Chương 101
Thôn Quỷ Đích Nữ Hài
15/03/2024
Ông Phương kể rằng năm đó ông từ đất liền đến Hồng Kông và ở nhờ nhà một người chú họ xa, chú của ông ấy mở một trường võ thuật và có rất nhiều đệ tử. Lúc ấy ở Hồng Kông trường võ thuật rất nhiều, là hình thức ban đầu của câu lạc bộ thể hình ngày nay.
Ông Phương từ đại lục sang Hồng Kong không phải theo con đường hợp pháp, ông ấy bơi trên biển để vượt biên sang, những năm đó cũng có rất nhiều người vượt biên từ đại lục sang Hồng Kong bằng cách ấy, nhưng cũng chết rất nhiều người, hầu như đều chết tại nửa đường trên biển.
Đêm hôm đó, ông ấy vừa xuống biển thì trời bắt đầu mưa tầm tã, sấm chớp ầm ầm, mưa gió ập đến, ông ấy liều mạng bơi rất lâu nhưng cuối cùng cũng kiệt sức, không thể bơi tiếp được, tầm nhìn mờ đi, toàn bộ mặt biển tối đen như mực không thấy điểm cuối.
Ông ấy tưởng mình sẽ chết nhưng không ngờ bắt được một mảnh gỗ trôi dạt trên biển, sau đó hôn mê bất tỉnh.
Cũng không biết qua bao lâu, ông ấy mơ màng tỉnh lại, phát hiện mình đang nằm trên một bãi biển, trong lòng vui mừng khôn xiết, tưởng rằng đã đến Hồng Kông, khi đứng dậy thì nhìn thấy một khu rừng rộng lớn trước mặt, ông ấy đi trong rừng hồi lâu, cuối cùng cũng nhìn thấy một ngôi làng.
Đó là một làng chài rất đặc trưng với những ngôi nhà lợp ngói, trông rất lạc hậu, giống với kiểu nhà ở đại lục Trung Quốc lúc bấy giờ.
Ông ấy có chút kinh ngạc, không phải mọi người đều nói Hồng Kông là thiên đường, người dân cực kỳ giàu có sao, sao nhìn vẫn nghèo như vậy?
Ông ấy nghi hoặc, thật sự đã tới Hồng Kông rồi sao? Chẳng lẽ ông ấy theo nước biển trôi dạt trở về đại lục? Nhưng lúc này ông ấy đã rất mệt và đói bụng nên không nghĩ được gì, muốn vào trong thôn kiếm cái gì ăn, nhưng vừa vào thôn đã phát hiện thôn này rất kỳ lạ.
Trong làng từng nhà đều đóng chặt cửa và cửa sổ, từ cửa sổ có thể nhìn thấy bên trong có người, nhưng không ai ra ngoài đi lại, cũng không nhóm lửa nấu cơm. Ông ấy liên tiếp gõ cửa mấy nhà, nhưng cũng không ai mở.
Ông ấy không còn cách nào khác đành tiếp tục đi sâu vào trong làng, đi tới, thì nhìn thấy một ngôi nhà ba gian, giống như là nơi ở của địa chủ xã hội cũ ngày xưa. Dưới mái hiên treo hai chiếc đèn lồng màu trắng, trên đó viết chữ “Điện”, trên nóc cửa có treo tấm lụa trắng, trông như là có người vừa chết và đang tổ chức tang lễ.
Cửa lớn không đóng, ông ấy đứng bên ngoài gỡ cửa hồi lâu nhưng không có ai trả lời nên đành bước vào.
Vào cửa có một cái sân, đối diện với sân là sảnh chính, trong sảnh chính có một cái quan tài đặt ở giữa, trước quan tài có mấy người đang ngồi thủ linh.
Đám tang bình thường đều mời khách dùng bữa, ông ấy bèn nghĩ muốn đi cọ một bữa cơm ăn nên trực tiếp đi thẳng vào, cầm lấy nhang, đốt cho người chết ba nén nhang.
Ông ấy nghiêng đầu xem xét, phát hiện có ba người phụ nữ ngồi cạnh quan tài, ba người phụ nữ đều đeo mạng che mặt màu trắng, mạng che mặt có chút kỳ lạ, che kín cả đầu. Trước mặt ba người có đặt ba khung cửi, ba người ở ngay tại đó chậm rãi dệt vải.
Trong lòng ông ấy lộp bộp, chợt nhớ ra đã lâu lắm rồi ông ấy có nghe người ta kể rằng ở địa phương vùng duyên hải có một phong tục kỳ lạ, người chết về sau, ngoài việc quấn khăn liệm, người đó còn phải đeo một cái mạng che mặt màu trắng, nghe nói phong tục này là xuất phát từ thời nhà Đường.
Ông ấy tiến lên chào ba người phụ nữ, nhưng họ lờ đi và tiếp tục công việc dệt vải của mình.
Khi đó ông ấy tuổi trẻ cường tráng, lại có võ thuật, nên căn bản không sợ quỷ thần, sau khi vái lạy xong liền ra khỏi sảnh chính, đi vào phòng phía sau tìm đồ ăn.
Trong phòng sau không có người, cũng không có đèn, ông ấy đi vào phòng bếp lục lọi hồi lâu mới phát hiện ra hai cái bánh bao đã ôi thiu.
Quá đói bụng nên ông ấy vẫn cầm bánh bao lên ăn ngấu nghiến, vẫn cảm thấy đói nhưng chỉ có thể chịu đựng, buồn ngủ đến mức tìm đại một căn phòng đi vào, ngã xuống giường ngủ thiếp đi.
Ông ấy không biết mình đã ngủ bao lâu, chợt nghe thấy trong phòng có âm thanh huyên náo nên lập tức tỉnh dậy.
Bên ngoài trời còn chưa sáng, trong phòng rất tối, ông ấy bước xuống giường thì cảm thấy dưới chân lạ lạ, sờ xuống đất nhặt lên, là một cái đầu.
Toàn bộ trong phòng, trên mặt đất đều toàn là đầu người.
Những cái đầu này nồng nặc mùi tanh hôi thối, giống như vừa mới vớt từ dưới biển lên, sờ vào thấy ướt sũng.
Ông ấy giật mình, vội vàng quay trở lại giường thì phát hiện có vài cái đầu dính vào chân mình, ông ấy cố kéo ra thì phát hiện những cái đầu đó đang mọc ở lòng bàn chân mình.
Ông ấy cắn chặt răng, chịu đựng đau đớn kịch liệt, lôi mấy cái đầu đang sinh sôi ở trong da thịt ra, khiến chân đầy máu tươi.
Những cái đầu đó không bò lên giường, chỉ nhô lên trên mặt đất một lúc rồi đột ngột rút xuống.
Ông ấy sợ đến mức vội vàng chạy ra khỏi nhà, thậm chí không dám đi ra cổng lớn mà tìm đường ra khỏi cổng sau.
Ông ấy nhanh chóng chạy ra khỏi làng và quay trở lại bãi biển, nhưng bụng lại đau đớn khó chịu, cồn cào ruột gan như có thứ gì đó từ trong bụng phun trào ra.
Ông ấy chợt nhớ đến trước kia Thất Nương đã cho ông ấy một viên thuốc, nói rằng nếu gặp quỷ nhập thì hãy uống viên thuốc đó.
Ông ấy luôn luôn đem theo thứ đó bên người, lục tìm trên người, lấy ra một viên thuốc màu đỏ lập tức nuốt vào, sau đó bụng kêu vang lên.
Âm thanh đó rất lớn, giống như tiếng sét hoặc tiếng trống, kéo dài nửa tiếng, ông ấy vào rừng đại tiện mấy lần, đi ngoài không phải phân mà là những cái đầu nhỏ bằng rong rêu màu đen.
Sau khi xong việc, ông ấy cảm thấy toàn thân nhẹ nhõm.
Cuối cùng ông ấy cũng biết nơi đây chắc chắn không phải là Hồng Kông, và có thể ông ấy đã lạc đến một nơi rất đáng sợ. Thế là ông ấy đi tìm lại mảnh gỗ lúc trước, ôm lấy nó rồi nhảy lại xuống biển, phiêu lưu theo dòng nước.
Sau bốn ngày lênh đênh trên biển, ông ấy gần như sắp chết đói, cuối cùng gặp được một chiếc thuyền đánh cá từ Hồng Kông cứu và đưa ông ấy đến Hồng Kông, lúc đó ông ấy mới sống sót được.
Sau đó, ông ấy tìm thấy chú của mình, đi theo người chú gia nhập giới hắc đạo, đánh đấm khắp nơi, tạo nên sự nghiệp xã đoàn.
Bốn mươi năm sau, sự việc này vẫn luôn ẩn sâu trong ký ức của ông ấy. Lúc còn trẻ, ông ấy thường hay mơ thấy mình vẫn còn ở trên hòn đảo đáng sợ đó, khắp nơi đều là những cái đầu đen nghịt ấy.
Nghe xong câu chuyện, tôi lục lọi những ghi chép của bà nội trong trí nhớ rồi nói: “Ông Phương, có khả năng ông đã lên nhằm đảo quỷ“.
“Đảo quỷ?” Sắc mặt ông Phương tái nhợt.
Tôi gật đầu nói: “Truyền thuyết kể lại rằng, thời xưa mọi người ra biển đánh cá, thỉnh thoảng gặp gió lớn bị sóng đánh trôi dạt đến một số hòn đảo kỳ lạ. Những hòn đảo này không có tên trên bản đồ. Đôi khi có những ngôi làng không có người ở trên đó, có khi là những hòn đảo có rất nhiều người, họp chợ đông đúc, có khi là những biệt thự cao cấp, và một số người cũng gặp được những phụ nữ xinh đẹp và ngủ lại đó. Tuy nhiên, những hòn đảo này không phải là những hòn đảo có thật mà là do những người chết đuối dưới biển, oán khí tích tụ tạo nên đảo quỷ. Nếu vô tình đi lạc vào đảo quỷ, thì sẽ cửu tử nhất sinh, cho dù có trở về được thì cũng sẽ bị bệnh nặng mà chết. Ông Phương, vận khí của ông thật sự rất tốt, có được viên thuốc của bà nội cho, lại quyết định kịp thời, tìm lại mảnh gỗ nhanh chóng rời đảo. Nếu không, chỉ sợ ông đã chết vào bốn mươi năm trước rồi.”
“Bệnh của tôi hôm nay có liên quan đến đảo quỷ hồi đó ư?”
“Hồi đó ông đã uống viên thuốc của bà nội cho. Thuốc đó tên là 'Bát Độc Hồng Đan', được chế tạo từ tám loại độc dược quý, có tác dụng tiêu trừ oán khí tà ma xâm nhập vào cơ thể. Ông uống viên thuốc này, oán khí tà ma trong cơ thể năm đó khẳng định là đã được thanh trừ sạch sẽ. Bệnh của ông hôm nay, cũng là do oán khí tà ma gây ra, nhưng là mắc phải gần đây thôi.”
Ông Phương cũng là một lão già thành tinh, lập tức nghe ra trong lời nói của tôi có hàm ý: “Gần đây tôi không ra ngoài, lấy đâu ra oán khí?”
Tôi không trả lời ngay câu hỏi của ông ấy mà lại hỏi: “Người vợ kia của ông, hai người kết hôn bao lâu rồi?”
Ông Phương trong mắt lóe lên: “Ý của cô là... A Tĩnh có vấn đề?”
Tôi cười cười nói: “Ông có thể kể cho tôi nghe một chút về bà ấy được không?”
Ông Phương nói người vợ này của ông tên là Tăng Tĩnh từ Trung Quốc đại lục đến làm người giúp việc trong nhà ông, vì trông giống bà nội Thất Nương của tôi nên ông Phương đã để ý bà ấy, bà ấy rất tốt, lại quan tâm ân cần chăm sóc ông Phương, nên ông Phương - người cả đời chưa từng kết hôn đã quyết định cưới bà ấy làm vợ.
Lúc đầu, có rất nhiều người phản đối vì người phụ nữ này kém ông Phương tới 40 tuổi, lại có con trai riêng nhưng ông Phương bất chấp ý kiến của mọi người, vẫn tổ chức đám cưới với Tăng Tĩnh.
Ông Phương nói ông ấy đã nhớ nhung Thất Nương cả một đời, bây giờ sắp xuống lỗ, nghĩ đến không thể nào lấy được Thất Nương, nên cưới một người giống Thất Nương cũng coi như hoàn thành tâm nguyện đời mình.
Tôi im lặng nói thầm trong lòng: Bà nội à bà nội, bà nhìn xem bà đã làm tổn thương người đàn ông này sâu sắc đến mức nào.
Sau khi Tăng Tĩnh và ông Phương kết hôn, mọi chuyện vẫn bình thường, không có gì khác lạ.
Tôi nói: “Ông Phương, ông thử nhớ lại xem, bệnh của ông bắt đầu từ khi nào? Trước khi triệu chứng xuất hiện có gì kỳ lạ xảy ra không?”
Ông Phương suy nghĩ một chút rồi nói: “Không có gì lạ cả, tôi chỉ nhìn thấy một tấm bài vị trong phòng ngủ của Tăng Tĩnh mà thôi.”
Ông Phương từ đại lục sang Hồng Kong không phải theo con đường hợp pháp, ông ấy bơi trên biển để vượt biên sang, những năm đó cũng có rất nhiều người vượt biên từ đại lục sang Hồng Kong bằng cách ấy, nhưng cũng chết rất nhiều người, hầu như đều chết tại nửa đường trên biển.
Đêm hôm đó, ông ấy vừa xuống biển thì trời bắt đầu mưa tầm tã, sấm chớp ầm ầm, mưa gió ập đến, ông ấy liều mạng bơi rất lâu nhưng cuối cùng cũng kiệt sức, không thể bơi tiếp được, tầm nhìn mờ đi, toàn bộ mặt biển tối đen như mực không thấy điểm cuối.
Ông ấy tưởng mình sẽ chết nhưng không ngờ bắt được một mảnh gỗ trôi dạt trên biển, sau đó hôn mê bất tỉnh.
Cũng không biết qua bao lâu, ông ấy mơ màng tỉnh lại, phát hiện mình đang nằm trên một bãi biển, trong lòng vui mừng khôn xiết, tưởng rằng đã đến Hồng Kông, khi đứng dậy thì nhìn thấy một khu rừng rộng lớn trước mặt, ông ấy đi trong rừng hồi lâu, cuối cùng cũng nhìn thấy một ngôi làng.
Đó là một làng chài rất đặc trưng với những ngôi nhà lợp ngói, trông rất lạc hậu, giống với kiểu nhà ở đại lục Trung Quốc lúc bấy giờ.
Ông ấy có chút kinh ngạc, không phải mọi người đều nói Hồng Kông là thiên đường, người dân cực kỳ giàu có sao, sao nhìn vẫn nghèo như vậy?
Ông ấy nghi hoặc, thật sự đã tới Hồng Kông rồi sao? Chẳng lẽ ông ấy theo nước biển trôi dạt trở về đại lục? Nhưng lúc này ông ấy đã rất mệt và đói bụng nên không nghĩ được gì, muốn vào trong thôn kiếm cái gì ăn, nhưng vừa vào thôn đã phát hiện thôn này rất kỳ lạ.
Trong làng từng nhà đều đóng chặt cửa và cửa sổ, từ cửa sổ có thể nhìn thấy bên trong có người, nhưng không ai ra ngoài đi lại, cũng không nhóm lửa nấu cơm. Ông ấy liên tiếp gõ cửa mấy nhà, nhưng cũng không ai mở.
Ông ấy không còn cách nào khác đành tiếp tục đi sâu vào trong làng, đi tới, thì nhìn thấy một ngôi nhà ba gian, giống như là nơi ở của địa chủ xã hội cũ ngày xưa. Dưới mái hiên treo hai chiếc đèn lồng màu trắng, trên đó viết chữ “Điện”, trên nóc cửa có treo tấm lụa trắng, trông như là có người vừa chết và đang tổ chức tang lễ.
Cửa lớn không đóng, ông ấy đứng bên ngoài gỡ cửa hồi lâu nhưng không có ai trả lời nên đành bước vào.
Vào cửa có một cái sân, đối diện với sân là sảnh chính, trong sảnh chính có một cái quan tài đặt ở giữa, trước quan tài có mấy người đang ngồi thủ linh.
Đám tang bình thường đều mời khách dùng bữa, ông ấy bèn nghĩ muốn đi cọ một bữa cơm ăn nên trực tiếp đi thẳng vào, cầm lấy nhang, đốt cho người chết ba nén nhang.
Ông ấy nghiêng đầu xem xét, phát hiện có ba người phụ nữ ngồi cạnh quan tài, ba người phụ nữ đều đeo mạng che mặt màu trắng, mạng che mặt có chút kỳ lạ, che kín cả đầu. Trước mặt ba người có đặt ba khung cửi, ba người ở ngay tại đó chậm rãi dệt vải.
Trong lòng ông ấy lộp bộp, chợt nhớ ra đã lâu lắm rồi ông ấy có nghe người ta kể rằng ở địa phương vùng duyên hải có một phong tục kỳ lạ, người chết về sau, ngoài việc quấn khăn liệm, người đó còn phải đeo một cái mạng che mặt màu trắng, nghe nói phong tục này là xuất phát từ thời nhà Đường.
Ông ấy tiến lên chào ba người phụ nữ, nhưng họ lờ đi và tiếp tục công việc dệt vải của mình.
Khi đó ông ấy tuổi trẻ cường tráng, lại có võ thuật, nên căn bản không sợ quỷ thần, sau khi vái lạy xong liền ra khỏi sảnh chính, đi vào phòng phía sau tìm đồ ăn.
Trong phòng sau không có người, cũng không có đèn, ông ấy đi vào phòng bếp lục lọi hồi lâu mới phát hiện ra hai cái bánh bao đã ôi thiu.
Quá đói bụng nên ông ấy vẫn cầm bánh bao lên ăn ngấu nghiến, vẫn cảm thấy đói nhưng chỉ có thể chịu đựng, buồn ngủ đến mức tìm đại một căn phòng đi vào, ngã xuống giường ngủ thiếp đi.
Ông ấy không biết mình đã ngủ bao lâu, chợt nghe thấy trong phòng có âm thanh huyên náo nên lập tức tỉnh dậy.
Bên ngoài trời còn chưa sáng, trong phòng rất tối, ông ấy bước xuống giường thì cảm thấy dưới chân lạ lạ, sờ xuống đất nhặt lên, là một cái đầu.
Toàn bộ trong phòng, trên mặt đất đều toàn là đầu người.
Những cái đầu này nồng nặc mùi tanh hôi thối, giống như vừa mới vớt từ dưới biển lên, sờ vào thấy ướt sũng.
Ông ấy giật mình, vội vàng quay trở lại giường thì phát hiện có vài cái đầu dính vào chân mình, ông ấy cố kéo ra thì phát hiện những cái đầu đó đang mọc ở lòng bàn chân mình.
Ông ấy cắn chặt răng, chịu đựng đau đớn kịch liệt, lôi mấy cái đầu đang sinh sôi ở trong da thịt ra, khiến chân đầy máu tươi.
Những cái đầu đó không bò lên giường, chỉ nhô lên trên mặt đất một lúc rồi đột ngột rút xuống.
Ông ấy sợ đến mức vội vàng chạy ra khỏi nhà, thậm chí không dám đi ra cổng lớn mà tìm đường ra khỏi cổng sau.
Ông ấy nhanh chóng chạy ra khỏi làng và quay trở lại bãi biển, nhưng bụng lại đau đớn khó chịu, cồn cào ruột gan như có thứ gì đó từ trong bụng phun trào ra.
Ông ấy chợt nhớ đến trước kia Thất Nương đã cho ông ấy một viên thuốc, nói rằng nếu gặp quỷ nhập thì hãy uống viên thuốc đó.
Ông ấy luôn luôn đem theo thứ đó bên người, lục tìm trên người, lấy ra một viên thuốc màu đỏ lập tức nuốt vào, sau đó bụng kêu vang lên.
Âm thanh đó rất lớn, giống như tiếng sét hoặc tiếng trống, kéo dài nửa tiếng, ông ấy vào rừng đại tiện mấy lần, đi ngoài không phải phân mà là những cái đầu nhỏ bằng rong rêu màu đen.
Sau khi xong việc, ông ấy cảm thấy toàn thân nhẹ nhõm.
Cuối cùng ông ấy cũng biết nơi đây chắc chắn không phải là Hồng Kông, và có thể ông ấy đã lạc đến một nơi rất đáng sợ. Thế là ông ấy đi tìm lại mảnh gỗ lúc trước, ôm lấy nó rồi nhảy lại xuống biển, phiêu lưu theo dòng nước.
Sau bốn ngày lênh đênh trên biển, ông ấy gần như sắp chết đói, cuối cùng gặp được một chiếc thuyền đánh cá từ Hồng Kông cứu và đưa ông ấy đến Hồng Kông, lúc đó ông ấy mới sống sót được.
Sau đó, ông ấy tìm thấy chú của mình, đi theo người chú gia nhập giới hắc đạo, đánh đấm khắp nơi, tạo nên sự nghiệp xã đoàn.
Bốn mươi năm sau, sự việc này vẫn luôn ẩn sâu trong ký ức của ông ấy. Lúc còn trẻ, ông ấy thường hay mơ thấy mình vẫn còn ở trên hòn đảo đáng sợ đó, khắp nơi đều là những cái đầu đen nghịt ấy.
Nghe xong câu chuyện, tôi lục lọi những ghi chép của bà nội trong trí nhớ rồi nói: “Ông Phương, có khả năng ông đã lên nhằm đảo quỷ“.
“Đảo quỷ?” Sắc mặt ông Phương tái nhợt.
Tôi gật đầu nói: “Truyền thuyết kể lại rằng, thời xưa mọi người ra biển đánh cá, thỉnh thoảng gặp gió lớn bị sóng đánh trôi dạt đến một số hòn đảo kỳ lạ. Những hòn đảo này không có tên trên bản đồ. Đôi khi có những ngôi làng không có người ở trên đó, có khi là những hòn đảo có rất nhiều người, họp chợ đông đúc, có khi là những biệt thự cao cấp, và một số người cũng gặp được những phụ nữ xinh đẹp và ngủ lại đó. Tuy nhiên, những hòn đảo này không phải là những hòn đảo có thật mà là do những người chết đuối dưới biển, oán khí tích tụ tạo nên đảo quỷ. Nếu vô tình đi lạc vào đảo quỷ, thì sẽ cửu tử nhất sinh, cho dù có trở về được thì cũng sẽ bị bệnh nặng mà chết. Ông Phương, vận khí của ông thật sự rất tốt, có được viên thuốc của bà nội cho, lại quyết định kịp thời, tìm lại mảnh gỗ nhanh chóng rời đảo. Nếu không, chỉ sợ ông đã chết vào bốn mươi năm trước rồi.”
“Bệnh của tôi hôm nay có liên quan đến đảo quỷ hồi đó ư?”
“Hồi đó ông đã uống viên thuốc của bà nội cho. Thuốc đó tên là 'Bát Độc Hồng Đan', được chế tạo từ tám loại độc dược quý, có tác dụng tiêu trừ oán khí tà ma xâm nhập vào cơ thể. Ông uống viên thuốc này, oán khí tà ma trong cơ thể năm đó khẳng định là đã được thanh trừ sạch sẽ. Bệnh của ông hôm nay, cũng là do oán khí tà ma gây ra, nhưng là mắc phải gần đây thôi.”
Ông Phương cũng là một lão già thành tinh, lập tức nghe ra trong lời nói của tôi có hàm ý: “Gần đây tôi không ra ngoài, lấy đâu ra oán khí?”
Tôi không trả lời ngay câu hỏi của ông ấy mà lại hỏi: “Người vợ kia của ông, hai người kết hôn bao lâu rồi?”
Ông Phương trong mắt lóe lên: “Ý của cô là... A Tĩnh có vấn đề?”
Tôi cười cười nói: “Ông có thể kể cho tôi nghe một chút về bà ấy được không?”
Ông Phương nói người vợ này của ông tên là Tăng Tĩnh từ Trung Quốc đại lục đến làm người giúp việc trong nhà ông, vì trông giống bà nội Thất Nương của tôi nên ông Phương đã để ý bà ấy, bà ấy rất tốt, lại quan tâm ân cần chăm sóc ông Phương, nên ông Phương - người cả đời chưa từng kết hôn đã quyết định cưới bà ấy làm vợ.
Lúc đầu, có rất nhiều người phản đối vì người phụ nữ này kém ông Phương tới 40 tuổi, lại có con trai riêng nhưng ông Phương bất chấp ý kiến của mọi người, vẫn tổ chức đám cưới với Tăng Tĩnh.
Ông Phương nói ông ấy đã nhớ nhung Thất Nương cả một đời, bây giờ sắp xuống lỗ, nghĩ đến không thể nào lấy được Thất Nương, nên cưới một người giống Thất Nương cũng coi như hoàn thành tâm nguyện đời mình.
Tôi im lặng nói thầm trong lòng: Bà nội à bà nội, bà nhìn xem bà đã làm tổn thương người đàn ông này sâu sắc đến mức nào.
Sau khi Tăng Tĩnh và ông Phương kết hôn, mọi chuyện vẫn bình thường, không có gì khác lạ.
Tôi nói: “Ông Phương, ông thử nhớ lại xem, bệnh của ông bắt đầu từ khi nào? Trước khi triệu chứng xuất hiện có gì kỳ lạ xảy ra không?”
Ông Phương suy nghĩ một chút rồi nói: “Không có gì lạ cả, tôi chỉ nhìn thấy một tấm bài vị trong phòng ngủ của Tăng Tĩnh mà thôi.”
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.