Chương 45: Cánh Cửa Phương Tiện
Thích Nhất Hạnh
31/07/2021
Một buổi sáng khi đi ra hồ lấy nước, đại đức A Nan Đà gặp lệnh bà Kiều Đàm Di và khoảng năm mươi người phụ nữ đứng phía bên ngoài tịnh xá của Bụt, người nào cũng đã xuống tóc, người nào cũng khoác y vàng, và bàn chân người nào cũng sưng vù và chảy máu. Ban đầu, thầy tưởng đó là một nhóm khất sĩ, nhưng nhìn kỹ lại thầy mới biết là không phải. Ngạc nhiên đến cực độ, thầy tới hỏi bà Kiều Đàm Di:
– Trời ơi, lệnh bà đi đâu mà mới sáng tinh sương đã thấy đứng ở đây, chân cẳng tại sao sưng trầy và chảy máu? Và còn các công nương nữa…
Bà Kiều Đàm Di nói:
– Đại đức A Nan Đà, chúng tôi đã xuống tóc, đã bỏ hết đồ trang sức, đã từ bỏ hết mọi tiện nghi vật chất trong cuộc đời. Chúng tôi đã đi bộ từ Ca Tỳ La Vệ tới đây, từ hơn mười lăm hôm nay và đã xin ăn dọc đường. Chúng tôi muốn chứng tỏ rằng chúng tôi cũng có khả năng sống đời sống của người xuất gia được. Đại đức A Nan Đà, xin đại đức bạch giùm với Bụt cách nào để chị em chúng tôi được chấp nhận vào giới xuất gia.
A Nan Đà nói:
– Lệnh bà và các công nương hãy cứ đứng chờ đây. Tôi sẽ vào thưa ngay với Bụt. Tôi hứa sẽ làm hết sức của tôi.
Đại đức vào trong tịnh xá khi Bụt mới thay áo xong.
Đại đức Nagita hiện là thị giả của người cũng có mặt trong tịnh thất. Thầy bạch với Bụt những điều mà thầy vừa trông thấy và nghe thấy. Bụt im lặng. Một hồi sau, thầy hỏi Bụt:
– Thế Tôn, người nữ xuất gia và tu hành theo chính phápthì có thể chứng ngộ được những quả vị như Nhập Lưu, Nhất Hoàn, Bất Hoàn hay A La Hán không?
Bụt nói:
– Được chứ.
– Vậy thì tại sao Bụt không cho người nữ xuất gia? Thế Tôn, lệnh bà Kiều Đàm Di là người đã chăm sóc và nuôi nấng Bụt ngay từ khi Bụt mới sinh ra, và thương yêu Bụt không khác gì một người mẹ đẻ. Lệnh bà đã xuống tóc, đã cởi bỏ hết mọi trang sức, đã đi chân đất từ thành Ca Tỳ La Vệ về tới đây. Lệnh bà muốn chứng tỏ rằng những gì đàn ông làm được thì người đàn bà cũng có thể làm được. Xin Bụt từ bi cho lệnh bà được xuất gia trong giáo pháp của người.
Bụt lặng thinh, một lát sau, người bảo thầy Nagita đi tìm các đại đức Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nậu Lâu Đà, Bhaddiya, Kimbala, và MahaCa Diếp và mời họ đến cho người thỉnh ý.
Bụt và các vị đệ tử phụ tá hội ý khá lâu. Bụt nói Bụt không kỳ thị người nữ, nhưng người chưa nghĩ ra được cách thức chấp nhận những người nữ vào trong giáo đoàn mà không tạo ra những trở ngại trong nội bộ cũng như từ bên ngoài.
Sau một hồi trao đổi ý kiến, đại đức Xá Lợi Phất nói:
– Lệnh bà Kiều Đàm Di lâu nay là một người có quyền hành và ảnh hưởng rất lớn trong hoàng tộc cũng như ngoài xã hội, theo như lời đại đức Bhaddhiya đã nói. Nếu ta không có một pháp chế quy định sự phân biệt nam nữ và quyền hạn cho rõ rệt thì sau này có thể có những rắc rối xảy ra. Ta cần có một pháp chế như thế. Pháp chế này đồng thời cũng là để giảm thiểu những phản ứng bên ngoài của một xã hội đã ngàn đời có tính cách trọng nam khinh nữ. Tôi đề nghị một pháp chế tám điểm như sau:
Thứ nhất, một vị nữ khất sĩ – bhikkhuni – phải luôn luôn cung kính chào hỏi một vị nam khất sĩ – bhikkhu – dù vị nữ khất sĩ này tuổi đời lớn hơn và tuổi tu cũng lớn hơn vị nam khất sĩ.
Thứ hai, các vị nữ khất sĩ phải tìm về an cư mỗi nămở những trung tâm nào có đoàn thể nam khất sĩ để nương tựa và học hỏi.
Thứ ba, cứ mỗi tháng hai kỳ, giới nữ khất sĩ phải cử người đi thỉnh chúng nam khất sĩ chỉ định ngày bố tát – uposatha – và cử người đến thăm viếng, giáo huấn và khích lệ việc tu học của nữ chúng.
Thứ tư, vào ngày kết thúc mùa an cư, vị nữ khất sĩ phải dự lễ tự tứ và cầu chỉ giáo về sự tu học của mình, không những ở trung tâm nữ khất sĩ của mình mà còn ở trung tâm của vị nam khất sĩ nữa.
Thứ năm, khi phạm giới, vị nữ khất sĩ phải sám hối trước cả hai chúng nam và nữ.
Thứ sáu, những người nữ, sau thời gian tập sự xuất gia, phải cầu xuất gia thọ đại giới trước cả hai chúng nam và nữ.
Thứ bảy, một vị nữ khất sĩ không được nói hành và chỉ trích một vị nam khất sĩ.
Thứ tám, vị nữ khất sĩ không được phép giảng dạy cho đoàn thể các vị nam khất sĩ.
Đại đức Mục Kiền Liên cười:
– Tám điều này rõ rệt là có kỳ thị người nữ rồi, sao lại nói là không kỳ thị?
Đại đức Xá Lợi Phất đáp:
– Tám điều này được đưa ra với mục đích chính là mở được cửa cho giới phụ nữ đi vào giáo đoàn. Mục đích của nó không phải là kỳ thị, mà là chấm dứt sự kỳ thị. Điều cốt yếu là người phụ nữ được xuất gia, sư huynh không thấy điều đó sao?
Đại đức Mục Kiền Liên mỉm cười gật đầu, tỏ vẻ thông cảm sâu xa với bạn. Đại đức Bhaddiya góp ý:
– Tôi thấy pháp chế “Bát kính” rất cần thiết. Lệnh bà Kiều Đàm Di là một người có quyền hành lớn, lại là mẹ của đức Thế Tôn. Nếu không có pháp chế “Bát kính” thì bà sẽ không thấy được ranh giới quyền hạn của bà, và sẽ không có ai có khả năng điều chỉnh bà ngoài Bụt.
Bụt bảo A Nan Đà:
– A Nan Đà, thầy hãy ra bảo cho lệnh bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề biết tin này. Thầy nói rằng nếu lệnh bà chấp nhận tám điều gọi là “Bát kính pháp” vừa nói thì lệnh bà sẽ được phép xuất gia.
Lúc A Nan Đà ra thì mặt trời đã lên tới đỉnh đầu, nhưng bà Kiều Đàm Di và các vị công nương vẫn còn đứng chờ ngoài ngõ. Sau khi nghe nội dung “Bát kính pháp”, bà Kiều Đàm Di nói:
– Đại đức A Nan Đà, xin đại đức bạch với đức Thế Tôn rằng, khi một cô gái xinh đẹp và trẻ trung mới tắm và gội đầu bằng nước thơm, mà sẵn có người ta đem tới cho vành hoa kết bằng hoa sen hoặc bằng hoa hồng thơm ngát, thì cô gái sẽ sung sướng đưa hai tay đón nhận và để trên đầu mình; cũng như thế, tôi rất sung sướng chấp nhận pháp chế “tám sự cung kính” và hành trì theo suốt đời, nếu tôi được phép xuất gia.
Đại đức A Nan Đà hoan hỷ vào báo tin này với Bụt. Trong số các vị công nương đi theo, có người nhìn đức bà Kiều Đàm Di có ý như dò hỏi. Bà mỉm cười nói:
– Các em đừng e ngại, điều quan trọng nhất là chúng ta được xuất gia làm nữ khất sĩ. Những điều trong “Bát kính pháp” không phải là những trở ngại cho sự tu học của chúng ta, mà chính là cửa ngõ để chúng ta đi vào.
Năm mươi mốt người nữ được làm lễ xuất gia ngay trong ngày hôm đó. Đại đức Xá Lợi Phất sắp đặt để các vị này có ngay một trung tâm tạm cư. Nữ cư sĩ Ambapali vui lòng để cho các vị nữ khất sĩ được sử dụng vườn xoài của bà để làm chốn tu học. Đại đức Xá Lợi Phất cũng được Bụt ủy thác việc dạy các vị nữ khất sĩ những phép tắc hành trì sơ đẳng của đời sống xuất gia.
Sau đó tám hôm, nữ khất sĩ Ma Ha Ba Xà Ba Đề tới xin tham vấn Bụt, bà thưa:
– Thế Tôn, xin người từ bi dạy cho tôi vắn tắt cách hành trì để tôi có thể tiến mau trên đường giải thoát.
Bụt nói:
– Nữ khất sĩ Ma Ha Ba Xà Ba Đề! Điều quan yếu nhất là phải nắm lấy tâm ý của mình. Phải học phương pháp theo dõi hơi thở và quán niệm về bốn lãnh vực thân thể, cảm thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý. Quán niệm như thế nào để càng ngày càng thấy phát triển nơi mình các đức khiêm nhường, thanh thản, buông bỏ, thanh bần và an lạc. Khi những phẩm chất ấy của tâm ý được phát triển, mình có thể an tâm là mình đang đi trên con đường chánh pháp, con đường tỉnh thức và giác ngộ.
Nữ khất sĩ Ma Ha Ba Xà Ba Đề rất hoan hỷ, bà từ giã Bụt và trở về với các vị nữ khất sĩ đồng tu. Bà dự tính sẽ thiết lập một trung tâm tu học cho ni chúng ngay tại Tỳ Xá Ly này để có thể được gần gũi và học hỏi với Bụt và với các vị đệ tử lớn của người, ít nhất là trong thời gian Bụt còn lưu trú tại đây. Bà lại có ý nguyện trở về Ca Tỳ La Vệ để mở một trung tâm tu học cho ni chúng ngay tại quê hương mình.
Ngay hôm đó, bà nhờ người về báo tin mừng cho công nương Da Du Đà La tại Ca Tỳ La Vệ, Bà biết rằng tin nữ giới được chấp thuận vào giáo đoàn khất sĩ sẽ nổ tung ra như một tiếng sét và sẽ có rất nhiều phản ứng trong xã hội. Người ta sẽ lên án và công kích Bụt cùng giáo đoàn. Bụt và giáo đoàn sẽ gặp những khó khăn không thể nào lường trước được. Nghĩ đến đó, bà thấy một niềm biết ơn tràn ngập tâm tưởng bà. Bà thấy rõ pháp chế “Bát kính” không phải là những điều kỳ thị nữ giới mà lại là những phương tiện bảo vệ và che chở cho giáo đoàn trong đó có nữ giới. Bà tin rằng trong tương lai, khi sự kiện nữ giới được xuất gia đã trở nên một sự thực rồi thì pháp chế “Bát kính” sẽ không còn cần thiết nữa.
Từ hôm có ni chúng, giáo đoàn của Bụt bắt đầu được gọi là một giáo đoàn bốn chúng: chúng nam khất sĩ (bikkhu), chúng nữ khất sĩ (bikkhuni), giới nam cư sĩ (upasaka) và giới nữ cư sĩ (upasika).
Ni trưởng Ma Ha Ba Xà Ba Đề đã suy nghĩ kỹ về cách phục sức của giới nữ khất sĩ. Bà đã trình với Bụt ý kiến của mình và đã được Bụt chấp thuận. Các vị nam khất sĩ thường chỉ vận ba thứ: một tấm antaravasaka, gọi là an đà hội, là quần dưới, một tấm uttarasƯơng Già, gọi là uất đa la tăng, là áo mặc bên trên và một tấm sanghati, gọi là tăng già lê, là chiếc áo khoác bên ngoài. Các vị nữ khất sĩ, ngoài ba tấm ấy, còn được phép vận thêm hai tấm khác: một là samkaksika, dùng để thắt ngang hông và hai là kusulaka, dùng như một chiếc váy.
Ngoài y và bát, các vị khất sĩ và nữ khất sĩ có quyền làm sở hữu chủ của một cái quạt để che đầu khi trời nắng, một chiếc lọc nước uống, một cây kim và một ít chỉ để khâu vá lại xiêm y, một cái tăm xỉa răng, và một chiếc dao cạo để cạo tóc và râu, mỗi tháng hai lần.
– Trời ơi, lệnh bà đi đâu mà mới sáng tinh sương đã thấy đứng ở đây, chân cẳng tại sao sưng trầy và chảy máu? Và còn các công nương nữa…
Bà Kiều Đàm Di nói:
– Đại đức A Nan Đà, chúng tôi đã xuống tóc, đã bỏ hết đồ trang sức, đã từ bỏ hết mọi tiện nghi vật chất trong cuộc đời. Chúng tôi đã đi bộ từ Ca Tỳ La Vệ tới đây, từ hơn mười lăm hôm nay và đã xin ăn dọc đường. Chúng tôi muốn chứng tỏ rằng chúng tôi cũng có khả năng sống đời sống của người xuất gia được. Đại đức A Nan Đà, xin đại đức bạch giùm với Bụt cách nào để chị em chúng tôi được chấp nhận vào giới xuất gia.
A Nan Đà nói:
– Lệnh bà và các công nương hãy cứ đứng chờ đây. Tôi sẽ vào thưa ngay với Bụt. Tôi hứa sẽ làm hết sức của tôi.
Đại đức vào trong tịnh xá khi Bụt mới thay áo xong.
Đại đức Nagita hiện là thị giả của người cũng có mặt trong tịnh thất. Thầy bạch với Bụt những điều mà thầy vừa trông thấy và nghe thấy. Bụt im lặng. Một hồi sau, thầy hỏi Bụt:
– Thế Tôn, người nữ xuất gia và tu hành theo chính phápthì có thể chứng ngộ được những quả vị như Nhập Lưu, Nhất Hoàn, Bất Hoàn hay A La Hán không?
Bụt nói:
– Được chứ.
– Vậy thì tại sao Bụt không cho người nữ xuất gia? Thế Tôn, lệnh bà Kiều Đàm Di là người đã chăm sóc và nuôi nấng Bụt ngay từ khi Bụt mới sinh ra, và thương yêu Bụt không khác gì một người mẹ đẻ. Lệnh bà đã xuống tóc, đã cởi bỏ hết mọi trang sức, đã đi chân đất từ thành Ca Tỳ La Vệ về tới đây. Lệnh bà muốn chứng tỏ rằng những gì đàn ông làm được thì người đàn bà cũng có thể làm được. Xin Bụt từ bi cho lệnh bà được xuất gia trong giáo pháp của người.
Bụt lặng thinh, một lát sau, người bảo thầy Nagita đi tìm các đại đức Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nậu Lâu Đà, Bhaddiya, Kimbala, và MahaCa Diếp và mời họ đến cho người thỉnh ý.
Bụt và các vị đệ tử phụ tá hội ý khá lâu. Bụt nói Bụt không kỳ thị người nữ, nhưng người chưa nghĩ ra được cách thức chấp nhận những người nữ vào trong giáo đoàn mà không tạo ra những trở ngại trong nội bộ cũng như từ bên ngoài.
Sau một hồi trao đổi ý kiến, đại đức Xá Lợi Phất nói:
– Lệnh bà Kiều Đàm Di lâu nay là một người có quyền hành và ảnh hưởng rất lớn trong hoàng tộc cũng như ngoài xã hội, theo như lời đại đức Bhaddhiya đã nói. Nếu ta không có một pháp chế quy định sự phân biệt nam nữ và quyền hạn cho rõ rệt thì sau này có thể có những rắc rối xảy ra. Ta cần có một pháp chế như thế. Pháp chế này đồng thời cũng là để giảm thiểu những phản ứng bên ngoài của một xã hội đã ngàn đời có tính cách trọng nam khinh nữ. Tôi đề nghị một pháp chế tám điểm như sau:
Thứ nhất, một vị nữ khất sĩ – bhikkhuni – phải luôn luôn cung kính chào hỏi một vị nam khất sĩ – bhikkhu – dù vị nữ khất sĩ này tuổi đời lớn hơn và tuổi tu cũng lớn hơn vị nam khất sĩ.
Thứ hai, các vị nữ khất sĩ phải tìm về an cư mỗi nămở những trung tâm nào có đoàn thể nam khất sĩ để nương tựa và học hỏi.
Thứ ba, cứ mỗi tháng hai kỳ, giới nữ khất sĩ phải cử người đi thỉnh chúng nam khất sĩ chỉ định ngày bố tát – uposatha – và cử người đến thăm viếng, giáo huấn và khích lệ việc tu học của nữ chúng.
Thứ tư, vào ngày kết thúc mùa an cư, vị nữ khất sĩ phải dự lễ tự tứ và cầu chỉ giáo về sự tu học của mình, không những ở trung tâm nữ khất sĩ của mình mà còn ở trung tâm của vị nam khất sĩ nữa.
Thứ năm, khi phạm giới, vị nữ khất sĩ phải sám hối trước cả hai chúng nam và nữ.
Thứ sáu, những người nữ, sau thời gian tập sự xuất gia, phải cầu xuất gia thọ đại giới trước cả hai chúng nam và nữ.
Thứ bảy, một vị nữ khất sĩ không được nói hành và chỉ trích một vị nam khất sĩ.
Thứ tám, vị nữ khất sĩ không được phép giảng dạy cho đoàn thể các vị nam khất sĩ.
Đại đức Mục Kiền Liên cười:
– Tám điều này rõ rệt là có kỳ thị người nữ rồi, sao lại nói là không kỳ thị?
Đại đức Xá Lợi Phất đáp:
– Tám điều này được đưa ra với mục đích chính là mở được cửa cho giới phụ nữ đi vào giáo đoàn. Mục đích của nó không phải là kỳ thị, mà là chấm dứt sự kỳ thị. Điều cốt yếu là người phụ nữ được xuất gia, sư huynh không thấy điều đó sao?
Đại đức Mục Kiền Liên mỉm cười gật đầu, tỏ vẻ thông cảm sâu xa với bạn. Đại đức Bhaddiya góp ý:
– Tôi thấy pháp chế “Bát kính” rất cần thiết. Lệnh bà Kiều Đàm Di là một người có quyền hành lớn, lại là mẹ của đức Thế Tôn. Nếu không có pháp chế “Bát kính” thì bà sẽ không thấy được ranh giới quyền hạn của bà, và sẽ không có ai có khả năng điều chỉnh bà ngoài Bụt.
Bụt bảo A Nan Đà:
– A Nan Đà, thầy hãy ra bảo cho lệnh bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề biết tin này. Thầy nói rằng nếu lệnh bà chấp nhận tám điều gọi là “Bát kính pháp” vừa nói thì lệnh bà sẽ được phép xuất gia.
Lúc A Nan Đà ra thì mặt trời đã lên tới đỉnh đầu, nhưng bà Kiều Đàm Di và các vị công nương vẫn còn đứng chờ ngoài ngõ. Sau khi nghe nội dung “Bát kính pháp”, bà Kiều Đàm Di nói:
– Đại đức A Nan Đà, xin đại đức bạch với đức Thế Tôn rằng, khi một cô gái xinh đẹp và trẻ trung mới tắm và gội đầu bằng nước thơm, mà sẵn có người ta đem tới cho vành hoa kết bằng hoa sen hoặc bằng hoa hồng thơm ngát, thì cô gái sẽ sung sướng đưa hai tay đón nhận và để trên đầu mình; cũng như thế, tôi rất sung sướng chấp nhận pháp chế “tám sự cung kính” và hành trì theo suốt đời, nếu tôi được phép xuất gia.
Đại đức A Nan Đà hoan hỷ vào báo tin này với Bụt. Trong số các vị công nương đi theo, có người nhìn đức bà Kiều Đàm Di có ý như dò hỏi. Bà mỉm cười nói:
– Các em đừng e ngại, điều quan trọng nhất là chúng ta được xuất gia làm nữ khất sĩ. Những điều trong “Bát kính pháp” không phải là những trở ngại cho sự tu học của chúng ta, mà chính là cửa ngõ để chúng ta đi vào.
Năm mươi mốt người nữ được làm lễ xuất gia ngay trong ngày hôm đó. Đại đức Xá Lợi Phất sắp đặt để các vị này có ngay một trung tâm tạm cư. Nữ cư sĩ Ambapali vui lòng để cho các vị nữ khất sĩ được sử dụng vườn xoài của bà để làm chốn tu học. Đại đức Xá Lợi Phất cũng được Bụt ủy thác việc dạy các vị nữ khất sĩ những phép tắc hành trì sơ đẳng của đời sống xuất gia.
Sau đó tám hôm, nữ khất sĩ Ma Ha Ba Xà Ba Đề tới xin tham vấn Bụt, bà thưa:
– Thế Tôn, xin người từ bi dạy cho tôi vắn tắt cách hành trì để tôi có thể tiến mau trên đường giải thoát.
Bụt nói:
– Nữ khất sĩ Ma Ha Ba Xà Ba Đề! Điều quan yếu nhất là phải nắm lấy tâm ý của mình. Phải học phương pháp theo dõi hơi thở và quán niệm về bốn lãnh vực thân thể, cảm thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý. Quán niệm như thế nào để càng ngày càng thấy phát triển nơi mình các đức khiêm nhường, thanh thản, buông bỏ, thanh bần và an lạc. Khi những phẩm chất ấy của tâm ý được phát triển, mình có thể an tâm là mình đang đi trên con đường chánh pháp, con đường tỉnh thức và giác ngộ.
Nữ khất sĩ Ma Ha Ba Xà Ba Đề rất hoan hỷ, bà từ giã Bụt và trở về với các vị nữ khất sĩ đồng tu. Bà dự tính sẽ thiết lập một trung tâm tu học cho ni chúng ngay tại Tỳ Xá Ly này để có thể được gần gũi và học hỏi với Bụt và với các vị đệ tử lớn của người, ít nhất là trong thời gian Bụt còn lưu trú tại đây. Bà lại có ý nguyện trở về Ca Tỳ La Vệ để mở một trung tâm tu học cho ni chúng ngay tại quê hương mình.
Ngay hôm đó, bà nhờ người về báo tin mừng cho công nương Da Du Đà La tại Ca Tỳ La Vệ, Bà biết rằng tin nữ giới được chấp thuận vào giáo đoàn khất sĩ sẽ nổ tung ra như một tiếng sét và sẽ có rất nhiều phản ứng trong xã hội. Người ta sẽ lên án và công kích Bụt cùng giáo đoàn. Bụt và giáo đoàn sẽ gặp những khó khăn không thể nào lường trước được. Nghĩ đến đó, bà thấy một niềm biết ơn tràn ngập tâm tưởng bà. Bà thấy rõ pháp chế “Bát kính” không phải là những điều kỳ thị nữ giới mà lại là những phương tiện bảo vệ và che chở cho giáo đoàn trong đó có nữ giới. Bà tin rằng trong tương lai, khi sự kiện nữ giới được xuất gia đã trở nên một sự thực rồi thì pháp chế “Bát kính” sẽ không còn cần thiết nữa.
Từ hôm có ni chúng, giáo đoàn của Bụt bắt đầu được gọi là một giáo đoàn bốn chúng: chúng nam khất sĩ (bikkhu), chúng nữ khất sĩ (bikkhuni), giới nam cư sĩ (upasaka) và giới nữ cư sĩ (upasika).
Ni trưởng Ma Ha Ba Xà Ba Đề đã suy nghĩ kỹ về cách phục sức của giới nữ khất sĩ. Bà đã trình với Bụt ý kiến của mình và đã được Bụt chấp thuận. Các vị nam khất sĩ thường chỉ vận ba thứ: một tấm antaravasaka, gọi là an đà hội, là quần dưới, một tấm uttarasƯơng Già, gọi là uất đa la tăng, là áo mặc bên trên và một tấm sanghati, gọi là tăng già lê, là chiếc áo khoác bên ngoài. Các vị nữ khất sĩ, ngoài ba tấm ấy, còn được phép vận thêm hai tấm khác: một là samkaksika, dùng để thắt ngang hông và hai là kusulaka, dùng như một chiếc váy.
Ngoài y và bát, các vị khất sĩ và nữ khất sĩ có quyền làm sở hữu chủ của một cái quạt để che đầu khi trời nắng, một chiếc lọc nước uống, một cây kim và một ít chỉ để khâu vá lại xiêm y, một cái tăm xỉa răng, và một chiếc dao cạo để cạo tóc và râu, mỗi tháng hai lần.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.