Chương 22: Chuyển Pháp Luân Kinh
Thích Nhất Hạnh
31/07/2021
Hồi đó sa môn A Thấp Bà Trí vẫn còn tu theo lối khổ hạnh tại Vườn Nai ở Lộc Uyển.
Một hôm, sau giờ thiền tọa, thầy A Thấp Bà Trí trông thấy thấp thoáng bóng một vị sa môn đang từ ngoài xa đi đến.
Nhìn kỹ, ông biết đó là Tất Đạt Đa. Ông vội báo cho các bạn cùng biết. Thầy Bhaddiya nói:
– Tất Đạt Đa hồi đó đang tu khổ hạnh với chúng ta thì nửa chừng bỏ cuộc. Ông ta ăn cơm, uống sữa, vào ra thôn lạc và làm quen với bọn trẻ trong xóm. Sa môn Tất Đạt Đa đã làm cho chúng ta thất vọng. Vậy nếu ông ấy có tới thăm chúng ta thì chúng ta cũng không nên đón tiếp nồng hậu làm gì.
Cả năm người đồng ý là sẽ không ra tận ngõ để đón tiếp mà cũng không cần đứng dậy khi Tất Đạt Đa bước vào.
Nhưng sự tình đã xảy ra khác hẳn. Thấy Tất Đạt Đa bước vào tới cổng, không ai bảo ai, cả năm người đều tức khắc đứng dậy. Sa môn Tất Đạt Đa có phong độ thật uy nghi. Người ông như tỏa chiếu hào quang. Mỗi bước chân của ông như nói lên được sức mạnh của tâm linh ông và cái nhìn của ông như lấy đi hết tất cả mọi ý niệm kháng cự có thể có trong năm người sa môn đã cùng tu chung với ông thuở trước.
Sa môn Kiều Trần Như chạy tới trước. Ông đỡ lấy bình bát trên tay Tất Đạt Đa. Sa môn Ma Nam Câu Lợichạy đi múc nước cho Tất Đạt Đa rửa tay và rửa chân. Sa môn Bhaddiya kê một chiếc ghế mời Tất Đạt Đa ngồi. Sa môn Bà Phu đi tìm một quạt bằng lá cây thốt nốt để quạt cho Tất Đạt Đa. A Thấp Bà Trí thì đứng ngớ ngẩn một bên, chẳng biết làm gì.
Sau khi Tất Đạt Đa đã rửa tay, rửa mặt, rửa chân và ngồi xuống, A Thấp Bà Trí mới biết đi tìm rót một bát nước lạnh đem tới cho Tất Đạt Đa giải khát.
Rồi năm người bạn cũ cùng ngồi quanh Tất Đạt Đa. Tất Đạt Đa đưa mắt nhìn các bạn, rồi nói:
– Này quý vị, tôi đã tìm ra đạo giải thoát rồi, và tôi sẽ chỉ dạy lại cho quý vị.
Nghe nói như thế, sa môn A Thấp Bà Trí nửa tin nửa ngờ. Có lẽ bốn người kia cũng có cảm tưởng như ông. Mọi người im lặng hồi lâu. Bỗng Kiều Trần Như lên tiếng:
– Sa môn Gotama! Hồi trước trong thời gian tu với chúng tôi, bạn đã nửa chừng bỏ cuộc, bạn đã ăn cơm, uống sữa và giao thiệp với người lớn và trẻ con trong xóm. Làm sao bạn có thể tìm được đạo giải thoát. Làm sao bạn có thể chỉ dạy cho chúng tôi về đạo giải thoát?
Tất Đạt Đa nhìn vào mắt sa môn Kiều Trần Như, ông hỏi:
– Sa môn Kiều Trần Như, bạn đã quen biết tôi từ gần sáu năm nay. Trong thời gian ấy tôi đã từng nói dối bạn một lần nào chưa?
Kiều Trần Như giật mình. Ông thẳng thắn nói:
– Sa môn Gotama nói đúng. Tôi chưa bao giờ từng nghe sa môn nói một điều không phù hợp với sự thực.
– Vậy các bạn hãy nghe đây. Tôi đã tìm ra được Đạo Lớn rồi và tôi sẽ chỉ dạy cho các bạn. Các bạn là những vị sa môn đầu tiên trên đời được nghe giáo pháp mầu nhiệm mà tôi đã tìm ra. Giáo pháp này không phải là kết quả của suy luận. Giáo pháp này là hoa trái của thực chứng. Các vị hãy đem hết nhận thức thanh tịnh mà nghiêm chỉnh lắng nghe.
Giọng nói của Bụt mang uy lực tâm linh rất lớn khiến năm người đều tự động đổi thế ngồi, nghiêm chỉnh hướng về người. Họ chắp tay lại. Kiều Trần Như thành kính nói:
– Xin sa môn Gotama đem hết lòng xót thương mà dạy cho chúng tôi.
Bụt nghiêm trang mở lời:
– Này các vị sa môn, có hai thái cực mà người tu đạo nên tránh: một là lao mình vào khoái lạc nhục thể, hai là hành hạ thân xác cho hao mòn. Cả hai con đường đều đưa tới sự phá sản của thân tâm. Con đường mà tôi đã tìm ra là con đường trung đạo tránh được hai thái cực ấy và có thể đem đến trí tuệ, giải thoát và an lạc. Con đường đó là con đường Bát chánh: nhận thức chân chính, tư duy chân chính, ngôn ngữ chân chính, hành động chân chính, sinh kế chân chính, chuyên cần chân chính, niệm lực chân chính và định lực chân chính. Tôi đã theo con đường bát chánh đó và đã thực hiện được trí tuệ, giải thoát và an lạc.
Này các vị, sao gọi là chánh đạo? Sở dĩ gọi là chánh đạo vìcon đường này không phải là con đường trốn tránh đau khổ mà là con đường đối diện trực tiếp khổ đau để diệt trừ khổ đau. Con đường bát chánh này là con đường của sự sống tỉnh thức, vì vậy chánh niệm là khởi điểm. Có chánh niệm thì sẽ có chánh định, nghĩa là định lực có tác dụng đưa tới trí tuệ. Nhờ có niệm lực và định lực chân chính thì nhận thức, tư duy, ngôn từ, hành động, sinh kế và sự chuyên cần cũng sẽ đi vào chánh đạo. Trí tuệ được phát sinh sẽ giải thoát được cho người hành giả tất cả mọi ràng buộc khổ đau và làm phát sinh nơi người hành giả nguồn an lạc chân chính.
Này các vị, có bốn sự thật mà người tu phải công nhận: sự có mặt của khổ đau, sự có mặt của những nguyên nhân của các khổ đau ấy, sự chấm dứt khổ đau và con đường đi tới sự chấm dứt khổ đau. Bốn sự thật ấy là bốn sự thật mầu nhiệm, gọi là tứ diệu đế. Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ nhất: Khổ đau. Sinh, già, bệnh và chết là khổ; buồn, giận ghen, tức, lo lắng, sợ hãi và thất vọng là khổ; chia cách người thân yêu là khổ, chung đụng với người ghét bỏ là khổ, tham đắm và kẹt vào năm uẩn là khổ.
Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ hai: nguyên nhân của khổ đau. Vì ngu muội, vì không thấy và không hiểu được sự thật về bản thân và về cuộc đời cho nên con người bị những ngọn lửa của tham đắm, giận hờn, ghen tức, sầu não, lo lắng sợ hãi và thất vọng đêm ngày đốt cháy và hành hạ.
Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ ba: sự chấm dứt khổ đau. Đó là trí tuệ, là hiểu biết, là nhận thức được sự thật về bản thân và về cuộc đời. Trí tuệ này, cái thấy này đưa lại sự chấm dứt của mọi sầu đau và làm phát sinh niềm an lạc.
Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ tư: con đường diệt khổ. Đó là con đường Bát chánh mà tôi đã trình bày. Bản chất của Bát chánh đạo được nuôi dưỡng bằng nếp sống tỉnh thức hàng ngày, đó tức là chánh niệm. Chánh niệm đưa tới Định và Tuệ, có năng lực giải thoát con người khỏi mọi niềm đau và đem lại mọi an vui. Tôi sẽ hướng dẫn cho các vị từng bước trên con đường thực hiện này.
Trong khi Tất Đạt Đa giảng giải về bốn sự thật mầu nhiệm, sa môn Kiều Trần Như bỗng thấy tâm mình bừng sáng. Ông thấy được lập tức con đường giải thoát thật sự mà lâu nay ông tìm kiếm. Nét mặt ông rạng rỡ. Thấy thế, Bụt chỉ vào ông và nói lớn:
– Sa môn Kiều Trần Như! Bạn đã hiểu! Bạn đã hiểu!
Kiều Trần Như chắp tay quỳ xuống bên ghế ngồi của Bụt. Ông thành kính nói:
Sa môn Gotama, xin thầy hãy nhận Kiều Trần Như này làm học trò của thầy. Kiều Trần Như biết rằng dưới sự chỉ dạy của thầy, Kiều Trần Như sẽ thành đạt nguyện lớn.
Bốn vị sa môn kia thấy vậy cũng quỳ xuống cả dưới chân Bụt và chắp tay cầu xin Bụt nhận họ làm đệ tử. Bụt đỡ cả năm người dậy. Người bảo họ ngồi lên ghế. Người cũng ngồi xuống chỗ ngồi cũ của mình. Bụt nói:
– Này quý vị! Bọn trẻ trong làng Ưu Lâu Tần Loa đã đặt tên cho tôi là Bụt. Có lẽ quý vị cũng có thể dùng danh từ ấy để gọi tôi.
Kiều Trần Như hỏi lại:
– Bọn con nít gọi sa môn Gotama là Bụt? Bụt có nghĩa là “người tỉnh thức”?
– Đúng như vậy, và chúng gọi con đường mà tôi tìm ra là “đạo tỉnh thức”. Các thầy nghe có được không?
– Người tỉnh thức! Đạo tỉnh thức! Hay lắm! Hay lắm! Danh xưng vừa chính xác, vừa đơn giản và thân mật. Chúng con xin từ nay gọi thầy là Bụt và nền đạo lý mà thầy tìm ra là đạo Bụt. Đạo tỉnh thức. Đúng lắm, bởi vì nếp sống tỉnh thức hàng ngày, như thầy nói, là căn bản cho sự tu hành.
Năm người đã đồng ý tôn sa môn Gotama làm thầy, bây giờ đều đồng ý gọi sa môn Gotama là Bụt.
Bụt mỉm cười nhìn họ:
– Xin các vị tinh tiến tu hành. Con đường đã tìm ra được. Nếu quý vị thực tập nghiêm chỉnh thì chỉ trong vòng ba tháng quý vị sẽ đạt tới quả vị giải thoát.
Bụt ở lại Lộc Uyển một thời gian để dạy dỗ cho năm vị sa môn. Họ vâng lời Bụt chấm dứt lối tu khổ hạnh. Mỗi ngày ba vị luân phiên cầm bát đi khất thực trong xóm. Trưa về, ba người san sẻ thức ăn xin được cho ba người ở lại, trong đó có Bụt. Bụt ở lại để hướng dẫn sự tu học cho mọi người. Năm vị tu học rất tinh tiến và ngày nào cũng đạt được nhiều tiến bộ.
Bụt dạy cho họ về tự tính vô thường và vô ngã của vạn vật. Người phân tích cho họ thấy năm uẩn đều như những dòng sông luôn luôn trôi chảy và biến đổi, trong đó không có một cái gì có thể gọi là đồng nhất và bất biến. Năm uẩn tức là thân thể (sắc), cảm giác (thọ), tri giác (tưởng), tâm hành (hành) và nhận thức (thức).
Bụt dạy họ quán sát sự trôi chảy của năm dòng sông ấy trong tự thân của mỗi người để có thể thấy được tính vô thường và vô ngã của chúng và của vạn hữu, và cũng để thấy những liên hệ mật thiết và mầu nhiệm giữa vũ trụ và bản thân mình.
Nhờ sự tu học tinh chuyên, năm vị dần dần đạt được cái thấy mầu nhiệm. Người đầu tiên chứng ngộ là Kiều Trần Như. Rồi hai tháng sau là đến phiên Bà Phu và Bhaddhiya. Cuối cùng Ma Nam Câu Lợivà A Thấp Bà Trí cũng đạt tới quả vị A-la-hán.
Bụt rất vui mừng. Người nói:
– Chúng ta đã có đoàn thể xứng đáng với tên gọi sangha, đoàn thể của những người biết sống cuộc đời tỉnh thức, rồi đây quý vị sẽ phải cùng với tôi đem những hạt giống của đạo tỉnh thức gieo rắc khắp mọi nơi.
Một hôm, sau giờ thiền tọa, thầy A Thấp Bà Trí trông thấy thấp thoáng bóng một vị sa môn đang từ ngoài xa đi đến.
Nhìn kỹ, ông biết đó là Tất Đạt Đa. Ông vội báo cho các bạn cùng biết. Thầy Bhaddiya nói:
– Tất Đạt Đa hồi đó đang tu khổ hạnh với chúng ta thì nửa chừng bỏ cuộc. Ông ta ăn cơm, uống sữa, vào ra thôn lạc và làm quen với bọn trẻ trong xóm. Sa môn Tất Đạt Đa đã làm cho chúng ta thất vọng. Vậy nếu ông ấy có tới thăm chúng ta thì chúng ta cũng không nên đón tiếp nồng hậu làm gì.
Cả năm người đồng ý là sẽ không ra tận ngõ để đón tiếp mà cũng không cần đứng dậy khi Tất Đạt Đa bước vào.
Nhưng sự tình đã xảy ra khác hẳn. Thấy Tất Đạt Đa bước vào tới cổng, không ai bảo ai, cả năm người đều tức khắc đứng dậy. Sa môn Tất Đạt Đa có phong độ thật uy nghi. Người ông như tỏa chiếu hào quang. Mỗi bước chân của ông như nói lên được sức mạnh của tâm linh ông và cái nhìn của ông như lấy đi hết tất cả mọi ý niệm kháng cự có thể có trong năm người sa môn đã cùng tu chung với ông thuở trước.
Sa môn Kiều Trần Như chạy tới trước. Ông đỡ lấy bình bát trên tay Tất Đạt Đa. Sa môn Ma Nam Câu Lợichạy đi múc nước cho Tất Đạt Đa rửa tay và rửa chân. Sa môn Bhaddiya kê một chiếc ghế mời Tất Đạt Đa ngồi. Sa môn Bà Phu đi tìm một quạt bằng lá cây thốt nốt để quạt cho Tất Đạt Đa. A Thấp Bà Trí thì đứng ngớ ngẩn một bên, chẳng biết làm gì.
Sau khi Tất Đạt Đa đã rửa tay, rửa mặt, rửa chân và ngồi xuống, A Thấp Bà Trí mới biết đi tìm rót một bát nước lạnh đem tới cho Tất Đạt Đa giải khát.
Rồi năm người bạn cũ cùng ngồi quanh Tất Đạt Đa. Tất Đạt Đa đưa mắt nhìn các bạn, rồi nói:
– Này quý vị, tôi đã tìm ra đạo giải thoát rồi, và tôi sẽ chỉ dạy lại cho quý vị.
Nghe nói như thế, sa môn A Thấp Bà Trí nửa tin nửa ngờ. Có lẽ bốn người kia cũng có cảm tưởng như ông. Mọi người im lặng hồi lâu. Bỗng Kiều Trần Như lên tiếng:
– Sa môn Gotama! Hồi trước trong thời gian tu với chúng tôi, bạn đã nửa chừng bỏ cuộc, bạn đã ăn cơm, uống sữa và giao thiệp với người lớn và trẻ con trong xóm. Làm sao bạn có thể tìm được đạo giải thoát. Làm sao bạn có thể chỉ dạy cho chúng tôi về đạo giải thoát?
Tất Đạt Đa nhìn vào mắt sa môn Kiều Trần Như, ông hỏi:
– Sa môn Kiều Trần Như, bạn đã quen biết tôi từ gần sáu năm nay. Trong thời gian ấy tôi đã từng nói dối bạn một lần nào chưa?
Kiều Trần Như giật mình. Ông thẳng thắn nói:
– Sa môn Gotama nói đúng. Tôi chưa bao giờ từng nghe sa môn nói một điều không phù hợp với sự thực.
– Vậy các bạn hãy nghe đây. Tôi đã tìm ra được Đạo Lớn rồi và tôi sẽ chỉ dạy cho các bạn. Các bạn là những vị sa môn đầu tiên trên đời được nghe giáo pháp mầu nhiệm mà tôi đã tìm ra. Giáo pháp này không phải là kết quả của suy luận. Giáo pháp này là hoa trái của thực chứng. Các vị hãy đem hết nhận thức thanh tịnh mà nghiêm chỉnh lắng nghe.
Giọng nói của Bụt mang uy lực tâm linh rất lớn khiến năm người đều tự động đổi thế ngồi, nghiêm chỉnh hướng về người. Họ chắp tay lại. Kiều Trần Như thành kính nói:
– Xin sa môn Gotama đem hết lòng xót thương mà dạy cho chúng tôi.
Bụt nghiêm trang mở lời:
– Này các vị sa môn, có hai thái cực mà người tu đạo nên tránh: một là lao mình vào khoái lạc nhục thể, hai là hành hạ thân xác cho hao mòn. Cả hai con đường đều đưa tới sự phá sản của thân tâm. Con đường mà tôi đã tìm ra là con đường trung đạo tránh được hai thái cực ấy và có thể đem đến trí tuệ, giải thoát và an lạc. Con đường đó là con đường Bát chánh: nhận thức chân chính, tư duy chân chính, ngôn ngữ chân chính, hành động chân chính, sinh kế chân chính, chuyên cần chân chính, niệm lực chân chính và định lực chân chính. Tôi đã theo con đường bát chánh đó và đã thực hiện được trí tuệ, giải thoát và an lạc.
Này các vị, sao gọi là chánh đạo? Sở dĩ gọi là chánh đạo vìcon đường này không phải là con đường trốn tránh đau khổ mà là con đường đối diện trực tiếp khổ đau để diệt trừ khổ đau. Con đường bát chánh này là con đường của sự sống tỉnh thức, vì vậy chánh niệm là khởi điểm. Có chánh niệm thì sẽ có chánh định, nghĩa là định lực có tác dụng đưa tới trí tuệ. Nhờ có niệm lực và định lực chân chính thì nhận thức, tư duy, ngôn từ, hành động, sinh kế và sự chuyên cần cũng sẽ đi vào chánh đạo. Trí tuệ được phát sinh sẽ giải thoát được cho người hành giả tất cả mọi ràng buộc khổ đau và làm phát sinh nơi người hành giả nguồn an lạc chân chính.
Này các vị, có bốn sự thật mà người tu phải công nhận: sự có mặt của khổ đau, sự có mặt của những nguyên nhân của các khổ đau ấy, sự chấm dứt khổ đau và con đường đi tới sự chấm dứt khổ đau. Bốn sự thật ấy là bốn sự thật mầu nhiệm, gọi là tứ diệu đế. Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ nhất: Khổ đau. Sinh, già, bệnh và chết là khổ; buồn, giận ghen, tức, lo lắng, sợ hãi và thất vọng là khổ; chia cách người thân yêu là khổ, chung đụng với người ghét bỏ là khổ, tham đắm và kẹt vào năm uẩn là khổ.
Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ hai: nguyên nhân của khổ đau. Vì ngu muội, vì không thấy và không hiểu được sự thật về bản thân và về cuộc đời cho nên con người bị những ngọn lửa của tham đắm, giận hờn, ghen tức, sầu não, lo lắng sợ hãi và thất vọng đêm ngày đốt cháy và hành hạ.
Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ ba: sự chấm dứt khổ đau. Đó là trí tuệ, là hiểu biết, là nhận thức được sự thật về bản thân và về cuộc đời. Trí tuệ này, cái thấy này đưa lại sự chấm dứt của mọi sầu đau và làm phát sinh niềm an lạc.
Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ tư: con đường diệt khổ. Đó là con đường Bát chánh mà tôi đã trình bày. Bản chất của Bát chánh đạo được nuôi dưỡng bằng nếp sống tỉnh thức hàng ngày, đó tức là chánh niệm. Chánh niệm đưa tới Định và Tuệ, có năng lực giải thoát con người khỏi mọi niềm đau và đem lại mọi an vui. Tôi sẽ hướng dẫn cho các vị từng bước trên con đường thực hiện này.
Trong khi Tất Đạt Đa giảng giải về bốn sự thật mầu nhiệm, sa môn Kiều Trần Như bỗng thấy tâm mình bừng sáng. Ông thấy được lập tức con đường giải thoát thật sự mà lâu nay ông tìm kiếm. Nét mặt ông rạng rỡ. Thấy thế, Bụt chỉ vào ông và nói lớn:
– Sa môn Kiều Trần Như! Bạn đã hiểu! Bạn đã hiểu!
Kiều Trần Như chắp tay quỳ xuống bên ghế ngồi của Bụt. Ông thành kính nói:
Sa môn Gotama, xin thầy hãy nhận Kiều Trần Như này làm học trò của thầy. Kiều Trần Như biết rằng dưới sự chỉ dạy của thầy, Kiều Trần Như sẽ thành đạt nguyện lớn.
Bốn vị sa môn kia thấy vậy cũng quỳ xuống cả dưới chân Bụt và chắp tay cầu xin Bụt nhận họ làm đệ tử. Bụt đỡ cả năm người dậy. Người bảo họ ngồi lên ghế. Người cũng ngồi xuống chỗ ngồi cũ của mình. Bụt nói:
– Này quý vị! Bọn trẻ trong làng Ưu Lâu Tần Loa đã đặt tên cho tôi là Bụt. Có lẽ quý vị cũng có thể dùng danh từ ấy để gọi tôi.
Kiều Trần Như hỏi lại:
– Bọn con nít gọi sa môn Gotama là Bụt? Bụt có nghĩa là “người tỉnh thức”?
– Đúng như vậy, và chúng gọi con đường mà tôi tìm ra là “đạo tỉnh thức”. Các thầy nghe có được không?
– Người tỉnh thức! Đạo tỉnh thức! Hay lắm! Hay lắm! Danh xưng vừa chính xác, vừa đơn giản và thân mật. Chúng con xin từ nay gọi thầy là Bụt và nền đạo lý mà thầy tìm ra là đạo Bụt. Đạo tỉnh thức. Đúng lắm, bởi vì nếp sống tỉnh thức hàng ngày, như thầy nói, là căn bản cho sự tu hành.
Năm người đã đồng ý tôn sa môn Gotama làm thầy, bây giờ đều đồng ý gọi sa môn Gotama là Bụt.
Bụt mỉm cười nhìn họ:
– Xin các vị tinh tiến tu hành. Con đường đã tìm ra được. Nếu quý vị thực tập nghiêm chỉnh thì chỉ trong vòng ba tháng quý vị sẽ đạt tới quả vị giải thoát.
Bụt ở lại Lộc Uyển một thời gian để dạy dỗ cho năm vị sa môn. Họ vâng lời Bụt chấm dứt lối tu khổ hạnh. Mỗi ngày ba vị luân phiên cầm bát đi khất thực trong xóm. Trưa về, ba người san sẻ thức ăn xin được cho ba người ở lại, trong đó có Bụt. Bụt ở lại để hướng dẫn sự tu học cho mọi người. Năm vị tu học rất tinh tiến và ngày nào cũng đạt được nhiều tiến bộ.
Bụt dạy cho họ về tự tính vô thường và vô ngã của vạn vật. Người phân tích cho họ thấy năm uẩn đều như những dòng sông luôn luôn trôi chảy và biến đổi, trong đó không có một cái gì có thể gọi là đồng nhất và bất biến. Năm uẩn tức là thân thể (sắc), cảm giác (thọ), tri giác (tưởng), tâm hành (hành) và nhận thức (thức).
Bụt dạy họ quán sát sự trôi chảy của năm dòng sông ấy trong tự thân của mỗi người để có thể thấy được tính vô thường và vô ngã của chúng và của vạn hữu, và cũng để thấy những liên hệ mật thiết và mầu nhiệm giữa vũ trụ và bản thân mình.
Nhờ sự tu học tinh chuyên, năm vị dần dần đạt được cái thấy mầu nhiệm. Người đầu tiên chứng ngộ là Kiều Trần Như. Rồi hai tháng sau là đến phiên Bà Phu và Bhaddhiya. Cuối cùng Ma Nam Câu Lợivà A Thấp Bà Trí cũng đạt tới quả vị A-la-hán.
Bụt rất vui mừng. Người nói:
– Chúng ta đã có đoàn thể xứng đáng với tên gọi sangha, đoàn thể của những người biết sống cuộc đời tỉnh thức, rồi đây quý vị sẽ phải cùng với tôi đem những hạt giống của đạo tỉnh thức gieo rắc khắp mọi nơi.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.