Quyển 16 - Chương 140: Quân Hán tới vạn binh bất khả địch ( 1+2+3)
Nguyệt Quan
20/03/2013
“Nay đại quân quân Tống phất cờ kéo quân trở lại, khí thế hùng hồn như chưa từng có, lại cộng thêm binh mã Tây Hạ, binh lực lại càng mạnh. Thế tử cho rằng, thái hậu và ẩu chúa trong tay chỉ dùng một tướng dũng như Da Luật Hưu Ca sao có thể đánh lại được cường địch?”.
Người vừa nói là một người khoảng hơn ba mươi tuổi, diện mạo bình thường, không có nét gì nổi bật, duy chỉ có đôi mắt thực có thần sắc, lộ rõ vẻ khôn khéo hơn cả. Nếu là các nhân sĩ Trường An hoặc những người quen biết ắt hẳn đều nhận ra đó là Hồ Hỉ Nhi, quản sự trong phủ Tề Vương Triệu Quang Mỹ.
Ngồi ngay hàng đầu là một đại hán cũng khoảng gần bốn mươi tuổi, thân người cao lớn, râu ria đầy mặt, đầu đội mũ quan, mặc một bộ hán phục. Tuy nhiên bộ y phục trông thật bó chặt vào thân hình to lớn của hắn, cảm giác như chỉ cần hơn chút cử động là đường chỉ sẽ rách toạc ra. Với vóc đáng này của hắn, nếu mặc một bộ Hồ phục vạt trái, đội mũ lông cừu, trông sẽ uy phong oai vệ hơn, còn bộ đồ Hán phục này, thực làm khiến cho người khác buồn cười.
Người này tên là Da Luật Lưu Lễ Thọ, chính là Tống vương, Da Luật Hỉ Ấn thế tử.
Tống vương Da Luật Hỉ Ấn từng bị liên quan đến âm mưu phản bội do Đức vương Da Luật Tam bày ra, sau đó bị cấm đặt chân tới U Châu. Vị thế tử Tống vương này bây giờ lại chính là người chỉ huy thực sự của cả bộ tộc này.
Lưu Lễ Thọ khẽ vuốt râu, lắc đầu nói: “Lai giả bất thiện, kẻ đến thực có ác ý, đại trận do binh mã quân Tống bày ra đã đủ làm ta đau đầu, nay lại hợp lực với quân Tây Hạ, có thêm cả một đội kỵ binh vững mạnh. Quân Tống giờ đây giỏi công giỏi thủ, tiến thoái tùy ý thực khó đối phó. Còn Da Luật Hưu Ca, trận trước đại thắng đa phần là do dựa vào cách đánh trận lâu dài, dụ hoàng đế Đại Tống vào trận mai phục mà chiếm được lợi thế. Nếu luận về thực lực, quân binh nước Liêu ta... E là khó địch nổi người Tống”.
Hồ Hỉ Nhi cười đáp: “Kỳ thực, nếu luận sự kiêu đũng, binh mã của bắc triều ta ai nấy từ bé cũng đã được tập luyện cưỡi ngựa bắn cung, lại tác chiến ngay trên lãnh thổ của ta, thực là có phần lợi thế hơn như vậy không cần phải quá sợ người phương nam. Chúng ta liên tiếp gặp phải thất bại, thực không phải do binh mã Bắc quốc quá ít mà là do thái hậu quá dựa dẫm vào Da Luật Hưu Ca, vốn có ý muốn kết duyên với hắn. Điều này thực mất thể diện hoàng thất, sẽ dẫn đến lòng dân nổi loạn, binh sĩ bất an”.
Lưu Lễ Thọ vỗ đùi một cái, hưng phấn nói: “Đúng vậy, ngươi nói thật đúng lý, chính là như thế!”.
Hồ Hỉ Nhi lại nói: “Lần này, Da Luật Hưu Ca làm tổn thất mất ba vạn nhuệ quân, nhưng hắn chỉ bị thái hậu chỉ trích đơn thuần, không có một sự trừng phạt chính thức nào, điều này chứng tỏ rõ rằng, thái hậu thiên vị hắn. Lần trước cũng vậy, U Châu bị bao vây, có hai tướng quân mang binh đến cứu viện muộn mất ba ngày, kết quả thì sao? Bị thái hậu hạ chỉ, chịu đòn roi trước mặt bàn dân thiên hạ, giáng chức xuống hai cấp. Vậy thử so sánh hai việc này xem, thái hậu thực là vì tư tình mà thường phạt bất minh, như vậy ai có thể kính phục đây?”.
Lưu Lễ Thọ lớn tiếng nói: “Đúng vậy, đúng như thế, hừ! Ta đã biết rõ, ả ta xinh đẹp như hoa, tuổi trẻ nhưng lại ở góa, sao có thể chịu được cô đơn nơi khuê phòng! Đường đường một thái hậu tôn kính lại đi cầu hòa với một tên quan thần, khác nào bôi nhọ lên thanh danh của hoàng thất ta. Bây giờ những lời đồn đó có ở khắp nơi đầu đường trấn phủ, người nói qua kẻ nói lại, thật không thể lọt nổi tai. Ta mỗi lần nghĩ đến lại thấy thực sự xấu hổ.
Hồ Hỉ Nhi cười thâm hiểm nói tiếp: “Tuy nhiên, thế tử cũng không cần phải quá nóng giận như vậy. Ngài không thấy là, điều này chính là cơ hội tốt cho chúng ta sao?”.
Lưu Lễ Thọ ngẩn ra, vội vàng đáp: “Cơ hội, ngài nói thế là ý gì?”.
Hồ Hỉ Nhi đáp: “Thái hậu và tên thần tử có tư tình, như vậy đã mất hết thể diện hoàng gia. Các hoàng thất, thủ lĩnh đại nhân của các bộ tộc tất nhiên sẽ oán trách trong lòng. Thái hậu không biết tự trọng, tức đã không còn tư cách làm mẫu nghi thiên hạ, ấu chúa lại trẻ người non dạ chưa hiểu việc chính sự, sao có thể nắm giữ được thiên hạ nhà Liêu đây? Trong tình hình như vậy, nếu thế tử nhân cơ hội phát binh, giơ tay triệu hiệu, ắt được ba quan văn võ ủng hộ. Như vậy chỉ cần bãi bỏ ấu chúa, để Tống vương thế tử lên ngôi?
Trước đây Lưu Lễ Thọ vốn đã tham gia âm mưu phản loạn của Đức vương Da Luật Tam cùng với phụ thân mình, mưu đồ phản trắc sớm đã nhen nhóm trong đầu hắn, lúc ấy chỉ cần bọn hắn hành sự bí mật, thì đã không bị triều đình bắt được nhiều yếu điểm khi chưa thực bộc lộ hành phản. Thế nên chỉ có Tống vương bị nhốt lại, chưa bị liên lụy quá nghiêm trọng vào sự việc. Nếu có cơ hội cứu được phụ thân, sau đó tiếp tục tái phản, Lưu Lễ Thọ đương nhiên sẽ không do dự.
Chỉ là Lưu Lễ Thọ lại do dự trong chốc lát, thở dài mà nói: “Việc thực đã không thành, thái hậu quả cao tay hơn nhiều. Trong mấy năm này, cả vùng Thượng Kinh đều bị ả ta nắm chắc không lọt chút quyền hành gì. Ta tuy vẫn là thủ lĩnh của bộ tộc nhưng lại không có chút quyền lực, ta thực không binh không quyền. Giờ tạo phản, ngươi bảo ta lấy gì để tạo phản đây?”.
Hồ Hỉ Nhi mỉm cười đáp: “Thế tử nói như vậy là tự hạ thấp mình rồi, triều đình nước Liêu ta có biết bao trung binh nghĩa sĩ, chứng kiến thái hậu một tay thâu tóm quyền lực. Khống chế ấu chúa, quốc gia lại đang lâm nguy, kẻ nào lại không nghĩ tới việc tận trung báo nghĩa, phục đỡ chính nghĩa chứ? Nếu thế tử có lòng, tiểu nhân nguyện tiến cử một người, người này trong tay nắm giữ trọng binh, nếu có ý phò trợ thế tử, đại sự tất thành”.
Lưu Lễ Thọ hai mắt nhắm lại, nghi hoặc hỏi: “Ưm! Ngươi vốn chỉ là một gã thương nhân, sao lại mưu cầu đanh lợi việc này?”.
Hồ Hỉ Nhi cung kính đáp: “Cho dù có là địch quốc trù phú, thực cũng chỉ là một kẻ thương nhân ti tiện, tiểu nhân chỉ muốn hiến mưu xuất lực... Cống hiến chút tài khuyển mã phò trợ thế tử. Đến được ngày Tống vương ngài đăng cơ xưng đế, thế tử được được lên làm thái tử. Tiểu nhân... Như vậy tiểu nhân có thể thẳng lưng mà đường đường chính chính, có được thân phận đáng nể như Quách Tập, làm rạng danh tổ tiên, gây cơ đồ rộng mở cho con cháu sau này, như thế cũng là việc đáng làm cả đời thần”.
Quách Tập là đại thần nhà Hán, khi đó được đương kim thái hậu tin dùng, nay được phong làm xu mật sứ Nam viện, kiêm chức chính sự lệnh, tiết độ sứ Phong Võ Định quân, là kẻ dưới một người đứng trên vạn người. Lưu Lễ Thọ nghe vậy liền bật cười: “Nếu phụ thân ta lên ngôi, tất sẽ phong cho ngươi chức quyền của Quách Tập. Ha ha, mau... Ngươi nói có kẻ tướng lĩnh nắm trọng binh trong tay nguyện giúp ta hoàn thành đại sự, lời này có thực không? Hắn là ai?”.
Hồ Hỉ Nhi đứng thẳng người lên, ho nhẹ một tiếng rồi nói: “Vương huynh, thế tử cho hỏi, còn không mau ra bái kiến...”.
Lời chưa dứt, một người đã nhanh chóng bước ra từ sau tấm bình phong, thân người khoác một bộ giáp đen, đầu đội mũ lông quạ tay cầm bội kiếm, nhìn diện mạo có vẻ chưa tới bốn mươi tuổi, khuôn mặt mày ngài sắc nhọn, anh tuấn cường tráng.
Lưu Lễ Thọ cảm thấy kinh hãi, vội nhảy dựng lên, thất thanh nói: “Vương Quan Vũ! Vương chỉ huy sử ư?”.
Vương Quan Vũ cung kính cúi người hành lễ, cao giọng nói: “Đúng là mạt tướng, mạt tướng Vương Quan Vũ chỉ huy sử quân Hán của Thượng Kinh, thần đã từng được yết kiến Tống vương thế tử”.
Lưu Lễ Thọ được gặp người này không khỏi vừa mừng vừa sợ, thì ra đây chính là Vương Quan Vũ chỉ huy sử quân Hán của Thượng Kinh, dưới trướng có tới sáu vạn quân Hán trấn thủ Thượng Kinh. Nay chiến sự U Châu khẩn cấp, đến binh mã Liêu Dương ở Đông Kinh cũng bị điều đi. Quân cấm vệ cung, quân tộc trưởng ở Thượng Kinh cũng đi theo ngự giá, số binh mã lưu lại trấn thủ Thượng Kinh giờ do chính quân Hán làm chủ lực.
Tiêu Xước vốn nghĩ rằng, lần mưu phản trước đây đều do Khiết Đan cầm quyền, có rất ít quân Hán cùng tham gia tạo phản, nàng nghĩ rằng để quân Hán ở lại trấn thủ Thượng Kinh là thỏa đáng nhất. Không ngờ Trịnh gia lại hoàn toàn có ý phản trắc, muốn mưu đồ đoạt vị tại nước Liêu này.
Mấy vị tướng lĩnh quân Hán này đều xuất thân từ gia thế phương bắc. Thường dân bách tính người Hán trong mấy năm này cũng dần mở mày mở mặt, được lên làm quan chức. Trước đây, ngoài tộc Khiết Đan ra các tộc khác đều bị áp chế, con cháu người Hán bình thường đều không có quyền được học văn tập võ, nên chỉ có những nhà gia thế như vậy mới được giáo dục, được triều đình nhà Liêu trọng dụng.
Đương nhiên, cũng hoàn toàn do xuất thân của họ nên dù là võ nhân, họ cũng chịu ảnh hưởng của văn hóa dân tộc mình, quan niệm truyền thống của người Hán, đối với họ, cuộc sống thường dân dù ở góa đơn độc, rồi tái giá cũng là chuyện bình thường, nhưng thái hậu lại là thân phận khác, chẳng phải là đấng tôn nghiêm cao quý sao? Thái hậu một nước lại dám có hành vi ấy, rõ ràng là loan luận bại đức, làm vấy bẩn lên phong tục dân tộc lâu đời, nhất định phải chịu sự khinh bỉ của bàn dân thiên hạ.
Tin đồn Tiêu Xước và Da Luật Hưu Ca có tư tình, vốn chỉ là do vài tên nghiệp dư nghe ngóng từ Chiết Tử Du mà bày đặt thị phi, cố ý truyền đi khắp nơi. Vốn dĩ bách tính thiên hạ cực kỳ để ý chuyện tư tình nam nữ, chỉ cần có người truyền ra là họ sẽ ầm ĩ hết lên. Chuyện đồn đại qua tai nhiều người thường lại càng bị nói phóng đại lên, một người nói một khác, tin đồn ai ai cũng biết, đến lúc Vương Quan Vũ nghe được cũng tin là thật.
Sau đó, Hồ Hỉ Nhi đã dùng quà các biếu xén để kết giao thâm tình, khéo léo dụ dỗ, dần thuyết thục được hắn, nói rằng Tiêu thái hậu không đoan chính, không có tư cách làm mẫu nghi thiên hạ, chỉ cần ta hưng binh phế truất, tất nhiên sẽ hợp ý tất cả các quý tộc hoàng thất.
Được họ ủng hộ, việc này chắc chắn sẽ thành công, vì vậy hắn mau chóng biến thành kẻ đồng mưu với Hồ Hỉ Nhi.
Có hai kẻ hạ thủ cùng bàn đại sự, Lưu Lễ Thọ nhất thời cảm thấy mừng rỡ, nhưng nghĩ lại lần chính biến trước bị thất bại, may mà lọt lưới nên mới thoát tội khi quân, hắn không khỏi thấy sợ hãi, hắn lo lắng hỏi: “Vương tướng quân, quân Hán trên dưới, ngươi có thể khống chế được hết không? Ngươi có biết rằng chỉ cần sơ xảy một chút là ta và ngươi đều sẽ bị chém đầu không?”.
Vương Quan Vũ cười ha hả đáp: “Trong số các cánh quân Thượng Kinh, quân Hán ta trước giờ đều bị cấm vệ quân, quân tộc trưởng coi thường, các tướng sĩ cũng bị bọn chúng xa lánh kỳ thị, bởi vậy luôn cùng nhau đoàn kết, ky luận thống nhất, Vương mỗ hiểu rõ quân Hán của mình như lòng bàn tay, tuyệt đối tin rằng ‘quân Hán trên dưới như một’”.
Vương Quan Vũ tự tin mà dứt khoát, giương giọng nói: “Các ngươi mau ra đây đi, cùng yết kiến thế tử...”.
Sau tấm bình phong lớn, xuất hiện năm người đều mặc áo giáp đi ra, đó là: Lý Kiếm Bạch phó đô chỉ huy sử quân Hán của Thượng Kinh, Trinh Thiên Hạo chỉ huy sử Mã quân, Ác Duy chỉ huy sử Bộ quân, úy Trì Phong đô ngu hầu quân Hán và Chu Khí, sáu vị đại tướng nổi danh của quân Hán đều tập trung tại đây. Lưu Lễ Thọ vui mừng khôn xiết mà vỗ tay khen ngợi: “Thế này thì đại sự tất thành!”.
Hồ Hỉ Nhi cười nham hiểm đáp: “Đây vẫn chưa đủ, tiểu nhân đã liên giao với cả mấy bộ lạc như Bạch Cam, ngoài ra cũng cử người đi thuyết phục bên phía Nữ Chân, Thất Vi, chỉ đợi mọi việc hoàn tất, thế tử có thể hành động, nhất cử mà chấn động cả thiên hạ”.
Lưu Lễ Thọ nhìn lên trời cười to, không biết hắn đang mừng hay sợ nữa...
*
* *
Tiêu Xước lại lần nữa phái Mặc Thủy Ngân đến đại doanh của quân Tống, lần này chỉ đem đến một hộp cẩm hạt.
Bên trong chiếc tráp, có một mẩu giấy, bên trên vẩy mực tung tóe, chỉ ghi có sáu chữ: “Quân muốn chiến, ta sẽ chiến!”.
Dương Hạo nhìn xong im lặng không nói gì, sau khi để Mặc Thủy Ngân quay về, mới trở vào thất phòng, tự mình cầm chiếc cẩm hạt mà trầm ngâm lúc lâu. Hắn lại nhẹ nhàng mở hộp ra, gỡ tờ giấy vẩy mực rồi mở tấm lụa phía dưới đáy hộp, bên dưới thực đã đặt sẵn những thứ đồ trang sức, từng chiếc từng chiếc một được lau bóng loáng xếp đặt đều đặn tỉ mỉ. Trang sức ánh sắc long lanh, có lẽ... Khi đêm khuya lúc mọi vật tĩnh lặng, Tiêu Xước thường hay lấy chúng ra ngắm nghía.
Tại sao phải biệt ly? Trâm cài người tặng trên mái đầu...
Tại sao lại nói điều ân cần? Hẹn thề một đôi sống chết...
Tại sao lại ước hẹn? Chung tay đến trời biển...
Tại sao lại kết ân tình? Mỹ ngọc nguyện một lòng...
Tại sao lại xa cách? Để lòng này tương tư...
Còn nhớ lần trước, Tiêu Xước đã giữ đến một nửa số trang sức, Dương Hạo hiểu rõ rằng nàng dùng nó để bày tỏ tâm ý của mình. Nàng đang hy vọng, sẽ có một ngày nào đó, chính tay Dương Hạo hắn sẽ đeo lên người nàng những thứ đồ trang sức đang thiếu mất một nửa này, nhưng...
Quân muốn chiến, ta sẽ chiến!
Dương Hạo thở đài một tiếng, trong lòng buồn bã: “Khoảng cách giữa hai chúng ta càng ngày càng lớn, có lẽ cả đời này cũng không còn cơ hội nữa rồi”.
“Tâu... Da Luật Hưu Ca tập kết binh mã, đánh tới Trác Châu, hòng chạy về phía bắc!”.
Dương Hạo vội đứng bật dậy, nỗi buồn lúc nẫy đã mau chóng biến mất, trên mặt hắn giờ đây đằng đằng sát khí!
Quân Liêu đã rút lại binh lực, cố thủ Nam Kinh, theo như kế hoạch của Da Luật Hưu Ca, cứ cố thủ Nam Kinh, từ đó làm tiêu hao quân chủ lực của Dương Hạo. Như vậy, quân lộ trung của Dương Kế Nghiệp đang đơn độc chiến đấu và quân lộ tây của Tào Bân hiển nhiên sẽ không làm được gì. Chúng sẽ tránh việc tiên phong giao chiến cho đến khi hợp lực toàn quân, chúng sẽ không chủ động quyết chiến với hắn.
Cuộc chiến bảo vệ U Châu lần thứ hai này, khi mưu đồ của Da Luật Hưu Ca bắt đầu, ba trong bốn vị vương gia trong vương phủ Khiết Đan là Da Luật Cảnh đại vương Nam viện, Bồ Nô Trữ đại vương Bắc viện, Trù Trữ Hề đại vương cùng với Bồ Lĩnh tuyên huy sử Bắc viện đã hội tụ tại U Châu của Nam Kinh nước Liêu này.
Đồng thời, Da Luật Hưu Ca đã mệnh lệnh cho binh mã các lộ vừa đến tập kết tại U Châu vừa tiến hành đánh du kích quân địch, quấy nhiễu tuyến vận chuyển lương thảo quân dụng của quân Tống, bày bố các cuộc tập kích nhỏ quân Tống, di dời dân thường của các châu huyện quanh đó, thực hiện kế vườn không nhà chống.
Nhưng đại quân của Dương Hạo lại hùng hổ tiến thẳng tới U Châu, căn bản không phân tán đóng quân ở những vùng huyện mà họ vừa chiếm lĩnh được, theo như Dương Hạo đã định, tấn công quân địch cũng tức là tự cứu được mình, ép cho địch phải lùi lại, binh mã tiền trận nước Liêu ắt không đánh mà lui.
Dương Hạo hành động nhanh nhẹn, thoạt nhìn cứ ngỡ cách đánh hoàn toàn giống với Triệu Quang Nghĩa, nhưng lực cơ động lại cực khác nhau. Cùng một chiến thuật nhưng hiệu quả lại không giống, lực uy hiếp đến quân Liêu cũng lớn hơn hẳn. Quân Tống chỉ có một nhược điểm quy nhất, đại khái chính là vấn đề cung ứng lượng lớn lương thảo vào trận tuyến. Dương Hạo đã dùng cả bộ thủy hai đường vận chuyên lương thảo, theo sát sau đại quân.
Phía đường thủy, trước có thuyền phá băng, sau là thuyền chuyên chở lại thêm binh đội hộ tống chặt chẽ. Nhưng có điều được vài quãng, thuyền phá băng vừa phá tan mặt băng dày, nước lại tiếp tục đóng tảng, không thể duy trì được tốc độ đã định, các binh sĩ buộc phải dùng chính sức mình di chuyển lương thảo trên tàu đi. Ngoài lương thảo ra còn có lượng lớn cỏ, họ đành phải chuyên chờ nó theo sau đó.
Phía đường bộ, quân Tống dùng thêm nhiều lừa ngựa thồ vận, binh mã của Dương Hạo thậm chí đã vượt qua cả binh đội của quân Liêu đang quay về bảo vệ U Châu, nhưng Da Luật Hưu Ca vẫn lệnh cho họ vừa quay về U Châu vừa đánh du kích quân Tống, lấy kỵ binh tấn công vào tuyến vận lương cả thủy và bộ của địch.
Trong lịch sử chiến tranh trong ngoài nước, cũng có những việc tuy rất nhỏ nhặt nhưng lại ảnh hưởng lớn thay đổi cả tình hình chiến cục. Trong hoàn cảnh hai phe vừa hành quân vừa tiến đánh này, dù chỉ là một vụ nổ pháo đạn đúng lúc. Trận mưa bão đột ngột, một lần giao chiến bất ngờ nằm ngoài dự liệu hay một đám binh sĩ ngộ chiến chỉ huy địch... Cũng rất quan trọng, may rủi đều đưa đẩy đến thắng bại.
Vào chập tối một ngày, Lưu Bảo Huân quan hộ tống áp lương của quân Tống đã mạo hiểm vượt qua bão tuyết, vận chuyển trăm xe lương thảo bằng đường bộ đến Kỳ Môn câu. Khi đi đến đoạn vòng khúc hiểm trở, từ đâu ồ ra hơn ba nghìn quân binh Liêu Quốc, chúng đã mai phục dọc theo đường này rồi xông ra đánh chém. Trong cả lộ tuyến này, tả hữu trước sau đều đông nghịt quân Tống, nhưng quân Liêu lại quen thuộc địa hình, nên đã thừa cơ quân Tống sơ xuất đến đột kích.
Lưu Bảo Huân ứng phó không xuể, không kịp xếp đặt xe thồ để cho bộ binh bày đại trận, hắn đành lệnh cho quân binh vội vàng vận chuyển xe lương vòng tròn mà chống lại quân Liêu, nhưng quân binh rơi vào thế bị vây hãm, quân Tống hoang mang khó mà trụ nổi công kích của quân Liêu. Quân Liêu tứ phía bủa vây, một trận chiến máu lửa tản ác xảy ra, Lưu Bảo Huân, Lưu Lợi Hiệp tào binh Khai Phong và cả Trung Thừa Khổng trung điện đều chết trận tại chỗ, binh tốt thương vong vô số, xe lương đều bị đốt sạch.
Khó khăn lắm mới hành binh tới gần Kỳ Môn câu, Lý Hoa Đình và Lưu Đình Nhượng lúc này mới nhìn thấy đám khói mù mịt cách hơn mười dặm về phía bên phải, họ vội vàng dẫn quân lao đến. Đám quân Liêu này vừa thoát khỏi Thiên Quan, cũng chính là nơi Lưu Đình Nhượng gặp trúng mai phục của quân Liêu, ba vạn đại quân của hắn bị đánh cho tơi bời. Hắn vốn đã căm thù quân Liêu ngút trời, giờ lại chứng kiến cảnh quân lương tan tác thảm bại, hắn lại thêm hận đến tận xương tủy, lập tức lệnh cho đoàn quân tốc hành đuổi theo.
Kỳ thật, trên cả chặng đường, quân Liêu đã lợi dụng việc dụng binh nhanh nhẹn, thông thuộc địa hình, dùng nó để bày trò đánh nhiễu quân địch. Thế nên việc truy kích là bất thành, Lý Hoa Đình vốn không muốn đuổi theo, hắn nghĩ rằng quân Liêu đột ngột công kích nhỏ lẻ như vậy chứng tỏ chúng đang kìm chế việc quân Tống kéo binh đến đánh U Châu, cũng đang tốc hành trở về, ắt sẽ sợ đối mặt trực diện đánh trận quyết chiến. Nhưng hắn lại không ngăn nổi Lưu Đình Nhượng vị lão tướng nước Tống đang sôi sục máu lửa này, đành phải theo đó mà dẫn quân truy kích. Thời tiết bấy giờ cũng không khả quan cho lắm.
Cuộc truy đuổi rồi cũng truy được tới địch. Lúc này, tuyết lớn đang rơi, trời đất khắp nơi mù mịt, bóng đêm đang dần buông xuống. Hai người dẫn quân truy kích nhưng trên mặt đất đã dần mất hết tung tích của địch, họ giờ thực đã bị lạc đường, đám quân Liêu sớm đã cao chạy xa bay, còn họ thì hồ đồ chạy loạn về phía trước. Tuy nhiên, đúng lúc này, tại một thôn trang hẻo lánh ven sông, họ bắt gặp một đám quân Liêu khác đang trú quân.
Đám quân Liêu trú quân ở đây không khỏi kinh ngạc mà tròn mắt há hốc mồm ra nhìn, đại quân quân Tống đột ngột từ đâu như trên trời đổ xuống, ào ạt tiến đánh.
Thì ra, đám quân Liêu này đang áp vận lượng lớn khí giới công thành thu được dưới chân thành U Châu từ lần trước, chuẩn bị chuyển đến cho binh đội chuyển vận ở biên ải Tống Liêu. Đám quân này lúc trước đang định vận chuyển khí giới đi thì nghe tin Da Luật Hưu Ca đại bại, kế hoạch thay đổi, tạm thời chưa cần tới khí giới công thành. Việc tạm thời dừng tiến, làm đám quân này phải đóng quân tại yếu địa giao thông bắc nam, họ liền trú ẩn ở thôn trang hẻo lánh này, đợi chờ thế cục thay đổi.
Nếu họ đem hủy hết số khí giới này là thỏa đáng nhất, nhưng người Liêu lại tiếc rẻ. Đối với họ mà nói, những khí giới tinh xảo như vậy nước Liêu khó mà tạo ra được, đây thực là bảo vật hiếm có. Những loại vũ khí mới mẻ như thế có giá trị lớn đối với họ, lợi dụng chúng họ sẽ có binh lực mạnh hơn nhiều, nếu không phải vạn bất đắc dĩ, sao có thể hủy chúng được.
Hơn nữa, đám quân Liêu này lại không nắm rõ được tình hình tiền tuyến, họ chỉ biết tin Da Luật Hưu Ca trúng kế dẫn đến đại bại, giờ đang thu hợp quân binh, định ý ghìm trận giằng co với quân Tống ở Tam Quan, họ nghĩ đợi xem tình hình rồi quyết. Không ngờ quân Tống không bị vướng quân binh ở biên ải, lại sẵn sàng chuẩn bị đánh thẳng tới U Châu, lại còn hành tốc đi lên trước cả quân Liêu ở biên ải.
Tình hình vốn như thế, nhưng đám quân lại không nằm trong tuyến quân giáp trận, tin tức nhận được vốn đã thiếu sót, nếu muốn thăm dò hỏi tin cũng phải mất nhiều thời gian, cho nên hiện giờ vốn đã mất hẳn liên lạc với đầu quân.
Theo lý mà nói, họ trú quân tại nơi thôn trang hẻo lánh, dù quân Tống lại nóng lòng tiến đánh U Châu, thần tốc hành binh chắc không hơi đâu mà vòng qua càn quét nơi hẻo lánh không chút đáng giá này, cũng sẽ không phát hiện ra những thứ khí giới này. Ai ngờ đâu, Lưu Đình Nhượng và Lý Hoa Đình lại mạo hiểm truy đuổi, lạc đến nơi đồng không mông quanh này, để rồi bắt gặp toán quân nhàn hạ này, kết quả quân Tống đánh bậy đánh bạ vào đây, bắt được cả người lẫn vật, đoạt được một loạt vũ khí.
Có được số chiến lợi phẩm này, Lưu Đình Nhượng lấy làm mừng rỡ, lần đại chiến ở U Châu, vì gấp gáp rút lui, quân Tống gặp mai phục ở sông Cao Lương bị đánh tơi bời còn không kịp báo tin cho quân mình ở gần đó. Quân hắn thảm bại, mất hết sức chiến đấu, chỉ còn lại binh hậu cần và binh thợ, khả năng tự bảo vệ của đoàn quân cực thấp, nên bị sát hại tổn hao vô số.
Hơn nữa bây giờ đang là mùa đông, dù binh thợ có nhanh tay đến mấy cũng không kịp tạo đủ số khí giới như lần trước được. Nay có đượcc số khí giới này, quân Tống sẽ được lợi vô cùng, công đánh quân Liêu sẽ dễ dàng hơn. Lưu Đình Nhượng vừa giải thích, Lý Hoa Đình liền ngạc nhiên mà vui mừng, trận loạn đánh này lại hóa kiếm được đại công!
Ngay sau đó, Lý Hoa Đình vội vàng lênh quân áp tải những tù binh cùng với khí giới lên đường, nhưng lão tướng Lưu Đình Nhượng có phần suy nghĩ cẩn trọng hơn. Hắn biết được tầm quan trọng của những khí giới này, đối với người Liêu, thứ bảo bối này còn trọng yếu hơn cả quân lương, lại nói về trận đánh vừa nãy, hai phe đều đột ngột giao chiến, phía địch đã có vài binh tốt chạy trốn được, một khi chúng thoát về bên quân Liêu và báo lại cho chủ tướng, chúng sẽ đem quân trở lại tấn công quân ta cướp lại bằng được khí giới. Nghĩ vậy, hắn liền nhắc nhở Lý Hoa Đình, phải thông báo việc này cho chủ tướng quân lộ đông, để họ mang quân tiếp ứng.
Lý Hoa Đình mới vỡ lẽ, lại lập tức phái người đi liên lạc với chủ soái, tín sứ vừa đi được nửa ngày, họ đã gặp được một đoàn quân khác đang tốc hành ngay sau, hỏi thăm tình hình mới rõ việc khí giới, nhận biết là việc trọng đại, đội binh này liền mau chóng hộ tống quân của Lý Đình Hoa lên đường, hành động nhanh nhẹn.
Đến đêm quả nhiên có một đạo quân Liêu tới đột kích, có khoảng đến bảy ngàn quân, dẫn đầu là Tiêu Thát Lẫm. Hắn cũng là một mãnh tướng nước Liêu, văn thao võ lược, trí dũng song toàn, chứ không phải là loại dũng tướng tầm thường. Hắn cũng có ý chí tiến thủ cao, trước đây khi Da Luật Hưu Ca được thăng chức như bay hắn cũng không phục, đối với hắn mà nói, hắn giỏi không thua kém gì Da Luật Hưu Ca, nếu có kém cũng chỉ là không gặp may thôi.
Vừa nghe tin quân Tống đoạt được khí giới, hắn biết là việc nghiêm trọng, thứ này vốn là vũ khí sắc bén nhất để công phòng thành trì về phương diện nào đó đủ để quyết định thắng bại. Thiếu thứ này, quân Tống sẽ khó mà công thành, quân Liêu sẽ bớt được gánh nặng. Kể cả hủy nó đi, quân Tống sai người chế tạo lại cũng phải mất nhiều thời gian, thậm chí không kịp mà hoàn thành.
“Thật là ngu xuẩn, đống khí giới đó lúc nào cũng phải chất cỏ khô lên trên, nếu thấy bất lợi lập tức đốt hủy ngay, các ngươi gặp phải quân Tống lại chỉ lo thoát thân, đúng là dâng vào miệng địch mà!”.
Dưới cơn thịnh nộ, Tiêu Thát Lẫm đã hạ lệnh chém chết mấy tên vừa tháo chạy về, tự mình dẫn quân đi truy sát quân Lý Hoa Đình, đồng thời hắn phái người đến báo tin cho binh mã các ngả phía vùng biên ải và cả đám quân đang truy đuổi quân chủ lực phía Dương Hạo của Tiêu Can và Hàn Khuông Tự.
Binh mã của Lý Hoa Đình, Lưu Đình Nhượng và Đồng Vũ đánh một trận đẫm máu với quân của Tiêu Thát Lẫm, hai bên đều bị trọng thương. Quân Tống bảo vệ tới cùng chỗ khí giới, quân Tiêu Thát Lẫm lại càng không bỏ qua, hai bên không ngừng giằng co, vừa đánh vừa tiến, một mạch giao chiến tới tận chiều ngày thứ hai. Lúc này quân bộ điền trọng quân Tống đã biết tin cũng đem quân xông tới viện trợ, quân Tống giao chiến lại càng hưng phấn.
Tiêu Thát Lẫm nhận thấy sắp không trụ được, đang định ra lệnh rút lui thì Tiêu Can và Hàn Khuông Tự đã dẫn quân đến, rốt cuộc cũng kịp lúc. Quân Liêu thấy thế lại càng hăng hái, hai bên thành ra ngang ngửa thế trận, lại tiếp tục giao chiến đến tận hoàng hôn rồi lại mải miết đánh chém đến nửa đêm. Lúc trận chiến đang hung hãn nảy lửa nhất thì Phan Mỹ đã nhận được tin báo, hắn tức tốc thống lĩnh quân binh quay lại cứu viện.
Vì một lần bị quân Liêu cướp phá lương thực, làm cho lão tướng Lưu Đình Nhượng của quân Tống oán hận mà đuổi theo, lại bất ngờ đoạt được chỗ khí giới công thành này. Quân Liêu các ngả nghe tin lại lấy làm lo sợ, hộc tốc phản ứng lại, mong rằng kịp thời phá hủy đống khí giới này khỏi tay quân Tống trước khi đại quân của địch hợp lại. Kết quả chỗ khí giới của Triệu Nhị Thúc tạo ra lại trở thành một mồi lửa dẫn dụ cả đám thiêu thân chạy tới.
Hai bên giao chiến đến tận khi trời sáng, giờ mới có ý định rút lại binh mã. Trên một vùng đồng bằng lớn, hai đám quân đen kịt đang giằng co, đến lúc nhìn lại thế trận, chủ tướng hai bên không khỏi kinh hãi.
Khí giới trong tay quân Tống được bảo vệ chặt chẽ, họ đã bố trí binh tốt vây quanh bên trong, kỵ binh lập vòng vây bên ngoài, tránh cho quân Liêu nhảy vào phá hỏng. Tống binh lực bấy giờ khó mà tính được, chỉ nhìn qua đám kỵ binh, cũng phải đến hơn tám vạn. Còn đám quân Liêu, khắp nơi tụ đến cho nên đều là kỵ binh, đám quân của Tiêu Thát Lẫm, Tiêu Can và Hàn Khuông Tự cũng vậy, cứ thế đối diện mà đứng.
Qua đó có thể nhận thấy cục diện thực đang thăng bằng, binh lực hai bên đa phần đều là kỵ binh, vị trí lại cùng trên bình nguyên trống trải.
Vậy một khi xảy ra việc kỵ binh đối mặt kỵ binh, hai bên giằng co không phân thắng bại thì phải làm sao đây?
Chỉ có một biện pháp duy nhất, quyết chiến! Tử chiến!
Quân đoàn bộ binh giằng co thì có thể tự do rút lui, kỵ binh mà giao chiến như vậy, lại thêm địa hình xung quanh bằng phẳng không núi non, không thể vừa rút vừa chống đỡ được địch, kết quả chỉ có một cách duy nhất, chưa chết thì chưa dừng.
Bởi vì, chiến mã dù có được huấn luyện tốt đến đâu thì vẫn chỉ là súc vật, không phải là người. Một khi thoái lui ắt rối loạn trận hình, nếu đối phương cũng là kỵ binh, như vậy sẽ được lợi mà toàn quân xông kích, kết quả bị giết hại cả loạt.
Ai cũng không ngờ lại gặp phải một trận đánh như vậy, quân Liêu vốn đang né tránh quyết chiến với quân Tống để mau chóng trở về U Châu, lại biết rõ địa thế nước mình như lòng bàn tay, nên quân Tống muốn tìm quân Liêu quyết chiến cũng thực khó khăn. Nay nhờ chỗ bảo bối này lại xảy ra đại trận, binh mã không ngừng đổ bộ về đây. Ban đêm hỗn loạn đánh chém, đợi đến khi mặt trời rọi sáng mới vỡ lẽ, phát hiện ra vấn đề nghiêm trọng, việc quyết chiến đã không thể né tránh được.
Vạn mã cùng hí vang tiếng, chiến trường chợt tĩnh lặng, Phan Mỹ đã dẫn quân đến, hùng hổ tiến đến như điên đại. Đang lúc mơ tưởng tìm được quân chủ lực của địch, tiêu diệt đến sạch sẽ trước khi xảy ra trận đại chiến ở U Châu hóa ra đã ở ngay trước mắt, có thể thực hiện nguyện vọng đó ở ngay đây.
Cưỡi trên lưng ngựa bệ vệ, Phan Mỹ quất roi ngựa chi về phía đại quân quân Liêu, cao giọng quát: “Quân Liêu đã ngay trước mặt, tướng soái nào nguyện vì bản soái mà phá trận?”.
“Mạt tướng nguyện đi!”. Lý Hoa Đình, Đồng Vũ đồng thanh nhận lệnh, hai người nhìn nhau một hồi, Đồng Vũ lại cười nói: “Lý tướng quân, quân của ngài chỉ có tới một vạn thiết kỵ, quân địch lại đông không dưới bảy vạn, trận này nên để Đồng mỗ ra tay!”.
Lý Hoa Đình vẻ mặt hung hăng, sát khí đằng đằng nói: “Muốn diệt được địch, ắt dựa vào tướng, phá trận này Lý mỗ ta chỉ cần một vạn binh mã là đủ!”.
o O o
Nguồn: http://4vn/forum/showthread.php?80607-Da-tu-Bo-Bo-Sinh-Lien&page=4#ixzz1rAxaK9MC
Người vừa nói là một người khoảng hơn ba mươi tuổi, diện mạo bình thường, không có nét gì nổi bật, duy chỉ có đôi mắt thực có thần sắc, lộ rõ vẻ khôn khéo hơn cả. Nếu là các nhân sĩ Trường An hoặc những người quen biết ắt hẳn đều nhận ra đó là Hồ Hỉ Nhi, quản sự trong phủ Tề Vương Triệu Quang Mỹ.
Ngồi ngay hàng đầu là một đại hán cũng khoảng gần bốn mươi tuổi, thân người cao lớn, râu ria đầy mặt, đầu đội mũ quan, mặc một bộ hán phục. Tuy nhiên bộ y phục trông thật bó chặt vào thân hình to lớn của hắn, cảm giác như chỉ cần hơn chút cử động là đường chỉ sẽ rách toạc ra. Với vóc đáng này của hắn, nếu mặc một bộ Hồ phục vạt trái, đội mũ lông cừu, trông sẽ uy phong oai vệ hơn, còn bộ đồ Hán phục này, thực làm khiến cho người khác buồn cười.
Người này tên là Da Luật Lưu Lễ Thọ, chính là Tống vương, Da Luật Hỉ Ấn thế tử.
Tống vương Da Luật Hỉ Ấn từng bị liên quan đến âm mưu phản bội do Đức vương Da Luật Tam bày ra, sau đó bị cấm đặt chân tới U Châu. Vị thế tử Tống vương này bây giờ lại chính là người chỉ huy thực sự của cả bộ tộc này.
Lưu Lễ Thọ khẽ vuốt râu, lắc đầu nói: “Lai giả bất thiện, kẻ đến thực có ác ý, đại trận do binh mã quân Tống bày ra đã đủ làm ta đau đầu, nay lại hợp lực với quân Tây Hạ, có thêm cả một đội kỵ binh vững mạnh. Quân Tống giờ đây giỏi công giỏi thủ, tiến thoái tùy ý thực khó đối phó. Còn Da Luật Hưu Ca, trận trước đại thắng đa phần là do dựa vào cách đánh trận lâu dài, dụ hoàng đế Đại Tống vào trận mai phục mà chiếm được lợi thế. Nếu luận về thực lực, quân binh nước Liêu ta... E là khó địch nổi người Tống”.
Hồ Hỉ Nhi cười đáp: “Kỳ thực, nếu luận sự kiêu đũng, binh mã của bắc triều ta ai nấy từ bé cũng đã được tập luyện cưỡi ngựa bắn cung, lại tác chiến ngay trên lãnh thổ của ta, thực là có phần lợi thế hơn như vậy không cần phải quá sợ người phương nam. Chúng ta liên tiếp gặp phải thất bại, thực không phải do binh mã Bắc quốc quá ít mà là do thái hậu quá dựa dẫm vào Da Luật Hưu Ca, vốn có ý muốn kết duyên với hắn. Điều này thực mất thể diện hoàng thất, sẽ dẫn đến lòng dân nổi loạn, binh sĩ bất an”.
Lưu Lễ Thọ vỗ đùi một cái, hưng phấn nói: “Đúng vậy, ngươi nói thật đúng lý, chính là như thế!”.
Hồ Hỉ Nhi lại nói: “Lần này, Da Luật Hưu Ca làm tổn thất mất ba vạn nhuệ quân, nhưng hắn chỉ bị thái hậu chỉ trích đơn thuần, không có một sự trừng phạt chính thức nào, điều này chứng tỏ rõ rằng, thái hậu thiên vị hắn. Lần trước cũng vậy, U Châu bị bao vây, có hai tướng quân mang binh đến cứu viện muộn mất ba ngày, kết quả thì sao? Bị thái hậu hạ chỉ, chịu đòn roi trước mặt bàn dân thiên hạ, giáng chức xuống hai cấp. Vậy thử so sánh hai việc này xem, thái hậu thực là vì tư tình mà thường phạt bất minh, như vậy ai có thể kính phục đây?”.
Lưu Lễ Thọ lớn tiếng nói: “Đúng vậy, đúng như thế, hừ! Ta đã biết rõ, ả ta xinh đẹp như hoa, tuổi trẻ nhưng lại ở góa, sao có thể chịu được cô đơn nơi khuê phòng! Đường đường một thái hậu tôn kính lại đi cầu hòa với một tên quan thần, khác nào bôi nhọ lên thanh danh của hoàng thất ta. Bây giờ những lời đồn đó có ở khắp nơi đầu đường trấn phủ, người nói qua kẻ nói lại, thật không thể lọt nổi tai. Ta mỗi lần nghĩ đến lại thấy thực sự xấu hổ.
Hồ Hỉ Nhi cười thâm hiểm nói tiếp: “Tuy nhiên, thế tử cũng không cần phải quá nóng giận như vậy. Ngài không thấy là, điều này chính là cơ hội tốt cho chúng ta sao?”.
Lưu Lễ Thọ ngẩn ra, vội vàng đáp: “Cơ hội, ngài nói thế là ý gì?”.
Hồ Hỉ Nhi đáp: “Thái hậu và tên thần tử có tư tình, như vậy đã mất hết thể diện hoàng gia. Các hoàng thất, thủ lĩnh đại nhân của các bộ tộc tất nhiên sẽ oán trách trong lòng. Thái hậu không biết tự trọng, tức đã không còn tư cách làm mẫu nghi thiên hạ, ấu chúa lại trẻ người non dạ chưa hiểu việc chính sự, sao có thể nắm giữ được thiên hạ nhà Liêu đây? Trong tình hình như vậy, nếu thế tử nhân cơ hội phát binh, giơ tay triệu hiệu, ắt được ba quan văn võ ủng hộ. Như vậy chỉ cần bãi bỏ ấu chúa, để Tống vương thế tử lên ngôi?
Trước đây Lưu Lễ Thọ vốn đã tham gia âm mưu phản loạn của Đức vương Da Luật Tam cùng với phụ thân mình, mưu đồ phản trắc sớm đã nhen nhóm trong đầu hắn, lúc ấy chỉ cần bọn hắn hành sự bí mật, thì đã không bị triều đình bắt được nhiều yếu điểm khi chưa thực bộc lộ hành phản. Thế nên chỉ có Tống vương bị nhốt lại, chưa bị liên lụy quá nghiêm trọng vào sự việc. Nếu có cơ hội cứu được phụ thân, sau đó tiếp tục tái phản, Lưu Lễ Thọ đương nhiên sẽ không do dự.
Chỉ là Lưu Lễ Thọ lại do dự trong chốc lát, thở dài mà nói: “Việc thực đã không thành, thái hậu quả cao tay hơn nhiều. Trong mấy năm này, cả vùng Thượng Kinh đều bị ả ta nắm chắc không lọt chút quyền hành gì. Ta tuy vẫn là thủ lĩnh của bộ tộc nhưng lại không có chút quyền lực, ta thực không binh không quyền. Giờ tạo phản, ngươi bảo ta lấy gì để tạo phản đây?”.
Hồ Hỉ Nhi mỉm cười đáp: “Thế tử nói như vậy là tự hạ thấp mình rồi, triều đình nước Liêu ta có biết bao trung binh nghĩa sĩ, chứng kiến thái hậu một tay thâu tóm quyền lực. Khống chế ấu chúa, quốc gia lại đang lâm nguy, kẻ nào lại không nghĩ tới việc tận trung báo nghĩa, phục đỡ chính nghĩa chứ? Nếu thế tử có lòng, tiểu nhân nguyện tiến cử một người, người này trong tay nắm giữ trọng binh, nếu có ý phò trợ thế tử, đại sự tất thành”.
Lưu Lễ Thọ hai mắt nhắm lại, nghi hoặc hỏi: “Ưm! Ngươi vốn chỉ là một gã thương nhân, sao lại mưu cầu đanh lợi việc này?”.
Hồ Hỉ Nhi cung kính đáp: “Cho dù có là địch quốc trù phú, thực cũng chỉ là một kẻ thương nhân ti tiện, tiểu nhân chỉ muốn hiến mưu xuất lực... Cống hiến chút tài khuyển mã phò trợ thế tử. Đến được ngày Tống vương ngài đăng cơ xưng đế, thế tử được được lên làm thái tử. Tiểu nhân... Như vậy tiểu nhân có thể thẳng lưng mà đường đường chính chính, có được thân phận đáng nể như Quách Tập, làm rạng danh tổ tiên, gây cơ đồ rộng mở cho con cháu sau này, như thế cũng là việc đáng làm cả đời thần”.
Quách Tập là đại thần nhà Hán, khi đó được đương kim thái hậu tin dùng, nay được phong làm xu mật sứ Nam viện, kiêm chức chính sự lệnh, tiết độ sứ Phong Võ Định quân, là kẻ dưới một người đứng trên vạn người. Lưu Lễ Thọ nghe vậy liền bật cười: “Nếu phụ thân ta lên ngôi, tất sẽ phong cho ngươi chức quyền của Quách Tập. Ha ha, mau... Ngươi nói có kẻ tướng lĩnh nắm trọng binh trong tay nguyện giúp ta hoàn thành đại sự, lời này có thực không? Hắn là ai?”.
Hồ Hỉ Nhi đứng thẳng người lên, ho nhẹ một tiếng rồi nói: “Vương huynh, thế tử cho hỏi, còn không mau ra bái kiến...”.
Lời chưa dứt, một người đã nhanh chóng bước ra từ sau tấm bình phong, thân người khoác một bộ giáp đen, đầu đội mũ lông quạ tay cầm bội kiếm, nhìn diện mạo có vẻ chưa tới bốn mươi tuổi, khuôn mặt mày ngài sắc nhọn, anh tuấn cường tráng.
Lưu Lễ Thọ cảm thấy kinh hãi, vội nhảy dựng lên, thất thanh nói: “Vương Quan Vũ! Vương chỉ huy sử ư?”.
Vương Quan Vũ cung kính cúi người hành lễ, cao giọng nói: “Đúng là mạt tướng, mạt tướng Vương Quan Vũ chỉ huy sử quân Hán của Thượng Kinh, thần đã từng được yết kiến Tống vương thế tử”.
Lưu Lễ Thọ được gặp người này không khỏi vừa mừng vừa sợ, thì ra đây chính là Vương Quan Vũ chỉ huy sử quân Hán của Thượng Kinh, dưới trướng có tới sáu vạn quân Hán trấn thủ Thượng Kinh. Nay chiến sự U Châu khẩn cấp, đến binh mã Liêu Dương ở Đông Kinh cũng bị điều đi. Quân cấm vệ cung, quân tộc trưởng ở Thượng Kinh cũng đi theo ngự giá, số binh mã lưu lại trấn thủ Thượng Kinh giờ do chính quân Hán làm chủ lực.
Tiêu Xước vốn nghĩ rằng, lần mưu phản trước đây đều do Khiết Đan cầm quyền, có rất ít quân Hán cùng tham gia tạo phản, nàng nghĩ rằng để quân Hán ở lại trấn thủ Thượng Kinh là thỏa đáng nhất. Không ngờ Trịnh gia lại hoàn toàn có ý phản trắc, muốn mưu đồ đoạt vị tại nước Liêu này.
Mấy vị tướng lĩnh quân Hán này đều xuất thân từ gia thế phương bắc. Thường dân bách tính người Hán trong mấy năm này cũng dần mở mày mở mặt, được lên làm quan chức. Trước đây, ngoài tộc Khiết Đan ra các tộc khác đều bị áp chế, con cháu người Hán bình thường đều không có quyền được học văn tập võ, nên chỉ có những nhà gia thế như vậy mới được giáo dục, được triều đình nhà Liêu trọng dụng.
Đương nhiên, cũng hoàn toàn do xuất thân của họ nên dù là võ nhân, họ cũng chịu ảnh hưởng của văn hóa dân tộc mình, quan niệm truyền thống của người Hán, đối với họ, cuộc sống thường dân dù ở góa đơn độc, rồi tái giá cũng là chuyện bình thường, nhưng thái hậu lại là thân phận khác, chẳng phải là đấng tôn nghiêm cao quý sao? Thái hậu một nước lại dám có hành vi ấy, rõ ràng là loan luận bại đức, làm vấy bẩn lên phong tục dân tộc lâu đời, nhất định phải chịu sự khinh bỉ của bàn dân thiên hạ.
Tin đồn Tiêu Xước và Da Luật Hưu Ca có tư tình, vốn chỉ là do vài tên nghiệp dư nghe ngóng từ Chiết Tử Du mà bày đặt thị phi, cố ý truyền đi khắp nơi. Vốn dĩ bách tính thiên hạ cực kỳ để ý chuyện tư tình nam nữ, chỉ cần có người truyền ra là họ sẽ ầm ĩ hết lên. Chuyện đồn đại qua tai nhiều người thường lại càng bị nói phóng đại lên, một người nói một khác, tin đồn ai ai cũng biết, đến lúc Vương Quan Vũ nghe được cũng tin là thật.
Sau đó, Hồ Hỉ Nhi đã dùng quà các biếu xén để kết giao thâm tình, khéo léo dụ dỗ, dần thuyết thục được hắn, nói rằng Tiêu thái hậu không đoan chính, không có tư cách làm mẫu nghi thiên hạ, chỉ cần ta hưng binh phế truất, tất nhiên sẽ hợp ý tất cả các quý tộc hoàng thất.
Được họ ủng hộ, việc này chắc chắn sẽ thành công, vì vậy hắn mau chóng biến thành kẻ đồng mưu với Hồ Hỉ Nhi.
Có hai kẻ hạ thủ cùng bàn đại sự, Lưu Lễ Thọ nhất thời cảm thấy mừng rỡ, nhưng nghĩ lại lần chính biến trước bị thất bại, may mà lọt lưới nên mới thoát tội khi quân, hắn không khỏi thấy sợ hãi, hắn lo lắng hỏi: “Vương tướng quân, quân Hán trên dưới, ngươi có thể khống chế được hết không? Ngươi có biết rằng chỉ cần sơ xảy một chút là ta và ngươi đều sẽ bị chém đầu không?”.
Vương Quan Vũ cười ha hả đáp: “Trong số các cánh quân Thượng Kinh, quân Hán ta trước giờ đều bị cấm vệ quân, quân tộc trưởng coi thường, các tướng sĩ cũng bị bọn chúng xa lánh kỳ thị, bởi vậy luôn cùng nhau đoàn kết, ky luận thống nhất, Vương mỗ hiểu rõ quân Hán của mình như lòng bàn tay, tuyệt đối tin rằng ‘quân Hán trên dưới như một’”.
Vương Quan Vũ tự tin mà dứt khoát, giương giọng nói: “Các ngươi mau ra đây đi, cùng yết kiến thế tử...”.
Sau tấm bình phong lớn, xuất hiện năm người đều mặc áo giáp đi ra, đó là: Lý Kiếm Bạch phó đô chỉ huy sử quân Hán của Thượng Kinh, Trinh Thiên Hạo chỉ huy sử Mã quân, Ác Duy chỉ huy sử Bộ quân, úy Trì Phong đô ngu hầu quân Hán và Chu Khí, sáu vị đại tướng nổi danh của quân Hán đều tập trung tại đây. Lưu Lễ Thọ vui mừng khôn xiết mà vỗ tay khen ngợi: “Thế này thì đại sự tất thành!”.
Hồ Hỉ Nhi cười nham hiểm đáp: “Đây vẫn chưa đủ, tiểu nhân đã liên giao với cả mấy bộ lạc như Bạch Cam, ngoài ra cũng cử người đi thuyết phục bên phía Nữ Chân, Thất Vi, chỉ đợi mọi việc hoàn tất, thế tử có thể hành động, nhất cử mà chấn động cả thiên hạ”.
Lưu Lễ Thọ nhìn lên trời cười to, không biết hắn đang mừng hay sợ nữa...
*
* *
Tiêu Xước lại lần nữa phái Mặc Thủy Ngân đến đại doanh của quân Tống, lần này chỉ đem đến một hộp cẩm hạt.
Bên trong chiếc tráp, có một mẩu giấy, bên trên vẩy mực tung tóe, chỉ ghi có sáu chữ: “Quân muốn chiến, ta sẽ chiến!”.
Dương Hạo nhìn xong im lặng không nói gì, sau khi để Mặc Thủy Ngân quay về, mới trở vào thất phòng, tự mình cầm chiếc cẩm hạt mà trầm ngâm lúc lâu. Hắn lại nhẹ nhàng mở hộp ra, gỡ tờ giấy vẩy mực rồi mở tấm lụa phía dưới đáy hộp, bên dưới thực đã đặt sẵn những thứ đồ trang sức, từng chiếc từng chiếc một được lau bóng loáng xếp đặt đều đặn tỉ mỉ. Trang sức ánh sắc long lanh, có lẽ... Khi đêm khuya lúc mọi vật tĩnh lặng, Tiêu Xước thường hay lấy chúng ra ngắm nghía.
Tại sao phải biệt ly? Trâm cài người tặng trên mái đầu...
Tại sao lại nói điều ân cần? Hẹn thề một đôi sống chết...
Tại sao lại ước hẹn? Chung tay đến trời biển...
Tại sao lại kết ân tình? Mỹ ngọc nguyện một lòng...
Tại sao lại xa cách? Để lòng này tương tư...
Còn nhớ lần trước, Tiêu Xước đã giữ đến một nửa số trang sức, Dương Hạo hiểu rõ rằng nàng dùng nó để bày tỏ tâm ý của mình. Nàng đang hy vọng, sẽ có một ngày nào đó, chính tay Dương Hạo hắn sẽ đeo lên người nàng những thứ đồ trang sức đang thiếu mất một nửa này, nhưng...
Quân muốn chiến, ta sẽ chiến!
Dương Hạo thở đài một tiếng, trong lòng buồn bã: “Khoảng cách giữa hai chúng ta càng ngày càng lớn, có lẽ cả đời này cũng không còn cơ hội nữa rồi”.
“Tâu... Da Luật Hưu Ca tập kết binh mã, đánh tới Trác Châu, hòng chạy về phía bắc!”.
Dương Hạo vội đứng bật dậy, nỗi buồn lúc nẫy đã mau chóng biến mất, trên mặt hắn giờ đây đằng đằng sát khí!
Quân Liêu đã rút lại binh lực, cố thủ Nam Kinh, theo như kế hoạch của Da Luật Hưu Ca, cứ cố thủ Nam Kinh, từ đó làm tiêu hao quân chủ lực của Dương Hạo. Như vậy, quân lộ trung của Dương Kế Nghiệp đang đơn độc chiến đấu và quân lộ tây của Tào Bân hiển nhiên sẽ không làm được gì. Chúng sẽ tránh việc tiên phong giao chiến cho đến khi hợp lực toàn quân, chúng sẽ không chủ động quyết chiến với hắn.
Cuộc chiến bảo vệ U Châu lần thứ hai này, khi mưu đồ của Da Luật Hưu Ca bắt đầu, ba trong bốn vị vương gia trong vương phủ Khiết Đan là Da Luật Cảnh đại vương Nam viện, Bồ Nô Trữ đại vương Bắc viện, Trù Trữ Hề đại vương cùng với Bồ Lĩnh tuyên huy sử Bắc viện đã hội tụ tại U Châu của Nam Kinh nước Liêu này.
Đồng thời, Da Luật Hưu Ca đã mệnh lệnh cho binh mã các lộ vừa đến tập kết tại U Châu vừa tiến hành đánh du kích quân địch, quấy nhiễu tuyến vận chuyển lương thảo quân dụng của quân Tống, bày bố các cuộc tập kích nhỏ quân Tống, di dời dân thường của các châu huyện quanh đó, thực hiện kế vườn không nhà chống.
Nhưng đại quân của Dương Hạo lại hùng hổ tiến thẳng tới U Châu, căn bản không phân tán đóng quân ở những vùng huyện mà họ vừa chiếm lĩnh được, theo như Dương Hạo đã định, tấn công quân địch cũng tức là tự cứu được mình, ép cho địch phải lùi lại, binh mã tiền trận nước Liêu ắt không đánh mà lui.
Dương Hạo hành động nhanh nhẹn, thoạt nhìn cứ ngỡ cách đánh hoàn toàn giống với Triệu Quang Nghĩa, nhưng lực cơ động lại cực khác nhau. Cùng một chiến thuật nhưng hiệu quả lại không giống, lực uy hiếp đến quân Liêu cũng lớn hơn hẳn. Quân Tống chỉ có một nhược điểm quy nhất, đại khái chính là vấn đề cung ứng lượng lớn lương thảo vào trận tuyến. Dương Hạo đã dùng cả bộ thủy hai đường vận chuyên lương thảo, theo sát sau đại quân.
Phía đường thủy, trước có thuyền phá băng, sau là thuyền chuyên chở lại thêm binh đội hộ tống chặt chẽ. Nhưng có điều được vài quãng, thuyền phá băng vừa phá tan mặt băng dày, nước lại tiếp tục đóng tảng, không thể duy trì được tốc độ đã định, các binh sĩ buộc phải dùng chính sức mình di chuyển lương thảo trên tàu đi. Ngoài lương thảo ra còn có lượng lớn cỏ, họ đành phải chuyên chờ nó theo sau đó.
Phía đường bộ, quân Tống dùng thêm nhiều lừa ngựa thồ vận, binh mã của Dương Hạo thậm chí đã vượt qua cả binh đội của quân Liêu đang quay về bảo vệ U Châu, nhưng Da Luật Hưu Ca vẫn lệnh cho họ vừa quay về U Châu vừa đánh du kích quân Tống, lấy kỵ binh tấn công vào tuyến vận lương cả thủy và bộ của địch.
Trong lịch sử chiến tranh trong ngoài nước, cũng có những việc tuy rất nhỏ nhặt nhưng lại ảnh hưởng lớn thay đổi cả tình hình chiến cục. Trong hoàn cảnh hai phe vừa hành quân vừa tiến đánh này, dù chỉ là một vụ nổ pháo đạn đúng lúc. Trận mưa bão đột ngột, một lần giao chiến bất ngờ nằm ngoài dự liệu hay một đám binh sĩ ngộ chiến chỉ huy địch... Cũng rất quan trọng, may rủi đều đưa đẩy đến thắng bại.
Vào chập tối một ngày, Lưu Bảo Huân quan hộ tống áp lương của quân Tống đã mạo hiểm vượt qua bão tuyết, vận chuyển trăm xe lương thảo bằng đường bộ đến Kỳ Môn câu. Khi đi đến đoạn vòng khúc hiểm trở, từ đâu ồ ra hơn ba nghìn quân binh Liêu Quốc, chúng đã mai phục dọc theo đường này rồi xông ra đánh chém. Trong cả lộ tuyến này, tả hữu trước sau đều đông nghịt quân Tống, nhưng quân Liêu lại quen thuộc địa hình, nên đã thừa cơ quân Tống sơ xuất đến đột kích.
Lưu Bảo Huân ứng phó không xuể, không kịp xếp đặt xe thồ để cho bộ binh bày đại trận, hắn đành lệnh cho quân binh vội vàng vận chuyển xe lương vòng tròn mà chống lại quân Liêu, nhưng quân binh rơi vào thế bị vây hãm, quân Tống hoang mang khó mà trụ nổi công kích của quân Liêu. Quân Liêu tứ phía bủa vây, một trận chiến máu lửa tản ác xảy ra, Lưu Bảo Huân, Lưu Lợi Hiệp tào binh Khai Phong và cả Trung Thừa Khổng trung điện đều chết trận tại chỗ, binh tốt thương vong vô số, xe lương đều bị đốt sạch.
Khó khăn lắm mới hành binh tới gần Kỳ Môn câu, Lý Hoa Đình và Lưu Đình Nhượng lúc này mới nhìn thấy đám khói mù mịt cách hơn mười dặm về phía bên phải, họ vội vàng dẫn quân lao đến. Đám quân Liêu này vừa thoát khỏi Thiên Quan, cũng chính là nơi Lưu Đình Nhượng gặp trúng mai phục của quân Liêu, ba vạn đại quân của hắn bị đánh cho tơi bời. Hắn vốn đã căm thù quân Liêu ngút trời, giờ lại chứng kiến cảnh quân lương tan tác thảm bại, hắn lại thêm hận đến tận xương tủy, lập tức lệnh cho đoàn quân tốc hành đuổi theo.
Kỳ thật, trên cả chặng đường, quân Liêu đã lợi dụng việc dụng binh nhanh nhẹn, thông thuộc địa hình, dùng nó để bày trò đánh nhiễu quân địch. Thế nên việc truy kích là bất thành, Lý Hoa Đình vốn không muốn đuổi theo, hắn nghĩ rằng quân Liêu đột ngột công kích nhỏ lẻ như vậy chứng tỏ chúng đang kìm chế việc quân Tống kéo binh đến đánh U Châu, cũng đang tốc hành trở về, ắt sẽ sợ đối mặt trực diện đánh trận quyết chiến. Nhưng hắn lại không ngăn nổi Lưu Đình Nhượng vị lão tướng nước Tống đang sôi sục máu lửa này, đành phải theo đó mà dẫn quân truy kích. Thời tiết bấy giờ cũng không khả quan cho lắm.
Cuộc truy đuổi rồi cũng truy được tới địch. Lúc này, tuyết lớn đang rơi, trời đất khắp nơi mù mịt, bóng đêm đang dần buông xuống. Hai người dẫn quân truy kích nhưng trên mặt đất đã dần mất hết tung tích của địch, họ giờ thực đã bị lạc đường, đám quân Liêu sớm đã cao chạy xa bay, còn họ thì hồ đồ chạy loạn về phía trước. Tuy nhiên, đúng lúc này, tại một thôn trang hẻo lánh ven sông, họ bắt gặp một đám quân Liêu khác đang trú quân.
Đám quân Liêu trú quân ở đây không khỏi kinh ngạc mà tròn mắt há hốc mồm ra nhìn, đại quân quân Tống đột ngột từ đâu như trên trời đổ xuống, ào ạt tiến đánh.
Thì ra, đám quân Liêu này đang áp vận lượng lớn khí giới công thành thu được dưới chân thành U Châu từ lần trước, chuẩn bị chuyển đến cho binh đội chuyển vận ở biên ải Tống Liêu. Đám quân này lúc trước đang định vận chuyển khí giới đi thì nghe tin Da Luật Hưu Ca đại bại, kế hoạch thay đổi, tạm thời chưa cần tới khí giới công thành. Việc tạm thời dừng tiến, làm đám quân này phải đóng quân tại yếu địa giao thông bắc nam, họ liền trú ẩn ở thôn trang hẻo lánh này, đợi chờ thế cục thay đổi.
Nếu họ đem hủy hết số khí giới này là thỏa đáng nhất, nhưng người Liêu lại tiếc rẻ. Đối với họ mà nói, những khí giới tinh xảo như vậy nước Liêu khó mà tạo ra được, đây thực là bảo vật hiếm có. Những loại vũ khí mới mẻ như thế có giá trị lớn đối với họ, lợi dụng chúng họ sẽ có binh lực mạnh hơn nhiều, nếu không phải vạn bất đắc dĩ, sao có thể hủy chúng được.
Hơn nữa, đám quân Liêu này lại không nắm rõ được tình hình tiền tuyến, họ chỉ biết tin Da Luật Hưu Ca trúng kế dẫn đến đại bại, giờ đang thu hợp quân binh, định ý ghìm trận giằng co với quân Tống ở Tam Quan, họ nghĩ đợi xem tình hình rồi quyết. Không ngờ quân Tống không bị vướng quân binh ở biên ải, lại sẵn sàng chuẩn bị đánh thẳng tới U Châu, lại còn hành tốc đi lên trước cả quân Liêu ở biên ải.
Tình hình vốn như thế, nhưng đám quân lại không nằm trong tuyến quân giáp trận, tin tức nhận được vốn đã thiếu sót, nếu muốn thăm dò hỏi tin cũng phải mất nhiều thời gian, cho nên hiện giờ vốn đã mất hẳn liên lạc với đầu quân.
Theo lý mà nói, họ trú quân tại nơi thôn trang hẻo lánh, dù quân Tống lại nóng lòng tiến đánh U Châu, thần tốc hành binh chắc không hơi đâu mà vòng qua càn quét nơi hẻo lánh không chút đáng giá này, cũng sẽ không phát hiện ra những thứ khí giới này. Ai ngờ đâu, Lưu Đình Nhượng và Lý Hoa Đình lại mạo hiểm truy đuổi, lạc đến nơi đồng không mông quanh này, để rồi bắt gặp toán quân nhàn hạ này, kết quả quân Tống đánh bậy đánh bạ vào đây, bắt được cả người lẫn vật, đoạt được một loạt vũ khí.
Có được số chiến lợi phẩm này, Lưu Đình Nhượng lấy làm mừng rỡ, lần đại chiến ở U Châu, vì gấp gáp rút lui, quân Tống gặp mai phục ở sông Cao Lương bị đánh tơi bời còn không kịp báo tin cho quân mình ở gần đó. Quân hắn thảm bại, mất hết sức chiến đấu, chỉ còn lại binh hậu cần và binh thợ, khả năng tự bảo vệ của đoàn quân cực thấp, nên bị sát hại tổn hao vô số.
Hơn nữa bây giờ đang là mùa đông, dù binh thợ có nhanh tay đến mấy cũng không kịp tạo đủ số khí giới như lần trước được. Nay có đượcc số khí giới này, quân Tống sẽ được lợi vô cùng, công đánh quân Liêu sẽ dễ dàng hơn. Lưu Đình Nhượng vừa giải thích, Lý Hoa Đình liền ngạc nhiên mà vui mừng, trận loạn đánh này lại hóa kiếm được đại công!
Ngay sau đó, Lý Hoa Đình vội vàng lênh quân áp tải những tù binh cùng với khí giới lên đường, nhưng lão tướng Lưu Đình Nhượng có phần suy nghĩ cẩn trọng hơn. Hắn biết được tầm quan trọng của những khí giới này, đối với người Liêu, thứ bảo bối này còn trọng yếu hơn cả quân lương, lại nói về trận đánh vừa nãy, hai phe đều đột ngột giao chiến, phía địch đã có vài binh tốt chạy trốn được, một khi chúng thoát về bên quân Liêu và báo lại cho chủ tướng, chúng sẽ đem quân trở lại tấn công quân ta cướp lại bằng được khí giới. Nghĩ vậy, hắn liền nhắc nhở Lý Hoa Đình, phải thông báo việc này cho chủ tướng quân lộ đông, để họ mang quân tiếp ứng.
Lý Hoa Đình mới vỡ lẽ, lại lập tức phái người đi liên lạc với chủ soái, tín sứ vừa đi được nửa ngày, họ đã gặp được một đoàn quân khác đang tốc hành ngay sau, hỏi thăm tình hình mới rõ việc khí giới, nhận biết là việc trọng đại, đội binh này liền mau chóng hộ tống quân của Lý Đình Hoa lên đường, hành động nhanh nhẹn.
Đến đêm quả nhiên có một đạo quân Liêu tới đột kích, có khoảng đến bảy ngàn quân, dẫn đầu là Tiêu Thát Lẫm. Hắn cũng là một mãnh tướng nước Liêu, văn thao võ lược, trí dũng song toàn, chứ không phải là loại dũng tướng tầm thường. Hắn cũng có ý chí tiến thủ cao, trước đây khi Da Luật Hưu Ca được thăng chức như bay hắn cũng không phục, đối với hắn mà nói, hắn giỏi không thua kém gì Da Luật Hưu Ca, nếu có kém cũng chỉ là không gặp may thôi.
Vừa nghe tin quân Tống đoạt được khí giới, hắn biết là việc nghiêm trọng, thứ này vốn là vũ khí sắc bén nhất để công phòng thành trì về phương diện nào đó đủ để quyết định thắng bại. Thiếu thứ này, quân Tống sẽ khó mà công thành, quân Liêu sẽ bớt được gánh nặng. Kể cả hủy nó đi, quân Tống sai người chế tạo lại cũng phải mất nhiều thời gian, thậm chí không kịp mà hoàn thành.
“Thật là ngu xuẩn, đống khí giới đó lúc nào cũng phải chất cỏ khô lên trên, nếu thấy bất lợi lập tức đốt hủy ngay, các ngươi gặp phải quân Tống lại chỉ lo thoát thân, đúng là dâng vào miệng địch mà!”.
Dưới cơn thịnh nộ, Tiêu Thát Lẫm đã hạ lệnh chém chết mấy tên vừa tháo chạy về, tự mình dẫn quân đi truy sát quân Lý Hoa Đình, đồng thời hắn phái người đến báo tin cho binh mã các ngả phía vùng biên ải và cả đám quân đang truy đuổi quân chủ lực phía Dương Hạo của Tiêu Can và Hàn Khuông Tự.
Binh mã của Lý Hoa Đình, Lưu Đình Nhượng và Đồng Vũ đánh một trận đẫm máu với quân của Tiêu Thát Lẫm, hai bên đều bị trọng thương. Quân Tống bảo vệ tới cùng chỗ khí giới, quân Tiêu Thát Lẫm lại càng không bỏ qua, hai bên không ngừng giằng co, vừa đánh vừa tiến, một mạch giao chiến tới tận chiều ngày thứ hai. Lúc này quân bộ điền trọng quân Tống đã biết tin cũng đem quân xông tới viện trợ, quân Tống giao chiến lại càng hưng phấn.
Tiêu Thát Lẫm nhận thấy sắp không trụ được, đang định ra lệnh rút lui thì Tiêu Can và Hàn Khuông Tự đã dẫn quân đến, rốt cuộc cũng kịp lúc. Quân Liêu thấy thế lại càng hăng hái, hai bên thành ra ngang ngửa thế trận, lại tiếp tục giao chiến đến tận hoàng hôn rồi lại mải miết đánh chém đến nửa đêm. Lúc trận chiến đang hung hãn nảy lửa nhất thì Phan Mỹ đã nhận được tin báo, hắn tức tốc thống lĩnh quân binh quay lại cứu viện.
Vì một lần bị quân Liêu cướp phá lương thực, làm cho lão tướng Lưu Đình Nhượng của quân Tống oán hận mà đuổi theo, lại bất ngờ đoạt được chỗ khí giới công thành này. Quân Liêu các ngả nghe tin lại lấy làm lo sợ, hộc tốc phản ứng lại, mong rằng kịp thời phá hủy đống khí giới này khỏi tay quân Tống trước khi đại quân của địch hợp lại. Kết quả chỗ khí giới của Triệu Nhị Thúc tạo ra lại trở thành một mồi lửa dẫn dụ cả đám thiêu thân chạy tới.
Hai bên giao chiến đến tận khi trời sáng, giờ mới có ý định rút lại binh mã. Trên một vùng đồng bằng lớn, hai đám quân đen kịt đang giằng co, đến lúc nhìn lại thế trận, chủ tướng hai bên không khỏi kinh hãi.
Khí giới trong tay quân Tống được bảo vệ chặt chẽ, họ đã bố trí binh tốt vây quanh bên trong, kỵ binh lập vòng vây bên ngoài, tránh cho quân Liêu nhảy vào phá hỏng. Tống binh lực bấy giờ khó mà tính được, chỉ nhìn qua đám kỵ binh, cũng phải đến hơn tám vạn. Còn đám quân Liêu, khắp nơi tụ đến cho nên đều là kỵ binh, đám quân của Tiêu Thát Lẫm, Tiêu Can và Hàn Khuông Tự cũng vậy, cứ thế đối diện mà đứng.
Qua đó có thể nhận thấy cục diện thực đang thăng bằng, binh lực hai bên đa phần đều là kỵ binh, vị trí lại cùng trên bình nguyên trống trải.
Vậy một khi xảy ra việc kỵ binh đối mặt kỵ binh, hai bên giằng co không phân thắng bại thì phải làm sao đây?
Chỉ có một biện pháp duy nhất, quyết chiến! Tử chiến!
Quân đoàn bộ binh giằng co thì có thể tự do rút lui, kỵ binh mà giao chiến như vậy, lại thêm địa hình xung quanh bằng phẳng không núi non, không thể vừa rút vừa chống đỡ được địch, kết quả chỉ có một cách duy nhất, chưa chết thì chưa dừng.
Bởi vì, chiến mã dù có được huấn luyện tốt đến đâu thì vẫn chỉ là súc vật, không phải là người. Một khi thoái lui ắt rối loạn trận hình, nếu đối phương cũng là kỵ binh, như vậy sẽ được lợi mà toàn quân xông kích, kết quả bị giết hại cả loạt.
Ai cũng không ngờ lại gặp phải một trận đánh như vậy, quân Liêu vốn đang né tránh quyết chiến với quân Tống để mau chóng trở về U Châu, lại biết rõ địa thế nước mình như lòng bàn tay, nên quân Tống muốn tìm quân Liêu quyết chiến cũng thực khó khăn. Nay nhờ chỗ bảo bối này lại xảy ra đại trận, binh mã không ngừng đổ bộ về đây. Ban đêm hỗn loạn đánh chém, đợi đến khi mặt trời rọi sáng mới vỡ lẽ, phát hiện ra vấn đề nghiêm trọng, việc quyết chiến đã không thể né tránh được.
Vạn mã cùng hí vang tiếng, chiến trường chợt tĩnh lặng, Phan Mỹ đã dẫn quân đến, hùng hổ tiến đến như điên đại. Đang lúc mơ tưởng tìm được quân chủ lực của địch, tiêu diệt đến sạch sẽ trước khi xảy ra trận đại chiến ở U Châu hóa ra đã ở ngay trước mắt, có thể thực hiện nguyện vọng đó ở ngay đây.
Cưỡi trên lưng ngựa bệ vệ, Phan Mỹ quất roi ngựa chi về phía đại quân quân Liêu, cao giọng quát: “Quân Liêu đã ngay trước mặt, tướng soái nào nguyện vì bản soái mà phá trận?”.
“Mạt tướng nguyện đi!”. Lý Hoa Đình, Đồng Vũ đồng thanh nhận lệnh, hai người nhìn nhau một hồi, Đồng Vũ lại cười nói: “Lý tướng quân, quân của ngài chỉ có tới một vạn thiết kỵ, quân địch lại đông không dưới bảy vạn, trận này nên để Đồng mỗ ra tay!”.
Lý Hoa Đình vẻ mặt hung hăng, sát khí đằng đằng nói: “Muốn diệt được địch, ắt dựa vào tướng, phá trận này Lý mỗ ta chỉ cần một vạn binh mã là đủ!”.
o O o
Nguồn: http://4vn/forum/showthread.php?80607-Da-tu-Bo-Bo-Sinh-Lien&page=4#ixzz1rAxaK9MC
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.