Chương 9: Nick Dunne
Gillian Flynn
23/04/2016
Một ngày trôi qua
Tôi đã không nghe lời Go về việc uống say quá mức. Tôi ngồi một mình trên chiếc tràng kỷ ở nhà Go, uống hết nửa chai, cho đến khi thứ adrenaline trong tôi bùng phát lần thứ mười tám thì tôi tự nhủ mình phải đi ngủ thôi: Mí mắt tôi sụp xuống, khi tôi di chuyển chiếc gối với đôi mắt nhắm nghiền thì tôi thấy vợ mình, mái tóc vàng của cô ấy bết lại vì máu, mù lòa và khóc lóc trong đau đớn, lê thân mình dọc theo sàn bếp, la hét gọi tên tôi. Nick, Nick, Nick!
Tôi giật ngửa chai rượu liên tục, chuẩn bị tinh thần để ngủ - một thói quen đã mất. Giấc ngủ giống hệt như một con mèo: Nó chỉ đến bên khi người ta lờ nó đi. Tôi uống thêm và tiếp tục câu thần chú của mình. Đừng nghĩ nữa, một ngụm lớn, để cho đầu óc trống rỗng, một ngụm nữa, nào, ngay bây giờ, nghiêm túc đi, không nghĩ gì nữa, hãy làm thế ngay, lại một ngụm nữa. Ngày mai mày cần phải tỉnh táo, mày cần phải ngủ! Lại tiếp một hơi. Tôi chẳng còn làm gì được ngoài việc chợp mắt một lúc tới khi trời sáng. Một giờ sau đó tôi tỉnh dậy và cảm thấy khó chịu vì dư lượng cồn. Không phải cảm giác mệt mỏi, mà dễ chịu hơn. Tôi cảm thấy yếu đuối và uể oải. Mùi hôi. Có lẽ tôi vẫn hơi say. Tôi bước chệnh choạng tới chiếc bên chiếc Subaru của Go, cảm giác rất kỳ quái như thể chân tôi đang đi giật lùi vậy. Tôi có quyền sở hữu tạm thời đối với chiếc xe này, cảnh sát đã nhã nhặn đề nghị tạm giữ chiếc Jetta được gìn giữ cẩn thận của tôi để điều tra, cả máy tính xách tay nữa - tất cả chỉ mang tính thủ tục, đó là những gì tôi đã được đảm bảo. Tôi lái xe về nhà để tìm vài bộ đồ nào đó cho đàng hoàng.
Ba chiếc xe tuần tra của cảnh sát đỗ trước khu nhà tôi ở, mấy người hàng xóm đang đi lại quanh đó. Không có Carl, nhưng có Jan Teverer - người phụ nữ theo Cơ đốc giáo - và Mike, ông bố của ba đứa trẻ ba tuổi được sinh ba nhờ thụ tinh trong ống nghiệm, có tên là Taylor, Topher và Talullah ("Em ghét những cái tên đó." Amy, một thẩm phán khó tính đối với bất cứ thứ gì theo mốt, đã phát biểu như vậy. Khi tôi đề cập rằng cái tên Amy cũng từng rất được ưa chuộng, thì vợ tôi nói: "Nick, anh biết câu chuyện về tên của em mà." Tôi đã không hiểu cô ấy muốn nói về chuyện gì.)
Jan gật đầu từ đằng xa mà không nhìn vào mắt tôi, nhưng Mike bước vội đến khi tôi vừa xuống xe. "Tôi rất lấy làm tiếc, anh bạn, bất cứ việc gì tôi có thể làm, cứ cho tôi biết nhé. Bất cứ việc gì.Sáng nay tôi đã cắt cỏ rồi, nên ít nhất anh không phải lo lắng về việc đó."
Mike và tôi thay nhau cắt cỏ tại những ngôi nhà bỏ hoang do bị tịch thu thế nợ ở trong khu. Những cơn mưa lớn vào mùa xuân đã biến khoảng sân của những ngôi nhà đó thành một khu rừng nhiệt đới, thu hút cả một bầy chồn hương lui tới. Chồn hương có ở khắp mọi nơi, cứ đêm đến chúng lại gặm nhấm rác rưởi, lẻn vào tầng hầm nhà chúng tôi, nhiều khi còn nằm cả trên hiên nhà như những con thú cưng lười biếng. Việc cắt cỏ xem ra không có tác dụng gì trong việc đuổi chúng đi, nhưng ít ra bây giờ chúng tôi có thể quan sát chúng mỗi khi chúng đến gần.
"Cảm ơn, cảm ơn anh bạn." Tôi nói.
"Anh biết không, vợ tôi, cô ấy đã hoảng loạn kể từ lúc biết chuyện." Anh ta nói. "Hoàn toàn hoảng loạn."
"Tôi rất tiếc khi nghe vậy." Tôi nói. "Tôi phải..." Vừa nói tôi vừa chỉ về phía cửa ra vào.
"Vợ tôi chỉ ngồi đó khóc lóc nhìn bức ảnh của Amy."
Tôi chẳng ngạc nhiên khi cả nghìn bức ảnh sau một đêm đã ngập tràn trên Internet, chỉ để đáp ứng nhu cầu thương cảm của đám đàn bà như vợ Mike. Tôi chẳng khoái những nữ hoàng giả dối kiểu như thế.
"Này, tôi muốn hỏi..." Mike bắt đầu.
Tôi vỗ vào cánh tay anh ta và chỉ vào cửa lần nữa, như thể đang có việc rất gấp vậy. Rồi tôi quay người bước đi trước khi anh ta có thể hỏi bất cứ câu gì hay đến gõ cửa nhà tôi.
Sĩ quan Velásquez hộ tống tôi lên tầng trên, vào phòng ngủ và sang phòng chứa đồ, đi qua chiếc hộp đựng quà hình lập phương lấp lánh ánh bạc, rồi cô ta để tôi lướt tìm những thứ mình cần. Phải chọn lựa quần áo trước mặt cô gái trẻ với mái tóc nâu dài tết chặt này khiến tôi cảm thấy căng thẳng. Cô ta hẳn là đang phán xét tôi và bình luận gì đó. Rốt cuộc, tôi túm bừa lấy một số thứ: bộ quần áo có phong cách công sở, quần Âu và áo ngắn tay, cứ như thể tôi sắp sửa đi dự hội nghị vậy. Hẳn sẽ có một bài viết thú vị đây, tôi nghĩ bụng, tìm chọn một bộ đồ phù hợp trong khi người thân yêu của mình đang mất tích. Dường như không thể vùi lấp được phần tham lam và thèm khát ý tưởng của một nhà báo ở trong tôi.
Tôi nén chặt đám quần áo vào trong một chiếc túi và quay nhìn chung quanh, thấy hộp quà nằm trên sàn nhà tôi hỏi cô sĩ quan. "Tôi có thể xem bên trong nó được không?"
Cô ta lưỡng lự nhưng sau đó đưa ra quyết định an toàn. "Không được, thưa ông, tôi lấy làm tiếc. Tốt hơn hết không phải lúc này."
Mép giấy gói hộp quà đã bị bóc ra một cách cẩn trọng. "Đã có ai xem bên trong đó chưa?"
Cô ta gật đầu.
Tôi đi vòng qua Velásquez tiến đến chỗ chiếc hộp. "Nếu nó đã được bóc rồi vậy thì..."
Cô ta bước sang chặn trước mặt tôi. "Thưa ông, tôi không thể để ông xem chiếc hộp được."
"Thật nực cười. Đây là món quà mà vợ tôi tặng cho tôi..."
Tôi bước vòng ra phía sau cô ta, cúi xuống, và khi một tay tôi đặt lên góc chiếc hộp thì cô ta đập mạnh cánh tay vào lưng tôi. Tôi cảm thấy cơn thịnh nộ dâng trào, người phụ nữ này tự cho mình có quyền bảo tôi phải làm gì trong ngôi nhà của chính tôi hay sao. Dù tôi có cố gắng đến thế nào để là con trai của mẹ tôi, giọng nói của cha tôi vẫn cứ văng vẳng trong đầu, mang đến những suy nghĩ tồi tệ và những câu nói tục tĩu.
"Thưa ông, đây là hiện trường vụ án, ông…"
Ngữ khốn nạn.
Đột nhiên Riordan, đồng nghiệp của cô ta xuất hiện trong phòng và cũng tham gia ngăn cản tôi. Còn tôi thì cố hất tay bọn họ ra - được rồi, được rồi, mẹ kiếp - và bọn họ buộc tôi phải xuống nhà. Gần cửa chính có một phụ nữ đang bò loay hoay trên mặt đất, khám xét gì đó dọc theo các tấm ván sàn, tôi đoán là tìm vết máu. Cô ta ngước lên thản nhiên nhìn tôi, rồi lại cúi xuống.
Tôi buộc mình phải kiềm chế khi lái xe trở lại nhà Go để thay quần áo. Đây chỉ là một trong chuỗi dài những công việc khó chịu và ngu xuẩn mà cảnh sát sẽ thực hiện trong quá trình điều tra (tôi thích những quy tắc hợp lý, chứ không phải những quy định thiếu logic), vì thế tôi cần phải trấn tĩnh lại: Không được chống đối bọn cớm, tôi tự bảo mình. Lặp lại nếu cần thiết: Không được chống đối bọn cớm.
Tôi chạm mặt với Boney ngay khi bước vào sở cảnh sát. "Bố mẹ vợ anh đang ở đây, Nick ạ." Cô ta nói với thái độ động viên tôi, như thể đang mời tôi một chiếc bánh xốp nướng còn nóng hổi vậy.
Marybeth và Rand Elliott đang đứng đó, vòng tay ôm lấy nhau. Ở giữa sở cảnh sát mà trông họ giống như đang tạo dáng chụp hình ở vũ hội vậy. Đó là kiểu cách mà tôi luôn thấy mỗi khi gặp họ, nắm tay, cọ cằm, hay vuốt má. Bất cứ khi nào đến nhà Elliott, tôi bị ám ảnh là mình phải hắng giọng - tôi sắp vào đấy - bởi vợ chồng Elliott có thể âu yếm nhau ở bất cứ chỗ nào. Họ hôn môi nhau mỗi khi tạm biệt, và Rand sẽ vỗ vào lưng vợ khi ông ta đi ngang qua bà ấy. Việc đó với tôi thật kỳ quặc. Bố mẹ tôi ly hôn khi tôi mới mười hai tuổi, và tôi nghĩ có lẽ khi còn rất nhỏ tôi đã chứng kiến kiểu hôn má không hề có tình cảm gì giữa hai người họ, chỉ vì tình huống khi ấy bắt buộc phải thế. Đó là mỗi dịp Giáng sinh hoặc sinh nhật. Những nụ hôn tẻ nhạt. Ngay cả trong thời kỳ hôn nhân tuyệt vời nhất thì giao tiếp giữa hai người vẫn hoàn toàn chỉ như giao dịch: Chúng ta lại hết sữa rồi. (Hôm nay em sẽ mua một ít.) Tôi muốn cái này phải được là cẩn thận. (Hôm nay em sẽ là.) Mua sữa khó lắm sao? (Im lặng.) Cô quên gọi thợ hàn rồi đấy. (Thở dài.) Mẹ kiếp, mặc áo khoác vào, ngay bây giờ, đi ra ngoài và mua sữa về đây. Ngay lập tức. Kiểu sai bảo và ra lệnh như vậy là của bố tôi, một quản lý cấp trung của công ty điện thoại, người luôn đối xử với mẹ tôi tốt nhất cũng chỉ như với một nhân viên kém cỏi của mình. Còn tệ nhất ư? Ông không bao giờ đánh đập bà, nhưng cơn giận dữ hiển nhiên và vô cớ của ông có thể choán ngợp cả ngôi nhà trong nhiều ngày trời, hàng tuần liền, và khiến cho không khí lúc nào cũng ngột ngạt, khó thở. Bố tôi bực bội đi lại với dáng vẻ bệ vệ, quai hàm dưới đưa ra khiến ông có vẻ ngoài giống với một võ sĩ quyền anh đang bị thương và muốn báo thù, răng nghiến vào nhau kèn kẹt, đến mức người ta có thể nghe rõ từ phía bên kia căn phòng. Ông ném đồ vật về phía mẹ tôi nhưng không trúng người bà. Tôi dám chắc ông đã tự nhủ: Mình không bao giờ đánh đập bà ta. Tôi dám chắc bằng lối hành xử đó, không bao giờ ông ấy coi mình là một kẻ có thể hành hung người khác. Nhưng ông ấy đã biến cuộc sống gia đình chúng tôi trở thành một hành trình dài vô tận, bởi những định hướng tồi cùng một người cầm lái luôn chất chứa trong mình những cơn thịnh nộ dồn nén. Một kỳ nghỉ không bao giờ có cơ hội được vui vẻ. Đừng khiến tôi phải quay xe lại. Sự thực là, làm ơn hãy quay xe lại đi.
Tôi không nghĩ cách hành xử của ông ấy cá biệt đối với mẹ. Chỉ là ông ấy không ưa phụ nữ. Ông ấy nghĩ tất cả bọn họ đều ngu ngốc, tầm thường, khó chịu. Cái ngữ khốn nạn ngu đần ấy. Đó là những lời ưa thích của ông ấy dành cho bất cứ phụ nữ nào khiến ông ấy bực mình: nữ tài xế, nữ bồi bàn, các giáo viên phổ thông của chúng tôi, dù ông ấy chưa thực sự gặp một ai trong số họ. Những cuộc họp phụ huynh xem ra đều thối nát hết cả vì đám đàn bà, cũng như chính bản chất của bọn họ. Tôi vẫn nhớ khi Geraldine Ferraro được xướng tên là ứng cử viên Phó tổng thống năm 1984, lúc ấy cả nhà đang xem thời sự trước bữa tối. Mẹ tôi, người mẹ bé nhỏ yêu dấu của tôi, đã đặt một tay lên gáy Go và nói: "Chà, em nghĩ tin này thật tuyệt." Thế là bố tôi đã tắt phụt tivi đi và nói: "Đó là một trò đùa. Cô thừa hiểu đó là một trò đùa chết tiệt. Cứ như đang xem một con khỉ đi xe đạp vậy."
Phải mất năm năm sau, cuối cùng mẹ tôi đã quyết định là bà quá mệt mỏi. Một ngày nọ tôi từ trường về nhà, bố tôi đã bỏ đi. Buổi sáng ông ấy vẫn ở nhà nhưng buổi chiều thì không còn nữa. Mẹ bảo chúng tôi ngồi xuống quanh bàn ăn và thông báo: "Bố các con và mẹ đã quyết định sẽ tốt hơn cho tất cả mọi người nếu bố mẹ chia tay." Go đã òa khóc rồi nói: "Tốt thôi, con ghét cả hai người!" và rồi, thay vì chạy về phòng như kịch bản phải thế, con bé chạy đến và ôm chầm lấy mẹ.
Vậy là bố tôi đã ra đi còn người mẹ gầy gò, đau khổ của tôi đã lên cân và vui vẻ - tuy lên cân vừa phải nhưng bà vô cùng hạnh phúc, như thể bà đã mong đợi ngày đó từ lâu lắm rồi - một quả bóng xịt hơi được bơm đầy không khí. Trong vòng một năm, bà dần trở thành một người phụ nữ bận rộn, sôi nổi và vui tươi như chính con người bà cho tới lúc mất. Chị gái của bà đã nói những lời như thể người phụ nữ đã nuôi nấng chúng tôi chỉ là một kẻ mạo danh vậy: "Ơn trời, Maureen của ngày xưa đã quay trở lại."
Còn về phía bố tôi, trong nhiều năm liền tôi nói chuyện với ông qua điện thoại, khoảng một tháng một lần. Cuộc chuyện trò lễ phép và đủ thông tin, đúng nghĩa thuật lại những gì đã xảy ra. Câu hỏi duy nhất ông từng hỏi về Amy là "Amy thế nào rồi?", thực sự chẳng có ý khơi gợi bất cứ câu trả lời nào khác ngoài "Cô ấy vẫn ổn." Ông vẫn ngoan cố giữ khoảng cách, kể cả lúc ông mắc chứng bệnh mất trí nhớ và đã ngoài sáu mươi tuổi. Nếu bạn luôn sớm thì bạn sẽ không bao giờ muộn. Đó là câu thần chú của bố tôi, và nó bao gồm cả sự bắt đầu của căn bệnh Alzheimer - một sự xuống cấp từ từ về sức khỏe sau đó chuyển sang cú tuột dốc đột ngột, buộc chúng tôi phải chuyển người bố không phụ thuộc và căm ghét phụ nữ của mình đến một khu nhà rộng lớn, lúc nào cũng nặng mùi canh gà và nước tiểu, nơi mà những người phụ nữ luôn ở bên cạnh giúp đỡ ông. Ha.
Bố tôi có những hạn chế của mình. Đó là điều mà người mẹ nhân hậu đã luôn nhắc nhở chúng tôi. Ông ấy cũng có khiếm khuyết, nhưng vô hại. Mẹ tôi đã quá tốt bụng khi nói vậy, nhưng sự thực ông ấy không vô hại. Tôi ngờ rằng việc em gái tôi không có ý kết hôn bởi con bé sợ rằng đàn ông sẽ làm nó phải rơi những giọt nước mắt ủy mị. Nếu con bé buồn, bối rối hay tức giận, nó chỉ cần được ở một mình. Tôi cũng yếu đuối như thế. Những điểm tốt tôi có được là từ mẹ. Tôi có thể nói đùa, có thể cười, có thể trêu ghẹo, tán dương, ủng hộ và khen ngợi - hay nói đơn giản là tôi có thể nhìn cuộc sống tích cực, nhưng tôi không thể đối phó được với những người phụ nữ hay cáu kỉnh hoặc khóc lóc. Tôi có cảm giác như sự tức giận của bố tôi trỗi dậy trong tôi theo hướng tiêu cực nhất. Amy có thể nói với bạn về điều này. Cô ấy chắc chắn sẽ nói nếu cô ấy ở đây.
Tôi nhìn Rand và Marybeth một lúc trước khi họ thấy tôi. Tôi tự hỏi không biết họ sẽ tức giận với tôi đến mức nào. Tôi đã mắc một tội không thể tha thứ được vì đã thông báo cho họ quá muộn. Vì sự hèn nhát của tôi, buổi tối chơi tennis đó sẽ luôn hằn sâu trong tâm trí họ: một buổi tối vui vẻ với những quả bóng vàng chậm rãi nảy bật trên sân, tiếng giày tennis cọ trên mặt đất, một buổi tối thứ Năm như thường lệ vẫn diễn ra trong khi con gái họ thì đã biến mất.
"Nick." Rand Elliott thốt lên khi phát hiện ra tôi. Ông ấy bước ba bước dài về phía tôi, và khi tôi gồng mình lên chờ đợi một cú đấm thì ông ấy ôm chặt lấy tôi một cách tuyệt vọng.
"Làm thế nào mà con chịu đựng được vậy?" Ông ấy thì thầm bên cổ tôi rồi bắt đầu run lên bần bật. Cuối cùng, ông ấy nấc lên một tiếng the thé, khóc lóc thổn thức và giữ chặt hai cánh tay tôi. "Chúng ta sẽ tìm thấy Amy, Nick. Sẽ là như thế. Con hãy tin vào điều đó, được chứ?" Rand Elliott giữ tôi với cái nhìn đau đáu từ đôi mắt xanh thẳm của ông ấy vài giây, rồi sau đó lại thổn thức - ông ấy ỏn ẻn bật ra ba hơi thở hổn hển như tiếng nấc cụt - còn Marybeth bước đến chỗ chúng tôi, vùi khuôn mặt mình dưới cánh tay của ông chồng.
Khi chúng tôi buông nhau ra, bà ấy ngước nhìn tôi bằng đôi mắt to đẹp hút hồn của mình. "Đó chỉ là... chỉ là một cơn ác mộng chết tiệt thôi." Bà ấy nói. "Con có khỏe không, Nick?"
Khi Marybeth hỏi Con có khỏe không, đó không phải là phép lịch sự mà là một câu hỏi về sự tồn tại. Bà ấy dò xét khuôn mặt tôi, chắc chắn là bà ấy đang dò xét và sẽ còn tiếp tục lưu lại từng suy nghĩ và hành động của tôi. Vợ chồng nhà Elliott tin rằng mỗi đặc điểm đều đáng được lưu ý, đánh giá và phân loại. Chúng đều có ý nghĩa nào đó và có thể hữu ích. Mẹ, bố, đứa trẻ, ba loại người bậc cao với ba cấp độ tiên tiến trong tâm lý học - họ suy nghĩ vào thời điểm trước chín giờ sáng nhiều hơn so với suy nghĩ trong cả tháng của hầu hết mọi người. Tôi nhớ có lần tôi từ chối một chiếc bánh anh đào trong bữa tối, và Rand đã ngẩng đầu lên nói: "A! Một kẻ bài trừ những phong tục truyền thống. Khinh thường chủ nghĩa yêu nước tượng trưng và dễ dãi." Khi tôi cố cười xòa và nói rằng tôi không thích cả cocktail anh đào nữa, Marybeth đã huých vào cánh tay Rand: "Do cuộc ly hôn của bố mẹ thôi. Tất cả những món ăn dễ tiêu hóa và những món tráng miệng mà cả gia đình thường ăn cùng nhau, chúng là những ký ức buồn đối với Nick."
Nghe thật ngớ ngẩn nhưng cũng vô cùng dễ thương. Những con người này đang tốn quá nhiều năng lượng để tìm hiểu xem tôi là người thế nào. Câu trả lời đơn giản chỉ là: Tôi không thích anh đào.
Đến mười một rưỡi thì sở cảnh sát trở nên náo nhiệt. Tiếng chuông điện thoại đổ dồn, mọi người gọi nhau qua lại náo loạn cả căn phòng. Một phụ nữ mà tôi chưa từng nghe tên, người mà tôi chỉ nhớ là có cái đầu ngọ nguậy liên tục và nói rất nhiều, đột nhiên xuất hiện bên cạnh tôi. Tôi không biết cô ta đã ở đó được bao lâu rồi: "...và điểm cốt lõi là, Nick, phải để mọi người tìm kiếm Amy, để họ biết rằng cô ấy có một gia đình thương yêu mình và mong ngóng cô ấy trở về. Việc này phải được kiểm soát chặt chẽ. Nick, anh phải để tâm... Nick?"
"Vâng."
"Người ta sẽ muốn nghe một lời tuyên bố ngắn gọn từ chồng của cô ấy."
Ở phía bên kia căn phòng, Go đang lao như tên bắn về phía tôi. Con bé đã đưa tôi đến sở cảnh sát trước rồi mới ghé qua Quán Bar lo toan mọi việc ở đó trong khoảng nửa tiếng, và giờ thì Go đã quay lại và hành động như thể con bé đã bỏ rơi tôi cả một tuần rồi. Go chạy vòng vèo qua những chiếc bàn, với dáng vẻ gọn gàng và trang nghiêm tĩnh tại, chẳng cần quan tâm tới viên sĩ quan trẻ - người rõ ràng được chỉ định để đưa con bé vào đây.
"Cho tới giờ mọi việc vẫn ổn chứ?" Go vừa hỏi vừa quàng một cánh tay ôm chặt lấy tôi, một cái ôm kiểu đàn ông. Con cái nhà Dunne chẳng biết ôm thế nào cho đúng cách. Ngón cái của Go đặt lên đúng đầu ngực bên phải của tôi. "Em ước gì Mẹ ở đây." Con bé thì thầm, thật trùng hợp với điều tôi đang nghĩ. "Vẫn không có tin tức gì sao?" Con bé hỏi khi buông tôi ra.
"Không, chẳng hề có một tin chết tiệt nào..."
"Trông như thể anh đang cảm thấy rất tệ ấy."
"Anh cảm thấy như cứt." Tôi đang định nói mình là một thằng ngu vì đã không nghe lời con bé về việc uống rượu.
"Nếu là mình, hẳn em cũng đã nốc cạn chai luôn." Go vỗ vai tôi nói.
"Sắp đến giờ rồi." Người phụ nữ phụ trách truyền thông nói và lại xuất hiện một cách kỳ diệu.
"Số lượng người tham dự không tệ lắm vào dịp cuối tuần thứ tư của tháng Bảy như thế này." Cô ta bắt đầu lùa chúng tôi vào một phòng họp tối tăm với mành cửa nhôm và những chiếc ghế gấp, cùng một nhóm phóng viên trông tẻ ngắt, rồi cô ta bước lên bục. Tôi có cảm giác như mình giống như một diễn giả hạng ba tại một hội nghị tầm thường: tôi trong bộ đồ công sở màu xanh, diễn thuyết trước đám khán giả mỏi mệt đang mơ màng về thứ họ sẽ ăn vào bữa trưa. Tuy vậy, tôi có thể nhận thấy đám nhà báo đã hào hứng hẳn lên khi thoáng thấy tôi xuất hiện - nói thẳng ra là: một gã đàn ông trẻ tuổi đẹp trai - rồi sau đó người phụ nữ phụ trách truyền thông kia đặt lên chiếc giá gần đó tấm ảnh phóng to của Amy được in trên mặt bìa cứng, một bức ảnh chụp Amy xinh đẹp vô cùng, với khuôn mặt khiến người ta phải dò xét tỉ mỉ: Có thể nào cô ấy lại xinh đẹp đến thế sao? Có thể chứ, cô ấy xinh đẹp như vậy đấy, và tôi chăm chú nhìn vào bức ảnh khi hàng loạt ống kính giương lên để ghi lại khoảnh khắc tôi đang nhìn nó. Tôi nhớ ngày hôm ấy ở New York khi tôi gặp lại cô ấy: mái tóc vàng óng ả và chiếc gáy đó là tất cả những gì mà tôi nhìn thấy, nhưng tôi biết ngay đấy là Amy và tôi xem nó như một dấu hiệu. Đã có hàng triệu cái đầu mà tôi từng thấy trong đời mình, nhưng tôi biết chiếc hộp sọ xinh đẹp đang thấp thoáng ngay trước mặt tôi trên Đại lộ số Bảy kia chính là của Amy. Tôi biết đó chính là cô ấy, và rằng chúng tôi sẽ ở bên nhau.
Máy ảnh chớp liên tục. Tôi quay đi và nhìn thấy những đốm sáng. Thật kỳ lạ. Đó là điều mà người ta luôn thốt lên để mô tả những khoảnh khắc không bình thường. Tôi nghĩ: Các người chẳng biết quái gì về những điều kỳ lạ hết. Cảm giác khó chịu đang thực sự dâng lên, mắt trái của tôi giật giật như nhịp tim đập vậy.
Tiếng máy bấm lách tách. Hai gia đình đứng cùng nhau, tất cả chúng tôi đều đang mím môi. Margo là người duy nhất trông còn giống con người thật sự. Còn lại đám chúng tôi đều trông như những kẻ đóng thế, thân thể đã được di chuyển và dựng lên trên bục. Thậm chí Amy ở trên giá ảnh trông còn hiện thực hơn. Trước đây chúng tôi đã từng xem những cuộc họp báo như thế này về những phụ nữ mất tích. Giờ thì chúng tôi đang bị ép diễn cảnh đó theo những gì mà người xem truyền hình mong đợi: một gia đình đang lo lắng nhưng tràn đầy hy vọng. Đôi mắt đờ đẫn như nghiện cà phê và cánh tay thõng thượt như tay búp bê vải.
Tên của tôi được xướng lên, cả căn phòng đồng loạt nín thở chờ đợi. Buổi trình diễn bắt đầu.
Sau này khi xem lại phần phát sóng, tôi đã không thể nhận ra giọng nói và gần như cũng không thể nhận ra gương mặt của chính mình. Hơi men chếnh choáng vẫn còn dưới lớp da mặt khiến tôi trông như một tên lưu manh bị thịt, chỉ đủ biểu cảm để diễn một vai đầy tai tiếng. Tôi đã lo lắng là giọng mình sẽ bị run, vì thế tôi đã điều chỉnh giọng quá mức khiến nhiều từ bị nuốt mất, cứ như tôi đang đọc báo cáo chứng khoán vậy. "Chúng tôi chỉ muốn Amy an toàn trở về nhà..." Hoàn toàn không thuyết phục và rời rạc. Có lẽ tôi đang đọc ngẫu nhiên những con số cũng nên.
Rand Elliott bước lên và cố cứu nguy cho tôi: "Con gái chúng tôi, Amy, là một cô gái đáng yêu và sôi nổi. Đó là đứa con duy nhất của chúng tôi. Con bé thông minh, xinh đẹp và tốt bụng. Thực sự con bé là một Amy tuyệt vời. Chúng tôi mong con mình sẽ trở về. Nick mong vợ mình sẽ trở về." Ông ta đặt một tay lên vai tôi, lau nước mắt, và tuy không hề chủ ý nhưng tôi bỗng trở nên sắt đá. Hình ảnh cha tôi lại xuất hiện: Đàn ông không được khóc.
Rand nói tiếp: "Tất cả chúng tôi đều mong muốn Amy trở về nơi mà con bé gắn bó, về với gia đình. Chúng tôi vừa lập một trung tâm chỉ huy ở khách sạn Days Inn..."
Những tin tức đó sẽ được kèm theo hình ảnh của Nick Dunne, chồng của người phụ nữ mất tích, đang cứng rắn đứng bên cạnh bố vợ, tay khoanh trước ngực, mắt đờ đẫn, trông tẻ ngắt khi cha mẹ vợ đang rơi nước mắt. Và còn tệ hơn. Câu trả lời chậm chạp của tôi, sự cần thiết phải nhắc nhở mọi người rằng tôi không phải là một thằng khốn nạn, tôi là một gã trai tử tế bất chấp ánh nhìn chăm chăm vô cảm và khuôn mặt kiêu căng đáng ghê tởm của mình.
Thế nên mới đột nhiên xuất hiện cảnh tượng đó: Rand mỉm một nụ cười chết người khi khẩn cầu sự trở về của con gái ông ấy.
Tôi đã không nghe lời Go về việc uống say quá mức. Tôi ngồi một mình trên chiếc tràng kỷ ở nhà Go, uống hết nửa chai, cho đến khi thứ adrenaline trong tôi bùng phát lần thứ mười tám thì tôi tự nhủ mình phải đi ngủ thôi: Mí mắt tôi sụp xuống, khi tôi di chuyển chiếc gối với đôi mắt nhắm nghiền thì tôi thấy vợ mình, mái tóc vàng của cô ấy bết lại vì máu, mù lòa và khóc lóc trong đau đớn, lê thân mình dọc theo sàn bếp, la hét gọi tên tôi. Nick, Nick, Nick!
Tôi giật ngửa chai rượu liên tục, chuẩn bị tinh thần để ngủ - một thói quen đã mất. Giấc ngủ giống hệt như một con mèo: Nó chỉ đến bên khi người ta lờ nó đi. Tôi uống thêm và tiếp tục câu thần chú của mình. Đừng nghĩ nữa, một ngụm lớn, để cho đầu óc trống rỗng, một ngụm nữa, nào, ngay bây giờ, nghiêm túc đi, không nghĩ gì nữa, hãy làm thế ngay, lại một ngụm nữa. Ngày mai mày cần phải tỉnh táo, mày cần phải ngủ! Lại tiếp một hơi. Tôi chẳng còn làm gì được ngoài việc chợp mắt một lúc tới khi trời sáng. Một giờ sau đó tôi tỉnh dậy và cảm thấy khó chịu vì dư lượng cồn. Không phải cảm giác mệt mỏi, mà dễ chịu hơn. Tôi cảm thấy yếu đuối và uể oải. Mùi hôi. Có lẽ tôi vẫn hơi say. Tôi bước chệnh choạng tới chiếc bên chiếc Subaru của Go, cảm giác rất kỳ quái như thể chân tôi đang đi giật lùi vậy. Tôi có quyền sở hữu tạm thời đối với chiếc xe này, cảnh sát đã nhã nhặn đề nghị tạm giữ chiếc Jetta được gìn giữ cẩn thận của tôi để điều tra, cả máy tính xách tay nữa - tất cả chỉ mang tính thủ tục, đó là những gì tôi đã được đảm bảo. Tôi lái xe về nhà để tìm vài bộ đồ nào đó cho đàng hoàng.
Ba chiếc xe tuần tra của cảnh sát đỗ trước khu nhà tôi ở, mấy người hàng xóm đang đi lại quanh đó. Không có Carl, nhưng có Jan Teverer - người phụ nữ theo Cơ đốc giáo - và Mike, ông bố của ba đứa trẻ ba tuổi được sinh ba nhờ thụ tinh trong ống nghiệm, có tên là Taylor, Topher và Talullah ("Em ghét những cái tên đó." Amy, một thẩm phán khó tính đối với bất cứ thứ gì theo mốt, đã phát biểu như vậy. Khi tôi đề cập rằng cái tên Amy cũng từng rất được ưa chuộng, thì vợ tôi nói: "Nick, anh biết câu chuyện về tên của em mà." Tôi đã không hiểu cô ấy muốn nói về chuyện gì.)
Jan gật đầu từ đằng xa mà không nhìn vào mắt tôi, nhưng Mike bước vội đến khi tôi vừa xuống xe. "Tôi rất lấy làm tiếc, anh bạn, bất cứ việc gì tôi có thể làm, cứ cho tôi biết nhé. Bất cứ việc gì.Sáng nay tôi đã cắt cỏ rồi, nên ít nhất anh không phải lo lắng về việc đó."
Mike và tôi thay nhau cắt cỏ tại những ngôi nhà bỏ hoang do bị tịch thu thế nợ ở trong khu. Những cơn mưa lớn vào mùa xuân đã biến khoảng sân của những ngôi nhà đó thành một khu rừng nhiệt đới, thu hút cả một bầy chồn hương lui tới. Chồn hương có ở khắp mọi nơi, cứ đêm đến chúng lại gặm nhấm rác rưởi, lẻn vào tầng hầm nhà chúng tôi, nhiều khi còn nằm cả trên hiên nhà như những con thú cưng lười biếng. Việc cắt cỏ xem ra không có tác dụng gì trong việc đuổi chúng đi, nhưng ít ra bây giờ chúng tôi có thể quan sát chúng mỗi khi chúng đến gần.
"Cảm ơn, cảm ơn anh bạn." Tôi nói.
"Anh biết không, vợ tôi, cô ấy đã hoảng loạn kể từ lúc biết chuyện." Anh ta nói. "Hoàn toàn hoảng loạn."
"Tôi rất tiếc khi nghe vậy." Tôi nói. "Tôi phải..." Vừa nói tôi vừa chỉ về phía cửa ra vào.
"Vợ tôi chỉ ngồi đó khóc lóc nhìn bức ảnh của Amy."
Tôi chẳng ngạc nhiên khi cả nghìn bức ảnh sau một đêm đã ngập tràn trên Internet, chỉ để đáp ứng nhu cầu thương cảm của đám đàn bà như vợ Mike. Tôi chẳng khoái những nữ hoàng giả dối kiểu như thế.
"Này, tôi muốn hỏi..." Mike bắt đầu.
Tôi vỗ vào cánh tay anh ta và chỉ vào cửa lần nữa, như thể đang có việc rất gấp vậy. Rồi tôi quay người bước đi trước khi anh ta có thể hỏi bất cứ câu gì hay đến gõ cửa nhà tôi.
Sĩ quan Velásquez hộ tống tôi lên tầng trên, vào phòng ngủ và sang phòng chứa đồ, đi qua chiếc hộp đựng quà hình lập phương lấp lánh ánh bạc, rồi cô ta để tôi lướt tìm những thứ mình cần. Phải chọn lựa quần áo trước mặt cô gái trẻ với mái tóc nâu dài tết chặt này khiến tôi cảm thấy căng thẳng. Cô ta hẳn là đang phán xét tôi và bình luận gì đó. Rốt cuộc, tôi túm bừa lấy một số thứ: bộ quần áo có phong cách công sở, quần Âu và áo ngắn tay, cứ như thể tôi sắp sửa đi dự hội nghị vậy. Hẳn sẽ có một bài viết thú vị đây, tôi nghĩ bụng, tìm chọn một bộ đồ phù hợp trong khi người thân yêu của mình đang mất tích. Dường như không thể vùi lấp được phần tham lam và thèm khát ý tưởng của một nhà báo ở trong tôi.
Tôi nén chặt đám quần áo vào trong một chiếc túi và quay nhìn chung quanh, thấy hộp quà nằm trên sàn nhà tôi hỏi cô sĩ quan. "Tôi có thể xem bên trong nó được không?"
Cô ta lưỡng lự nhưng sau đó đưa ra quyết định an toàn. "Không được, thưa ông, tôi lấy làm tiếc. Tốt hơn hết không phải lúc này."
Mép giấy gói hộp quà đã bị bóc ra một cách cẩn trọng. "Đã có ai xem bên trong đó chưa?"
Cô ta gật đầu.
Tôi đi vòng qua Velásquez tiến đến chỗ chiếc hộp. "Nếu nó đã được bóc rồi vậy thì..."
Cô ta bước sang chặn trước mặt tôi. "Thưa ông, tôi không thể để ông xem chiếc hộp được."
"Thật nực cười. Đây là món quà mà vợ tôi tặng cho tôi..."
Tôi bước vòng ra phía sau cô ta, cúi xuống, và khi một tay tôi đặt lên góc chiếc hộp thì cô ta đập mạnh cánh tay vào lưng tôi. Tôi cảm thấy cơn thịnh nộ dâng trào, người phụ nữ này tự cho mình có quyền bảo tôi phải làm gì trong ngôi nhà của chính tôi hay sao. Dù tôi có cố gắng đến thế nào để là con trai của mẹ tôi, giọng nói của cha tôi vẫn cứ văng vẳng trong đầu, mang đến những suy nghĩ tồi tệ và những câu nói tục tĩu.
"Thưa ông, đây là hiện trường vụ án, ông…"
Ngữ khốn nạn.
Đột nhiên Riordan, đồng nghiệp của cô ta xuất hiện trong phòng và cũng tham gia ngăn cản tôi. Còn tôi thì cố hất tay bọn họ ra - được rồi, được rồi, mẹ kiếp - và bọn họ buộc tôi phải xuống nhà. Gần cửa chính có một phụ nữ đang bò loay hoay trên mặt đất, khám xét gì đó dọc theo các tấm ván sàn, tôi đoán là tìm vết máu. Cô ta ngước lên thản nhiên nhìn tôi, rồi lại cúi xuống.
Tôi buộc mình phải kiềm chế khi lái xe trở lại nhà Go để thay quần áo. Đây chỉ là một trong chuỗi dài những công việc khó chịu và ngu xuẩn mà cảnh sát sẽ thực hiện trong quá trình điều tra (tôi thích những quy tắc hợp lý, chứ không phải những quy định thiếu logic), vì thế tôi cần phải trấn tĩnh lại: Không được chống đối bọn cớm, tôi tự bảo mình. Lặp lại nếu cần thiết: Không được chống đối bọn cớm.
Tôi chạm mặt với Boney ngay khi bước vào sở cảnh sát. "Bố mẹ vợ anh đang ở đây, Nick ạ." Cô ta nói với thái độ động viên tôi, như thể đang mời tôi một chiếc bánh xốp nướng còn nóng hổi vậy.
Marybeth và Rand Elliott đang đứng đó, vòng tay ôm lấy nhau. Ở giữa sở cảnh sát mà trông họ giống như đang tạo dáng chụp hình ở vũ hội vậy. Đó là kiểu cách mà tôi luôn thấy mỗi khi gặp họ, nắm tay, cọ cằm, hay vuốt má. Bất cứ khi nào đến nhà Elliott, tôi bị ám ảnh là mình phải hắng giọng - tôi sắp vào đấy - bởi vợ chồng Elliott có thể âu yếm nhau ở bất cứ chỗ nào. Họ hôn môi nhau mỗi khi tạm biệt, và Rand sẽ vỗ vào lưng vợ khi ông ta đi ngang qua bà ấy. Việc đó với tôi thật kỳ quặc. Bố mẹ tôi ly hôn khi tôi mới mười hai tuổi, và tôi nghĩ có lẽ khi còn rất nhỏ tôi đã chứng kiến kiểu hôn má không hề có tình cảm gì giữa hai người họ, chỉ vì tình huống khi ấy bắt buộc phải thế. Đó là mỗi dịp Giáng sinh hoặc sinh nhật. Những nụ hôn tẻ nhạt. Ngay cả trong thời kỳ hôn nhân tuyệt vời nhất thì giao tiếp giữa hai người vẫn hoàn toàn chỉ như giao dịch: Chúng ta lại hết sữa rồi. (Hôm nay em sẽ mua một ít.) Tôi muốn cái này phải được là cẩn thận. (Hôm nay em sẽ là.) Mua sữa khó lắm sao? (Im lặng.) Cô quên gọi thợ hàn rồi đấy. (Thở dài.) Mẹ kiếp, mặc áo khoác vào, ngay bây giờ, đi ra ngoài và mua sữa về đây. Ngay lập tức. Kiểu sai bảo và ra lệnh như vậy là của bố tôi, một quản lý cấp trung của công ty điện thoại, người luôn đối xử với mẹ tôi tốt nhất cũng chỉ như với một nhân viên kém cỏi của mình. Còn tệ nhất ư? Ông không bao giờ đánh đập bà, nhưng cơn giận dữ hiển nhiên và vô cớ của ông có thể choán ngợp cả ngôi nhà trong nhiều ngày trời, hàng tuần liền, và khiến cho không khí lúc nào cũng ngột ngạt, khó thở. Bố tôi bực bội đi lại với dáng vẻ bệ vệ, quai hàm dưới đưa ra khiến ông có vẻ ngoài giống với một võ sĩ quyền anh đang bị thương và muốn báo thù, răng nghiến vào nhau kèn kẹt, đến mức người ta có thể nghe rõ từ phía bên kia căn phòng. Ông ném đồ vật về phía mẹ tôi nhưng không trúng người bà. Tôi dám chắc ông đã tự nhủ: Mình không bao giờ đánh đập bà ta. Tôi dám chắc bằng lối hành xử đó, không bao giờ ông ấy coi mình là một kẻ có thể hành hung người khác. Nhưng ông ấy đã biến cuộc sống gia đình chúng tôi trở thành một hành trình dài vô tận, bởi những định hướng tồi cùng một người cầm lái luôn chất chứa trong mình những cơn thịnh nộ dồn nén. Một kỳ nghỉ không bao giờ có cơ hội được vui vẻ. Đừng khiến tôi phải quay xe lại. Sự thực là, làm ơn hãy quay xe lại đi.
Tôi không nghĩ cách hành xử của ông ấy cá biệt đối với mẹ. Chỉ là ông ấy không ưa phụ nữ. Ông ấy nghĩ tất cả bọn họ đều ngu ngốc, tầm thường, khó chịu. Cái ngữ khốn nạn ngu đần ấy. Đó là những lời ưa thích của ông ấy dành cho bất cứ phụ nữ nào khiến ông ấy bực mình: nữ tài xế, nữ bồi bàn, các giáo viên phổ thông của chúng tôi, dù ông ấy chưa thực sự gặp một ai trong số họ. Những cuộc họp phụ huynh xem ra đều thối nát hết cả vì đám đàn bà, cũng như chính bản chất của bọn họ. Tôi vẫn nhớ khi Geraldine Ferraro được xướng tên là ứng cử viên Phó tổng thống năm 1984, lúc ấy cả nhà đang xem thời sự trước bữa tối. Mẹ tôi, người mẹ bé nhỏ yêu dấu của tôi, đã đặt một tay lên gáy Go và nói: "Chà, em nghĩ tin này thật tuyệt." Thế là bố tôi đã tắt phụt tivi đi và nói: "Đó là một trò đùa. Cô thừa hiểu đó là một trò đùa chết tiệt. Cứ như đang xem một con khỉ đi xe đạp vậy."
Phải mất năm năm sau, cuối cùng mẹ tôi đã quyết định là bà quá mệt mỏi. Một ngày nọ tôi từ trường về nhà, bố tôi đã bỏ đi. Buổi sáng ông ấy vẫn ở nhà nhưng buổi chiều thì không còn nữa. Mẹ bảo chúng tôi ngồi xuống quanh bàn ăn và thông báo: "Bố các con và mẹ đã quyết định sẽ tốt hơn cho tất cả mọi người nếu bố mẹ chia tay." Go đã òa khóc rồi nói: "Tốt thôi, con ghét cả hai người!" và rồi, thay vì chạy về phòng như kịch bản phải thế, con bé chạy đến và ôm chầm lấy mẹ.
Vậy là bố tôi đã ra đi còn người mẹ gầy gò, đau khổ của tôi đã lên cân và vui vẻ - tuy lên cân vừa phải nhưng bà vô cùng hạnh phúc, như thể bà đã mong đợi ngày đó từ lâu lắm rồi - một quả bóng xịt hơi được bơm đầy không khí. Trong vòng một năm, bà dần trở thành một người phụ nữ bận rộn, sôi nổi và vui tươi như chính con người bà cho tới lúc mất. Chị gái của bà đã nói những lời như thể người phụ nữ đã nuôi nấng chúng tôi chỉ là một kẻ mạo danh vậy: "Ơn trời, Maureen của ngày xưa đã quay trở lại."
Còn về phía bố tôi, trong nhiều năm liền tôi nói chuyện với ông qua điện thoại, khoảng một tháng một lần. Cuộc chuyện trò lễ phép và đủ thông tin, đúng nghĩa thuật lại những gì đã xảy ra. Câu hỏi duy nhất ông từng hỏi về Amy là "Amy thế nào rồi?", thực sự chẳng có ý khơi gợi bất cứ câu trả lời nào khác ngoài "Cô ấy vẫn ổn." Ông vẫn ngoan cố giữ khoảng cách, kể cả lúc ông mắc chứng bệnh mất trí nhớ và đã ngoài sáu mươi tuổi. Nếu bạn luôn sớm thì bạn sẽ không bao giờ muộn. Đó là câu thần chú của bố tôi, và nó bao gồm cả sự bắt đầu của căn bệnh Alzheimer - một sự xuống cấp từ từ về sức khỏe sau đó chuyển sang cú tuột dốc đột ngột, buộc chúng tôi phải chuyển người bố không phụ thuộc và căm ghét phụ nữ của mình đến một khu nhà rộng lớn, lúc nào cũng nặng mùi canh gà và nước tiểu, nơi mà những người phụ nữ luôn ở bên cạnh giúp đỡ ông. Ha.
Bố tôi có những hạn chế của mình. Đó là điều mà người mẹ nhân hậu đã luôn nhắc nhở chúng tôi. Ông ấy cũng có khiếm khuyết, nhưng vô hại. Mẹ tôi đã quá tốt bụng khi nói vậy, nhưng sự thực ông ấy không vô hại. Tôi ngờ rằng việc em gái tôi không có ý kết hôn bởi con bé sợ rằng đàn ông sẽ làm nó phải rơi những giọt nước mắt ủy mị. Nếu con bé buồn, bối rối hay tức giận, nó chỉ cần được ở một mình. Tôi cũng yếu đuối như thế. Những điểm tốt tôi có được là từ mẹ. Tôi có thể nói đùa, có thể cười, có thể trêu ghẹo, tán dương, ủng hộ và khen ngợi - hay nói đơn giản là tôi có thể nhìn cuộc sống tích cực, nhưng tôi không thể đối phó được với những người phụ nữ hay cáu kỉnh hoặc khóc lóc. Tôi có cảm giác như sự tức giận của bố tôi trỗi dậy trong tôi theo hướng tiêu cực nhất. Amy có thể nói với bạn về điều này. Cô ấy chắc chắn sẽ nói nếu cô ấy ở đây.
Tôi nhìn Rand và Marybeth một lúc trước khi họ thấy tôi. Tôi tự hỏi không biết họ sẽ tức giận với tôi đến mức nào. Tôi đã mắc một tội không thể tha thứ được vì đã thông báo cho họ quá muộn. Vì sự hèn nhát của tôi, buổi tối chơi tennis đó sẽ luôn hằn sâu trong tâm trí họ: một buổi tối vui vẻ với những quả bóng vàng chậm rãi nảy bật trên sân, tiếng giày tennis cọ trên mặt đất, một buổi tối thứ Năm như thường lệ vẫn diễn ra trong khi con gái họ thì đã biến mất.
"Nick." Rand Elliott thốt lên khi phát hiện ra tôi. Ông ấy bước ba bước dài về phía tôi, và khi tôi gồng mình lên chờ đợi một cú đấm thì ông ấy ôm chặt lấy tôi một cách tuyệt vọng.
"Làm thế nào mà con chịu đựng được vậy?" Ông ấy thì thầm bên cổ tôi rồi bắt đầu run lên bần bật. Cuối cùng, ông ấy nấc lên một tiếng the thé, khóc lóc thổn thức và giữ chặt hai cánh tay tôi. "Chúng ta sẽ tìm thấy Amy, Nick. Sẽ là như thế. Con hãy tin vào điều đó, được chứ?" Rand Elliott giữ tôi với cái nhìn đau đáu từ đôi mắt xanh thẳm của ông ấy vài giây, rồi sau đó lại thổn thức - ông ấy ỏn ẻn bật ra ba hơi thở hổn hển như tiếng nấc cụt - còn Marybeth bước đến chỗ chúng tôi, vùi khuôn mặt mình dưới cánh tay của ông chồng.
Khi chúng tôi buông nhau ra, bà ấy ngước nhìn tôi bằng đôi mắt to đẹp hút hồn của mình. "Đó chỉ là... chỉ là một cơn ác mộng chết tiệt thôi." Bà ấy nói. "Con có khỏe không, Nick?"
Khi Marybeth hỏi Con có khỏe không, đó không phải là phép lịch sự mà là một câu hỏi về sự tồn tại. Bà ấy dò xét khuôn mặt tôi, chắc chắn là bà ấy đang dò xét và sẽ còn tiếp tục lưu lại từng suy nghĩ và hành động của tôi. Vợ chồng nhà Elliott tin rằng mỗi đặc điểm đều đáng được lưu ý, đánh giá và phân loại. Chúng đều có ý nghĩa nào đó và có thể hữu ích. Mẹ, bố, đứa trẻ, ba loại người bậc cao với ba cấp độ tiên tiến trong tâm lý học - họ suy nghĩ vào thời điểm trước chín giờ sáng nhiều hơn so với suy nghĩ trong cả tháng của hầu hết mọi người. Tôi nhớ có lần tôi từ chối một chiếc bánh anh đào trong bữa tối, và Rand đã ngẩng đầu lên nói: "A! Một kẻ bài trừ những phong tục truyền thống. Khinh thường chủ nghĩa yêu nước tượng trưng và dễ dãi." Khi tôi cố cười xòa và nói rằng tôi không thích cả cocktail anh đào nữa, Marybeth đã huých vào cánh tay Rand: "Do cuộc ly hôn của bố mẹ thôi. Tất cả những món ăn dễ tiêu hóa và những món tráng miệng mà cả gia đình thường ăn cùng nhau, chúng là những ký ức buồn đối với Nick."
Nghe thật ngớ ngẩn nhưng cũng vô cùng dễ thương. Những con người này đang tốn quá nhiều năng lượng để tìm hiểu xem tôi là người thế nào. Câu trả lời đơn giản chỉ là: Tôi không thích anh đào.
Đến mười một rưỡi thì sở cảnh sát trở nên náo nhiệt. Tiếng chuông điện thoại đổ dồn, mọi người gọi nhau qua lại náo loạn cả căn phòng. Một phụ nữ mà tôi chưa từng nghe tên, người mà tôi chỉ nhớ là có cái đầu ngọ nguậy liên tục và nói rất nhiều, đột nhiên xuất hiện bên cạnh tôi. Tôi không biết cô ta đã ở đó được bao lâu rồi: "...và điểm cốt lõi là, Nick, phải để mọi người tìm kiếm Amy, để họ biết rằng cô ấy có một gia đình thương yêu mình và mong ngóng cô ấy trở về. Việc này phải được kiểm soát chặt chẽ. Nick, anh phải để tâm... Nick?"
"Vâng."
"Người ta sẽ muốn nghe một lời tuyên bố ngắn gọn từ chồng của cô ấy."
Ở phía bên kia căn phòng, Go đang lao như tên bắn về phía tôi. Con bé đã đưa tôi đến sở cảnh sát trước rồi mới ghé qua Quán Bar lo toan mọi việc ở đó trong khoảng nửa tiếng, và giờ thì Go đã quay lại và hành động như thể con bé đã bỏ rơi tôi cả một tuần rồi. Go chạy vòng vèo qua những chiếc bàn, với dáng vẻ gọn gàng và trang nghiêm tĩnh tại, chẳng cần quan tâm tới viên sĩ quan trẻ - người rõ ràng được chỉ định để đưa con bé vào đây.
"Cho tới giờ mọi việc vẫn ổn chứ?" Go vừa hỏi vừa quàng một cánh tay ôm chặt lấy tôi, một cái ôm kiểu đàn ông. Con cái nhà Dunne chẳng biết ôm thế nào cho đúng cách. Ngón cái của Go đặt lên đúng đầu ngực bên phải của tôi. "Em ước gì Mẹ ở đây." Con bé thì thầm, thật trùng hợp với điều tôi đang nghĩ. "Vẫn không có tin tức gì sao?" Con bé hỏi khi buông tôi ra.
"Không, chẳng hề có một tin chết tiệt nào..."
"Trông như thể anh đang cảm thấy rất tệ ấy."
"Anh cảm thấy như cứt." Tôi đang định nói mình là một thằng ngu vì đã không nghe lời con bé về việc uống rượu.
"Nếu là mình, hẳn em cũng đã nốc cạn chai luôn." Go vỗ vai tôi nói.
"Sắp đến giờ rồi." Người phụ nữ phụ trách truyền thông nói và lại xuất hiện một cách kỳ diệu.
"Số lượng người tham dự không tệ lắm vào dịp cuối tuần thứ tư của tháng Bảy như thế này." Cô ta bắt đầu lùa chúng tôi vào một phòng họp tối tăm với mành cửa nhôm và những chiếc ghế gấp, cùng một nhóm phóng viên trông tẻ ngắt, rồi cô ta bước lên bục. Tôi có cảm giác như mình giống như một diễn giả hạng ba tại một hội nghị tầm thường: tôi trong bộ đồ công sở màu xanh, diễn thuyết trước đám khán giả mỏi mệt đang mơ màng về thứ họ sẽ ăn vào bữa trưa. Tuy vậy, tôi có thể nhận thấy đám nhà báo đã hào hứng hẳn lên khi thoáng thấy tôi xuất hiện - nói thẳng ra là: một gã đàn ông trẻ tuổi đẹp trai - rồi sau đó người phụ nữ phụ trách truyền thông kia đặt lên chiếc giá gần đó tấm ảnh phóng to của Amy được in trên mặt bìa cứng, một bức ảnh chụp Amy xinh đẹp vô cùng, với khuôn mặt khiến người ta phải dò xét tỉ mỉ: Có thể nào cô ấy lại xinh đẹp đến thế sao? Có thể chứ, cô ấy xinh đẹp như vậy đấy, và tôi chăm chú nhìn vào bức ảnh khi hàng loạt ống kính giương lên để ghi lại khoảnh khắc tôi đang nhìn nó. Tôi nhớ ngày hôm ấy ở New York khi tôi gặp lại cô ấy: mái tóc vàng óng ả và chiếc gáy đó là tất cả những gì mà tôi nhìn thấy, nhưng tôi biết ngay đấy là Amy và tôi xem nó như một dấu hiệu. Đã có hàng triệu cái đầu mà tôi từng thấy trong đời mình, nhưng tôi biết chiếc hộp sọ xinh đẹp đang thấp thoáng ngay trước mặt tôi trên Đại lộ số Bảy kia chính là của Amy. Tôi biết đó chính là cô ấy, và rằng chúng tôi sẽ ở bên nhau.
Máy ảnh chớp liên tục. Tôi quay đi và nhìn thấy những đốm sáng. Thật kỳ lạ. Đó là điều mà người ta luôn thốt lên để mô tả những khoảnh khắc không bình thường. Tôi nghĩ: Các người chẳng biết quái gì về những điều kỳ lạ hết. Cảm giác khó chịu đang thực sự dâng lên, mắt trái của tôi giật giật như nhịp tim đập vậy.
Tiếng máy bấm lách tách. Hai gia đình đứng cùng nhau, tất cả chúng tôi đều đang mím môi. Margo là người duy nhất trông còn giống con người thật sự. Còn lại đám chúng tôi đều trông như những kẻ đóng thế, thân thể đã được di chuyển và dựng lên trên bục. Thậm chí Amy ở trên giá ảnh trông còn hiện thực hơn. Trước đây chúng tôi đã từng xem những cuộc họp báo như thế này về những phụ nữ mất tích. Giờ thì chúng tôi đang bị ép diễn cảnh đó theo những gì mà người xem truyền hình mong đợi: một gia đình đang lo lắng nhưng tràn đầy hy vọng. Đôi mắt đờ đẫn như nghiện cà phê và cánh tay thõng thượt như tay búp bê vải.
Tên của tôi được xướng lên, cả căn phòng đồng loạt nín thở chờ đợi. Buổi trình diễn bắt đầu.
Sau này khi xem lại phần phát sóng, tôi đã không thể nhận ra giọng nói và gần như cũng không thể nhận ra gương mặt của chính mình. Hơi men chếnh choáng vẫn còn dưới lớp da mặt khiến tôi trông như một tên lưu manh bị thịt, chỉ đủ biểu cảm để diễn một vai đầy tai tiếng. Tôi đã lo lắng là giọng mình sẽ bị run, vì thế tôi đã điều chỉnh giọng quá mức khiến nhiều từ bị nuốt mất, cứ như tôi đang đọc báo cáo chứng khoán vậy. "Chúng tôi chỉ muốn Amy an toàn trở về nhà..." Hoàn toàn không thuyết phục và rời rạc. Có lẽ tôi đang đọc ngẫu nhiên những con số cũng nên.
Rand Elliott bước lên và cố cứu nguy cho tôi: "Con gái chúng tôi, Amy, là một cô gái đáng yêu và sôi nổi. Đó là đứa con duy nhất của chúng tôi. Con bé thông minh, xinh đẹp và tốt bụng. Thực sự con bé là một Amy tuyệt vời. Chúng tôi mong con mình sẽ trở về. Nick mong vợ mình sẽ trở về." Ông ta đặt một tay lên vai tôi, lau nước mắt, và tuy không hề chủ ý nhưng tôi bỗng trở nên sắt đá. Hình ảnh cha tôi lại xuất hiện: Đàn ông không được khóc.
Rand nói tiếp: "Tất cả chúng tôi đều mong muốn Amy trở về nơi mà con bé gắn bó, về với gia đình. Chúng tôi vừa lập một trung tâm chỉ huy ở khách sạn Days Inn..."
Những tin tức đó sẽ được kèm theo hình ảnh của Nick Dunne, chồng của người phụ nữ mất tích, đang cứng rắn đứng bên cạnh bố vợ, tay khoanh trước ngực, mắt đờ đẫn, trông tẻ ngắt khi cha mẹ vợ đang rơi nước mắt. Và còn tệ hơn. Câu trả lời chậm chạp của tôi, sự cần thiết phải nhắc nhở mọi người rằng tôi không phải là một thằng khốn nạn, tôi là một gã trai tử tế bất chấp ánh nhìn chăm chăm vô cảm và khuôn mặt kiêu căng đáng ghê tởm của mình.
Thế nên mới đột nhiên xuất hiện cảnh tượng đó: Rand mỉm một nụ cười chết người khi khẩn cầu sự trở về của con gái ông ấy.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.