Chương 10
Stieg Larsson
22/10/2016
Thứ Hai, 14 tháng Ba
Chủ nhật, 20 tháng Ba
Đến Ersta và từ Ersta đi là những hành trình ngốn thời gian và phiền toái. Giữa tháng Ba, Salander quyết định mua xe hơi. Bắt đầu là cô phải kiếm chỗ đỗ xe, một vấn đề còn lớn hơn cả việc mua xe nhiều.
Cô có một chỗ trong gara bên dưới tòa nhà ở Mosebacke, nhưng cô không muốn ai đó có thể từ chiếc xe mà lần ra được chỗ cô sống ở Fiskargatan. Mặt khác do thâm niên vài năm ở đây, cô đã được vào danh sách chờ một chỗ để xe ở trong gara của tòa nhà tại Lundagatan mà cô thuê của công ty nhà. Cô gọi để hỏi xem hiện cô đang ở đâu trong danh sách thì được bảo là đang ở trên đầu. Và không chỉ thế - đến cuối tháng sẽ có một ô không mất tiền. Ngon. Cô gọi Mimmi nhờ làm ngay một hợp đồng với công ty cho thuê nhà. Hôm sau cô bắt đầu lùng xe.
Cô có tiền để mua bất cứ Rolls-Royce hay Ferrari nếu muốn nhưng cô không hề thích một thứ gì phô trương. Thay vì vậy, cô đến hai nhà đại lý ở Nacka rồi ra đi với một chiếc Honda tự động bốn năm tuổi màu vang chát. Cô bỏ một giờ ra xem mọi chi tiết, kể cả động cơ, trước vẻ giận dữ của người bán. Theo nguyên tắc, cô mặc cả giá ít hơn hai nghìn đôla và trả tiền ngay.
Rồi cô lái đến Lundagatan, gõ cửa nhà Mimmi cho bạn một bộ chìa khóa xe. Chắc quá rồi, Mimmi có thể dùng xe, nếu hỏi trước. Vì cuối tháng chỗ trong gara mới được sử dụng, hai cô đỗ xe ở ngoài đường.
Mimmi sắp đi tới một cuộc hẹn và xem phim với một bạn gái mà Salander chưa nghe nói đến bao giờ. Do Mimmi phấn son dữ dằn và mặc một bộ đáng sợ nom như cái cổ dề chó ở quanh cổ nên Salander cho rằng đây là một ả ô môi của Mimmi, nên khi Mimmi hỏi cô có muốn cùng đi không thì cô cảm ơn. Cô không hám câu chuyện kết thúc ở một bộ ba cùng với một trong những bạn gái chân dài của Mimmi, đám mà chắc chắn khiêu dâm đến mức khôn lường nhưng lại sẽ làm cho cô thấy mình là đồ nghệt. Đằng nào Salander cũng có việc phải làm trong thành phố cho nên họ cùng đi xe điện ngầm đến Hotorger rồi chia tay.
Đi bộ đến cửa hàng điện tử OnOff trên đường Sveavagen, Salander vừa mua bán xong, còn hai phút thì nó đóng cửa. Cô mua một các tút mực màu cho máy in laser rồi bảo họ lấy ra khỏi hộp để cô có thể cho nó vào ba lô.
Ra khỏi cửa hàng, cô đói và khát. Đi bộ đến Stureplan, cô quyết định vào quán Café Hedon, một nơi cô chưa vào và chưa cả nghe nói tới trước đây. Lập tức nhận ra Nils Bjurman đang quay lưng lại, cô bèn vòng sang bên phải lối vào. Cô đứng gần cửa sổ ngắm cảnh ngoài đường, thò cổ ra để có thể quan sát người giám hộ cô đang ở sau một quầy phục vụ.
Trông thấy Bjurman, Salander không thấy vởn lên cảm giác gì ghê gớm trong người, không giận, không ghét, không sợ. Chừng nào liên quan đến cô mà không có hắn thì thế giới sẽ là nơi tốt đẹp hơn nhưng sở dĩ hắn còn sống là chỉ vì cô đinh ninh hắn sống thì có ích cho cô hơn. Cô nhìn quá tới người đàn ông đối diện Bjurman và mắt cô liền mở to khi hắn đứng dậy.
Hắn là một người to lớn lạ thường, ít nhất cao hai mét và vạm vỡ. Vạm vỡ khác thường, rõ ràng thế. Hắn có một bộ mặt nhu nhược, mái tóc vàng cắt ngắn nhưng bao trùm lên hết tất cả, hắn cho ra một ấn tượng rất hùng mạnh.
Salander thấy người đàn ông nhoài về trước bình thản nói gì đó với Bjurman và Bjurman gật. Họ bắt tay và Salander để ý thấy Bjurman rút vội tay về.
Mày là loại nào đây và mày có công chuyện gì với Bjurman?
Salander đi nhanh xuống phố, dừng lại ở mái hiên một quầy bán thuốc lá. Cô đang xem báo dán trên bảng thì người tóc vàng bước ra ngoài quán Café Hedon rồi rẽ trái không nhòm ngó gì xung quanh. Hắn đi quá Salander nửa mét. Cô để cho hắn đi được mười lăm mét mới theo sau.
Đi không lâu. Người đàn ông xuống thẳng ga xe điện ngầm ở Birger Jarlsgatan, mua vé ở cổng. Cô chờ ở trên ke phía xe điện chạy về nam - hướng này đằng nào Salander cũng sẽ đi - rồi lên đoàn xe Norsborg. Hắn xuống xe điện ở Slussen, đổi hướng đến Farsta ở chỗ đèn xanh đèn đỏ rồi lại xuống xe ở Skanstull. Ở đây hắn đi bộ về quán Café Blomberg trên đường Gorgatan.
Salander đứng lại ở bên ngoài. Cô có thể quan sát người đàn ông mà gã khổng lồ tóc vàng đi đến gặp. Click. Ngay lập tức Salander thấy một chuyện gì ác độc đang diễn ra. Người đàn ông quá béo so với tuổi, mặt hẹp vanh, không thể tin cậy được. Tóc hắn túm lại về sau gáy thành một đuôi ngựa và hắn có một bộ ria màu lông chuột. Hắn mặc jacket bằng vải denim, quần jean đen và bốt đế Cuba. Ở mu tay phải hắn có một hình xăm nhưng Salander không thể mò ra hình vẽ. Hắn đeo dây chuyền vàng ở cổ tay và hút Lucky Strikes. Mắt hắn như bằng thủy tinh, giống mắt một người luôn luôn phê. Salander cũng để ý thấy hắn mặc gilê da ở dưới chiếc jacket. Cô có thể nói hắn là một dân chơi xe máy.
Gã khổng lồ không gọi món gì. Hắn hình như đang cho chỉ thị. Người mặc jacket bằng vải denim chăm chú nghe, không góp chuyện lại. Salander tự nhủ nhớ hôm nào mua cho mình một micro nghe trộm.
Chỉ năm phút sau, gã không lồ rời Café Blomberg. Salander lui lại mấy bước nhưng gã chả nhìn gì về hướng cô. Hắn đi bốn chục mét đến các bậc tam cấp lên Allhelgonagatan, đến đây hắn vào một chiếc Volvo trắng. Salander đã cố đọc được biển số xe trước khi hắn rẽ ở góc phố sau.
Salander quay vội trở lại Blomberg nhưng ở chỗ bàn ấy không còn ai. Cô nhìn ngược xuôi con phố nhưng không thấy người tóc đuôi ngựa. Rồi cô bất chợt thấy hắn qua đường mở cửa nhà hàng McDonalc’s.
Cô phải vào trong tìm lại hắn. Hắn ngồi với một người đàn ông khác mặc một chiếc gilê ở bên ngoài jacket. Salander đọc dòng chữ trên gilê: CLBXM SVAVELSJO. Hình logo là một bánh xe máy cách điệu hóa nom giống một chữ thập Celtic với một cái búa rìu.
Cô đứng một lúc ở Gorgatan rồi đi lên mạn bắc. Linh tính bảo rằng cô cần phải cảnh giác cao độ.
Salander dừng lại ở 7-Eleven mua thức ăn dùng cho cả tuần: một bịch cỡ đại pan pizza hiệu Billy, ba xoong cá đông lạnh, ba bánh patê thịt ba chỉ, một kilô táo, hai bánh mì gối, nửa kilô pho mát, sữa, cà phê, một tút Marlboro Nhẹ và báo chiều. Cô đi bộ lên Svartensgatan đến Mosebacke, nhìn quanh rồi đấm vào mã hiệu cửa tòa nhà cô ở. Cô để một bánh patê thịt ba chỉ vào lò vi sóng, uống sữa thẳng từ hộp giấy. Cô bấm chạy máy pha cà phê rồi mở máy tính, click Asphyxia 1.3, vào bản sao ổ cứng của Bjurman. Cô bỏ nửa giờ sau đó vào xem hết các nội dung của máy tính hắn.
Cô tuyệt đối không tìm thấy một thứ gì đáng chú ý. Hình như hắn ít dùng máy tính; cô chỉ thấy một chục thư riêng ngắn ngủi nhận hay gửi đi cho bạn bè. Không thư điện tử nào dính dáng đến cô.
Cô tìm thấy một thư mục mới tạo gồm các ảnh khiêu dâm cho thấy hắn vẫn thú thói bạo dâm làm nhục phụ nữ. Ngặt nghèo mà nói, hắn không vi phạm quy tắc của cô nhưng vẫn cứ là có cái gì đó liên quan đến phụ nữ.
Cô mở thư mục tài liệu nói đến vai trò Bjurman là người giám hộ Salander, đọc kỹ từng báo cáo mỗi tháng của hắn. Chúng ứng chính xác với các bản sao mà hắn gửi cho một trong những địa chỉ hotmail của cô.
Mọi sự bình thường.
Có thể một chệch choạc nho nhỏ... Khi cô kiểm tra đặc tính các tệp Word lưu các báo cáo hàng tháng, cô có thể thấy hắn thường quen viết báo cáo vào mấy ngày đầu của mỗi tháng, hắn bỏ ra chừng bốn tiếng đồng hồ in từng bản báo cáo rồi gửi đúng hạn cho Sở Giám hộ vào ngày mười hai mỗi tháng. Nay là giữa tháng Ba mà hắn chưa bắt tay viết báo cáo tháng Ba. Lười ư? Ra nước ngoài về quá muộn? Bận việc gì đó khác? Định giở mánh nào đó chăng? Salander cau mày.
Cô tắt máy tính, ngồi lên ghế cửa sổ, mở hộp thuốc lá. Cô châm một điếu nhìn ra bóng đêm. Cô đã lỏng tay theo dõi hành tung hắn.
Hắn trơn tuột như lươn.
Cô thật sự khó chịu. Thứ nhất là Blomkvist Nhắng, thứ đến tên Zala rồi bây giờ Nils Bịurman Đồ Sâu bọ Ba láp cùng với một thằng đực rựa đầu bảng về ma túy có liên hệ với một băng nhóm nào đó của dân chơi xe máy trước đây. Trong ít ngày, một vài gợn sóng bất an đã hiện lên cụ thể trong đời sống ngăn nắp mà Salander cố tạo ra cho mình.
2 giờ rưỡi sáng, Salander tra chìa khóa vào cửa trước của tòa cao ốc trên đường Upplandsgatan gần Odenplan, nơi Bjurman sống. Cô dừng lại ngoài cửa nhà hắn, thận trọng mở nắp thùng thư, nhét vào một chiếc micro cực kỳ thính nhạy cô mua ở cửa hàng Phản gián ở Mayfair tại London. Cô chưa nghe nói đến Ebbe Carlsson nhưng nó là cửa hàng mà ông ta đã mua thiết bị nghe trộm, cái thiết bị từng làm cho Bộ trưởng Tư pháp Thụy Điển phải đột ngột từ hồi chức cuối những năm 80. Salander nhét loa nghe vào tai rồi điều chỉnh âm lượng.
Cô có thể nghe thấy tiếng rù rì âm âm của chiếc tủ lạnh và tiếng tích tắc đanh gọn của ít nhất hai chiếc đồng hồ, một là chiếc treo tường ở phòng khách bên trái cửa ra vào. Cô vặn to âm lượng lên nghe, nín thở. Cô nghe thấy mọi thứ cót két, lục bục ở trong căn nhà nhưng dấu hiệu về có người đang hoạt động thì không. Cô mất một phút mới để ý thấy và nhận ra âm thanh yếu ớt của tiếng thở nặng, đều.
Bjurman đang ngủ.
Cô rút micro ra nhét vào túi trong của chiếc jacket da. Cô mặc jean sẫm màu, giầy thể thao đế kếp. Cô lùa chìa im như không vào lỗ khóa, đẩy cửa ra không một tiếng kẹt. Trước khi mở cửa, cô lấy khẩu súng bắn điện trong túi ra. Cô không mang theo vũ khí nào khác. Cô nghĩ xử lý với Bjurman thì không cần đem theo một thứ gì khác mạnh hơn.
Đóng cửa lại ở đằng sau, cô đi tới hành lang ở bên ngoài phòng ngủ của hắn. Nhìn thấy ánh đèn, cô dừng lại, nhưng từ chỗ cô đứng đã có thể nghe thấy tiếng hắn ngáy. Cô lẻn vào phòng ngủ của hắn. Ngọn đèn đặt trên cửa sổ. Có chuyện gì thế, Bjurman? Có tí ti sợ đêm tối hả?
Cô đứng bên giường hắn, nhìn hắn một lúc. Hắn già đi và có vẻ so súi. Gian phòng sực mùi đàn ông không chú ý vệ sinh.
Cô không cảm thấy một chút thương hại nào. Trong chớp nhoáng, một thoáng thù hận lóe lên trong mắt cô. Thấy một cốc nước ở trên bàn ngủ, cô cúi xuống hít. Whisky.
Một lúc sau, cô rời phòng ngủ. Cô làm một vòng ngắn quanh bếp, không thấy cái gì lạ, tiếp tục đi sang phòng khách và dừng lại ở cửa phòng làm việc của Bjurman. Cô lấy ở trong túi jacket ra một nắm mẩu nhỏ bánh mì khô rồi cẩn thận đặt chúng lên sàn trong chỗ tối. Nếu có ai toan theo cô qua phòng khách thì tiếng bánh mì bị nghiền vỡ sẽ báo động cô.
Cô ngồi vào bàn làm việc của Bjurman, để khẩu súng bắn điện trước mặt. Cô tìm kỹ các ngăn kéo, đọc hết thư từ liên quan đến các tài khoản riêng của Bjurman. Cô nhận thấy hắn trở nên cẩu thả hơn và không thường xuyên cân đối các tài khoản của hắn hơn.
Ngăn kéo cuối cùng của bàn làm việc bị khóa. Salander cau mày. Năm ngoái cô đến, các ngăn kéo đều không khóa. Mắt cô vẫn không tập trung khi cô nhìn xem nội dung các ngăn kéo. Có một camera, một máy ảnh chụp xa, một máy ghi âm đút túi hiệu Olympus, một album ảnh bìa da và một hộp các dây chuyền, nữ trang, một nhẫn vàng đề chữ Tilda và Jacob Bjurman. 23 tháng tư 1951. Salander biết đây là tên bố mẹ hắn và cả hai đều đã chết. Cho rằng đây là một nhẫn cưới, nay làm vật lưu niệm.
Vậy hắn khóa lại những thứ hắn cho là có giá trị.
Cô xem xét cái tủ có cửa cuốn lên xuống ở đằng sau bàn làm việc, lấy ra hai cặp ba dây đựng các báo cáo của hắn về quá trình giám hộ của cô. Cô đọc từng bản một trong mười lăm phút. Salander là một cô gái trẻ vui tính và cần cù. Bốn tháng trước hắn đã viết xem liệu cô đã có đủ lý trí và bản lĩnh đến mức trở thành lý do thảo luận cho cuộc xét duyệt hàng năm sắp tới về việc có còn cần người giám hộ nữa hay thôi. Nó đã được viết thành câu cú lịch sự và dẫn tới nền móng đầu tiên cho việc xóa bỏ cho cô tuyên bố không tự cai quản được bản thân.
Cái cặp ba dây cũng đựng những ghi chép viết tay cho thấy Bjurman đã tiếp xúc với một Ulrika von Liebenstaahl ở Sở Giám hộ, nói tới một cuộc thảo luận chung về tình trạng của Salander. Những chữ “sự cần thiết cho sự đánh giá về bệnh tâm thần” đã được gạch dưới.
Salander bĩu môi, đặt lại các cặp ba dây rồi nhìn quanh.
Cô không tìm thấy được một ghi chép nào. Có vẻ Bjurman làm đúng theo các chỉ thị của cô. Cô cắn môi dưới. Cô vẫn có cảm giác về một cái gì đó không ổn.
Cô đứng lên khỏi ghế, sắp tắt đèn bàn làm việc thì dừng lại. Cô lại lấy các cặp ba dây ra xem kỹ lại một lần nữa. Cô phân vân. Các cặp ba dây phải đựng nhiều hơn thế này. Năm ngoái đã có một bản sơ yếu của Sở Giám hộ về quá trình phát triển của cô từ tuổi thơ ấu. Cái đó nay mất. Tại sao Bjurman lấy các giấy tờ ra khỏi một vụ hiện hành? Cô cau mày. Cô không nghĩ ra được lý do nào thỏa đáng. Trừ phi hắn đang sắp xếp tư liệu có thêm ở một chỗ nào đó. Mắt cô quét một lượt qua các ngăn giá của chiếc tủ cửa cuốn lên xuống và đẩy ngăn kéo dưới cùng của bàn làm việc.
Cô không mang theo cái móc nạy ổ khóa cho nên phải rón rén quay lại phòng ngủ của Bjurman, câu lấy chùm chìa khóa ra khỏi túi áo jacket hắn treo trên cây mắc mũ áo bằng gỗ. Đồ vật trong ngăn kéo này vẫn giống như năm ngoái. Nhưng bộ sưu tập đã có thêm một cái hộp dẹt, hình minh họa in ở ngoài hộp cho thấy là một khẩu súng Colt.45 Magnum.
Cô nghĩ lại cuộc nghiên cứu cô làm về Bjurman hai năm trước Hắn thích bắn và là thành viên một câu lạc bộ bắn súng. Theo danh bạ đăng ký vũ khí công cộng thì hắn có bằng sở hữu một súng Colt.45 Magnum.
Ngần ngừ cô đi tới kết luận rằng chẳng có gì ngạc nhiên trong việc hắn khóa ngăn kéo cuối cùng lại.
Cô không thích tình hình này nhưng trước mắt cô không nghĩ ra được lý do nào để đánh thức Bjurman dậy, dọa cho hắn một trận sợ vãi linh hồn.
Johansson dậy lúc 6 rưỡi sáng. Cô xem tivi sáng với âm lượng thấp ở trong phòng khách và ngửi mùi cà phê mới pha. Cô cũng nghe thấy tiếng phím máy tính iBook của Svensson lách cách. Cô mỉm cười.
Cô chưa từng thấy anh làm việc cho một bài báo căng như thế bao giờ. Millennium là một nước đi hay. Anh thường buồn vì chuyện ngáng chân của giới viết lách nhưng hình như quàng vào với Blomkvist, Berger và những người khác thì đã có một kết quả bổ ích cho anh. Anh thường về nhà rạng rỡ sau khi Blomkvist chỉ ra những thiếu sót hay bẻ gẫy một lập luận nào đó của anh. Rồi anh làm việc hăng lên gấp đôi.
Cô nghĩ thầm liệu có nên bắt anh ngừng tập trung suy nghĩ lúc này không. Kinh nguyệt của cô đã chậm ba tuần. Cô chưa khám thai. Có lẽ là lúc rồi đấy.
Cô sắp ba mươi tuổi. Chưa đầy một tháng nữa cô bảo vệ luận án. Tiến sĩ Johansson. Cô lại mỉm cười và quyết định mình chưa có chắc thì chưa nói gì với Svensson. Có lẽ cô sẽ chờ cho đến khi nào anh xong quyển sách và sau bảo vệ cô mở một buổi liên hoan.
Lơ mơ ngủ chừng hơn mười phút rồi cô đứng dậy đi vào phòng khách, người quấn trong một mảnh khăn.
- Blomkvist lại làm một chuyện giỏi.
- Anh ấy có ý nghĩa gì với anh? Phục vụ anh tốt. Mến anh, đúng không?
Svensson ngả người vào chiếc sofa trong phòng khách và bắt gặp mắt cô. Một lúc sau anh gật đầu.
- Millennium là một nơi làm việc nhất đấy. Anh đã nói với Mikael ở Kvarnen trước lúc em đến đón anh đêm qua. Anh ấy hỏi anh sẽ làm gì sau khi xong quyển sách này.
- Ái chà. Anh bảo sao?
- Bảo là anh không biết. Là một người viết tự do trong rất nhiều năm nay anh cứ bám quanh bám quẩn. Anh vui với một việc gì đó bền chắc hơn.
- Millennium.
Anh gật.
- Mikael đã thăm dò và muốn biết liệu anh có hứng thú với một công việc bán thời gian không. Giống như hợp đồng hiện nay của Henry Cortez và Lottie Karem. Anh sẽ có một bàn làm việc và một món tiền ứng trước ở Millennium và có thể nhận được sự ủng hộ ở bên cạnh.
- Anh có thích làm thế không?
- Nếu họ đi đến mời cụ thể, anh sẽ nói đồng ý.
- Nhưng chưa đến 7 giờ và hôm nay là thứ Bảy.
- Anh biết, anh vừa nghĩ là sẽ trau chuốt cho chỗ này chỗ kia một ít.
- Em nghĩ anh nên về giường mà trau chuốt cho một cái khác.
Vén một góc mảnh khăn lên, cô cười với anh. Anh chuyển máy tính sang chế độ nghỉ.
Ít ngày sau Salander bỏ nhiều thì giờ ra tìm tòi trong máy tính PowerBook. Cô tìm tòi rộng sang nhiều hướng nhưng vẫn không cầm chắc mình đang lùng kiếm cái gì. Từ sự việc Salander suy luận ra được một số cái đơn giản. Từ Lưu trữ Hồ sơ Media Archive, cô ghép nên lịch sử của Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo. Câu lạc bộ IU xuất hiện trong các bài báo với cái tên Những người cưỡi xe máy Talje Hog. Cảnh sát đã đột nhập trụ sở câu lạc bộ lúc ấy đóng ở một trường học bỏ không bên ngoài Sodertalje, do hàng xóm báo cáo nghe thấy tiếng súng nổ. Đưa đến một lực lượng đông lạ lùng, cảnh sát đã phá một cuộc liên hoan lũ lõa bia mà cuối cùng thoái hóa thành một trận thi bắn súng AK-4, những súng này té ra là súng ăn cắp của trung đoàn 120 ở Vasterbotten bị giải thể đầu những năm 80.
Theo một tờ báo chiều, Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo có dăm bảy thành viên và một tá kẻ bấu sấu kiếm chác. Tất cả các thành viên chính thức đều bị tù. Hai người nổi bật. Trưởng câu lạc bộ là Carl - Magnus (hay “Magge”) Lundin, người được tờ Aftonbladet đưa ảnh khi cảnh sát đột nhập nơi này năm 2001. Hắn bị kết án năm vụ ăn cắp, nhận đồ ăn cắp và vi phạm ma túy cuối những năm 80, đầu những năm 90. Một trong những bản nghị án - cho một vụ hình sự liên quan đến xâm phạm thân thể nghiêm trọng - đưa hắn đi mười tám tháng. Năm 1995 hắn được tha và ngay sau đó trở thành chủ tịch của Hội Những người cưỡi xe máy Talje Hog, nay là Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo.
Theo cảnh sát chống băng nhóm, số hai của câu lạc bộ là Sonny Nieminen, năm nay ba mươi bảy tuổi, tên này bị kết án không dưới hai mươi ba lần. Hắn bắt đầu sự nghiệp tội ác ở tuổi mười sáu, lúc ấy hắn đã chịu chế độ thử thách và vào trại cải tạo vì đánh người, hành hung và ăn cắp. Trong mười năm sau, hắn bị kết án về năm vụ ăn cắp, một vụ ăn cắp có tình tiết nặng, hai vụ đe dọa phi pháp, hai vụ vi phạm ma túy, trấn lột tiền của, công kích một viên chức dân sự, hai lần buộc tội sở hữu phi pháp vũ khí, một tố cáo dùng vũ khí gây án, lái xe khi say rượu và sáu lần bị buộc tội đánh người chung chung. Hắn đã bị tuyên án theo một thang bậc Salander khó lòng hiểu nổi: thử thách cải tạo, phạt tiền, liên tiếp bị giữ trong tù từ ba mươi đến sáu mươi ngày, cho tới 1989 khi hắn bị đưa đi mười tháng vì tội hành hung gây tổn hại nghiêm trọng và đột nhập ăn trộm. Vài tháng sau ra tù, hắn giữ sạch sẽ được cho tới tháng Mười 1990. Rồi hắn tham gia vụ đánh nhau trong một quán bar tại Sodertalje và kết thúc với một lời buộc tội giết người và một tuyên án sáu năm tù. 1995 hắn ra tù.
Năm 1996 hắn bị bắt vì là đồng bọn trong một vụ cướp có vũ khí. Hắn đã khai ra ba trong bốn tên cướp có vũ khí. Hắn bị tuyên án bốn năm tù và được tha năm 1999. Theo một bài báo từ 2001 mà Nieminen không bị nêu tên ra - nhưng qua những chi tiết trong bài báo về kẻ nghi can người ta dễ nhận ra là hắn - hắn xem ra đã góp phần vào vụ giết một thành viên của một băng nhóm đối địch.
Salander tải các ảnh căn cước của Nieminen và Lundin xuống. Nieminen có bộ mặt ăn ảnh, mái tóc quăn sẫm màu và đôi mắt nguy hiểm. Lundin trông hệt một thằng ngu đặc và rõ ràng hắn là người đã gặp gã khổng lồ ở quán Café Blomberg. Nieminen là người chờ ở McDonalc’s.
Qua danh bạ đăng ký xe quốc gia, cô mò ra chiếc Volvo trắng là của hãng cho thuê xe Auto - Expert ở Eskilstuna. Cô bấm số gọi họ rồi nói với một Refik Alba nào đó:
- Tôi là Gunilla Hansson. Hôm qua con chó của tôi bị một người lái xe cán chết rồi bỏ đi. Kẻ tầm bậy ấy lái một xe của hãng ông - tôi có thể nói số xe. Một Volvo trắng. - Cô cho số xe.
- Tôi rất lấy làm tiếc.
- Tôi sợ như thế chưa đủ đâu. Tôi muốn tên người lái để tôi có thể kiện.
- Cô đã báo cảnh sát việc này chưa?
- Không, tôi muốn giải quyết trực tiếp.
- Tôi xin lỗi nhưng tôi không thể cho tên khách hàng của chúng tôi trừ phi đã có biên bản của cảnh sát.
Giọng của Salander tối sầm lại. Cô hỏi nay bắt cô báo cáo khách của công ty với cảnh sát hay giải quyết câu chuyện đơn giản hơn thì đằng nào hay. Refik Alba xin lỗi một lần nữa nhưng nhắc lại là ông ta không có quyền phá vỡ quy định của công ty.
Cái tên Zala lại là một tắc tị khác. Với hai tảng to tướng pan pizza hiệu Billy, Salander tiêu tốn phần lớn ngày hôm ấy bên máy tính với một chai Coca Cola lít rưỡi làm bạn.Cô tìm thấy cả trăm Zala - từ một lực sĩ Ý đến một nhà soạn nhạc Argentina. Nhưng cô không tìm ra người mà cô cần. Cô thử tìm Zalachenko nhưng cũng lại tắc tị. Thất vọng, cô lăn kềnh ra giường ngủ thẳng một mạch mười hai tiếng. Cô tỉnh dậy thì đã 11 giờ sáng. Cô đặt một ít cà phê rồi chạy vào bồn tắm. Cô rót bột tạo bọt vào bồn rồi mang cà phê cùng sandwich vào bồn tắm. Cô mong có Mimmi ở bên lúc này nhưng cô vẫn chưa bảo bạn biết chỗ ở của mình.
Trưa cô ra khỏi bồn tắm, lau khô người, mặc áo khoác trong nhà vào. Cô lại mở máy tính.
Các tên Dag Svensson và Mia Johansson mang lại được những kết quả tốt hơn. Qua công cụ tìm kiếm của Google, cô có thể mau chóng gộp lại một bản tóm lược ngắn về các việc họ đã làm trong những năm gần đây. Cô tải xuống các bản sao vài bài báo của Svensson và tìm thấy một loạt ảnh chụp của anh. Không ngạc nhiên lắm khi nhận ra anh là người cô thấy ngồi với Blomkvist ở Kavarna. Cái tên đã được cho một bộ mặt và ngược lại, một bộ mặt đã có tên.
Cô tìm thấy vài bài viết về Mia Johansson hay do Johansson viết. Lần đầu tiên Mia được thông tin đại chúng chú ý đến là do một tường trình của cô về thái độ phân biệt trong đối xử với đàn ông và phụ nữ nằm ở trong tay pháp luật. Đã có một số lượng xã luận và bài báo trong mục thư bạn đọc của các tổ chức phụ nữ. Bản thân Johansson cũng đã viết thêm vài bài báo. Salander đọc chăm chú. Một số nhà hoạt động phụ nữ thấy các kết luận của Johansson có ý nghĩa, một số lại phê bình cô “cho các ảo tưởng tư sản lan tràn đi”.
2 giờ chiều, cô vào Asphyxia 1.3 nhưng thay vì MikBlom/laptop, cô chọn MikBlom/cơ quan, máy tính của Blomkvist ở Millennium. Bằng kinh nghiệm cô biết máy tính cơ quan của anh khó chứa đựng một cái gì thú vị. Ngoài việc thỉnh thoảng anh dùng nó để lướt Net, anh gần như chuyên làm việc trên iBook. Nhưng anh có quyền của người quản trị đối với tất cả cơ quan Millennium. Cô mau chóng tìm thấy điều cô tìm; mật khẩu vào mạng lưới nội bộ của Millennium.
Để vào các máy tính khác ở Millennium, ổ cứng bản sao trên máy chủ tại Hà Lan là không đủ. Máy gốc của MikBlom/cơ quan phải mở và kết nối với mạng máy tính nội bộ. Cô gặp may. Có vẻ Blomkvist đang làm việc và có hiện ra màn hình nền. Cô chờ mười phút nhưng không thấy một dấu hiệu hoạt động nào, cô đồ chừng là khi vào văn phòng anh đã mở máy và lướt Net rồi để nó tiếp tục chạy trong khi anh làm việc gì khác hay dùng máy tính mang theo người của anh.
Việc dò xem này đã được làm cẩn thận. Giờ tiếp sau đó Salander thận trọng “chui” từ máy tính này sang máy tính khác và tải xuống thư điện tử của Berger, Malm, và một nhân viên mà tên nghe lạ với cô, Malin Eriksson. Cuối cùng cô xác định được màn hình nền của Svensson. Theo như thông tin hệ thống thì nó là một Macintosh PowerPC cũ với một ổ cứng chỉ có 750 MB, cho nên nó phải là một bộ phận thừa, chắc là chỉ được những người viết tự do thi thoảng dùng đến trong việc xử lý văn bản. Nó được gắn với một mạng lưới máy tính, có nghĩa là Svensson ngay lúc này đang ở trong các phòng biên tập của Millennium. Cô tải email của anh xuống rồi tìm ổ cứng của anh. Cô mò thấy một thư mục mang cái tên ngắn ngủn nhưng ngọt ngào .
Hắn dớ được tới đúng 203.000 curon tiền mặt, một món tiền lớn không ngờ cho ba kilô methamphetamine mà hắn giao cho Lundin cuối tháng Giêng. Đó là một món lợi gọn ghẽ cho vài giờ làm một việc thừa hành - nhận meth của người đưa thư cất giữ một thời gian, giao cho Lundin rồi lĩnh 50 phần trăm tiền lời. Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo có thể nhận được món tiền này hàng tháng và băng nhóm của Lundin chỉ là một trong ba khâu thao tác như thế - hai khâu kia là ở quanh quẩn Goteborg và Malmo. Các băng nhóm cùng nhau mang lại cho hắn mỗi tháng gần nửa triệu curon tiền lời.
Vậy mà tâm trạng hắn lại đang tồi tệ đến nỗi hắn cho xe vào vệ đường và tắt máy. Ba mươi giờ qua hắn không ngủ, cảm thấy người lơ ma lơ mơ. Hắn ra khỏi xe duỗi chân và đái. Đêm lạnh và sao sáng. Hắn không còn xa Jarna.
Về bản chất, cơn xung đột hắn hiện đang trải qua nó gần như có tính ý thức hệ. Việc cung cấp tiềm năng methamphetamine là vô hạn trong bán kính bốn trăm cây số kể từ Stockholm. Yêu cầu thì không thể chối cãi được là lớn rồi. Phần còn lại là chuyện hậu cần - chở sản phẩm từ điểm A đến điểm B như thế nào hay để cho chính xác hơn, từ một xưởng dưới hầm ở Tallinn đến Cảng Tự do ở Stockholm như thế nào.
Đây là một vấn đề thường trở lại - bảo đảm làm sao cho việc chuyên chở từ Estonia đến Thụy Điển được đều đặn? Thật ra đây là vấn đề chủ yếu nhưng mối liên lạc thì lại yếu do mấy năm sau hắn luôn chỉ làm lụng tùy hứng. Và mới đây mọi sự bát nháo cũng nhiều ra. Hắn tự hào về khả năng tổ chức của hắn. Hắn đã dựng lên một mạng lưới chạy trơn như bôi dầu và được vun xới bằng các suất cà rốt và gậy tương đương nhau. Hắn là người làm cái công việc đòi hỏi phải đi tới đi lui, gắn kết các đối tác, thương lượng các vụ làm ăn và đảm bảo cho việc cung cấp đến đúng địa chỉ.
Cà rốt là lợi ích cấp cho các đầu mối phụ như Lundin - một món lợi vững chắc và tương đối không bị rủi ro. Hệ thống thì tốt. Lundin không phải động đến một ngón tay mà vẫn nhận được hàng - không phải có các chuyến đi bán căng thẳng hay giải quyết việc với những người có thể là một đứa nào đó ở đội chống ma túy hay ở mafia Nga. Lundin biết gã khổng lồ sẽ giao hàng rồi nhận 50 phần trăm của gã.
Cái gậy là để cho khi nào các trò rắc rối nổi lên. Một đứa bán lẻ trên đường mồm mép ba hoa, kẻ tìm ra quá nhiều điều về dây chuyền cung cấp đã suýt gây lụy cho Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo. Hắn đã buộc phải dính tay vào trừng phạt kẻ đó.
Hắn xử lý tốt chuyện trừng phạt.
Nhưng tác chiến đang trở nên quá phiền toái để cho hắn phái giám sát đến.
Hắn châm một điều thuốc, duỗi chân lên một cái cổng ở trong cánh đồng.
Methamphetamine là một nguồn thu nhập kín đáo và dễ quản lý - lời to, rủi nhỏ. Vũ khí là dễ bị rủi ro và mưu tính đến cả chuyện rủi ro thì đơn giản không phải là làm ăn tốt.
Thi thoảng làm gián điệp công nghiệp hay đưa lậu linh kiện điện tử sang đông Âu - tuy mấy năm gần đây thị trường đã bị rơi rụng - những việc ấy thì còn bào chữa được.
Mặt khác, điếm ở các nước vùng Baltic là một đầu tư hoàn toàn không được hài lòng. Kinh doanh này là thứ tiền lẻ còm, nó có khả năng xới lên bất cứ lúc nào những bài báo, những bài diễn văn nhạt nhẽo lê thê trên báo đài và ở cả các cuộc thảo luận bên trong cái thực thể chính trị kỳ quái người ta gọi là Quốc hội Thụy Điển. Cái dấu dương cho chuyện điếm là ai ai cũng thích điếm - công tố viên, thẩm phán, cảnh sát, thậm chí thỉnh thoảng cả đại biểu quốc hội. Không ai sẽ đi đào sâu nhiều vào đây để đánh sập cái nghề này xuống đâu.
Ngay một cô điếm chết cũng không tất yếu gây nên những cuộc cãi vã chính trị om sòm. Nếu trong vòng vài giờ cảnh sát bắt được một nghi phạm vẫn còn vết máu trên quần áo thì sẽ có xét xử tiếp theo và kẻ giết người sẽ ngồi tù mấy năm hoặc ngồi trong một trại giáo dưỡng mù mờ nào đó. Nhưng theo kinh nghiệm của hắn, nếu trong vòng bốn mươi tám tiếng mà không mò ra nghi phạm thì cảnh sát sẽ đủ mau lẹ tìm ra ngay những món quan trọng hơn thế để điều tra.
Nhưng hắn không thích buôn bán băng gái điếm. Hắn không thích tí nào hết bọn gái điếm, không thích những bộ mặt phấn son dầy cộp, tiếng rên hú và tiếng cười say xỉn rượu của họ. Họ không sạch. Và luôn có nguy cơ là một đứa sẽ nảy ra ý rằng ả có thể tìm được nơi trú thân hay sẽ bắt đầu ba hoa chích chòe với cảnh sát hay nhà báo. Lúc ấy hắn sẽ phải tự tay nắm lấy sự tình và ban phát trừng phạt. Và nếu việc tiết lộ ra mà lại đủ ầm ĩ thì công tố viên, cảnh sát sẽ bị buộc phải hành động - nếu không Quốc hội sẽ thực sự tỉnh dậy và chú ý. Nghề điếm nó cuốn hút.
Atho và Harry Ranta là điển hình: hai đứa ăn bám vô dụng đã tìm ra được quá nhiều mánh về nghề này. Trước hết hắn muốn quấn xích quanh người hai đứa rồi dìm xuống cảng. Thay vì vậy, hắn lại cho hai đứa lên phà đi Estonia rồi kiên nhẫn chờ cho tới khi phà nhổ neo. Chuyến đi nghỉ của hai đứa là kết quả của một tên phóng viên chết giấp thọc mũi vào công việc của chúng và hắn đã quyết định tốt nhất là cho hai đứa té biệt.
Hắn thở dài.
Trên hết hắn không thú những trò làm thêm như với cô gái Salander kia. Với riêng bản thân hắn thì rõ ràng cô gái chả có gì đáng phải quan tâm. Cô không là một thứ lợi lộc nào hết. Hắn không thích Bjurman, hắn không thể tưởng tượng ra tại sao chúng lại quyết định làm cái việc mà Bjurman yêu cầu chúng làm. Nhưng nay quả bóng đã lăn. Chỉ thị đã cho ra, bản hợp đồng đã được tặng cho một thằng làm việc tự do ở Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo và cả cái tình huống này hắn cũng không thích một chút nào.
Hắn nhìn qua cánh đồng tối, ném đầu mẩu thuốc lá vào lớp sỏi cạnh cổng. Hắn nghĩ qua khóe mắt hắn thấy có động đậy và hắn lạnh cứng người lại. Hắn chăm chú nhìn. Không có ánh sáng trừ một mảnh trăng lưỡi liềm nhợt nhạt và các ngôi sao, nhưng hắn vẫn có thể cho hắn thấy lại hình thù một người đen ngòm đang bò đến phía hắn, cách chừng ba chục mét. Người ấy tiến đến, thỉnh thoảng dừng lại chút ít.
Hắn thấy mồ hôi lạnh toát ra ở chân mày. Hắn ghét cái vật ở trong cánh đồng kia. Hắn đứng một lúc như tê liệt, nhìn chằm chằm như bị hút vào cái vật vẫn đang không ngừng tiến đến. Khi nó đến gần đủ cho hắn nhìn thấy mắt nó loe lóe trong bóng đêm, hắn quay ngoắt lại chạy đến xe hơi. Hắn giật toang cửa. Hắn càng thấy hoảng loạn hơn cho tới khi hắn khởi động được máy và bật đèn đầu xe. Vật kia đã ra ngoài đường đứng và cuối cùng lúc này trong chùm ánh sáng đèn, hắn mới nhận rõ ra được hình nét của nó. Hắn thấy nó giống như một con cá đuối đang trượt trôi đi. Nó có một cái ngòi giống như bọ cạp.
Thế giới không có vật này. Nó là ma quái của thế giới ngầm dưới đất.
Hắn vào số xe và rít bánh phóng đi. Khi qua con vật kia hắn thấy nó mổ nhưng không trúng. Hắn không dừng lại, suốt mấy dặm cứ lẩy bẩy run hoài.
Salander bỏ cả đêm xem hết nghiên cứu mà Svensson và Millennium đã thu thập được về buôn bán tính dục. Dần dần cô đã có một cái nhìn chung hay hay, ngay dù nó có dựa trên các mảng vụn khó hiểu mà cô đã lắp lại với nhau từ những tư liệu đa dạng.
Berger gửi một thư điện cho Blomkvist hỏi việc đối chất ra sao; anh đáp lại cụt lủn rằng họ không thể lần theo người đàn ông này từ Cheka cho đến mặt đất. Salander hiểu như thế có nghĩa là một trong những kẻ sắp bị ra tòa nhận tội đã làm việc ở Sapo, Cảnh sát An ninh. Eriksson gửi cho Blomkvist và Berger tóm tắt về một nhiệm vụ điều tra phụ giao cho Svensson. Blomkvist và Berger đáp lại có kèm cả bình luận và gợi ý. Blomkvist và Svensson nên ngày ngày trao đổi email cho nhau vài lần. Svensson tả lại một đối chất anh đã làm với một nhà báo, Per - Ake Sandstrom.
Từ email của Svensson cô thấy anh đang liên hệ với một người có tên là Gulbrandsen ở một địa chỉ Yahoo. Phải một lúc cô mới nhận ra Gulrandsen là một viên cảnh sát và thư trao đổi giữa hai người là không có sao lưu, dùng một địa chỉ thư điện tử cá nhân thay vì địa chỉ cảnh sát của Gulbrandsen. Vậy thì Gulbrandsen là một nguồn cấp tin.
Thư mục có tên ngắn đến phát thất vọng, chỉ ba tư liệu Word. Cái dài nhất, chỉ 128 KB được gọi là [Irina P.], cho ra một phác thảo cuộc đời một cô điếm, tiếp theo có một bản tóm lược của Svensson về bản báo cáo giải phẫu, vài nét tả sơ sài của anh về các vết thương kinh khủng của cô gái.
Cô nhận ra một câu trong bài viết là trích dẫn nguyên văn bản luận án của Johansson. Trong luận án, cô gái được gọi là Tamara nhưng Irina và Tamara chắc là một người nên cô đọc rất thú vị phần phỏng vấn trong bản luận án.
Tư liệu thứ hai [Sandstrom] gồm bản tóm lược Svensson đã gửi cho Blomkvist, cho thấy rằng tay nhà báo này là một trong mấy đứa chăn dắt gái từng lạm dụng một cô gái người vùng Baltic và hắn cũng chạy các việc vặt cho mafia tính dục rồi được trả công bằng ma túy hay gái. Ngoài viết cho hộp thư bạn đọc của công ty, Sandstrom còn viết với tư cách tự do cho một nhật báo những bài báo bất bình lên án nghề buôn bán tính dục. Một trong các tiết lộ của hắn là nhà kinh doanh Thụy Điển không bị nêu tên đã đến một nhà thổ ở Tailinn. Zala không được nhắc đến trong cả hai tư liệu, nhưng Salander cho rằng do cả hai tư liệu đều ở trong một thư mục vậy thì chắc phải có một quan hệ. Nhưng tư liệu cuối cùng lại có tên . Nó ngắn và chỉ là ghi chép.
Theo Svensson, từ giữa những năm 90, cái tên Zala đã xuất hiện trong chín vụ liên quan đến ma túy, vũ khí hay bán dâm. Không ai biết Zala là ai nhưng các nguồn tin đã chỉ ra mỗi phía một phách rằng hắn là một người Serbia, một người Ba Lan hay có lẽ một người Czech. Tất cả các thông tin đều là nghe sang tai.
Svensson đã thảo luận triệt để với nguồn G (Gulbrandsen) và gợi ý rằng Zala có thể đã phụ trách việc giết Irina P. Không thấy nói G nghĩ thế nào về lý luận này nhưng có một ghi chép hàm ý rằng một năm trước Zala đã được đưa vào chương trình nghị sự tại một cuộc M họp “với nhóm điều tra đặc biệt về tội phạm có tổ chức”. Cái tên này nổi lên nhiều lần quá đến nỗi cảnh sát đã bắt đầu đặt câu hỏi, cố xác lập xem liệu Zala có thật hay không và liệu có còn sống hay không.
Theo như Svensson phát hiện thì cái tên Zala xuất hiện lần đầu tiên là dính líu đến một vụ trấn lột một chiếc xe tải nhỏ của bảo hiểm ở Orkelljunga năm 1966. Các tên cướp đã lấy đi hơn 3,3 triệu curon nhưng chúng tổ chức cuộc trốn chạy vụng về cho nên chỉ hai mươi tư giờ sau cảnh sát đã có thể nhận diện được bọn chúng và bắt các thành viên của băng cướp. Ngày hôm sau lại một vụ bắt nữa. Đó là Nieminen, một thành viên của Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo, tên này có vai trò cung cấp vũ khí cho vụ trấn lột.
Một tuần sau vụ chặn cướp xe năm 1996, ba người nữa đã bị bắt. Nhóm này vậy là gồm có tám người, bảy đứa trong bọn không chịu nói chuyện với cảnh sát. Đứa thứ tám, một cậu con trai mười chín tuổi tên là Birger Nordman trong khi hỏi cung đã quy phục và thú thật mọi sự mà hắn biết. Vụ xét xử đám này tại tòa đã là một thắng lợi chớp nhoáng của công tố viên. Một hậu quả là (nguồn tin cảnh sát của Svensson nghi) hai năm sau người ta đã tìm thấy Nordman bị vùi trong một giếng mỏ tại Varmland sau khi chạy trốn khỏi nhà tù trong thời gian nghỉ phép tạm.
Theo như G. thì cảnh sát tin rằng Nieminen là chất xúc tác ở đằng sau toàn bộ băng nhóm. Cảnh sát cũng tin rằng Nordman đã bị Nieminen giết theo hợp đồng, tên này được coi là nguy hiểm và tàn nhẫn, nhưng không có chứng cứ. Lúc ở tù hắn có vẻ đã có bàn bạc với Tình huynh đệ Aryan[4], một tổ chức Quốc xã[5] để rồi quay ra cũng gắn kết với Tình huynh đệ Wolfpack và với các câu lạc bộ ở rải rác trên thế giới vốn từng ủng hộ Các Thánh thần Địa ngục, cũng như với các tổ chức Quốc xã bạo lực ngu ngốc khác chẳng hạn Phong trào Kháng chiến Thụy Điển.
Nhưng điều làm cho Salander thấy thú vị lại là một cái gì hoàn toàn khác. Nordman nhận với cảnh sát rằng các vũ khí dùng trong vụ trấn lột là đến từ chỗ Nieminen, còn hắn thì lại lấy từ một người Serb mà Nordman không biết nhưng gọi là “Sala”.
Svensson đã coi hắn là một nhân vật vô danh trên sân khấu tội phạm và thừa nhận rằng Zala là một bí danh. Nhưng anh cảnh cáo rằng chúng có thể giải quyết chuyện này với một tên tội phạm đặc biệt xảo quyệt hoạt động dưới một bí danh.
Phần sau cùng gồm có thông tin của Sandstrom về Zala, như nói ở trên. Sandstrom đã một lần nói qua điện thoại với một người dùng cái tên Zala này. Các ghi chép không cho biết họ nói chuyện gì.
Vào quãng 4 giờ sáng, Salander đóng máy tính, ngồi lên ghế cửa sổ nhìn ra Saltsjon. Cô ngồi lặng lẽ trong hai tiếng, hút hết điếu thuốc này sang điếu khác, suy nghĩ. Cô phải đưa ra một số quyết định chiến lược - và cô phải đánh giá về rủi ro.
Cô phải tìm Zala thanh toán một lần và vĩnh viễn các món nợ giữa đôi bên.
Tối thứ Bảy tuần trước lễ Phục sinh, Blomkvist thăm một bạn gái xưa trên đường Slipgatan lân cận với Hornstull. Anh đã một lần nhận lời mời đến một liên hoan. Nay chị đã có chồng và vẫn quan tâm đến Blomkvist chẳng khác gì một người bạn nhưng chị làm ở báo đài và vừa hoàn thành một quyển sách chị từng ấp ủ trong mười năm, quyển sách bàn đến một cái gì đó lạ lùng như bộ mặt của phụ nữ trong thông tin đại chúng. Blomkvist đã cung cấp tư liệu cho quyển sách, do đó anh được mời.
Vai trò của anh là nghiên cứu một vấn đề. Anh đã chọn xem xét các chính sách về cơ hội bình đẳng mà hãng tin TT, báo Dagens Nyheter, tiết mục Rapport và một số báo đài khác đã huênh hoang quảng cáo. Rồi anh kiểm tra xem trong ban điều hành của mỗi công ty có bao nhiêu đàn ông và phụ nữ, cao hơn trình độ trợ lý tòa soạn. Kết quả là đáng bối rối: giám đốc - đàn ông; chủ tịch tòa soạn - đàn ông; tổng biên tập - đàn ông; ủy viên biên tập đối ngoại - đàn ông; ủy viên biên tập quản trị - đàn ông... và v.v... cho đến cuối cùng thì người phụ nữ đầu tiên đã đến.
Buổi liên hoan được tổ chức ở nhà tác giả và khách dự phần lớn là những người đã giúp chị về quyển sách.
Đó là một buổi tối tao nhã với thức ăn ngon và chuyện trò thoải mái. Blomkvist đã biết điều có ý về sớm nhưng nhiều khách mời là chỗ quen biết lâu ngày mà anh ít gặp. Ngoài ra không ai nói quá nhiều đến vụ Wennerstrom. Buổi liên hoan tiếp tục cho tới 2 giờ sáng ngày Chủ nhật.
Blomkvist trông thấy chiếc xe buýt đêm chạy qua nhưng anh không kịp giữ cho nó dừng lại, mà khí trời thì êm dịu, cho nên anh quyết định đi bộ về nhà thay vì chờ chiếc sau. Anh theo đường Hogalidsgatan đến nhà thờ rồi quẹo lên Lundagatan và ký ức xưa lập tức thức dậy.
Blomkvist đã giữ lời hứa anh đưa ra hồi tháng Chạp để thôi đến thăm Lundagatan với hy vọng hão huyền rằng Salander sẽ xuất hiện. Đêm nay anh dừng lại ở hè phố đối diện với tòa cao ốc của cô. Anh muốn bấm chuông cửa nhưng anh biết có vẻ cô không thích gặp anh một mình vào lúc này trong đêm khuya khoắt mà lại không báo trước.
Anh nhún vai đi tiếp tới Zinkensdamm. Chưa đi được năm chục mét thì nghe thấy có tiếng cửa mở, anh quay lại và thế là tim anh hẫng ngay một nhịp. Không thể nào lầm được cái thân người xương xẩu kia. Salander vừa bước khỏi cửa ra phố và đi ngược lại với anh. Cô dừng lại ở một chiếc xe hơi đỗ.
Blomkvist há miệng toan gọi thì tiếng anh nghẹn lại ở cổ họng. Anh trông thấy một người đàn ông đi ra khỏi một xe hơi khác đỗ dọc đường vòng đầu phố. Hắn rảo chân đi theo Salander. Blomkvist có thể thấy hắn cao lớn và tóc túm đuôi ngựa.
Salander nghe thấy tiếng động và thoáng nhìn thấy đằng sau mình một cử động đúng vào lúc cô tra chìa vào cửa chiếc Honda. Hắn sáp chéo góc đến sau lưng cô và cô quay ngoắt lại hai tích tắc trước khi hắn với được tới cô. Cô nhận diện ngay lập tức hắn là Carl - Magnus Lundin ở Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo, đứa mấy ngày trước đã gặp gã khổng lồ ở quán Café Blomberg.
Cô đánh giá hắn là hung hãn và cân nặng hơn 120 kilô. Dùng chùm chìa khóa như một quả đấm sắt và nhanh như một con thằn lằn, cô rạch một vết thương sâu vào má hắn, từ chân mũi đến mang tai. Như Salander, hắn đấm vào không khí rồi nom vẻ như chìm vào dưới đất.
Blomkvist thấy Salander vung quả đấm ra. Đánh kẻ tấn công xong, cô ngã xuống đất rồi lăn vào dưới gầm xe.
Mấy giây sau, Salander đã đứng lên ở phía bên kia xe, sẵn sàng chiến đấu hay chuồn. Nhìn thấy ánh mắt kẻ địch dưới chiếc mũ ôm sát sọ, cô quyết định chọn cách thứ hai. Máu chảy ra ở má hắn. Hắn chưa kịp cố tập trung chú ý vào cô, cô đã băng qua Lundagatan, chạy đến Nhà thờ Hogalid.
Blomkvist đứng như trời trồng, mồm há hốc khi kẻ tiến công thình lình nhào đến sau lưng Salander. Hắn trông như cỗ xe tăng đuổi một xe hơi đồ chơi.
Salander ba bậc một leo cầu thang lên Lundagatan thượng. Lên đỉnh cầu thang cô liếc qua vai thấy kẻ đuổi mình đang lên bậc thứ nhất. Hắn nhanh. Cô để ý thấy một đống ván và cát mà chính quyền địa phương đào lên bên đường.
Gần như sắp leo hết cầu thang thì Lundin lại trông thấy Salander. Hắn đủ thì giờ nhận thấy cô ném một cái gì nhưng hắn không kịp phản ứng lại với một viên đá sắc cạnh đập vào thái dương hắn. Viên đá được ném rất mạnh, nó xé toạc ra một vết thương nữa trên mặt hắn. Hắn cảm thấy được hắn đang hụt chân rồi thế gian đảo tít khi hắn ngã ngửa ra trên các bậc thang. Hắn cố giảm bớt đà ngã bằng cách nắm lấy lan can nhưng hắn đã lỡ mất vài ba giây.
Blomkvist hết tê liệt khi người đàn ông biến đi ở trên đỉnh cầu thang. Anh bắt đầu la hét để xua hắn cút đi.
Salander đã đến giữa sân nhà thờ thì nghe thấy tiếng Blomkvist. Cái quỷ gì thế nhỉ? Cô đổi hướng, nhìn qua lan can trên sân trời. Cô thấy Blomkvist ở dưới cô ba mét. Thoáng do dự rất nhanh rồi cô lại vọt.
Cùng lúc chạy đến cầu thang Blomkvist để ý thấy một xe Dodge bắt đầu chạy qua cửa trước nhà Salander, đằng sau chiếc xe cô định lên lúc nãy. Chiếc xe vút ra khỏi chỗ lượn, đi qua Blomkvist, chạy phía Zinkensdamm. Anh nhác thấy một bộ mặt khi chiếc xe đi qua. Tối quá không đọc được biển số xe.
Blomkvist bắt kịp kẻ đuổi theo Salander ở đỉnh cầu thang. Hắn dừng lại, đứng bất động nhìn quanh.
Blomkvist vừa đến tới chỗ hắn thì hắn quay lại cho anh một cú đấm ngược tay vào giữa mặt. Blomkvist hoàn toàn không đề phòng. Anh lăn lông lóc, lộn đầu xuống cầu thang.
Nghe thấy tiếng kêu u ú nghèn nghẹn của Blomkvist, Salander gần như sắp đứng lại. Xảy ra chuyện gì thế này? Nhưng quay lại cô thấy Lundin chỉ cách cô có ba chục mét. Hắn nhanh hơn. Cứt, hắn sắp tóm được mình.
Cô rẽ trái chạy lên vài bậc thang đến sân trời ở giữa hai cao ốc. Cô đến một cái sân không chỗ che chắn rồi chạy hết sức nhanh đến góc sân khác. Cô quay phải, vừa kịp nhận ra mình có thể rúc vào phải một lối cụt. Khi tới tường cuối cùng của tòa cao ốc sau, cô trông thấy Lundin đến đầu cầu thang của cái sân. Cô cứ rẽ - cho khỏi tầm nhìn của hắn - lấy một ít mét nữa rồi nhào đầu trước tiên vào một bụi đỗ quyên ở giữa một luống hoa dọc theo hông tòa cao ốc.
Cô nghe thấy Lundin chạy rình rịch nhưng không thấy được hắn. Cô nín thở, nằm ép sát vào đất bên dưới bụi đỗ quyên.
Lundin đi qua chỗ cô nấp thì dừng lại. Hắn ngập ngừng một ít rồi rảo bước quanh sân. Một phút sau hắn quay lại. Hắn dừng lại ở chỗ hắn dừng lúc nãy. Lần này hắn đứng im chừng nửa phút. Salander căng hết gân cốt, chuẩn bị tư thế cho cuộc phới chạy tức thì nếu như bị hắn phát hiện. Nhưng hắn lại đi, ngang qua chỗ cô, cách hai mét. Cô nghe tiếng chân hắn mất dần ở đầu sân đằng kia.
Blomkvist thấy đau ở gáy và hàm, khi anh lụi cụi đứng lên, đầu óc anh choáng váng. Anh thấy mùi máu ở chỗ môi bị rách.
Anh loạng choạng đi đến đỉnh cầu thang nhìn quanh. Anh thấy người có tóc đuôi ngựa chạy xuống cuối phố cách anh một trăm mét. Hắn dừng lại nhòm soi vào các khe giữa các cao ốc rồi chạy qua Lundagatan leo lên chiếc Dodge. Chiếc xe phóng đi tới Zinkensdamm.
Blomkvist đi thong thả dọc mạn trên của Lundagatan tìm Salander. Anh không thấy cô đâu. Không một bóng người và anh ngạc nhiên vào lúc 3 giờ sáng Chủ nhật mà một đường phố ở Stockholm lại có thể quạnh quẽ như thế này. Một lúc sau anh đi bộ trở lại cửa trước nhà Salander ở mạn cuối đường Lundagatan. Khi đi qua chiếc xe, chỗ đã xảy ra chuyện Salander bị đánh, anh dừng lại ở một chùm chìa khóa mắc vào một chiếc vòng. Anh cúi nhặt lên và trông thấy cái túi đeo vai ở dưới gầm xe.
Blomkvist đứng ở đó một lúc lâu. Cuối cùng anh tra các chìa khóa vào cửa. Không vừa.
Salander nằm trong bụi đỗ quyên mười lăm phút, chỉ cựa mình để xem đồng hồ. Ngay sau 3 giờ cô nghe thấy một cánh cửa mở và những bước chân đi đến chỗ chiếc xe đạp cất ở sân.
Khi tiếng chân tắt ngấm cô quỳ dần lên trên đầu gối nhòm qua bụi cây. Cô nhìn chằm chằm vào mọi ngóc ngách xó xỉnh của mảnh sân nhưng không thấy dấu hiệu nào của Lundin. Cô bước trở lại đường phố, từng phút sẵn sàng quay đuôi chạy. Cô dừng lại ở đỉnh một bức tường nhìn với sang bên Lundagatan và trông thấy Blomkvist đang ở ngoài tòa nhà có căn hộ của cô. Chiếc túi vai của cô ở trong tay anh.
Cô đứng bất động hoàn toàn, nấp sau một cột đèn khi mắt Blomkvist nhìn quét lên cầu thang và bức tường. Anh không trông thấy cô.
Blomkvist đứng ở trước cửa nhà cô gần nửa giờ. Cô kiên nhẫn dõi nhìn anh, không động đậy, cho tới khi anh bỏ cuộc đi về quả đồi dẫn tới Zinkensdamm. Anh đi rồi cô bắt đầu nghĩ về câu chuyện vừa xảy ra.
Kalle Blomkvist.
Cô không thể tưởng tượng ra nổi vì tính mạng cô mà anh lại vọt ra chả biết từ đâu như thế. Cạnh đó, cuộc tiến công không phải là khó giải thích.
Carl Magnus Lundin Thằng khốn kiếp.
Lundin đã gặp gã khổng lồ mà cô thấy nói chuyện với Bjurman.
Nils Bjurman Thằng đểu.
Cục cứt này đã thuê một thằng đực rựa số dách để hại ta. Và ta sẽ cho nó thấy rõ như pha lê hậu quả là như thế nào.
Salander sôi sục trong lòng. Cô điên lên đến nỗi cô cảm thấy có vị máu ở trong miệng. Bây giờ cô sẽ đi trừng trị hắn.
Chủ nhật, 20 tháng Ba
Đến Ersta và từ Ersta đi là những hành trình ngốn thời gian và phiền toái. Giữa tháng Ba, Salander quyết định mua xe hơi. Bắt đầu là cô phải kiếm chỗ đỗ xe, một vấn đề còn lớn hơn cả việc mua xe nhiều.
Cô có một chỗ trong gara bên dưới tòa nhà ở Mosebacke, nhưng cô không muốn ai đó có thể từ chiếc xe mà lần ra được chỗ cô sống ở Fiskargatan. Mặt khác do thâm niên vài năm ở đây, cô đã được vào danh sách chờ một chỗ để xe ở trong gara của tòa nhà tại Lundagatan mà cô thuê của công ty nhà. Cô gọi để hỏi xem hiện cô đang ở đâu trong danh sách thì được bảo là đang ở trên đầu. Và không chỉ thế - đến cuối tháng sẽ có một ô không mất tiền. Ngon. Cô gọi Mimmi nhờ làm ngay một hợp đồng với công ty cho thuê nhà. Hôm sau cô bắt đầu lùng xe.
Cô có tiền để mua bất cứ Rolls-Royce hay Ferrari nếu muốn nhưng cô không hề thích một thứ gì phô trương. Thay vì vậy, cô đến hai nhà đại lý ở Nacka rồi ra đi với một chiếc Honda tự động bốn năm tuổi màu vang chát. Cô bỏ một giờ ra xem mọi chi tiết, kể cả động cơ, trước vẻ giận dữ của người bán. Theo nguyên tắc, cô mặc cả giá ít hơn hai nghìn đôla và trả tiền ngay.
Rồi cô lái đến Lundagatan, gõ cửa nhà Mimmi cho bạn một bộ chìa khóa xe. Chắc quá rồi, Mimmi có thể dùng xe, nếu hỏi trước. Vì cuối tháng chỗ trong gara mới được sử dụng, hai cô đỗ xe ở ngoài đường.
Mimmi sắp đi tới một cuộc hẹn và xem phim với một bạn gái mà Salander chưa nghe nói đến bao giờ. Do Mimmi phấn son dữ dằn và mặc một bộ đáng sợ nom như cái cổ dề chó ở quanh cổ nên Salander cho rằng đây là một ả ô môi của Mimmi, nên khi Mimmi hỏi cô có muốn cùng đi không thì cô cảm ơn. Cô không hám câu chuyện kết thúc ở một bộ ba cùng với một trong những bạn gái chân dài của Mimmi, đám mà chắc chắn khiêu dâm đến mức khôn lường nhưng lại sẽ làm cho cô thấy mình là đồ nghệt. Đằng nào Salander cũng có việc phải làm trong thành phố cho nên họ cùng đi xe điện ngầm đến Hotorger rồi chia tay.
Đi bộ đến cửa hàng điện tử OnOff trên đường Sveavagen, Salander vừa mua bán xong, còn hai phút thì nó đóng cửa. Cô mua một các tút mực màu cho máy in laser rồi bảo họ lấy ra khỏi hộp để cô có thể cho nó vào ba lô.
Ra khỏi cửa hàng, cô đói và khát. Đi bộ đến Stureplan, cô quyết định vào quán Café Hedon, một nơi cô chưa vào và chưa cả nghe nói tới trước đây. Lập tức nhận ra Nils Bjurman đang quay lưng lại, cô bèn vòng sang bên phải lối vào. Cô đứng gần cửa sổ ngắm cảnh ngoài đường, thò cổ ra để có thể quan sát người giám hộ cô đang ở sau một quầy phục vụ.
Trông thấy Bjurman, Salander không thấy vởn lên cảm giác gì ghê gớm trong người, không giận, không ghét, không sợ. Chừng nào liên quan đến cô mà không có hắn thì thế giới sẽ là nơi tốt đẹp hơn nhưng sở dĩ hắn còn sống là chỉ vì cô đinh ninh hắn sống thì có ích cho cô hơn. Cô nhìn quá tới người đàn ông đối diện Bjurman và mắt cô liền mở to khi hắn đứng dậy.
Hắn là một người to lớn lạ thường, ít nhất cao hai mét và vạm vỡ. Vạm vỡ khác thường, rõ ràng thế. Hắn có một bộ mặt nhu nhược, mái tóc vàng cắt ngắn nhưng bao trùm lên hết tất cả, hắn cho ra một ấn tượng rất hùng mạnh.
Salander thấy người đàn ông nhoài về trước bình thản nói gì đó với Bjurman và Bjurman gật. Họ bắt tay và Salander để ý thấy Bjurman rút vội tay về.
Mày là loại nào đây và mày có công chuyện gì với Bjurman?
Salander đi nhanh xuống phố, dừng lại ở mái hiên một quầy bán thuốc lá. Cô đang xem báo dán trên bảng thì người tóc vàng bước ra ngoài quán Café Hedon rồi rẽ trái không nhòm ngó gì xung quanh. Hắn đi quá Salander nửa mét. Cô để cho hắn đi được mười lăm mét mới theo sau.
Đi không lâu. Người đàn ông xuống thẳng ga xe điện ngầm ở Birger Jarlsgatan, mua vé ở cổng. Cô chờ ở trên ke phía xe điện chạy về nam - hướng này đằng nào Salander cũng sẽ đi - rồi lên đoàn xe Norsborg. Hắn xuống xe điện ở Slussen, đổi hướng đến Farsta ở chỗ đèn xanh đèn đỏ rồi lại xuống xe ở Skanstull. Ở đây hắn đi bộ về quán Café Blomberg trên đường Gorgatan.
Salander đứng lại ở bên ngoài. Cô có thể quan sát người đàn ông mà gã khổng lồ tóc vàng đi đến gặp. Click. Ngay lập tức Salander thấy một chuyện gì ác độc đang diễn ra. Người đàn ông quá béo so với tuổi, mặt hẹp vanh, không thể tin cậy được. Tóc hắn túm lại về sau gáy thành một đuôi ngựa và hắn có một bộ ria màu lông chuột. Hắn mặc jacket bằng vải denim, quần jean đen và bốt đế Cuba. Ở mu tay phải hắn có một hình xăm nhưng Salander không thể mò ra hình vẽ. Hắn đeo dây chuyền vàng ở cổ tay và hút Lucky Strikes. Mắt hắn như bằng thủy tinh, giống mắt một người luôn luôn phê. Salander cũng để ý thấy hắn mặc gilê da ở dưới chiếc jacket. Cô có thể nói hắn là một dân chơi xe máy.
Gã khổng lồ không gọi món gì. Hắn hình như đang cho chỉ thị. Người mặc jacket bằng vải denim chăm chú nghe, không góp chuyện lại. Salander tự nhủ nhớ hôm nào mua cho mình một micro nghe trộm.
Chỉ năm phút sau, gã không lồ rời Café Blomberg. Salander lui lại mấy bước nhưng gã chả nhìn gì về hướng cô. Hắn đi bốn chục mét đến các bậc tam cấp lên Allhelgonagatan, đến đây hắn vào một chiếc Volvo trắng. Salander đã cố đọc được biển số xe trước khi hắn rẽ ở góc phố sau.
Salander quay vội trở lại Blomberg nhưng ở chỗ bàn ấy không còn ai. Cô nhìn ngược xuôi con phố nhưng không thấy người tóc đuôi ngựa. Rồi cô bất chợt thấy hắn qua đường mở cửa nhà hàng McDonalc’s.
Cô phải vào trong tìm lại hắn. Hắn ngồi với một người đàn ông khác mặc một chiếc gilê ở bên ngoài jacket. Salander đọc dòng chữ trên gilê: CLBXM SVAVELSJO. Hình logo là một bánh xe máy cách điệu hóa nom giống một chữ thập Celtic với một cái búa rìu.
Cô đứng một lúc ở Gorgatan rồi đi lên mạn bắc. Linh tính bảo rằng cô cần phải cảnh giác cao độ.
Salander dừng lại ở 7-Eleven mua thức ăn dùng cho cả tuần: một bịch cỡ đại pan pizza hiệu Billy, ba xoong cá đông lạnh, ba bánh patê thịt ba chỉ, một kilô táo, hai bánh mì gối, nửa kilô pho mát, sữa, cà phê, một tút Marlboro Nhẹ và báo chiều. Cô đi bộ lên Svartensgatan đến Mosebacke, nhìn quanh rồi đấm vào mã hiệu cửa tòa nhà cô ở. Cô để một bánh patê thịt ba chỉ vào lò vi sóng, uống sữa thẳng từ hộp giấy. Cô bấm chạy máy pha cà phê rồi mở máy tính, click Asphyxia 1.3, vào bản sao ổ cứng của Bjurman. Cô bỏ nửa giờ sau đó vào xem hết các nội dung của máy tính hắn.
Cô tuyệt đối không tìm thấy một thứ gì đáng chú ý. Hình như hắn ít dùng máy tính; cô chỉ thấy một chục thư riêng ngắn ngủi nhận hay gửi đi cho bạn bè. Không thư điện tử nào dính dáng đến cô.
Cô tìm thấy một thư mục mới tạo gồm các ảnh khiêu dâm cho thấy hắn vẫn thú thói bạo dâm làm nhục phụ nữ. Ngặt nghèo mà nói, hắn không vi phạm quy tắc của cô nhưng vẫn cứ là có cái gì đó liên quan đến phụ nữ.
Cô mở thư mục tài liệu nói đến vai trò Bjurman là người giám hộ Salander, đọc kỹ từng báo cáo mỗi tháng của hắn. Chúng ứng chính xác với các bản sao mà hắn gửi cho một trong những địa chỉ hotmail của cô.
Mọi sự bình thường.
Có thể một chệch choạc nho nhỏ... Khi cô kiểm tra đặc tính các tệp Word lưu các báo cáo hàng tháng, cô có thể thấy hắn thường quen viết báo cáo vào mấy ngày đầu của mỗi tháng, hắn bỏ ra chừng bốn tiếng đồng hồ in từng bản báo cáo rồi gửi đúng hạn cho Sở Giám hộ vào ngày mười hai mỗi tháng. Nay là giữa tháng Ba mà hắn chưa bắt tay viết báo cáo tháng Ba. Lười ư? Ra nước ngoài về quá muộn? Bận việc gì đó khác? Định giở mánh nào đó chăng? Salander cau mày.
Cô tắt máy tính, ngồi lên ghế cửa sổ, mở hộp thuốc lá. Cô châm một điếu nhìn ra bóng đêm. Cô đã lỏng tay theo dõi hành tung hắn.
Hắn trơn tuột như lươn.
Cô thật sự khó chịu. Thứ nhất là Blomkvist Nhắng, thứ đến tên Zala rồi bây giờ Nils Bịurman Đồ Sâu bọ Ba láp cùng với một thằng đực rựa đầu bảng về ma túy có liên hệ với một băng nhóm nào đó của dân chơi xe máy trước đây. Trong ít ngày, một vài gợn sóng bất an đã hiện lên cụ thể trong đời sống ngăn nắp mà Salander cố tạo ra cho mình.
2 giờ rưỡi sáng, Salander tra chìa khóa vào cửa trước của tòa cao ốc trên đường Upplandsgatan gần Odenplan, nơi Bjurman sống. Cô dừng lại ngoài cửa nhà hắn, thận trọng mở nắp thùng thư, nhét vào một chiếc micro cực kỳ thính nhạy cô mua ở cửa hàng Phản gián ở Mayfair tại London. Cô chưa nghe nói đến Ebbe Carlsson nhưng nó là cửa hàng mà ông ta đã mua thiết bị nghe trộm, cái thiết bị từng làm cho Bộ trưởng Tư pháp Thụy Điển phải đột ngột từ hồi chức cuối những năm 80. Salander nhét loa nghe vào tai rồi điều chỉnh âm lượng.
Cô có thể nghe thấy tiếng rù rì âm âm của chiếc tủ lạnh và tiếng tích tắc đanh gọn của ít nhất hai chiếc đồng hồ, một là chiếc treo tường ở phòng khách bên trái cửa ra vào. Cô vặn to âm lượng lên nghe, nín thở. Cô nghe thấy mọi thứ cót két, lục bục ở trong căn nhà nhưng dấu hiệu về có người đang hoạt động thì không. Cô mất một phút mới để ý thấy và nhận ra âm thanh yếu ớt của tiếng thở nặng, đều.
Bjurman đang ngủ.
Cô rút micro ra nhét vào túi trong của chiếc jacket da. Cô mặc jean sẫm màu, giầy thể thao đế kếp. Cô lùa chìa im như không vào lỗ khóa, đẩy cửa ra không một tiếng kẹt. Trước khi mở cửa, cô lấy khẩu súng bắn điện trong túi ra. Cô không mang theo vũ khí nào khác. Cô nghĩ xử lý với Bjurman thì không cần đem theo một thứ gì khác mạnh hơn.
Đóng cửa lại ở đằng sau, cô đi tới hành lang ở bên ngoài phòng ngủ của hắn. Nhìn thấy ánh đèn, cô dừng lại, nhưng từ chỗ cô đứng đã có thể nghe thấy tiếng hắn ngáy. Cô lẻn vào phòng ngủ của hắn. Ngọn đèn đặt trên cửa sổ. Có chuyện gì thế, Bjurman? Có tí ti sợ đêm tối hả?
Cô đứng bên giường hắn, nhìn hắn một lúc. Hắn già đi và có vẻ so súi. Gian phòng sực mùi đàn ông không chú ý vệ sinh.
Cô không cảm thấy một chút thương hại nào. Trong chớp nhoáng, một thoáng thù hận lóe lên trong mắt cô. Thấy một cốc nước ở trên bàn ngủ, cô cúi xuống hít. Whisky.
Một lúc sau, cô rời phòng ngủ. Cô làm một vòng ngắn quanh bếp, không thấy cái gì lạ, tiếp tục đi sang phòng khách và dừng lại ở cửa phòng làm việc của Bjurman. Cô lấy ở trong túi jacket ra một nắm mẩu nhỏ bánh mì khô rồi cẩn thận đặt chúng lên sàn trong chỗ tối. Nếu có ai toan theo cô qua phòng khách thì tiếng bánh mì bị nghiền vỡ sẽ báo động cô.
Cô ngồi vào bàn làm việc của Bjurman, để khẩu súng bắn điện trước mặt. Cô tìm kỹ các ngăn kéo, đọc hết thư từ liên quan đến các tài khoản riêng của Bjurman. Cô nhận thấy hắn trở nên cẩu thả hơn và không thường xuyên cân đối các tài khoản của hắn hơn.
Ngăn kéo cuối cùng của bàn làm việc bị khóa. Salander cau mày. Năm ngoái cô đến, các ngăn kéo đều không khóa. Mắt cô vẫn không tập trung khi cô nhìn xem nội dung các ngăn kéo. Có một camera, một máy ảnh chụp xa, một máy ghi âm đút túi hiệu Olympus, một album ảnh bìa da và một hộp các dây chuyền, nữ trang, một nhẫn vàng đề chữ Tilda và Jacob Bjurman. 23 tháng tư 1951. Salander biết đây là tên bố mẹ hắn và cả hai đều đã chết. Cho rằng đây là một nhẫn cưới, nay làm vật lưu niệm.
Vậy hắn khóa lại những thứ hắn cho là có giá trị.
Cô xem xét cái tủ có cửa cuốn lên xuống ở đằng sau bàn làm việc, lấy ra hai cặp ba dây đựng các báo cáo của hắn về quá trình giám hộ của cô. Cô đọc từng bản một trong mười lăm phút. Salander là một cô gái trẻ vui tính và cần cù. Bốn tháng trước hắn đã viết xem liệu cô đã có đủ lý trí và bản lĩnh đến mức trở thành lý do thảo luận cho cuộc xét duyệt hàng năm sắp tới về việc có còn cần người giám hộ nữa hay thôi. Nó đã được viết thành câu cú lịch sự và dẫn tới nền móng đầu tiên cho việc xóa bỏ cho cô tuyên bố không tự cai quản được bản thân.
Cái cặp ba dây cũng đựng những ghi chép viết tay cho thấy Bjurman đã tiếp xúc với một Ulrika von Liebenstaahl ở Sở Giám hộ, nói tới một cuộc thảo luận chung về tình trạng của Salander. Những chữ “sự cần thiết cho sự đánh giá về bệnh tâm thần” đã được gạch dưới.
Salander bĩu môi, đặt lại các cặp ba dây rồi nhìn quanh.
Cô không tìm thấy được một ghi chép nào. Có vẻ Bjurman làm đúng theo các chỉ thị của cô. Cô cắn môi dưới. Cô vẫn có cảm giác về một cái gì đó không ổn.
Cô đứng lên khỏi ghế, sắp tắt đèn bàn làm việc thì dừng lại. Cô lại lấy các cặp ba dây ra xem kỹ lại một lần nữa. Cô phân vân. Các cặp ba dây phải đựng nhiều hơn thế này. Năm ngoái đã có một bản sơ yếu của Sở Giám hộ về quá trình phát triển của cô từ tuổi thơ ấu. Cái đó nay mất. Tại sao Bjurman lấy các giấy tờ ra khỏi một vụ hiện hành? Cô cau mày. Cô không nghĩ ra được lý do nào thỏa đáng. Trừ phi hắn đang sắp xếp tư liệu có thêm ở một chỗ nào đó. Mắt cô quét một lượt qua các ngăn giá của chiếc tủ cửa cuốn lên xuống và đẩy ngăn kéo dưới cùng của bàn làm việc.
Cô không mang theo cái móc nạy ổ khóa cho nên phải rón rén quay lại phòng ngủ của Bjurman, câu lấy chùm chìa khóa ra khỏi túi áo jacket hắn treo trên cây mắc mũ áo bằng gỗ. Đồ vật trong ngăn kéo này vẫn giống như năm ngoái. Nhưng bộ sưu tập đã có thêm một cái hộp dẹt, hình minh họa in ở ngoài hộp cho thấy là một khẩu súng Colt.45 Magnum.
Cô nghĩ lại cuộc nghiên cứu cô làm về Bjurman hai năm trước Hắn thích bắn và là thành viên một câu lạc bộ bắn súng. Theo danh bạ đăng ký vũ khí công cộng thì hắn có bằng sở hữu một súng Colt.45 Magnum.
Ngần ngừ cô đi tới kết luận rằng chẳng có gì ngạc nhiên trong việc hắn khóa ngăn kéo cuối cùng lại.
Cô không thích tình hình này nhưng trước mắt cô không nghĩ ra được lý do nào để đánh thức Bjurman dậy, dọa cho hắn một trận sợ vãi linh hồn.
Johansson dậy lúc 6 rưỡi sáng. Cô xem tivi sáng với âm lượng thấp ở trong phòng khách và ngửi mùi cà phê mới pha. Cô cũng nghe thấy tiếng phím máy tính iBook của Svensson lách cách. Cô mỉm cười.
Cô chưa từng thấy anh làm việc cho một bài báo căng như thế bao giờ. Millennium là một nước đi hay. Anh thường buồn vì chuyện ngáng chân của giới viết lách nhưng hình như quàng vào với Blomkvist, Berger và những người khác thì đã có một kết quả bổ ích cho anh. Anh thường về nhà rạng rỡ sau khi Blomkvist chỉ ra những thiếu sót hay bẻ gẫy một lập luận nào đó của anh. Rồi anh làm việc hăng lên gấp đôi.
Cô nghĩ thầm liệu có nên bắt anh ngừng tập trung suy nghĩ lúc này không. Kinh nguyệt của cô đã chậm ba tuần. Cô chưa khám thai. Có lẽ là lúc rồi đấy.
Cô sắp ba mươi tuổi. Chưa đầy một tháng nữa cô bảo vệ luận án. Tiến sĩ Johansson. Cô lại mỉm cười và quyết định mình chưa có chắc thì chưa nói gì với Svensson. Có lẽ cô sẽ chờ cho đến khi nào anh xong quyển sách và sau bảo vệ cô mở một buổi liên hoan.
Lơ mơ ngủ chừng hơn mười phút rồi cô đứng dậy đi vào phòng khách, người quấn trong một mảnh khăn.
- Blomkvist lại làm một chuyện giỏi.
- Anh ấy có ý nghĩa gì với anh? Phục vụ anh tốt. Mến anh, đúng không?
Svensson ngả người vào chiếc sofa trong phòng khách và bắt gặp mắt cô. Một lúc sau anh gật đầu.
- Millennium là một nơi làm việc nhất đấy. Anh đã nói với Mikael ở Kvarnen trước lúc em đến đón anh đêm qua. Anh ấy hỏi anh sẽ làm gì sau khi xong quyển sách này.
- Ái chà. Anh bảo sao?
- Bảo là anh không biết. Là một người viết tự do trong rất nhiều năm nay anh cứ bám quanh bám quẩn. Anh vui với một việc gì đó bền chắc hơn.
- Millennium.
Anh gật.
- Mikael đã thăm dò và muốn biết liệu anh có hứng thú với một công việc bán thời gian không. Giống như hợp đồng hiện nay của Henry Cortez và Lottie Karem. Anh sẽ có một bàn làm việc và một món tiền ứng trước ở Millennium và có thể nhận được sự ủng hộ ở bên cạnh.
- Anh có thích làm thế không?
- Nếu họ đi đến mời cụ thể, anh sẽ nói đồng ý.
- Nhưng chưa đến 7 giờ và hôm nay là thứ Bảy.
- Anh biết, anh vừa nghĩ là sẽ trau chuốt cho chỗ này chỗ kia một ít.
- Em nghĩ anh nên về giường mà trau chuốt cho một cái khác.
Vén một góc mảnh khăn lên, cô cười với anh. Anh chuyển máy tính sang chế độ nghỉ.
Ít ngày sau Salander bỏ nhiều thì giờ ra tìm tòi trong máy tính PowerBook. Cô tìm tòi rộng sang nhiều hướng nhưng vẫn không cầm chắc mình đang lùng kiếm cái gì. Từ sự việc Salander suy luận ra được một số cái đơn giản. Từ Lưu trữ Hồ sơ Media Archive, cô ghép nên lịch sử của Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo. Câu lạc bộ IU xuất hiện trong các bài báo với cái tên Những người cưỡi xe máy Talje Hog. Cảnh sát đã đột nhập trụ sở câu lạc bộ lúc ấy đóng ở một trường học bỏ không bên ngoài Sodertalje, do hàng xóm báo cáo nghe thấy tiếng súng nổ. Đưa đến một lực lượng đông lạ lùng, cảnh sát đã phá một cuộc liên hoan lũ lõa bia mà cuối cùng thoái hóa thành một trận thi bắn súng AK-4, những súng này té ra là súng ăn cắp của trung đoàn 120 ở Vasterbotten bị giải thể đầu những năm 80.
Theo một tờ báo chiều, Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo có dăm bảy thành viên và một tá kẻ bấu sấu kiếm chác. Tất cả các thành viên chính thức đều bị tù. Hai người nổi bật. Trưởng câu lạc bộ là Carl - Magnus (hay “Magge”) Lundin, người được tờ Aftonbladet đưa ảnh khi cảnh sát đột nhập nơi này năm 2001. Hắn bị kết án năm vụ ăn cắp, nhận đồ ăn cắp và vi phạm ma túy cuối những năm 80, đầu những năm 90. Một trong những bản nghị án - cho một vụ hình sự liên quan đến xâm phạm thân thể nghiêm trọng - đưa hắn đi mười tám tháng. Năm 1995 hắn được tha và ngay sau đó trở thành chủ tịch của Hội Những người cưỡi xe máy Talje Hog, nay là Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo.
Theo cảnh sát chống băng nhóm, số hai của câu lạc bộ là Sonny Nieminen, năm nay ba mươi bảy tuổi, tên này bị kết án không dưới hai mươi ba lần. Hắn bắt đầu sự nghiệp tội ác ở tuổi mười sáu, lúc ấy hắn đã chịu chế độ thử thách và vào trại cải tạo vì đánh người, hành hung và ăn cắp. Trong mười năm sau, hắn bị kết án về năm vụ ăn cắp, một vụ ăn cắp có tình tiết nặng, hai vụ đe dọa phi pháp, hai vụ vi phạm ma túy, trấn lột tiền của, công kích một viên chức dân sự, hai lần buộc tội sở hữu phi pháp vũ khí, một tố cáo dùng vũ khí gây án, lái xe khi say rượu và sáu lần bị buộc tội đánh người chung chung. Hắn đã bị tuyên án theo một thang bậc Salander khó lòng hiểu nổi: thử thách cải tạo, phạt tiền, liên tiếp bị giữ trong tù từ ba mươi đến sáu mươi ngày, cho tới 1989 khi hắn bị đưa đi mười tháng vì tội hành hung gây tổn hại nghiêm trọng và đột nhập ăn trộm. Vài tháng sau ra tù, hắn giữ sạch sẽ được cho tới tháng Mười 1990. Rồi hắn tham gia vụ đánh nhau trong một quán bar tại Sodertalje và kết thúc với một lời buộc tội giết người và một tuyên án sáu năm tù. 1995 hắn ra tù.
Năm 1996 hắn bị bắt vì là đồng bọn trong một vụ cướp có vũ khí. Hắn đã khai ra ba trong bốn tên cướp có vũ khí. Hắn bị tuyên án bốn năm tù và được tha năm 1999. Theo một bài báo từ 2001 mà Nieminen không bị nêu tên ra - nhưng qua những chi tiết trong bài báo về kẻ nghi can người ta dễ nhận ra là hắn - hắn xem ra đã góp phần vào vụ giết một thành viên của một băng nhóm đối địch.
Salander tải các ảnh căn cước của Nieminen và Lundin xuống. Nieminen có bộ mặt ăn ảnh, mái tóc quăn sẫm màu và đôi mắt nguy hiểm. Lundin trông hệt một thằng ngu đặc và rõ ràng hắn là người đã gặp gã khổng lồ ở quán Café Blomberg. Nieminen là người chờ ở McDonalc’s.
Qua danh bạ đăng ký xe quốc gia, cô mò ra chiếc Volvo trắng là của hãng cho thuê xe Auto - Expert ở Eskilstuna. Cô bấm số gọi họ rồi nói với một Refik Alba nào đó:
- Tôi là Gunilla Hansson. Hôm qua con chó của tôi bị một người lái xe cán chết rồi bỏ đi. Kẻ tầm bậy ấy lái một xe của hãng ông - tôi có thể nói số xe. Một Volvo trắng. - Cô cho số xe.
- Tôi rất lấy làm tiếc.
- Tôi sợ như thế chưa đủ đâu. Tôi muốn tên người lái để tôi có thể kiện.
- Cô đã báo cảnh sát việc này chưa?
- Không, tôi muốn giải quyết trực tiếp.
- Tôi xin lỗi nhưng tôi không thể cho tên khách hàng của chúng tôi trừ phi đã có biên bản của cảnh sát.
Giọng của Salander tối sầm lại. Cô hỏi nay bắt cô báo cáo khách của công ty với cảnh sát hay giải quyết câu chuyện đơn giản hơn thì đằng nào hay. Refik Alba xin lỗi một lần nữa nhưng nhắc lại là ông ta không có quyền phá vỡ quy định của công ty.
Cái tên Zala lại là một tắc tị khác. Với hai tảng to tướng pan pizza hiệu Billy, Salander tiêu tốn phần lớn ngày hôm ấy bên máy tính với một chai Coca Cola lít rưỡi làm bạn.Cô tìm thấy cả trăm Zala - từ một lực sĩ Ý đến một nhà soạn nhạc Argentina. Nhưng cô không tìm ra người mà cô cần. Cô thử tìm Zalachenko nhưng cũng lại tắc tị. Thất vọng, cô lăn kềnh ra giường ngủ thẳng một mạch mười hai tiếng. Cô tỉnh dậy thì đã 11 giờ sáng. Cô đặt một ít cà phê rồi chạy vào bồn tắm. Cô rót bột tạo bọt vào bồn rồi mang cà phê cùng sandwich vào bồn tắm. Cô mong có Mimmi ở bên lúc này nhưng cô vẫn chưa bảo bạn biết chỗ ở của mình.
Trưa cô ra khỏi bồn tắm, lau khô người, mặc áo khoác trong nhà vào. Cô lại mở máy tính.
Các tên Dag Svensson và Mia Johansson mang lại được những kết quả tốt hơn. Qua công cụ tìm kiếm của Google, cô có thể mau chóng gộp lại một bản tóm lược ngắn về các việc họ đã làm trong những năm gần đây. Cô tải xuống các bản sao vài bài báo của Svensson và tìm thấy một loạt ảnh chụp của anh. Không ngạc nhiên lắm khi nhận ra anh là người cô thấy ngồi với Blomkvist ở Kavarna. Cái tên đã được cho một bộ mặt và ngược lại, một bộ mặt đã có tên.
Cô tìm thấy vài bài viết về Mia Johansson hay do Johansson viết. Lần đầu tiên Mia được thông tin đại chúng chú ý đến là do một tường trình của cô về thái độ phân biệt trong đối xử với đàn ông và phụ nữ nằm ở trong tay pháp luật. Đã có một số lượng xã luận và bài báo trong mục thư bạn đọc của các tổ chức phụ nữ. Bản thân Johansson cũng đã viết thêm vài bài báo. Salander đọc chăm chú. Một số nhà hoạt động phụ nữ thấy các kết luận của Johansson có ý nghĩa, một số lại phê bình cô “cho các ảo tưởng tư sản lan tràn đi”.
2 giờ chiều, cô vào Asphyxia 1.3 nhưng thay vì MikBlom/laptop, cô chọn MikBlom/cơ quan, máy tính của Blomkvist ở Millennium. Bằng kinh nghiệm cô biết máy tính cơ quan của anh khó chứa đựng một cái gì thú vị. Ngoài việc thỉnh thoảng anh dùng nó để lướt Net, anh gần như chuyên làm việc trên iBook. Nhưng anh có quyền của người quản trị đối với tất cả cơ quan Millennium. Cô mau chóng tìm thấy điều cô tìm; mật khẩu vào mạng lưới nội bộ của Millennium.
Để vào các máy tính khác ở Millennium, ổ cứng bản sao trên máy chủ tại Hà Lan là không đủ. Máy gốc của MikBlom/cơ quan phải mở và kết nối với mạng máy tính nội bộ. Cô gặp may. Có vẻ Blomkvist đang làm việc và có hiện ra màn hình nền. Cô chờ mười phút nhưng không thấy một dấu hiệu hoạt động nào, cô đồ chừng là khi vào văn phòng anh đã mở máy và lướt Net rồi để nó tiếp tục chạy trong khi anh làm việc gì khác hay dùng máy tính mang theo người của anh.
Việc dò xem này đã được làm cẩn thận. Giờ tiếp sau đó Salander thận trọng “chui” từ máy tính này sang máy tính khác và tải xuống thư điện tử của Berger, Malm, và một nhân viên mà tên nghe lạ với cô, Malin Eriksson. Cuối cùng cô xác định được màn hình nền của Svensson. Theo như thông tin hệ thống thì nó là một Macintosh PowerPC cũ với một ổ cứng chỉ có 750 MB, cho nên nó phải là một bộ phận thừa, chắc là chỉ được những người viết tự do thi thoảng dùng đến trong việc xử lý văn bản. Nó được gắn với một mạng lưới máy tính, có nghĩa là Svensson ngay lúc này đang ở trong các phòng biên tập của Millennium. Cô tải email của anh xuống rồi tìm ổ cứng của anh. Cô mò thấy một thư mục mang cái tên ngắn ngủn nhưng ngọt ngào .
Hắn dớ được tới đúng 203.000 curon tiền mặt, một món tiền lớn không ngờ cho ba kilô methamphetamine mà hắn giao cho Lundin cuối tháng Giêng. Đó là một món lợi gọn ghẽ cho vài giờ làm một việc thừa hành - nhận meth của người đưa thư cất giữ một thời gian, giao cho Lundin rồi lĩnh 50 phần trăm tiền lời. Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo có thể nhận được món tiền này hàng tháng và băng nhóm của Lundin chỉ là một trong ba khâu thao tác như thế - hai khâu kia là ở quanh quẩn Goteborg và Malmo. Các băng nhóm cùng nhau mang lại cho hắn mỗi tháng gần nửa triệu curon tiền lời.
Vậy mà tâm trạng hắn lại đang tồi tệ đến nỗi hắn cho xe vào vệ đường và tắt máy. Ba mươi giờ qua hắn không ngủ, cảm thấy người lơ ma lơ mơ. Hắn ra khỏi xe duỗi chân và đái. Đêm lạnh và sao sáng. Hắn không còn xa Jarna.
Về bản chất, cơn xung đột hắn hiện đang trải qua nó gần như có tính ý thức hệ. Việc cung cấp tiềm năng methamphetamine là vô hạn trong bán kính bốn trăm cây số kể từ Stockholm. Yêu cầu thì không thể chối cãi được là lớn rồi. Phần còn lại là chuyện hậu cần - chở sản phẩm từ điểm A đến điểm B như thế nào hay để cho chính xác hơn, từ một xưởng dưới hầm ở Tallinn đến Cảng Tự do ở Stockholm như thế nào.
Đây là một vấn đề thường trở lại - bảo đảm làm sao cho việc chuyên chở từ Estonia đến Thụy Điển được đều đặn? Thật ra đây là vấn đề chủ yếu nhưng mối liên lạc thì lại yếu do mấy năm sau hắn luôn chỉ làm lụng tùy hứng. Và mới đây mọi sự bát nháo cũng nhiều ra. Hắn tự hào về khả năng tổ chức của hắn. Hắn đã dựng lên một mạng lưới chạy trơn như bôi dầu và được vun xới bằng các suất cà rốt và gậy tương đương nhau. Hắn là người làm cái công việc đòi hỏi phải đi tới đi lui, gắn kết các đối tác, thương lượng các vụ làm ăn và đảm bảo cho việc cung cấp đến đúng địa chỉ.
Cà rốt là lợi ích cấp cho các đầu mối phụ như Lundin - một món lợi vững chắc và tương đối không bị rủi ro. Hệ thống thì tốt. Lundin không phải động đến một ngón tay mà vẫn nhận được hàng - không phải có các chuyến đi bán căng thẳng hay giải quyết việc với những người có thể là một đứa nào đó ở đội chống ma túy hay ở mafia Nga. Lundin biết gã khổng lồ sẽ giao hàng rồi nhận 50 phần trăm của gã.
Cái gậy là để cho khi nào các trò rắc rối nổi lên. Một đứa bán lẻ trên đường mồm mép ba hoa, kẻ tìm ra quá nhiều điều về dây chuyền cung cấp đã suýt gây lụy cho Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo. Hắn đã buộc phải dính tay vào trừng phạt kẻ đó.
Hắn xử lý tốt chuyện trừng phạt.
Nhưng tác chiến đang trở nên quá phiền toái để cho hắn phái giám sát đến.
Hắn châm một điều thuốc, duỗi chân lên một cái cổng ở trong cánh đồng.
Methamphetamine là một nguồn thu nhập kín đáo và dễ quản lý - lời to, rủi nhỏ. Vũ khí là dễ bị rủi ro và mưu tính đến cả chuyện rủi ro thì đơn giản không phải là làm ăn tốt.
Thi thoảng làm gián điệp công nghiệp hay đưa lậu linh kiện điện tử sang đông Âu - tuy mấy năm gần đây thị trường đã bị rơi rụng - những việc ấy thì còn bào chữa được.
Mặt khác, điếm ở các nước vùng Baltic là một đầu tư hoàn toàn không được hài lòng. Kinh doanh này là thứ tiền lẻ còm, nó có khả năng xới lên bất cứ lúc nào những bài báo, những bài diễn văn nhạt nhẽo lê thê trên báo đài và ở cả các cuộc thảo luận bên trong cái thực thể chính trị kỳ quái người ta gọi là Quốc hội Thụy Điển. Cái dấu dương cho chuyện điếm là ai ai cũng thích điếm - công tố viên, thẩm phán, cảnh sát, thậm chí thỉnh thoảng cả đại biểu quốc hội. Không ai sẽ đi đào sâu nhiều vào đây để đánh sập cái nghề này xuống đâu.
Ngay một cô điếm chết cũng không tất yếu gây nên những cuộc cãi vã chính trị om sòm. Nếu trong vòng vài giờ cảnh sát bắt được một nghi phạm vẫn còn vết máu trên quần áo thì sẽ có xét xử tiếp theo và kẻ giết người sẽ ngồi tù mấy năm hoặc ngồi trong một trại giáo dưỡng mù mờ nào đó. Nhưng theo kinh nghiệm của hắn, nếu trong vòng bốn mươi tám tiếng mà không mò ra nghi phạm thì cảnh sát sẽ đủ mau lẹ tìm ra ngay những món quan trọng hơn thế để điều tra.
Nhưng hắn không thích buôn bán băng gái điếm. Hắn không thích tí nào hết bọn gái điếm, không thích những bộ mặt phấn son dầy cộp, tiếng rên hú và tiếng cười say xỉn rượu của họ. Họ không sạch. Và luôn có nguy cơ là một đứa sẽ nảy ra ý rằng ả có thể tìm được nơi trú thân hay sẽ bắt đầu ba hoa chích chòe với cảnh sát hay nhà báo. Lúc ấy hắn sẽ phải tự tay nắm lấy sự tình và ban phát trừng phạt. Và nếu việc tiết lộ ra mà lại đủ ầm ĩ thì công tố viên, cảnh sát sẽ bị buộc phải hành động - nếu không Quốc hội sẽ thực sự tỉnh dậy và chú ý. Nghề điếm nó cuốn hút.
Atho và Harry Ranta là điển hình: hai đứa ăn bám vô dụng đã tìm ra được quá nhiều mánh về nghề này. Trước hết hắn muốn quấn xích quanh người hai đứa rồi dìm xuống cảng. Thay vì vậy, hắn lại cho hai đứa lên phà đi Estonia rồi kiên nhẫn chờ cho tới khi phà nhổ neo. Chuyến đi nghỉ của hai đứa là kết quả của một tên phóng viên chết giấp thọc mũi vào công việc của chúng và hắn đã quyết định tốt nhất là cho hai đứa té biệt.
Hắn thở dài.
Trên hết hắn không thú những trò làm thêm như với cô gái Salander kia. Với riêng bản thân hắn thì rõ ràng cô gái chả có gì đáng phải quan tâm. Cô không là một thứ lợi lộc nào hết. Hắn không thích Bjurman, hắn không thể tưởng tượng ra tại sao chúng lại quyết định làm cái việc mà Bjurman yêu cầu chúng làm. Nhưng nay quả bóng đã lăn. Chỉ thị đã cho ra, bản hợp đồng đã được tặng cho một thằng làm việc tự do ở Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo và cả cái tình huống này hắn cũng không thích một chút nào.
Hắn nhìn qua cánh đồng tối, ném đầu mẩu thuốc lá vào lớp sỏi cạnh cổng. Hắn nghĩ qua khóe mắt hắn thấy có động đậy và hắn lạnh cứng người lại. Hắn chăm chú nhìn. Không có ánh sáng trừ một mảnh trăng lưỡi liềm nhợt nhạt và các ngôi sao, nhưng hắn vẫn có thể cho hắn thấy lại hình thù một người đen ngòm đang bò đến phía hắn, cách chừng ba chục mét. Người ấy tiến đến, thỉnh thoảng dừng lại chút ít.
Hắn thấy mồ hôi lạnh toát ra ở chân mày. Hắn ghét cái vật ở trong cánh đồng kia. Hắn đứng một lúc như tê liệt, nhìn chằm chằm như bị hút vào cái vật vẫn đang không ngừng tiến đến. Khi nó đến gần đủ cho hắn nhìn thấy mắt nó loe lóe trong bóng đêm, hắn quay ngoắt lại chạy đến xe hơi. Hắn giật toang cửa. Hắn càng thấy hoảng loạn hơn cho tới khi hắn khởi động được máy và bật đèn đầu xe. Vật kia đã ra ngoài đường đứng và cuối cùng lúc này trong chùm ánh sáng đèn, hắn mới nhận rõ ra được hình nét của nó. Hắn thấy nó giống như một con cá đuối đang trượt trôi đi. Nó có một cái ngòi giống như bọ cạp.
Thế giới không có vật này. Nó là ma quái của thế giới ngầm dưới đất.
Hắn vào số xe và rít bánh phóng đi. Khi qua con vật kia hắn thấy nó mổ nhưng không trúng. Hắn không dừng lại, suốt mấy dặm cứ lẩy bẩy run hoài.
Salander bỏ cả đêm xem hết nghiên cứu mà Svensson và Millennium đã thu thập được về buôn bán tính dục. Dần dần cô đã có một cái nhìn chung hay hay, ngay dù nó có dựa trên các mảng vụn khó hiểu mà cô đã lắp lại với nhau từ những tư liệu đa dạng.
Berger gửi một thư điện cho Blomkvist hỏi việc đối chất ra sao; anh đáp lại cụt lủn rằng họ không thể lần theo người đàn ông này từ Cheka cho đến mặt đất. Salander hiểu như thế có nghĩa là một trong những kẻ sắp bị ra tòa nhận tội đã làm việc ở Sapo, Cảnh sát An ninh. Eriksson gửi cho Blomkvist và Berger tóm tắt về một nhiệm vụ điều tra phụ giao cho Svensson. Blomkvist và Berger đáp lại có kèm cả bình luận và gợi ý. Blomkvist và Svensson nên ngày ngày trao đổi email cho nhau vài lần. Svensson tả lại một đối chất anh đã làm với một nhà báo, Per - Ake Sandstrom.
Từ email của Svensson cô thấy anh đang liên hệ với một người có tên là Gulbrandsen ở một địa chỉ Yahoo. Phải một lúc cô mới nhận ra Gulrandsen là một viên cảnh sát và thư trao đổi giữa hai người là không có sao lưu, dùng một địa chỉ thư điện tử cá nhân thay vì địa chỉ cảnh sát của Gulbrandsen. Vậy thì Gulbrandsen là một nguồn cấp tin.
Thư mục có tên ngắn đến phát thất vọng, chỉ ba tư liệu Word. Cái dài nhất, chỉ 128 KB được gọi là [Irina P.], cho ra một phác thảo cuộc đời một cô điếm, tiếp theo có một bản tóm lược của Svensson về bản báo cáo giải phẫu, vài nét tả sơ sài của anh về các vết thương kinh khủng của cô gái.
Cô nhận ra một câu trong bài viết là trích dẫn nguyên văn bản luận án của Johansson. Trong luận án, cô gái được gọi là Tamara nhưng Irina và Tamara chắc là một người nên cô đọc rất thú vị phần phỏng vấn trong bản luận án.
Tư liệu thứ hai [Sandstrom] gồm bản tóm lược Svensson đã gửi cho Blomkvist, cho thấy rằng tay nhà báo này là một trong mấy đứa chăn dắt gái từng lạm dụng một cô gái người vùng Baltic và hắn cũng chạy các việc vặt cho mafia tính dục rồi được trả công bằng ma túy hay gái. Ngoài viết cho hộp thư bạn đọc của công ty, Sandstrom còn viết với tư cách tự do cho một nhật báo những bài báo bất bình lên án nghề buôn bán tính dục. Một trong các tiết lộ của hắn là nhà kinh doanh Thụy Điển không bị nêu tên đã đến một nhà thổ ở Tailinn. Zala không được nhắc đến trong cả hai tư liệu, nhưng Salander cho rằng do cả hai tư liệu đều ở trong một thư mục vậy thì chắc phải có một quan hệ. Nhưng tư liệu cuối cùng lại có tên . Nó ngắn và chỉ là ghi chép.
Theo Svensson, từ giữa những năm 90, cái tên Zala đã xuất hiện trong chín vụ liên quan đến ma túy, vũ khí hay bán dâm. Không ai biết Zala là ai nhưng các nguồn tin đã chỉ ra mỗi phía một phách rằng hắn là một người Serbia, một người Ba Lan hay có lẽ một người Czech. Tất cả các thông tin đều là nghe sang tai.
Svensson đã thảo luận triệt để với nguồn G (Gulbrandsen) và gợi ý rằng Zala có thể đã phụ trách việc giết Irina P. Không thấy nói G nghĩ thế nào về lý luận này nhưng có một ghi chép hàm ý rằng một năm trước Zala đã được đưa vào chương trình nghị sự tại một cuộc M họp “với nhóm điều tra đặc biệt về tội phạm có tổ chức”. Cái tên này nổi lên nhiều lần quá đến nỗi cảnh sát đã bắt đầu đặt câu hỏi, cố xác lập xem liệu Zala có thật hay không và liệu có còn sống hay không.
Theo như Svensson phát hiện thì cái tên Zala xuất hiện lần đầu tiên là dính líu đến một vụ trấn lột một chiếc xe tải nhỏ của bảo hiểm ở Orkelljunga năm 1966. Các tên cướp đã lấy đi hơn 3,3 triệu curon nhưng chúng tổ chức cuộc trốn chạy vụng về cho nên chỉ hai mươi tư giờ sau cảnh sát đã có thể nhận diện được bọn chúng và bắt các thành viên của băng cướp. Ngày hôm sau lại một vụ bắt nữa. Đó là Nieminen, một thành viên của Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo, tên này có vai trò cung cấp vũ khí cho vụ trấn lột.
Một tuần sau vụ chặn cướp xe năm 1996, ba người nữa đã bị bắt. Nhóm này vậy là gồm có tám người, bảy đứa trong bọn không chịu nói chuyện với cảnh sát. Đứa thứ tám, một cậu con trai mười chín tuổi tên là Birger Nordman trong khi hỏi cung đã quy phục và thú thật mọi sự mà hắn biết. Vụ xét xử đám này tại tòa đã là một thắng lợi chớp nhoáng của công tố viên. Một hậu quả là (nguồn tin cảnh sát của Svensson nghi) hai năm sau người ta đã tìm thấy Nordman bị vùi trong một giếng mỏ tại Varmland sau khi chạy trốn khỏi nhà tù trong thời gian nghỉ phép tạm.
Theo như G. thì cảnh sát tin rằng Nieminen là chất xúc tác ở đằng sau toàn bộ băng nhóm. Cảnh sát cũng tin rằng Nordman đã bị Nieminen giết theo hợp đồng, tên này được coi là nguy hiểm và tàn nhẫn, nhưng không có chứng cứ. Lúc ở tù hắn có vẻ đã có bàn bạc với Tình huynh đệ Aryan[4], một tổ chức Quốc xã[5] để rồi quay ra cũng gắn kết với Tình huynh đệ Wolfpack và với các câu lạc bộ ở rải rác trên thế giới vốn từng ủng hộ Các Thánh thần Địa ngục, cũng như với các tổ chức Quốc xã bạo lực ngu ngốc khác chẳng hạn Phong trào Kháng chiến Thụy Điển.
Nhưng điều làm cho Salander thấy thú vị lại là một cái gì hoàn toàn khác. Nordman nhận với cảnh sát rằng các vũ khí dùng trong vụ trấn lột là đến từ chỗ Nieminen, còn hắn thì lại lấy từ một người Serb mà Nordman không biết nhưng gọi là “Sala”.
Svensson đã coi hắn là một nhân vật vô danh trên sân khấu tội phạm và thừa nhận rằng Zala là một bí danh. Nhưng anh cảnh cáo rằng chúng có thể giải quyết chuyện này với một tên tội phạm đặc biệt xảo quyệt hoạt động dưới một bí danh.
Phần sau cùng gồm có thông tin của Sandstrom về Zala, như nói ở trên. Sandstrom đã một lần nói qua điện thoại với một người dùng cái tên Zala này. Các ghi chép không cho biết họ nói chuyện gì.
Vào quãng 4 giờ sáng, Salander đóng máy tính, ngồi lên ghế cửa sổ nhìn ra Saltsjon. Cô ngồi lặng lẽ trong hai tiếng, hút hết điếu thuốc này sang điếu khác, suy nghĩ. Cô phải đưa ra một số quyết định chiến lược - và cô phải đánh giá về rủi ro.
Cô phải tìm Zala thanh toán một lần và vĩnh viễn các món nợ giữa đôi bên.
Tối thứ Bảy tuần trước lễ Phục sinh, Blomkvist thăm một bạn gái xưa trên đường Slipgatan lân cận với Hornstull. Anh đã một lần nhận lời mời đến một liên hoan. Nay chị đã có chồng và vẫn quan tâm đến Blomkvist chẳng khác gì một người bạn nhưng chị làm ở báo đài và vừa hoàn thành một quyển sách chị từng ấp ủ trong mười năm, quyển sách bàn đến một cái gì đó lạ lùng như bộ mặt của phụ nữ trong thông tin đại chúng. Blomkvist đã cung cấp tư liệu cho quyển sách, do đó anh được mời.
Vai trò của anh là nghiên cứu một vấn đề. Anh đã chọn xem xét các chính sách về cơ hội bình đẳng mà hãng tin TT, báo Dagens Nyheter, tiết mục Rapport và một số báo đài khác đã huênh hoang quảng cáo. Rồi anh kiểm tra xem trong ban điều hành của mỗi công ty có bao nhiêu đàn ông và phụ nữ, cao hơn trình độ trợ lý tòa soạn. Kết quả là đáng bối rối: giám đốc - đàn ông; chủ tịch tòa soạn - đàn ông; tổng biên tập - đàn ông; ủy viên biên tập đối ngoại - đàn ông; ủy viên biên tập quản trị - đàn ông... và v.v... cho đến cuối cùng thì người phụ nữ đầu tiên đã đến.
Buổi liên hoan được tổ chức ở nhà tác giả và khách dự phần lớn là những người đã giúp chị về quyển sách.
Đó là một buổi tối tao nhã với thức ăn ngon và chuyện trò thoải mái. Blomkvist đã biết điều có ý về sớm nhưng nhiều khách mời là chỗ quen biết lâu ngày mà anh ít gặp. Ngoài ra không ai nói quá nhiều đến vụ Wennerstrom. Buổi liên hoan tiếp tục cho tới 2 giờ sáng ngày Chủ nhật.
Blomkvist trông thấy chiếc xe buýt đêm chạy qua nhưng anh không kịp giữ cho nó dừng lại, mà khí trời thì êm dịu, cho nên anh quyết định đi bộ về nhà thay vì chờ chiếc sau. Anh theo đường Hogalidsgatan đến nhà thờ rồi quẹo lên Lundagatan và ký ức xưa lập tức thức dậy.
Blomkvist đã giữ lời hứa anh đưa ra hồi tháng Chạp để thôi đến thăm Lundagatan với hy vọng hão huyền rằng Salander sẽ xuất hiện. Đêm nay anh dừng lại ở hè phố đối diện với tòa cao ốc của cô. Anh muốn bấm chuông cửa nhưng anh biết có vẻ cô không thích gặp anh một mình vào lúc này trong đêm khuya khoắt mà lại không báo trước.
Anh nhún vai đi tiếp tới Zinkensdamm. Chưa đi được năm chục mét thì nghe thấy có tiếng cửa mở, anh quay lại và thế là tim anh hẫng ngay một nhịp. Không thể nào lầm được cái thân người xương xẩu kia. Salander vừa bước khỏi cửa ra phố và đi ngược lại với anh. Cô dừng lại ở một chiếc xe hơi đỗ.
Blomkvist há miệng toan gọi thì tiếng anh nghẹn lại ở cổ họng. Anh trông thấy một người đàn ông đi ra khỏi một xe hơi khác đỗ dọc đường vòng đầu phố. Hắn rảo chân đi theo Salander. Blomkvist có thể thấy hắn cao lớn và tóc túm đuôi ngựa.
Salander nghe thấy tiếng động và thoáng nhìn thấy đằng sau mình một cử động đúng vào lúc cô tra chìa vào cửa chiếc Honda. Hắn sáp chéo góc đến sau lưng cô và cô quay ngoắt lại hai tích tắc trước khi hắn với được tới cô. Cô nhận diện ngay lập tức hắn là Carl - Magnus Lundin ở Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo, đứa mấy ngày trước đã gặp gã khổng lồ ở quán Café Blomberg.
Cô đánh giá hắn là hung hãn và cân nặng hơn 120 kilô. Dùng chùm chìa khóa như một quả đấm sắt và nhanh như một con thằn lằn, cô rạch một vết thương sâu vào má hắn, từ chân mũi đến mang tai. Như Salander, hắn đấm vào không khí rồi nom vẻ như chìm vào dưới đất.
Blomkvist thấy Salander vung quả đấm ra. Đánh kẻ tấn công xong, cô ngã xuống đất rồi lăn vào dưới gầm xe.
Mấy giây sau, Salander đã đứng lên ở phía bên kia xe, sẵn sàng chiến đấu hay chuồn. Nhìn thấy ánh mắt kẻ địch dưới chiếc mũ ôm sát sọ, cô quyết định chọn cách thứ hai. Máu chảy ra ở má hắn. Hắn chưa kịp cố tập trung chú ý vào cô, cô đã băng qua Lundagatan, chạy đến Nhà thờ Hogalid.
Blomkvist đứng như trời trồng, mồm há hốc khi kẻ tiến công thình lình nhào đến sau lưng Salander. Hắn trông như cỗ xe tăng đuổi một xe hơi đồ chơi.
Salander ba bậc một leo cầu thang lên Lundagatan thượng. Lên đỉnh cầu thang cô liếc qua vai thấy kẻ đuổi mình đang lên bậc thứ nhất. Hắn nhanh. Cô để ý thấy một đống ván và cát mà chính quyền địa phương đào lên bên đường.
Gần như sắp leo hết cầu thang thì Lundin lại trông thấy Salander. Hắn đủ thì giờ nhận thấy cô ném một cái gì nhưng hắn không kịp phản ứng lại với một viên đá sắc cạnh đập vào thái dương hắn. Viên đá được ném rất mạnh, nó xé toạc ra một vết thương nữa trên mặt hắn. Hắn cảm thấy được hắn đang hụt chân rồi thế gian đảo tít khi hắn ngã ngửa ra trên các bậc thang. Hắn cố giảm bớt đà ngã bằng cách nắm lấy lan can nhưng hắn đã lỡ mất vài ba giây.
Blomkvist hết tê liệt khi người đàn ông biến đi ở trên đỉnh cầu thang. Anh bắt đầu la hét để xua hắn cút đi.
Salander đã đến giữa sân nhà thờ thì nghe thấy tiếng Blomkvist. Cái quỷ gì thế nhỉ? Cô đổi hướng, nhìn qua lan can trên sân trời. Cô thấy Blomkvist ở dưới cô ba mét. Thoáng do dự rất nhanh rồi cô lại vọt.
Cùng lúc chạy đến cầu thang Blomkvist để ý thấy một xe Dodge bắt đầu chạy qua cửa trước nhà Salander, đằng sau chiếc xe cô định lên lúc nãy. Chiếc xe vút ra khỏi chỗ lượn, đi qua Blomkvist, chạy phía Zinkensdamm. Anh nhác thấy một bộ mặt khi chiếc xe đi qua. Tối quá không đọc được biển số xe.
Blomkvist bắt kịp kẻ đuổi theo Salander ở đỉnh cầu thang. Hắn dừng lại, đứng bất động nhìn quanh.
Blomkvist vừa đến tới chỗ hắn thì hắn quay lại cho anh một cú đấm ngược tay vào giữa mặt. Blomkvist hoàn toàn không đề phòng. Anh lăn lông lóc, lộn đầu xuống cầu thang.
Nghe thấy tiếng kêu u ú nghèn nghẹn của Blomkvist, Salander gần như sắp đứng lại. Xảy ra chuyện gì thế này? Nhưng quay lại cô thấy Lundin chỉ cách cô có ba chục mét. Hắn nhanh hơn. Cứt, hắn sắp tóm được mình.
Cô rẽ trái chạy lên vài bậc thang đến sân trời ở giữa hai cao ốc. Cô đến một cái sân không chỗ che chắn rồi chạy hết sức nhanh đến góc sân khác. Cô quay phải, vừa kịp nhận ra mình có thể rúc vào phải một lối cụt. Khi tới tường cuối cùng của tòa cao ốc sau, cô trông thấy Lundin đến đầu cầu thang của cái sân. Cô cứ rẽ - cho khỏi tầm nhìn của hắn - lấy một ít mét nữa rồi nhào đầu trước tiên vào một bụi đỗ quyên ở giữa một luống hoa dọc theo hông tòa cao ốc.
Cô nghe thấy Lundin chạy rình rịch nhưng không thấy được hắn. Cô nín thở, nằm ép sát vào đất bên dưới bụi đỗ quyên.
Lundin đi qua chỗ cô nấp thì dừng lại. Hắn ngập ngừng một ít rồi rảo bước quanh sân. Một phút sau hắn quay lại. Hắn dừng lại ở chỗ hắn dừng lúc nãy. Lần này hắn đứng im chừng nửa phút. Salander căng hết gân cốt, chuẩn bị tư thế cho cuộc phới chạy tức thì nếu như bị hắn phát hiện. Nhưng hắn lại đi, ngang qua chỗ cô, cách hai mét. Cô nghe tiếng chân hắn mất dần ở đầu sân đằng kia.
Blomkvist thấy đau ở gáy và hàm, khi anh lụi cụi đứng lên, đầu óc anh choáng váng. Anh thấy mùi máu ở chỗ môi bị rách.
Anh loạng choạng đi đến đỉnh cầu thang nhìn quanh. Anh thấy người có tóc đuôi ngựa chạy xuống cuối phố cách anh một trăm mét. Hắn dừng lại nhòm soi vào các khe giữa các cao ốc rồi chạy qua Lundagatan leo lên chiếc Dodge. Chiếc xe phóng đi tới Zinkensdamm.
Blomkvist đi thong thả dọc mạn trên của Lundagatan tìm Salander. Anh không thấy cô đâu. Không một bóng người và anh ngạc nhiên vào lúc 3 giờ sáng Chủ nhật mà một đường phố ở Stockholm lại có thể quạnh quẽ như thế này. Một lúc sau anh đi bộ trở lại cửa trước nhà Salander ở mạn cuối đường Lundagatan. Khi đi qua chiếc xe, chỗ đã xảy ra chuyện Salander bị đánh, anh dừng lại ở một chùm chìa khóa mắc vào một chiếc vòng. Anh cúi nhặt lên và trông thấy cái túi đeo vai ở dưới gầm xe.
Blomkvist đứng ở đó một lúc lâu. Cuối cùng anh tra các chìa khóa vào cửa. Không vừa.
Salander nằm trong bụi đỗ quyên mười lăm phút, chỉ cựa mình để xem đồng hồ. Ngay sau 3 giờ cô nghe thấy một cánh cửa mở và những bước chân đi đến chỗ chiếc xe đạp cất ở sân.
Khi tiếng chân tắt ngấm cô quỳ dần lên trên đầu gối nhòm qua bụi cây. Cô nhìn chằm chằm vào mọi ngóc ngách xó xỉnh của mảnh sân nhưng không thấy dấu hiệu nào của Lundin. Cô bước trở lại đường phố, từng phút sẵn sàng quay đuôi chạy. Cô dừng lại ở đỉnh một bức tường nhìn với sang bên Lundagatan và trông thấy Blomkvist đang ở ngoài tòa nhà có căn hộ của cô. Chiếc túi vai của cô ở trong tay anh.
Cô đứng bất động hoàn toàn, nấp sau một cột đèn khi mắt Blomkvist nhìn quét lên cầu thang và bức tường. Anh không trông thấy cô.
Blomkvist đứng ở trước cửa nhà cô gần nửa giờ. Cô kiên nhẫn dõi nhìn anh, không động đậy, cho tới khi anh bỏ cuộc đi về quả đồi dẫn tới Zinkensdamm. Anh đi rồi cô bắt đầu nghĩ về câu chuyện vừa xảy ra.
Kalle Blomkvist.
Cô không thể tưởng tượng ra nổi vì tính mạng cô mà anh lại vọt ra chả biết từ đâu như thế. Cạnh đó, cuộc tiến công không phải là khó giải thích.
Carl Magnus Lundin Thằng khốn kiếp.
Lundin đã gặp gã khổng lồ mà cô thấy nói chuyện với Bjurman.
Nils Bjurman Thằng đểu.
Cục cứt này đã thuê một thằng đực rựa số dách để hại ta. Và ta sẽ cho nó thấy rõ như pha lê hậu quả là như thế nào.
Salander sôi sục trong lòng. Cô điên lên đến nỗi cô cảm thấy có vị máu ở trong miệng. Bây giờ cô sẽ đi trừng trị hắn.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.