thành bọn mọi rợ.
Việc chiêu dụ với những tên người Khương không thuộc phe nào này, hai phủ Lân Châu đã lấy nhiều lần dụ dỗ sinh hộ thành thục hộ, mà thục hộ Hạ Châu lại biến thành sinh hộ. Thời gian trôi đi, người Khương Hoành Sơn đã hiểu được những lợi ích sâu sa mà chúng có được, trở nên giảo hoạt, thay đổi chóng mặt, từ ba thành bốn, từ có thành không, ngày càng kiêu ngạo”.
Đám người Lý Quang Sầm, Mộc Ân nghe xong mặt xạm lại, cảm thấy như tộc người mình bị sỉ nhục vậy, Dương Hạo im lặng một lúc lâu, liền quay sang Kha Trấn Ác nói:
“Kha đoàn luyện, chiến trận mấy ngày qua, thương vong thế nào?”
Kha Trấn Ác vội đứng dậy nói:
“Phủ đài đại nhân, mấy ngày đầu chỉ là tư oán mà đánh nhau giữa người Khương và thương nhân Lô Lĩnh Châu ta, tử vong mất vài dân, có hơn chục người bị thương, nhưng sau đó người Khương lại tiếp tục trả thù, nhiều ngày đánh úp, dân chúng Lô Lĩnh Châu ta thương vong không dưới trăm người, đoàn luyện dân tráng đã giảm đi hơn hai mươi người, hơn nữa…”
Dương Hạo luôn coi dân Lô Lĩnh như người thân của mình, sau khi nghe được bị thương vong mấy trăm dân thì vô cùng phẫn nộ, thấy hắn chần chừ không nói tiếp, hai hàng lông mày của Dương Hạo nhướn lên, gằn giọng hỏi:
“Hơn nữa làm sao?”
Kha Trấn Ác bị hắn lườm, hơi run, vội nói:
“Dân chúng Lô Lĩnh Châu ta bị thương thì cũng không nói làm gì, nhưng chúng còn đánh úp thương nhân qua lại, cướp bóc tài sản, giết họ. Hai ngày trước…hai ngày trước thương nhân họ Hoàng mang theo gia quyến đến Lô Lĩnh Châu ta, kết quả là trên đường bị bọn Khương Hoàng Sơn sát hại, hàng hóa đều bị chúng cướp sạch,… thương nhân họ Hoàng kia đã bị chúng xé xác một cách rất tàn khốc, chân tay mỗi cái một nơi, ta phải tìm mấy dặm mới lấy lại về. Cái đó trở thành nỗi hoảng sợ cho các thương nhân, hai ngày nay đường đi yên ắng, thương nhân không dám đến nữa”.
Dương Hạo nắm chặt tay, hai mắt dần đỏ ngầu lên, Kha Trấn Ác nhìn hắn từ ánh mắt hiền lành trở nên dữ tợn, hơi sợ. Không dám nhìn thẳng hắn, Dương Hạo yên lặng một lúc lâu, cười nhạt một tiếng rồi nói:
“Được, được lắm. Dân chúng Lô Lĩnh Châu ta bị đánh thương giờ thế nào rồi?”
Kha Trấn Ác còn chưa trả lời, ngoài nha môn có tiếng kêu khóc thảm thiết, Dương Hạo giật mình, vội đi ra cửa, đám người Trình Đức Huyền, Lý Quang Sầm cũng nhìn theo phía cửa nha môn, rồi đi theo ra. Dương Hạo đi ra ngoài cửa, thấy đông nghìn nghịt toàn người là người. Có rất nhiều dân chúng cùng hô to: “Dương đại nhân trở về rồi. Dương đại nhân giúp cho bọn tiểu dân này…
Cửa phủ vừa được mở ra, Dương Hạo liền bước ra ngoài, dân chúng liền quỳ rạp xuống đất, đầu cúi rạp xuống đất, có người nói: “Đại nhân, đại nhân, đất của ta khai hoang, nhà gỗ mà ta dựng đều bị bọn Hoành Sơn phá rồi, cầu xin đại nhân phân xử cho”.
Một cụ già tóc trắng xóa đi lại quỳ xuống dưới chân Dương Hạo, ôm lấy chân hắn khóc không lên tiếng nói: “Đại nhân, đại nhân, cháu của tiểu nhân chỉ mới sáu tuổi, nó không bị chết trong tay người Khiết Đan, không bị chết ở nơi đất cằn sỏi đá, giờ ở đây lại bị bọn Hoành Sơn dã man đến giết, bọn chúng, bọn chúng giết cháu ta, đại nhân”.
Cụ già ấy chưa nói dứt lời, thì phun ra một ngụm máu tươi, rồi ngất lịm đi.
Dân chúng mỗi người một câu, tuy không rõ từng lời nói, nhưng nghe thì thấy rất đau thương. Dương Hạo ở trong nha môn chỉ nghe thấy các quan nói chỉ biết dân chúng bị thương mấy trăm người, ai biết được tình hình lại thê thảm như vậy. Hai mắt Dương Hạo đỏ ngầu, nước mắt rưng rưng.
Dương Hạo giơ hai tay lên, dân chúng thôi không nói nữa, chỉ có những tiếng khóc.
“Các vị, chuyện của các vị, bản phủ đã biết hết thảy rồi”.
Dương Hạo dừng lại một chút, lấy lại bình tĩnh, nén xúc động, lại nói:
“Bản phủ vừa mới trở về. Đã bàn bạc việc này với các quan, các vị yên tâm trở về đi, người thân của các vị, cũng chính là người thân của ta, việc này, bản phủ nhất định sẽ giải quyết công bằng cho mọi người”.
Dân chúng xưa nay đều tin tưởng Dương Hạo, giờ hắn hứa hẹn như vậy, thì cảm thấy yên tâm hẳn. Dương Hạo đứng chắp tay về phía dân chúng cáo từ.
Dương Hạo trở lại đại đường, tay đập vào án thư, tức giận quát: “Lô Lĩnh ta tuy không có quân lực cường mạnh, nhưng tường thành cao, còn không thể tự bảo vệ mình sao? Dân tráng tuy huấn luyện chưa lâu, nhưng khi qua lại buôn bán với Đảng Hạng Thất Thị, cũng đã có đánh trận giả. Huống hồ…tộc người Mộc lão có mấy nghìn dân chăn nuôi. Mỗi người canh một trạm, sao lại không thể thủ được Lô Lĩnh Châu?”
Các quan đều cúi đầu xuống, sau một lúc lâu, Lý Quang Sầm mới nói: “Phủ đài đại nhân, người Khương Hoành Sơn giỏi cưỡi ngựa bắn cung, giỏi mai phục tập kích. Tường bao của chúng ta không chống lại được, chủ yếu là tăng cường phòng ngự bên ngoài cốc, bọn Khương thường đánh úp sau rặng núi.
Hai ngày nay, vợ chồng Kha đoàn luyện sứ đã tăng cường phòng ngự sau cốc và trên núi cốc, đã làm được rất nhiều bẫy để phòng ngự. Khi bọn Khương đến đánh úp sẽ bị mắc bẫy, thế là chuyển đến xoay quanh ngoài cốc, bắt đầu tấn công đánh úp thương nhân vào cốc. Bọn họ không đông, nhiều thì khoảng mấy trăm người, ít thì khoảng ba năm chục người, nấp ở trong bụi cỏ lau rất khó phát hiện. Hơn nữa vì là ít người, chỉ cần mang theo chút lương khô thì có thể ẩn úp khá lâu, thực khó mà phòng ngự được”.
Dương Hạo thở dài, đang ngồi thì đứng lên. Tất cả quan phụ tá đều quan sát sắc mặt của hắn, chuyện này chẳng lẽ lại bó tay sao, vô lý thật, nếu không giải quyết được mâu thuẫn của dân bản xứ thì sẽ tạo thành xung đột lớn hơn nữa.
Người Khương Hoành Sơn không phụ thuộc vào bất kì một thế lực nào, hơn nữa ngay cả thể chế xã hội cũng không có, giữa các bộ lạc không có bất kì mối quan hệ phụ thuộc nào, cho nên muốn lập quan hệ về chính trị, kinh tế hay là văn hóa với chúng đều không dễ dàng. Muốn tìm thủ lĩnh người Khương cùng ngồi xuống mà nói chuyện cũng không biết tìm người nào.
Nhưng tuy là không có người lãnh đạo nhưng bọn người Khương này lại có cùng mối thù oán, thêm vào sự hỗn độn phức tạp của ba thế lực, nó hình thành nên bản tính kiêu ngạo, tự dương tự đắc của chúng, giờ quen thói cướp bóc rồi, sao có thể từ bỏ thói đó được.
Về địa lý ở đây, không ai có thể thuộc hơn dân bản xứ, cho dù là Hạ Châu, Phách Châu hay là Lân Châu khu vực này đều có đóng quân vây quanh, một khi phát hiện ra có chiến sự, bọn chúng sẽ không tiếc tiền mà hối lộ cho bọn người Khương Hoành Sơn này.
Người Khương Hoành Sơn ngoài dũng mãnh thiện chiến, như vậy sẽ khiến cho người khác sợ làm đối thủ của chúng, nguyên nhân chủ yếu là giữa các vòng vây đóng quân đều được liên lạc với nhau, truyền tin, vận chuyển lương thảo, đều không thể không phối hợp với dân bản xứ, nếu không một khi bọn chúng đánh, cản trở mọi đường, thì không có cách nào đánh lại được.
Dương Hạo đảm nhiệm chức vụ Lô Lĩnh tri phủ. Lô Lĩnh Châu có thể đứng vững được không. Tuy rằng rất khó khăn, nhưng dân chúng không phải ai cũng biết điều này, sự khó khăn này chỉ có mấy người mới có thể thấy được. Xung đột với người Khương Hoành Sơn đối với dân chúng mà nói, là vết thương đau điếng người. Nếu không thể che chở cho bách tính môn dân, cho bọn họ tin tưởng, thì bách tính môn dân sẽ khó mà ở lại Lô Lĩnh Châu, tản mác đi chỗ khác, thậm chí nhập bọn vào với bọn cường đạo.
Đặc biệt là người Khương Hoành Sơn sau khi ra tay với thương nhân, phía người Khương Đảng Hạng sẽ không lo lắng các thứ vận chuyển đến đây, vì bọn chúng không những là cùng tộc với người Khương Hoành Sơn mà còn có đội ngũ vũ lực mạnh hơn chúng. Nhưng thương nhân của Trung Nguyên đến lại không có được sự bảo vệ của đội ngũ vũ lực này, thương nhân của Lô Lĩnh Châu không hề chuẩn bị vệ sĩ.
Nếu như việc này không được giải quyết thích đáng, hơn nữa là giải quyết dứt khoát thì sợ rằng dù lợi nhuận lớn, các thương nhân sẽ không mạo hiểm đến buôn bán với Lô Lĩnh Châu, vì buôn bán trong thiên hạ ở đâu cũng có thể làm, hà tất phải mạo hiểm đến đây, kế hoạch phát triển công thương của Dương Hạo, thành lập đặc khu sẽ không thể nào mà thực hiện được.
Dương Hạo suy nghĩ một lúc lâu, sau đó ánh mắt chậm rãi nhìn xung quanh, gọi:
“Mộc đoàn luyện”.
Lý Quang Sầm là nghĩa phụ của hắn, nhưng mối quan hệ này lại bao hàm cả thân phận cộng chúa của Đảng Hạng Thất Thị. Nhưng trên đại đường vẫn xưng hô theo cấp quan. Dương Hạo vừa gọi, Lý Quang Sầm lập tức đứng dậy chắp tay nói:
“Phủ đài đại nhân”.
Dương Hạo hỏi:
“Nếu Lô Lĩnh Châu ta là địch thủ của người Khương Hoành Sơn, ngươi xem ta có thể chiếm ưu thế thắng mấy phần?”
Lý Quang Sầm nhìn chằm chằm án thư mà mắt Dương Hạo đang nhìn. Hắn không biết Dương Hạo đang nghĩ gì, liền nói:
“Đại nhân, Lô Lĩnh Châu không tự bảo vệ mình được, còn nói gì đến xuất chinh. Song tộc dân của thuộc hạ từ thảo nguyên Thổ Phiên đến đây có mấy ngàn người, mỗi người đều giỏi cưỡi ngựa bắn cung, hơn nữa lại có nhiều trâu dê ngựa, cũng có thể lấy dùng. Người Khương Hoành Sơn tuy có gần mấy vạn người, nhưng lại hay làm theo ý mình, phân bè phân phái, tộc lớn nhất cũng không có đến một ngàn lều, như vậy, nếu ta xuất binh, trừ phi người Khương liên minh với nhau, đề cử thủ lĩnh trở thành một đại quân, còn nếu không thì tuyệt đối không phải là đối thủ của ta”.
Ánh mắt Dương Hạo sáng lên, lại gọi:
“Kha đoàn luyện”.
Kha Trấn Ác đi đến, chắp tay thi lễ nói:
“Đại nhân”.
Dương Hạo nói:
“Người Khương Hoành Sơn quen tác chiến vùng núi, mà Mục Kha trại ngươi vốn được xây dựng ở dãy núi phía trên, cũng tác chiến vùng núi. Bản phủ hỏi ngươi, nếu như người Khương Hoành Sơn đánh úp ở chỗ núi non cây cỏ um tùm, ngươi không thể ngăn cản bọn chúng xâm chiếm vào Lô Lĩnh Châu ta, để chúng hành hạ môn dân của ta đến chết sao?”
Kha Trấn Ác chắp tay trước ngực thi lễ nói:
“Khởi bẩm Phủ đài đại nhân, hạ quan chỉ mang theo hơn mười tráng đinh ở Mục Kha trại, mà thời gian huấn luyện dân tráng ngắn ngủi, không thể chống trả được bọn người Khương Hoành Sơn. Nếu như chỉ là ngăn chặn bọn chúng xâm nhập vào Lô Lĩnh Châu ta, địch tấn công còn ta thủ thế, chúng ta sẽ chiếm địa lợi. Nếu chúng ta cài đặt một số bẫy trong bụi cỏ rậm rạp ấy, thì hạ quan bảo đảm có thể sẽ ngăn được bọn chúng ở ngoài cốc”.
“Tốt, rất tốt”.
Dương Hạo chậm rãi ngẩng đầu lên, mặt nở nụ cười nói:
“Lúc nãy nghe những điều mà Mộc lão nói, người Khương Đảng Hạng đến tập kích, ta khó mà phòng bị được. Bản quan muốn biết việc ngày ngày chỉ có trông kẻ trộm, làm sao canh phòng mãi như vậy được. Một khi như vậy, ta không thể canh phòng, vậy ta đi tấn công lại bọn chúng, ý chư vị thế nào?”
Các quan viên nhìn nhau, Trình Đức Huyền chần chừ nói:
“Dạ vậy ý đại nhân thế nào ạ?”
Hai hàm răng của Dương Hạo nghiến chặt lại với nhau, cười nói:
“Kha đoàn luyện phụ trách phòng thủ, làm vòng vây bảo vệ lấy Lô Lĩnh cốc. Không để cho bọn trộm cắp đột nhập. Mộc đoàn luyện phụ trách tấn công, chủ động tìm kiếm và làm khó các thôn trại người Khương Hoành Sơn.
Giờ là lúc thu hoạch vụ mùa, sống dựa vào nông canh, lấy sạch hoa màu, không để lại chút lương thực nào cho bọn chúng; Chúng sống dựa vào săn bắt thì ta cho phóng hỏa đốt rừng cây, xua đuổi hết thảy muông thú chạy xa ngàn dặm; Chúng sống dựa vào chăn thả thì ta cướp đoạt lấy trâu dê ngựa, ta xem bọn chúng sống thế nào qua mùa đông băng giá này”.
Những lời mà Dương Hạo vừa nói ra, hai người một là Trình Đức Huyền, người kia là Phạm Tư Kỳ lấy làm ngạc nhiên, đồng thanh nói: “Phủ đài đại nhân, tuyệt đối không thể vậy được”.
Dương Hạo không biểu hiện gì, hơi nhắm mắt lại, quay sang Trình Đức Huyền hỏi:
“Trình đại nhân có cao kiến gì?”
Trình Đức Huyền hôm nay thấy biểu hiện lạ lùng của hắn khác xa so với mọi ngày, hiểu được giờ hắn đang tức giận đến mức nào, lúc đang nóng giận như vậy mà đi trả thù sợ rằng sẽ xảy ra hậu quả không lường trước được, nên hắn kiên trì nói:
“Đại nhân, người Khương Hoành Sơn tuy không biết tính toán, nhưng rất thiện chiến khi thân chinh, người Khương ở tản mác khu vực Hoành Sơn, một khi chọc giận bọn chúng, hậu quả sẽ không lường nổi. Việc xung đột với người Khương Hoành Sơn, lúc này chúng ta cần trấn an lại”.
Tay Dương Hạo chống vào án thư, cười gằn nói:
“Hả, ngươi nói lại cho ta nghe, thế nào là trấn an?”
Trình Đức Huyền lấy lại bình tĩnh nói:
“Các quan có thể phái người gặp mặt với thủ lĩnh người Khương Hoành Sơn, mấy bộ lạc người Khương gần với Lô Lĩnh Châu ta, không những buôn bán sòng phẳng với chúng ta, mà còn có nhà di rời đến gần cốc ta, những người này chính là người chuyển tin tức tốt nhất. Chúng ta có thể nhờ vả bọn họ, giúp cho hai bên ta và thủ lĩnh người Khương hiểu nhau một chút, theo lệ cũ của Lân Châu và Phách Châu, nên đưa tiền tài vải vóc, gạo và muối tặng cho bộ lạc người Khương để làm dịu đi sự căng thẳng trong mối quan hệ này.
Triều đình để trấn an người Khương, thì luôn phong thưởng cho các bộ người Khương. Đại thủ lĩnh quản lý hàng trăm lều trại thì được ban cho chức quân chủ, quản lý dưới trăm lều trại thì nhận được chức chỉ huy sứ, cho nên chúng ta có thể có lý do mà qua lại với họ. Lần xung đột này, hai bên đều có người chết, không nên truy cứu lại làm gì, kế nhân nhượng trấn an là tốt nhất. Làm dịu đi cơn giận của người Khương…”
Trình Đức Huyền do dự một lát rồi nói:
“Hạ quan thân là một quan sát phán quan, quản luật pháp của Lô Lĩnh Châu. Dân Bắc Hán mà chúng ta dời đến đây có người tốt có kẻ xấu. Người vi phạm luật pháp cũng có, giờ đang có bảy tên bị giam giữ hình phạt. Để làm giảm cơn giận của người Khương, chúng ta có thể đem bảy tên tù này gán tội đầu sỏ giết người Khương, xử phạt ngay trước mặt người Khương, đổi lại ta có cái lợi, giải quyết ổn thỏa chuyện này, giúp Lô Lĩnh Châu yên bình trở lại. Không biết ý đại nhân thế nào?”
Dương Hạo không đưa ra ý kiến gì, quay sang Phạm Tư Kỳ hỏi:
“Phạm tiên sinh có cao kiến gì không?”
Phạm Tư Kỳ lần đầu nói chuyện trước mặt các quan như vậy, ngập ngừng một lát, mặt đỏ ửng lên nói:
“Đệ tử cho rằng, bọn man di mọi rợ không biết gì cả, chỉ hung hãn như vậy. Những nhân vật có tiếng từ trước đến nay, có tấn công lại đâu. Khơi binh kháng lại như vậy, không thể chặn được thủ đoạn tàn khốc này.
Con người khi sinh ra đều có một sự cảm thông, thiện và ác. Những vương giả, người nhân nghĩa dựa vào vương đạo mà dạy cách nông canh, giáo hóa, thu nạp mẹ góa con côi, giúp đỡ khi bần cùng khó khăn, bày tỏ sự nhân nghĩa, lấy vương đạo mà trị, độ hóa man di, lâu dài thì sẽ thành huynh đệ với nhau. Cái gọi là người vô địch, đệ tử có ngu kiến này, đại nhân thấy sao?”
“Ha ha, quả nhiên là ngu kiến!”
Dương Hạo không khách khí, đưa ra lời nhận xét như vậy, làm Phạm Tư Kỳ đỏ mặt.
Dương Hạo kiên nhẫn sự phẫn nộ một lúc lâu giờ lại bùng phát, vỗ án thư quát:
“Kiến của thư sinh! Kiến của phụ nhân! người Khương Hoành Sơn có cái dũng của người Khương, trí tuệ của người Hán, sống giữa các thế lực lâu như vậy, đã hình thành nên cái không có hạnh, kiêu ngạo dã man, không biết vương pháp, ngươi càng nhường nhịn thì chúng lại càng kiêu ngạo, nếu ngươi coi trọng chữ Nhân thì giống như lột da hổ vậy, người Khương Hoành Sơn nghĩ Lô Lĩnh Châu ta yếu đuối, như vậy sẽ càng coi thường chúng ta, từ nay về sau khó mà có cuộc sống yên ổn”.
Dương Hạo nói những lời này rất rụt rè, nhớ đến Phạm Tư Kỳ, chủ ý của Trình Đức Huyền không thể hiểu nổi, lời nói của Phạm Tư Kỳ như tát nước vào mặt hắn, làm cho Trình Đức Huyền đỏ bừng mặt, vô cùng phẫn nộ.
“Lui ra, bản quan đã quyết, các vị cứ thế mà làm, lập tức chuẩn bị đi, việc này không được chậm trễ, sáng sớm ngày mai, bắt đầu phản công, cho bọn chúng một bài học suốt đời không quên! Bãi triều!”
Các quan vâng lệnh, lần lượt lui ra. Dương Hạo lại nói: “Mộc đoàn luyện ở lại”. Dương Hạo đứng lên nói một câu: “Nghĩa phụ!”
Dương Hạo tiến lên trầm giọng nói: “Nghĩa phụ, trong số người Khương Hoành Sơn, thế lực mạnh nhất chính là Dã Ly Thị, tuy nói là người Khương sống không lệ thuộc lẫn nhau, nhưng giữa các bộ lạc lớn một chút thì vẫn thường xuyên trao đổi tin tức. Người nhanh chóng phái người liên lạc với Tô Lạc đại nhân, để Dã Ly Thị lộ diện, tránh cho bọn chúng liên hệ với nhau.
Lý Quang Sầm nhướn mày, hỏi:
“Hạo Nhi, thật sự muốn đánh sao?”
Dương Hạo gật đầu một cách nặng nề nói:
“Chẳng những muốn đánh mà còn muốn đánh cho chúng chết hết đi, đánh cho chúng tan xác, đánh cho bọn chúng sợ đến mức mười năm sau nghĩ đến Lô Lĩnh Châu ta mà kinh hồn bạt vía”.
Lý Quang Sầm lo lắng nói:
“Tập quán của người Khương là, có thù có báo…”
Dương Hạo ngắt lời hắn:
“Nghĩa phụ, nếu ta từ thuở nhỏ sinh ra ở vùng thảo nguyên Hạ Châu, tuy không phải người Khương, song cũng theo tập quán của chúng. Thuở nhỏ nhìn mãi mà thành quen, lời nói và việc làm đều tự hình thành cái bản năng của mình, nhưng không phải tất cả người Khương đều giữ lại bản năng này.
Người Khương Hoành Sơn sống ở hai bên núi Hoành Sơn, sống cùng với Hồi Hất, Thổ Phiên và người Hán, có trồng cây, có săn bắt, có du mục, phong tục vốn đã thay đổi. Hơn nữa các thế lực vì để lôi kéo bọn chúng, mà luôn cho bọn chúng những lợi ích, khiến cho bọn chúng trở nên bất chấp đạo lý. Bọn chúng tuy vẫn duy trì sự dũng mãnh của mình, nhưng về những tập quán trước đây thì người Khương trên thảo nguyên đã không còn nữa. Người như chúng đã trở nên ác, chúng bắt nạt kẻ yếu, nên sẽ không vì một tập quán cổ hủ mà nói chuyện đạo lý đâu.
Chúng ta ở Lô Lĩnh Châu, nếu muốn ổn định lòng dân, thì cần phải làm cho bọn địch biết sợ là gì. Bảo vệ thì chắc chắn là cần rồi, nhưng không phải bây giờ. Hai phủ Lân Châu có thế lực hùng mạnh, cho nên khi bọn chúng dựa vào ân, bộ tộc này tự biết là mình không thể chiếm được mà bỏ qua, mới bằng lòng chịu cách trấn an.
Còn chúng ta có cái gì mà đi trấn an? Giờ tình hình thế này, một khi dàn xếp ổn thỏa, để chúng càng thêm coi thường ta thì sẽ vẫn bắt nạt ta. Nếu như dàn xếp ổn thỏa như vậy, dân chúng Lô Hà Lĩnh ta bị coi là gì? Những thương nhân có thù mà không thể trả, sự an toàn không được bảo đảm, ai còn dám đến đây nữa?
Phải hung hăng, mạnh mẽ mà giáo huấn bọn chúng một bài học, làm cho chúng hiểu được chúng ta lợi hại thế nào, đó mới chính là cái gọi là Vương đạo. Giờ chúng ta có Dã Ly Thị, lôi kéo một bộ lạc lớn Dã Ly Thị, thì chúng sẽ không hợp lực với nhau được, thì sức mạnh của chúng sẽ giảm đi đáng kể, ta đánh cho chúng biết đau, phải sợ ta, thì từ nay về sau chúng mới không dám quấy nhiễu chúng ta nữa, khi đó dân chúng và thương nhân Lô Lĩnh Châu mới tin tưởng chúng ta”.
Giữa các bộ tộc người Khương thường xuyên chém giết nhau, ví dụ như giữa Đảng Hạng Thất Thị và Hạ Châu Thác Bạt Thị, những năm gần đây không ngừng chém giết, thua thì thôi, chưa từng có cảnh có thù thì trả. Vì người Khương rất nóng tính, chuyện có thù thì phải trả cho nên dân bị ảnh hưởng, hơn nữa lại còn hung hãn hơn, mọi người đều cảm thấy không thể gây nên thù hận với chúng.
Một lý do nữa, là thủ đoạn trả thù của Dương Hạo quá độc ác, cho nên Lý Quang Sầm lo lắng lần trả thù này sẽ dốc toàn lực để mà được ăn cả ngã về không, giờ nghe Dương Hạo phân tích như vậy, Lý Quang Sầm gật đầu lia lịa, hắn không ngờ Dương Hạo tới đây không lâu mà lại hiểu rõ người Khương đến vậy, lòng lấy làm cảm phục và tin tưởng vô cùng.
Tiễn Lý Quang Sầm xong, Dương Hạo trở về đại đường rồi ngồi xuống nghĩ, đại đường im ắng không một tiếng động, hắn ngồi ở một cái chiếu màu đỏ, tập trung suy nghĩ. Thực ra tình hình của người Khương, hắn chỉ biết sơ sơ một phần nào đó thôi. Mà những kiến thức hắn có được chưa chắc đã giống với tình hình bây giờ.
Những kinh nghiệm của hắn cho thấy, có một cái gọi là hung hãn, là cái mà khiến cho người ta không dám bắt nạt, là cái mà bọn vô lại lấy cái đạo của người quân tử để tự trói buộc chính mình, sau đó lại qua lại với mình. Chúng tạo mối quan hệ với mình xong, thì cũng chỉ là trả công, nhưng một khi có cơ hội, những cái xa hoa hào nhoáng của mình sẽ bị bọn vô lại đập vỡ ngay lập tức, tiền bạc lúc ấy không còn giá trị gì nữa.
Có một câu nói nổi tiếng thế này: “Chúng ta đối với phái phản động và hành vi phản động của giai cấp phản động thì tuyệt đối không được nói đến nhân chính”. Dương Hạo thiết nghĩ, mình trước tiên phải đánh cho hắn sợ, sau hắn mới ngoan ngoãn ngồi xuống nghe mình giảng đạo lý, bởi vì loại ti tiện vô lại vốn rất ương ngạnh.
Để xây dựng được một Lô Lĩnh Châu, thì nhất thiết phải có một lực lượng quân sự vững mạnh, lợi nhuận mà buôn bán mang lại là rất lớn, đòi hỏi có một lực lượng quân sự hùng mạnh để bảo vệ, và thế lực mà hắn có thể dựa vào chính là Phủ Châu gần hắn nhất.
Nghĩ đến đây, Dương Hạo thở dài: “Nhưng nhận binh giáp, vũ khí của Phủ Châu, hơn nữa còn nhờ họ huấn luyện, cái này…không thể tránh được dấu vết đánh Phủ Châu. Mình xuất thân từ một tên thuộc hạ của Trình Thế Hùng nên đã bị Quan Gia đề phòng. Giờ hắn và Phủ Châu Chiết Thị qua lại với nhau, Triệu Quan Gia biết tin, sẽ thế nào đây? Bên cạnh còn có Trình Đức Huyền nữa, việc này vốn không thể che mắt nổi phủ Khai Phong.
“Dứt khoát cố gắng đứng sang bên Chiết Ngự Huân, tranh thủ cơ hội trở thành thế lực thứ tư?”
Dương Hạo lắc đầu, không tin đứng trước một Triệu Khuông Dận có tài thao lược quân sự, một chính trị gia, quân sự gia trải qua nhiều năm thao luyện, bản thân mình có thể thay đổi lịch sử sao, thay đổi kết cục của tây bắc sao? Ba thế lực tây bắc, chỉ có một thế lực kháng cự thành công kế sách của Đại Tống, lập nên một nước riêng, tạo thành thế chân vạc với Đại Tống và Khiết Đan, đó chính là Đại Hạ. Lô Lĩnh Châu là một nơi chập hẹp, nhỏ bé, không thể thực hiện chiến lược đánh thọc sâu, lại không có một nguồn binh sĩ, nguồn tài nguyên nào, cho dù đưa Gia Cát Khổng Minh đến cũng không biết xoay sở thế nào với tình hình này.
Dương Hạo lắc đầu cười gượng:
“Từ xưa đến nay, Tiết trấn một phương, trong phủ, e là không có ai giống mình. Việc này khó đây vì phải giải quyết một cách thích đáng nhất, cho thương nhân có lòng tin, để buôn bán của khu vực Lô Lĩnh Châu hưng thịnh trở lại”.
Dương Hạo đau đầu suy nghĩ, Dương Tấn Thành ở đâu chạy đến vui mừng nói:
“Phủ đài đại nhân, phủ đài đại nhân, lại có một đội thương nhân đến đây rồi, hơn nữa, ước chừng có khoảng hơn hai mươi xe ngựa. Đề tên là của Lý Ngọc Xương viên ngoại.
“Sao, bọn họ an toàn đến châu này rồi sao? Mau, mau, bản phủ đích thân đi đón họ”.
Dương Hạo nghe vậy xong vui mừng quá đỗi, giờ Lô Lĩnh Châu bị người Khương làm loạn, các thương nhân đều sợ hãi mà không đến nữa, giờ có đoàn thương nhân đông như vậy đến, nếu như bảo đảm cho bọn họ qua lại giao dịch an toàn thì sẽ lấy được lại lòng tin của các thương nhân khác.
Dương Hạo sửa sang lại quần áo, đi ra khỏi phủ đón đoàn thương nhân. Đi ra đến ngoài phủ, thúc ngựa đi về hướng tây, đến nơi có đoàn thương nhân đang đứng ở hầm trú ẩn. Có rất nhiều người đang khuân vác đồ đạc xuống, nào thì giường tơ vàng gỗ lim, bồn cầu hoa văn tinh tế, bàn ghế dài, giá để áo mũ, bình phong chim yến… Có đến bảy tám tên tiểu nha hoàn đang chạy đi chạy lại đôn đốc:
“Nhẹ tay thôi, nhẹ tay thôi, cẩn thận chút…”
Dương Hạo thấy vậy, ngạc nhiên hỏi luôn:
“Tấn Thành, ngươi không nói sai đó chứ…đây chính là đại thương nhân hả? Sao ta nhìn lại là một khuê nữ của một gia đình nhỉ?”
Dương Hạo thấy các quan chưa đến, liền hỏi phụ tá tri phủ: “Nghe nói họ hàng của Mộc đoàn luyện sứ tìm nơi nương tựa trên thảo nguyên? Dân số khoảng bao nhiêu, giờ bố trí ra sao?”
Bôi Bằng Vũ vội nói: “Đúng vậy đại nhân, họ hàng của Mộc đoàn luyện sứ đã nghe tin mà đến nương tựa, ước tính có khoảng 1322 lều, 5446 người, trong đó phụ nữ, trẻ em và người già đã bố trí ở sau cốc, đào hầm trú ẩn, xây dựng lều lán cho bọn họ ở, tộc người đó mang theo rất nhiều trâu dê ngựa, để tiện cho chăn thả, người già chăn thả ở ngoài bãi cỏ cách cốc hơn mười dặm, xây dựng lều trại chăn thả ở đó”.
Lô Lĩnh cốc nói là một cốc, đó là vì ngoài phía trước có lối ra, thì xung quanh đều là dãy núi bao quanh. Sơn cốc này uốn lượn theo từng khúc, thế núi kéo dài về phía sau, nó không phải là một con đường thẳng tắp. Chỗ rộng nhất trong sơn cốc là mười lăm, mười sáu dặm, chỗ hẹp nhất chỉ có năm sáu dặm, qua tri phủ nha môn của Dương Hạo, đi về phía hậu viện, còn có một khoảng không rộng lớn, phải đi ra gần hai mươi dặm, mặt đất mới từ từ bị bó hẹp, mất đi dãy núi trùng điệp.
Theo sự bố trí của Dương Hạo, sau khi mấy vạn dân đăng khí chải vuốt sợi, theo khu hành chính ở trong thôn mà phân biệt hoạch định khu rồi bố trí, từng thôn trang và chợ nhỏ trong sơn cốc được mở ra vô số, kéo dài về phía sau. Không gian mở ra khi vừa mới vào cốc là chi phủ nha môn, bên trái bên phải của tri phủ nha môn dựa vào núi, xây nhà ở cho các quan cấp dưới. Hai bên phía trước cốc, một bên kinh doanh và chỗ ăn chơi như nhà trọ bình dân, hiệu buôn, quán rượu. Tòa nhà hầm gần hai bên cửa cốc được đào thông với nhau, là hầm binh ẩn nấp.
Sự bố trí của Bôi Bằng Vũ, theo tập quán sinh sống của tộc người Lý Quang Sầm, đều đưa đàn bà trẻ em người già vào trong cốc làm công thương, hoặc làm nghề nông, sự sắp xếp đó là hợp lý. Dương Hạo gật đầu nói:
“Bố trí như vậy là rất tốt, cho dù là Khiết Đan hay là các tộc người khác, có nhiều tộc người rất phức tạp, theo tập quán của dân chúng mà đưa ra các điều lệ quản lý khác nhau, ví dụ như xây Nam viện, Bắc viện để phân biệt người Hán và người Khiết Đan. Ở với nhau một thời gian thì chắc chắn sẽ xảy ra xung đột, việc này…mất khá nhiều thời gian”.
Bôi Bằng Vũ vâng vâng dạ dạ, Dương Hạo lại bỏ một khoảng thời gian để tìm hiểu thêm tình hình dân chúng từ phía bọn họ. Những quan văn võ như Trình Đức Huyền, Lý Quang Sầm, Kha Trấn Ác đều đã lần lượt đến, Dương Hạo ngồi vào vị trí của mình, sau đó mời bọn họ ngồi xuống, rồi mới hỏi tình hình gần đây có sự xung đột với các bộ lạc khác.
Hóa ra, những ngày Dương Hạo không có mặt, việc làm ăn buôn bán của dân chúng Lô Lĩnh Châu và Đảng Hạng Thất Thị rất tấp nập. Phần nhiều dân chúng tạm thời chưa có công ăn việc làm đã cùng nhau vào núi săn thú, hái quả dại, để bán hoặc phơi phóng cất giữ, những động vật mà săn bắt được ướp muối cẩn thận rồi cất, dùng lông thú làm áo lông chuẩn bị cho mùa đông gía lạnh. Cách săn bắt này có tác dụng rất tốt, dân chúng có việc làm, nỗi lo âu trước đây của dân chúng giờ cũng đã mất.
Nhưng một khi thợ săn bọn họ đi xa thì sẽ chạm mặt với các bộ lạc người Khương. Bộ lạc này không lớn, vào khoảng mấy trăm người. Có vài người Khương của bộ lạc sau khi chạm mặt với họ, biết được sự tồn tại của người Hán Lô Hà Lĩnh, liền đem da lông thú vật mà mình săn được đến Lô Hà Lĩnh bán, vì thương nhân qua lại Lô Hà Lĩnh rất nhiều, nên da thú vật của họ đều được bán với giá rất cao, rồi đi mua muối, trà, vải vóc về nhà, họ rất vui vì điều này, sau khi tin này được truyền ra xa, thì có thêm người Khương từ nơi xa đến buôn bán với bọn họ.
Nhưng bộ lạc người Khương không phải tất cả đều là người tốt, họ biết buôn bán, người ở bộ lạc còn tàn ác dã man, có lúc chúng ép mua ép bán, không khỏi phát sinh tranh chấp với Lô Hà Lĩnh. Đồng thời, những thương nhân người Hán này cũng khôn, biết làm giả những thứ đem bán rồi mang bán cho họ, xung đột hai bên ngày càng căng thẳng.
Người Khương bị thiệt, trở về tập trung tộc người gây rối, ban đầu chỉ là đánh nhau của họ hàng, bạn bè, sau thì trở thành chiến tranh của toàn bộ lạc. Trình Đức Huyền vốn còn mang những chuyện này làm thành tranh cãi của toàn dân, muốn để cho triều đình xử lý, nhưng người Khương nào biết Vương pháp là gì, ban đầu là chúng tìm đến gây sự, sau thì trở thành đánh giữa đường cho hả giận, cướp bóc những thương nhân giàu có.
Nhân mã được tập hợp lại ngày càng nhiều, bọn chúng gào thét núi rừng, làm cường đạo, coi Lô Hà Lĩnh là miếng mồi ngon mà xâu xé. Hai vị đoàn luyện sứ Lý Quang Sầm và Kha Trấn Ác vội tổ chức phòng thủ, đánh vài trận với chúng, xung đột hai bên ngày càng khốc liệt, trở thành trận chiến giữa người Hán Lô Hà Lĩnh và người Khương.
Để phòng bọn chúng bất ngờ tấn công dân chúng Lô Hà Lĩnh, cướp đoạt hàng hóa, nên Kha đoàn luyện mới lệnh cho trạm canh gác tứ phía, nhưng những dân tráng canh gác này không phải là đối thủ của người Khương, dân chúng Lô Lĩnh Châu bị thiệt thòi lớn. May mà lúc này mấy nghìn tộc người của Lý Quang Sầm đã từ thảo nguyên trở về, bộ tộc bất luận là già trẻ trai gái, có vũ khí hay không, Mộc Ân chọn ra trai tráng trong đó thêm vào bát dân đoàn, lúc này sức chiến đấu mới mạnh lên.
Dương Hạo nghe xong, hai mày nhíu lại, quay sang nói với Lý Quang Sầm:
“Mộc lão, những tên người Khương này là tộc người của Đảng Hạng Thị nào?”
Lúc đó hắn mới nghĩ ra, hắn có mối quan hệ mật thiết với Đảng Hạng Thất Thị, là cộng chúa của Thất Thị, lẽ nào trói buộc không nổi những tên người Khương này.
Lý Quang Sầm nhìn hắn liền hiểu được bụng dạ hắn đang nghĩ gì, liền nói:
“Phủ đài đại nhân, người Khương có rất nhiều nhánh bộ lạc không lệ thuộc, cái gọi là Đảng Hạng Bát Thị, chỉ là Bát Thị lớn nhất của khu Hoành Sơn. Bộ lớn nhất chính là Dã Ly Thị, nhưng còn có rất nhiều bộ lạc khác, có lớn có nhỏ, rải rác ở khu Hoành Sơn, đông thì có khoảng ba năm trăm chiếc lều tộc người, nhỏ thì chỉ có mấy chục lều tộc người, tổng số là 1340000 lều. Chúng vừa săn bắt, vừa học được cách trồng trọt của người Hán, có một bộ lạc thiện chiến như bộ lạc người Khương và Dã Ly Thị, hơn nữa còn am hiểu tác chiến vùng núi, không bị Hạ Châu và Lân phủ quản lý”.
Dương Hạo vuốt mũi, ngạc nhiên nói:
“Người Khương có hàng vạn lều, ít nhất thì cũng có sáu bảy vạn người, đông như vậy giữa trời đất mênh mông, ba thế lực không để ý đến sao?”
Khi Trình Đức Huyền từ Phách Châu hướng Bắc Hán đã cẩn thận nghiên cứu về tình hình địa lý, trình độ hiểu biết của người tây bắc, tình hình ở đây cũng có hiểu một chút, thấy Dương Hạo không hiểu, bèn nói:
“Phủ đài đại nhân, người Khương phân tán ở khu núi non Hoành Sơn, vốn không dễ quản lý, vả lại dân chúng dũng mãnh, cho nên cho dù là Hạ Châu hay Phủ Châu đều lấy việc trấn an bọn chúng là chính”.
Dương Hạo hơi nheo mắt lại, trầm giọng nói:
“Cái gì gọi là trấn an?”
Trình Đức Huyền mỉm cười, từ từ nói:
“Cái gọi là trấn an, chính là chức quan mà người Khương Hoành Sơn này nắm giữ, cho bổng lộc, không nộp thuế, chỉ mong bọn chúng không đến gây chuyện là tốt lắm rồi. Người Khương Hoành Sơn dã tính khó lường, cư dân hỗn tạp hơn người Hán. Nếu chúng mà hướng Hạ Châu thì sẽ ảnh hưởng luôn đến Lân Châu, khó cai quản lũ người này”.
Hắn không biết đảng người của Mộc Ân là người Khương, cho nên không kiêng dè gì mà bình xét, thấy Dương Hạo chăm chú nghe, liền uống một hớp trà, chậm rãi nói:
“Người Tống ta và người Khương kia có thói quen khác nhau. Khác ở chỗ về địa lý, có khai hóa hay không, nhưng điểm thực dụng nhất là thủ lĩnh của các bộ lạc có phải là người Tống hay không. Có tuân thủ theo người Tống là thục hộ. Nhưng thục hộ này luôn không đổi, khi thần phục Tống thành thục phiên, một ngày nào đó làm phản, thì lại thành bọn mọi rợ.
Việc chiêu dụ với những tên người Khương không thuộc phe nào này, hai phủ Lân Châu đã lấy nhiều lần dụ dỗ sinh hộ thành thục hộ, mà thục hộ Hạ Châu lại biến thành sinh hộ. Thời gian trôi đi, người Khương Hoành Sơn đã hiểu được những lợi ích sâu sa mà chúng có được, trở nên giảo hoạt, thay đổi chóng mặt, từ ba thành bốn, từ có thành không, ngày càng kiêu ngạo”.
Đám người Lý Quang Sầm, Mộc Ân nghe xong mặt xạm lại, cảm thấy như tộc người mình bị sỉ nhục vậy, Dương Hạo im lặng một lúc lâu, liền quay sang Kha Trấn Ác nói:
“Kha đoàn luyện, chiến trận mấy ngày qua, thương vong thế nào?”
Kha Trấn Ác vội đứng dậy nói:
“Phủ đài đại nhân, mấy ngày đầu chỉ là tư oán mà đánh nhau giữa người Khương và thương nhân Lô Lĩnh Châu ta, tử vong mất vài dân, có hơn chục người bị thương, nhưng sau đó người Khương lại tiếp tục trả thù, nhiều ngày đánh úp, dân chúng Lô Lĩnh Châu ta thương vong không dưới trăm người, đoàn luyện dân tráng đã giảm đi hơn hai mươi người, hơn nữa…”
Dương Hạo luôn coi dân Lô Lĩnh như người thân của mình, sau khi nghe được bị thương vong mấy trăm dân thì vô cùng phẫn nộ, thấy hắn chần chừ không nói tiếp, hai hàng lông mày của Dương Hạo nhướn lên, gằn giọng hỏi:
“Hơn nữa làm sao?”
Kha Trấn Ác bị hắn lườm, hơi run, vội nói:
“Dân chúng Lô Lĩnh Châu ta bị thương thì cũng không nói làm gì, nhưng chúng còn đánh úp thương nhân qua lại, cướp bóc tài sản, giết họ. Hai ngày trước…hai ngày trước thương nhân họ Hoàng mang theo gia quyến đến Lô Lĩnh Châu ta, kết quả là trên đường bị bọn Khương Hoàng Sơn sát hại, hàng hóa đều bị chúng cướp sạch,… thương nhân họ Hoàng kia đã bị chúng xé xác một cách rất tàn khốc, chân tay mỗi cái một nơi, ta phải tìm mấy dặm mới lấy lại về. Cái đó trở thành nỗi hoảng sợ cho các thương nhân, hai ngày nay đường đi yên ắng, thương nhân không dám đến nữa”.
Dương Hạo nắm chặt tay, hai mắt dần đỏ ngầu lên, Kha Trấn Ác nhìn hắn từ ánh mắt hiền lành trở nên dữ tợn, hơi sợ. Không dám nhìn thẳng hắn, Dương Hạo yên lặng một lúc lâu, cười nhạt một tiếng rồi nói:
“Được, được lắm. Dân chúng Lô Lĩnh Châu ta bị đánh thương giờ thế nào rồi?”
Kha Trấn Ác còn chưa trả lời, ngoài nha môn có tiếng kêu khóc thảm thiết, Dương Hạo giật mình, vội đi ra cửa, đám người Trình Đức Huyền, Lý Quang Sầm cũng nhìn theo phía cửa nha môn, rồi đi theo ra. Dương Hạo đi ra ngoài cửa, thấy đông nghìn nghịt toàn người là người. Có rất nhiều dân chúng cùng hô to: “Dương đại nhân trở về rồi. Dương đại nhân giúp cho bọn tiểu dân này…
Cửa phủ vừa được mở ra, Dương Hạo liền bước ra ngoài, dân chúng liền quỳ rạp xuống đất, đầu cúi rạp xuống đất, có người nói: “Đại nhân, đại nhân, đất của ta khai hoang, nhà gỗ mà ta dựng đều bị bọn Hoành Sơn phá rồi, cầu xin đại nhân phân xử cho”.
Một cụ già tóc trắng xóa đi lại quỳ xuống dưới chân Dương Hạo, ôm lấy chân hắn khóc không lên tiếng nói: “Đại nhân, đại nhân, cháu của tiểu nhân chỉ mới sáu tuổi, nó không bị chết trong tay người Khiết Đan, không bị chết ở nơi đất cằn sỏi đá, giờ ở đây lại bị bọn Hoành Sơn dã man đến giết, bọn chúng, bọn chúng giết cháu ta, đại nhân”.
Cụ già ấy chưa nói dứt lời, thì phun ra một ngụm máu tươi, rồi ngất lịm đi.
Dân chúng mỗi người một câu, tuy không rõ từng lời nói, nhưng nghe thì thấy rất đau thương. Dương Hạo ở trong nha môn chỉ nghe thấy các quan nói chỉ biết dân chúng bị thương mấy trăm người, ai biết được tình hình lại thê thảm như vậy. Hai mắt Dương Hạo đỏ ngầu, nước mắt rưng rưng.
Dương Hạo giơ hai tay lên, dân chúng thôi không nói nữa, chỉ có những tiếng khóc.
“Các vị, chuyện của các vị, bản phủ đã biết hết thảy rồi”.
Dương Hạo dừng lại một chút, lấy lại bình tĩnh, nén xúc động, lại nói:
“Bản phủ vừa mới trở về. Đã bàn bạc việc này với các quan, các vị yên tâm trở về đi, người thân của các vị, cũng chính là người thân của ta, việc này, bản phủ nhất định sẽ giải quyết công bằng cho mọi người”.
Dân chúng xưa nay đều tin tưởng Dương Hạo, giờ hắn hứa hẹn như vậy, thì cảm thấy yên tâm hẳn. Dương Hạo đứng chắp tay về phía dân chúng cáo từ.
Dương Hạo trở lại đại đường, tay đập vào án thư, tức giận quát: “Lô Lĩnh ta tuy không có quân lực cường mạnh, nhưng tường thành cao, còn không thể tự bảo vệ mình sao? Dân tráng tuy huấn luyện chưa lâu, nhưng khi qua lại buôn bán với Đảng Hạng Thất Thị, cũng đã có đánh trận giả. Huống hồ…tộc người Mộc lão có mấy nghìn dân chăn nuôi. Mỗi người canh một trạm, sao lại không thể thủ được Lô Lĩnh Châu?”
Các quan đều cúi đầu xuống, sau một lúc lâu, Lý Quang Sầm mới nói: “Phủ đài đại nhân, người Khương Hoành Sơn giỏi cưỡi ngựa bắn cung, giỏi mai phục tập kích. Tường bao của chúng ta không chống lại được, chủ yếu là tăng cường phòng ngự bên ngoài cốc, bọn Khương thường đánh úp sau rặng núi.
Hai ngày nay, vợ chồng Kha đoàn luyện sứ đã tăng cường phòng ngự sau cốc và trên núi cốc, đã làm được rất nhiều bẫy để phòng ngự. Khi bọn Khương đến đánh úp sẽ bị mắc bẫy, thế là chuyển đến xoay quanh ngoài cốc, bắt đầu tấn công đánh úp thương nhân vào cốc. Bọn họ không đông, nhiều thì khoảng mấy trăm người, ít thì khoảng ba năm chục người, nấp ở trong bụi cỏ lau rất khó phát hiện. Hơn nữa vì là ít người, chỉ cần mang theo chút lương khô thì có thể ẩn úp khá lâu, thực khó mà phòng ngự được”.
Dương Hạo thở dài, đang ngồi thì đứng lên. Tất cả quan phụ tá đều quan sát sắc mặt của hắn, chuyện này chẳng lẽ lại bó tay sao, vô lý thật, nếu không giải quyết được mâu thuẫn của dân bản xứ thì sẽ tạo thành xung đột lớn hơn nữa.
Người Khương Hoành Sơn không phụ thuộc vào bất kì một thế lực nào, hơn nữa ngay cả thể chế xã hội cũng không có, giữa các bộ lạc không có bất kì mối quan hệ phụ thuộc nào, cho nên muốn lập quan hệ về chính trị, kinh tế hay là văn hóa với chúng đều không dễ dàng. Muốn tìm thủ lĩnh người Khương cùng ngồi xuống mà nói chuyện cũng không biết tìm người nào.
Nhưng tuy là không có người lãnh đạo nhưng bọn người Khương này lại có cùng mối thù oán, thêm vào sự hỗn độn phức tạp của ba thế lực, nó hình thành nên bản tính kiêu ngạo, tự dương tự đắc của chúng, giờ quen thói cướp bóc rồi, sao có thể từ bỏ thói đó được.
Về địa lý ở đây, không ai có thể thuộc hơn dân bản xứ, cho dù là Hạ Châu, Phách Châu hay là Lân Châu khu vực này đều có đóng quân vây quanh, một khi phát hiện ra có chiến sự, bọn chúng sẽ không tiếc tiền mà hối lộ cho bọn người Khương Hoành Sơn này.
Người Khương Hoành Sơn ngoài dũng mãnh thiện chiến, như vậy sẽ khiến cho người khác sợ làm đối thủ của chúng, nguyên nhân chủ yếu là giữa các vòng vây đóng quân đều được liên lạc với nhau, truyền tin, vận chuyển lương thảo, đều không thể không phối hợp với dân bản xứ, nếu không một khi bọn chúng đánh, cản trở mọi đường, thì không có cách nào đánh lại được.
Dương Hạo đảm nhiệm chức vụ Lô Lĩnh tri phủ. Lô Lĩnh Châu có thể đứng vững được không. Tuy rằng rất khó khăn, nhưng dân chúng không phải ai cũng biết điều này, sự khó khăn này chỉ có mấy người mới có thể thấy được. Xung đột với người Khương Hoành Sơn đối với dân chúng mà nói, là vết thương đau điếng người. Nếu không thể che chở cho bách tính môn dân, cho bọn họ tin tưởng, thì bách tính môn dân sẽ khó mà ở lại Lô Lĩnh Châu, tản mác đi chỗ khác, thậm chí nhập bọn vào với bọn cường đạo.
Đặc biệt là người Khương Hoành Sơn sau khi ra tay với thương nhân, phía người Khương Đảng Hạng sẽ không lo lắng các thứ vận chuyển đến đây, vì bọn chúng không những là cùng tộc với người Khương Hoành Sơn mà còn có đội ngũ vũ lực mạnh hơn chúng. Nhưng thương nhân của Trung Nguyên đến lại không có được sự bảo vệ của đội ngũ vũ lực này, thương nhân của Lô Lĩnh Châu không hề chuẩn bị vệ sĩ.
Nếu như việc này không được giải quyết thích đáng, hơn nữa là giải quyết dứt khoát thì sợ rằng dù lợi nhuận lớn, các thương nhân sẽ không mạo hiểm đến buôn bán với Lô Lĩnh Châu, vì buôn bán trong thiên hạ ở đâu cũng có thể làm, hà tất phải mạo hiểm đến đây, kế hoạch phát triển công thương của Dương Hạo, thành lập đặc khu sẽ không thể nào mà thực hiện được.
Dương Hạo suy nghĩ một lúc lâu, sau đó ánh mắt chậm rãi nhìn xung quanh, gọi:
“Mộc đoàn luyện”.
Lý Quang Sầm là nghĩa phụ của hắn, nhưng mối quan hệ này lại bao hàm cả thân phận cộng chúa của Đảng Hạng Thất Thị. Nhưng trên đại đường vẫn xưng hô theo cấp quan. Dương Hạo vừa gọi, Lý Quang Sầm lập tức đứng dậy chắp tay nói:
“Phủ đài đại nhân”.
Dương Hạo hỏi:
“Nếu Lô Lĩnh Châu ta là địch thủ của người Khương Hoành Sơn, ngươi xem ta có thể chiếm ưu thế thắng mấy phần?”
Lý Quang Sầm nhìn chằm chằm án thư mà mắt Dương Hạo đang nhìn. Hắn không biết Dương Hạo đang nghĩ gì, liền nói:
“Đại nhân, Lô Lĩnh Châu không tự bảo vệ mình được, còn nói gì đến xuất chinh. Song tộc dân của thuộc hạ từ thảo nguyên Thổ Phiên đến đây có mấy ngàn người, mỗi người đều giỏi cưỡi ngựa bắn cung, hơn nữa lại có nhiều trâu dê ngựa, cũng có thể lấy dùng. Người Khương Hoành Sơn tuy có gần mấy vạn người, nhưng lại hay làm theo ý mình, phân bè phân phái, tộc lớn nhất cũng không có đến một ngàn lều, như vậy, nếu ta xuất binh, trừ phi người Khương liên minh với nhau, đề cử thủ lĩnh trở thành một đại quân, còn nếu không thì tuyệt đối không phải là đối thủ của ta”.
Ánh mắt Dương Hạo sáng lên, lại gọi:
“Kha đoàn luyện”.
Kha Trấn Ác đi đến, chắp tay thi lễ nói:
“Đại nhân”.
Dương Hạo nói:
“Người Khương Hoành Sơn quen tác chiến vùng núi, mà Mục Kha trại ngươi vốn được xây dựng ở dãy núi phía trên, cũng tác chiến vùng núi. Bản phủ hỏi ngươi, nếu như người Khương Hoành Sơn đánh úp ở chỗ núi non cây cỏ um tùm, ngươi không thể ngăn cản bọn chúng xâm chiếm vào Lô Lĩnh Châu ta, để chúng hành hạ môn dân của ta đến chết sao?”
Kha Trấn Ác chắp tay trước ngực thi lễ nói:
“Khởi bẩm Phủ đài đại nhân, hạ quan chỉ mang theo hơn mười tráng đinh ở Mục Kha trại, mà thời gian huấn luyện dân tráng ngắn ngủi, không thể chống trả được bọn người Khương Hoành Sơn. Nếu như chỉ là ngăn chặn bọn chúng xâm nhập vào Lô Lĩnh Châu ta, địch tấn công còn ta thủ thế, chúng ta sẽ chiếm địa lợi. Nếu chúng ta cài đặt một số bẫy trong bụi cỏ rậm rạp ấy, thì hạ quan bảo đảm có thể sẽ ngăn được bọn chúng ở ngoài cốc”.
“Tốt, rất tốt”.
Dương Hạo chậm rãi ngẩng đầu lên, mặt nở nụ cười nói:
“Lúc nãy nghe những điều mà Mộc lão nói, người Khương Đảng Hạng đến tập kích, ta khó mà phòng bị được. Bản quan muốn biết việc ngày ngày chỉ có trông kẻ trộm, làm sao canh phòng mãi như vậy được. Một khi như vậy, ta không thể canh phòng, vậy ta đi tấn công lại bọn chúng, ý chư vị thế nào?”
Các quan viên nhìn nhau, Trình Đức Huyền chần chừ nói:
“Dạ vậy ý đại nhân thế nào ạ?”
Hai hàm răng của Dương Hạo nghiến chặt lại với nhau, cười nói:
“Kha đoàn luyện phụ trách phòng thủ, làm vòng vây bảo vệ lấy Lô Lĩnh cốc. Không để cho bọn trộm cắp đột nhập. Mộc đoàn luyện phụ trách tấn công, chủ động tìm kiếm và làm khó các thôn trại người Khương Hoành Sơn.
Giờ là lúc thu hoạch vụ mùa, sống dựa vào nông canh, lấy sạch hoa màu, không để lại chút lương thực nào cho bọn chúng; Chúng sống dựa vào săn bắt thì ta cho phóng hỏa đốt rừng cây, xua đuổi hết thảy muông thú chạy xa ngàn dặm; Chúng sống dựa vào chăn thả thì ta cướp đoạt lấy trâu dê ngựa, ta xem bọn chúng sống thế nào qua mùa đông băng giá này”.
Những lời mà Dương Hạo vừa nói ra, hai người một là Trình Đức Huyền, người kia là Phạm Tư Kỳ lấy làm ngạc nhiên, đồng thanh nói: “Phủ đài đại nhân, tuyệt đối không thể vậy được”.
Dương Hạo không biểu hiện gì, hơi nhắm mắt lại, quay sang Trình Đức Huyền hỏi:
“Trình đại nhân có cao kiến gì?”
Trình Đức Huyền hôm nay thấy biểu hiện lạ lùng của hắn khác xa so với mọi ngày, hiểu được giờ hắn đang tức giận đến mức nào, lúc đang nóng giận như vậy mà đi trả thù sợ rằng sẽ xảy ra hậu quả không lường trước được, nên hắn kiên trì nói:
“Đại nhân, người Khương Hoành Sơn tuy không biết tính toán, nhưng rất thiện chiến khi thân chinh, người Khương ở tản mác khu vực Hoành Sơn, một khi chọc giận bọn chúng, hậu quả sẽ không lường nổi. Việc xung đột với người Khương Hoành Sơn, lúc này chúng ta cần trấn an lại”.
Tay Dương Hạo chống vào án thư, cười gằn nói:
“Hả, ngươi nói lại cho ta nghe, thế nào là trấn an?”
Trình Đức Huyền lấy lại bình tĩnh nói:
“Các quan có thể phái người gặp mặt với thủ lĩnh người Khương Hoành Sơn, mấy bộ lạc người Khương gần với Lô Lĩnh Châu ta, không những buôn bán sòng phẳng với chúng ta, mà còn có nhà di rời đến gần cốc ta, những người này chính là người chuyển tin tức tốt nhất. Chúng ta có thể nhờ vả bọn họ, giúp cho hai bên ta và thủ lĩnh người Khương hiểu nhau một chút, theo lệ cũ của Lân Châu và Phách Châu, nên đưa tiền tài vải vóc, gạo và muối tặng cho bộ lạc người Khương để làm dịu đi sự căng thẳng trong mối quan hệ này.
Triều đình để trấn an người Khương, thì luôn phong thưởng cho các bộ người Khương. Đại thủ lĩnh quản lý hàng trăm lều trại thì được ban cho chức quân chủ, quản lý dưới trăm lều trại thì nhận được chức chỉ huy sứ, cho nên chúng ta có thể có lý do mà qua lại với họ. Lần xung đột này, hai bên đều có người chết, không nên truy cứu lại làm gì, kế nhân nhượng trấn an là tốt nhất. Làm dịu đi cơn giận của người Khương…”
Trình Đức Huyền do dự một lát rồi nói:
“Hạ quan thân là một quan sát phán quan, quản luật pháp của Lô Lĩnh Châu. Dân Bắc Hán mà chúng ta dời đến đây có người tốt có kẻ xấu. Người vi phạm luật pháp cũng có, giờ đang có bảy tên bị giam giữ hình phạt. Để làm giảm cơn giận của người Khương, chúng ta có thể đem bảy tên tù này gán tội đầu sỏ giết người Khương, xử phạt ngay trước mặt người Khương, đổi lại ta có cái lợi, giải quyết ổn thỏa chuyện này, giúp Lô Lĩnh Châu yên bình trở lại. Không biết ý đại nhân thế nào?”
Dương Hạo không đưa ra ý kiến gì, quay sang Phạm Tư Kỳ hỏi:
“Phạm tiên sinh có cao kiến gì không?”
Phạm Tư Kỳ lần đầu nói chuyện trước mặt các quan như vậy, ngập ngừng một lát, mặt đỏ ửng lên nói:
“Đệ tử cho rằng, bọn man di mọi rợ không biết gì cả, chỉ hung hãn như vậy. Những nhân vật có tiếng từ trước đến nay, có tấn công lại đâu. Khơi binh kháng lại như vậy, không thể chặn được thủ đoạn tàn khốc này.
Con người khi sinh ra đều có một sự cảm thông, thiện và ác. Những vương giả, người nhân nghĩa dựa vào vương đạo mà dạy cách nông canh, giáo hóa, thu nạp mẹ góa con côi, giúp đỡ khi bần cùng khó khăn, bày tỏ sự nhân nghĩa, lấy vương đạo mà trị, độ hóa man di, lâu dài thì sẽ thành huynh đệ với nhau. Cái gọi là người vô địch, đệ tử có ngu kiến này, đại nhân thấy sao?”
“Ha ha, quả nhiên là ngu kiến!”
Dương Hạo không khách khí, đưa ra lời nhận xét như vậy, làm Phạm Tư Kỳ đỏ mặt.
Dương Hạo kiên nhẫn sự phẫn nộ một lúc lâu giờ lại bùng phát, vỗ án thư quát:
“Kiến của thư sinh! Kiến của phụ nhân! người Khương Hoành Sơn có cái dũng của người Khương, trí tuệ của người Hán, sống giữa các thế lực lâu như vậy, đã hình thành nên cái không có hạnh, kiêu ngạo dã man, không biết vương pháp, ngươi càng nhường nhịn thì chúng lại càng kiêu ngạo, nếu ngươi coi trọng chữ Nhân thì giống như lột da hổ vậy, người Khương Hoành Sơn nghĩ Lô Lĩnh Châu ta yếu đuối, như vậy sẽ càng coi thường chúng ta, từ nay về sau khó mà có cuộc sống yên ổn”.
Dương Hạo nói những lời này rất rụt rè, nhớ đến Phạm Tư Kỳ, chủ ý của Trình Đức Huyền không thể hiểu nổi, lời nói của Phạm Tư Kỳ như tát nước vào mặt hắn, làm cho Trình Đức Huyền đỏ bừng mặt, vô cùng phẫn nộ.
“Lui ra, bản quan đã quyết, các vị cứ thế mà làm, lập tức chuẩn bị đi, việc này không được chậm trễ, sáng sớm ngày mai, bắt đầu phản công, cho bọn chúng một bài học suốt đời không quên! Bãi triều!”
Các quan vâng lệnh, lần lượt lui ra. Dương Hạo lại nói: “Mộc đoàn luyện ở lại”. Dương Hạo đứng lên nói một câu: “Nghĩa phụ!”
Dương Hạo tiến lên trầm giọng nói: “Nghĩa phụ, trong số người Khương Hoành Sơn, thế lực mạnh nhất chính là Dã Ly Thị, tuy nói là người Khương sống không lệ thuộc lẫn nhau, nhưng giữa các bộ lạc lớn một chút thì vẫn thường xuyên trao đổi tin tức. Người nhanh chóng phái người liên lạc với Tô Lạc đại nhân, để Dã Ly Thị lộ diện, tránh cho bọn chúng liên hệ với nhau.
Lý Quang Sầm nhướn mày, hỏi:
“Hạo Nhi, thật sự muốn đánh sao?”
Dương Hạo gật đầu một cách nặng nề nói:
“Chẳng những muốn đánh mà còn muốn đánh cho chúng chết hết đi, đánh cho chúng tan xác, đánh cho bọn chúng sợ đến mức mười năm sau nghĩ đến Lô Lĩnh Châu ta mà kinh hồn bạt vía”.
Lý Quang Sầm lo lắng nói:
“Tập quán của người Khương là, có thù có báo…”
Dương Hạo ngắt lời hắn:
“Nghĩa phụ, nếu ta từ thuở nhỏ sinh ra ở vùng thảo nguyên Hạ Châu, tuy không phải người Khương, song cũng theo tập quán của chúng. Thuở nhỏ nhìn mãi mà thành quen, lời nói và việc làm đều tự hình thành cái bản năng của mình, nhưng không phải tất cả người Khương đều giữ lại bản năng này.
Người Khương Hoành Sơn sống ở hai bên núi Hoành Sơn, sống cùng với Hồi Hất, Thổ Phiên và người Hán, có trồng cây, có săn bắt, có du mục, phong tục vốn đã thay đổi. Hơn nữa các thế lực vì để lôi kéo bọn chúng, mà luôn cho bọn chúng những lợi ích, khiến cho bọn chúng trở nên bất chấp đạo lý. Bọn chúng tuy vẫn duy trì sự dũng mãnh của mình, nhưng về những tập quán trước đây thì người Khương trên thảo nguyên đã không còn nữa. Người như chúng đã trở nên ác, chúng bắt nạt kẻ yếu, nên sẽ không vì một tập quán cổ hủ mà nói chuyện đạo lý đâu.
Chúng ta ở Lô Lĩnh Châu, nếu muốn ổn định lòng dân, thì cần phải làm cho bọn địch biết sợ là gì. Bảo vệ thì chắc chắn là cần rồi, nhưng không phải bây giờ. Hai phủ Lân Châu có thế lực hùng mạnh, cho nên khi bọn chúng dựa vào ân, bộ tộc này tự biết là mình không thể chiếm được mà bỏ qua, mới bằng lòng chịu cách trấn an.
Còn chúng ta có cái gì mà đi trấn an? Giờ tình hình thế này, một khi dàn xếp ổn thỏa, để chúng càng thêm coi thường ta thì sẽ vẫn bắt nạt ta. Nếu như dàn xếp ổn thỏa như vậy, dân chúng Lô Hà Lĩnh ta bị coi là gì? Những thương nhân có thù mà không thể trả, sự an toàn không được bảo đảm, ai còn dám đến đây nữa?
Phải hung hăng, mạnh mẽ mà giáo huấn bọn chúng một bài học, làm cho chúng hiểu được chúng ta lợi hại thế nào, đó mới chính là cái gọi là Vương đạo. Giờ chúng ta có Dã Ly Thị, lôi kéo một bộ lạc lớn Dã Ly Thị, thì chúng sẽ không hợp lực với nhau được, thì sức mạnh của chúng sẽ giảm đi đáng kể, ta đánh cho chúng biết đau, phải sợ ta, thì từ nay về sau chúng mới không dám quấy nhiễu chúng ta nữa, khi đó dân chúng và thương nhân Lô Lĩnh Châu mới tin tưởng chúng ta”.
Giữa các bộ tộc người Khương thường xuyên chém giết nhau, ví dụ như giữa Đảng Hạng Thất Thị và Hạ Châu Thác Bạt Thị, những năm gần đây không ngừng chém giết, thua thì thôi, chưa từng có cảnh có thù thì trả. Vì người Khương rất nóng tính, chuyện có thù thì phải trả cho nên dân bị ảnh hưởng, hơn nữa lại còn hung hãn hơn, mọi người đều cảm thấy không thể gây nên thù hận với chúng.
Một lý do nữa, là thủ đoạn trả thù của Dương Hạo quá độc ác, cho nên Lý Quang Sầm lo lắng lần trả thù này sẽ dốc toàn lực để mà được ăn cả ngã về không, giờ nghe Dương Hạo phân tích như vậy, Lý Quang Sầm gật đầu lia lịa, hắn không ngờ Dương Hạo tới đây không lâu mà lại hiểu rõ người Khương đến vậy, lòng lấy làm cảm phục và tin tưởng vô cùng.
Tiễn Lý Quang Sầm xong, Dương Hạo trở về đại đường rồi ngồi xuống nghĩ, đại đường im ắng không một tiếng động, hắn ngồi ở một cái chiếu màu đỏ, tập trung suy nghĩ. Thực ra tình hình của người Khương, hắn chỉ biết sơ sơ một phần nào đó thôi. Mà những kiến thức hắn có được chưa chắc đã giống với tình hình bây giờ.
Những kinh nghiệm của hắn cho thấy, có một cái gọi là hung hãn, là cái mà khiến cho người ta không dám bắt nạt, là cái mà bọn vô lại lấy cái đạo của người quân tử để tự trói buộc chính mình, sau đó lại qua lại với mình. Chúng tạo mối quan hệ với mình xong, thì cũng chỉ là trả công, nhưng một khi có cơ hội, những cái xa hoa hào nhoáng của mình sẽ bị bọn vô lại đập vỡ ngay lập tức, tiền bạc lúc ấy không còn giá trị gì nữa.
Có một câu nói nổi tiếng thế này: “Chúng ta đối với phái phản động và hành vi phản động của giai cấp phản động thì tuyệt đối không được nói đến nhân chính”. Dương Hạo thiết nghĩ, mình trước tiên phải đánh cho hắn sợ, sau hắn mới ngoan ngoãn ngồi xuống nghe mình giảng đạo lý, bởi vì loại ti tiện vô lại vốn rất ương ngạnh.
Để xây dựng được một Lô Lĩnh Châu, thì nhất thiết phải có một lực lượng quân sự vững mạnh, lợi nhuận mà buôn bán mang lại là rất lớn, đòi hỏi có một lực lượng quân sự hùng mạnh để bảo vệ, và thế lực mà hắn có thể dựa vào chính là Phủ Châu gần hắn nhất.
Nghĩ đến đây, Dương Hạo thở dài: “Nhưng nhận binh giáp, vũ khí của Phủ Châu, hơn nữa còn nhờ họ huấn luyện, cái này…không thể tránh được dấu vết đánh Phủ Châu. Mình xuất thân từ một tên thuộc hạ của Trình Thế Hùng nên đã bị Quan Gia đề phòng. Giờ hắn và Phủ Châu Chiết Thị qua lại với nhau, Triệu Quan Gia biết tin, sẽ thế nào đây? Bên cạnh còn có Trình Đức Huyền nữa, việc này vốn không thể che mắt nổi phủ Khai Phong.
“Dứt khoát cố gắng đứng sang bên Chiết Ngự Huân, tranh thủ cơ hội trở thành thế lực thứ tư?”
Dương Hạo lắc đầu, không tin đứng trước một Triệu Khuông Dận có tài thao lược quân sự, một chính trị gia, quân sự gia trải qua nhiều năm thao luyện, bản thân mình có thể thay đổi lịch sử sao, thay đổi kết cục của tây bắc sao? Ba thế lực tây bắc, chỉ có một thế lực kháng cự thành công kế sách của Đại Tống, lập nên một nước riêng, tạo thành thế chân vạc với Đại Tống và Khiết Đan, đó chính là Đại Hạ. Lô Lĩnh Châu là một nơi chập hẹp, nhỏ bé, không thể thực hiện chiến lược đánh thọc sâu, lại không có một nguồn binh sĩ, nguồn tài nguyên nào, cho dù đưa Gia Cát Khổng Minh đến cũng không biết xoay sở thế nào với tình hình này.
Dương Hạo lắc đầu cười gượng:
“Từ xưa đến nay, Tiết trấn một phương, trong phủ, e là không có ai giống mình. Việc này khó đây vì phải giải quyết một cách thích đáng nhất, cho thương nhân có lòng tin, để buôn bán của khu vực Lô Lĩnh Châu hưng thịnh trở lại”.
Dương Hạo đau đầu suy nghĩ, Dương Tấn Thành ở đâu chạy đến vui mừng nói:
“Phủ đài đại nhân, phủ đài đại nhân, lại có một đội thương nhân đến đây rồi, hơn nữa, ước chừng có khoảng hơn hai mươi xe ngựa. Đề tên là của Lý Ngọc Xương viên ngoại.
“Sao, bọn họ an toàn đến châu này rồi sao? Mau, mau, bản phủ đích thân đi đón họ”.
Dương Hạo nghe vậy xong vui mừng quá đỗi, giờ Lô Lĩnh Châu bị người Khương làm loạn, các thương nhân đều sợ hãi mà không đến nữa, giờ có đoàn thương nhân đông như vậy đến, nếu như bảo đảm cho bọn họ qua lại giao dịch an toàn thì sẽ lấy được lại lòng tin của các thương nhân khác.
Dương Hạo sửa sang lại quần áo, đi ra khỏi phủ đón đoàn thương nhân. Đi ra đến ngoài phủ, thúc ngựa đi về hướng tây, đến nơi có đoàn thương nhân đang đứng ở hầm trú ẩn. Có rất nhiều người đang khuân vác đồ đạc xuống, nào thì giường tơ vàng gỗ lim, bồn cầu hoa văn tinh tế, bàn ghế dài, giá để áo mũ, bình phong chim yến… Có đến bảy tám tên tiểu nha hoàn đang chạy đi chạy lại đôn đốc:
“Nhẹ tay thôi, nhẹ tay thôi, cẩn thận chút…”
Dương Hạo thấy vậy, ngạc nhiên hỏi luôn:
“Tấn Thành, ngươi không nói sai đó chứ…đây chính là đại thương nhân hả? Sao ta nhìn lại là một khuê nữ của một gia đình nhỉ?”
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.