Chương 12: Con Ngựa Kanthaka
Thích Nhất Hạnh
28/07/2021
Sức khỏe của Da Du Đà La trở lại bình thường, và nàng đã có thể bắt đầu lại công việc, tuy rằng nàng để khá nhiều thì giờ lo cho bé La Hầu La. Một sáng mùa Xuân nọ, Xa Nặc đánh xe song mã đưa Tất Đạt Đa và Da Du Đà La đi ra ngoài thành du ngoạn, theo lời khuyên nhủ của bà Kiều Đàm Di. La Hầu La cũng được ẵm theo và một cô thị nữ tên Ratna cũng được đi theo để săn sóc bé.
Nắng ấm đã lên. Lá cây xanh mơn mởn. Hoa nở khắp nơi, những cây vô ưu và những cây hồng táo nở hoa đầy mình. Chim chóc ca hát bốn phía. Xa Nặc cho xe đi chậm. Có những người dân quê nhận ra được Tất Đạt Đa và Da Du Đà La. Họ đứng dậy đưa cả hai tay lên vẫy. Xe đã ra tới bờ sông Banganga. Bỗng nhiên, Xa Nặc ghìm cương ngựa lại. Mọi người nhìn về phía trước mặt. Một người đang nằm chặn giữa đường, tay chân người đó co quắp lại. Toàn thân người đó run rẩy. Miệng người đó không ngớt kêu rên. Tất Đạt Đa nhảy xuống, lại gần. Xa Nặc cũng buộc cương ngựa vào thành xe, nhảy xuống. Người nằm bên đường là một người đàn ông, tuổi chắc chưa tới ba mươi. Tất Đạt Đa cầm lấy tay người ấy và ngước mắt hỏi Xa Nặc:
– Người này trúng gió phải không, Xa Nặc? Anh hãy giúp ta xoa bóp và đánh gió cho ông ta.
Xa Nặc lắc đầu:
– Thưa điện hạ, đây không phải là triệu chứng của người trúng gió. Người này mắc phải chứng dịch hạch. Chứng này hiện chưa có thầy thuốc nào biết cách chữa.
– Khổ chưa, thái tử Tất Đạt Đa nhìn kỹ lại người bệnh. Ta có nên chở ông ta về cho ngự y xem xét không?
– Thưa điện hạ, bệnh này ngự y cũng không trị nổi, mà bệnh này lại hay lây. Nếu ta chở người này lên xe thì bệnh có thể lây tới lệnh bà, tới cậu La Hầu La, và tới cả điện hạ nữa. Xin điện hạ buông tay người ấy ra đi, kẻo nguy hiểm lắm.
Tất Đạt Đa vẫn không buông tay người bệnh. Chàng nhìn tay người bệnh rồi nhìn lại tay chàng. Chàng biết chàng là một người mạnh khỏe, nhưng nhìn thấy người bệnh trạc tuổi mình đang nằm trước ngưỡng cửa của cái chết, bao nhiêu sự tự hào về sức khỏe và sự may mắn của riêng mình đột nhiên tan biến hết nơi chàng.
Từ bờ sông, bỗng có tiếng khóc than vọng lại. Chàng đưa mắt nhìn lên. Lại một đám ma. Lại một giàn hỏa. Tiếng đọc kinh đã vọng lên chen lẫn với tiếng khóc than và tiếp đến là tiếng phần phật của giàn lửa bốc cháy.
Tất Đạt Đa nhìn xuống thì người bệnh dưới chân mình đã tắt thở. Hai con mắt ông ta còn trợn trừng. Chàng đặt bàn tay người ấy xuống, đưa tay vuốt mắt người chết. Khi đứng dậy thì chàng thấy Da Du Đà La đã đứng sau lưng chàng không biết từ lúc nào.
Nàng nói giọng nhỏ nhẹ:
– Xin điện hạ xuống rửa tay dưới bến sông. Xa Nặc, anh cũng nên xuống sông rửa tay đi. Rồi chúng ta đánh xe vào xóm báo cho nhà chức trách địa phương biết để họ lo liệu.
Cuộc du hành mùa Xuân tới đây là chấm dứt. Tất Đạt Đa bảo Xa Nặc đánh xe trở về cung điện.
Trên đường về không ai nói với ai một lời nào.
Tối hôm ấy, Da Du Đà La nằm mơ thấy toàn là những ác mộng. Trong giấc mơ đầu, nàng thấy một con bò mộng trắng, trên đầu có gắn một viên ngọc lớn lấp lánh như sao Bắc Đẩu. Con bò đi từng bước thong thả qua đường phố thành Ca Tỳ La Vệ và hướng về cổng thành. Từ đền thờ Indra, có tiếng thiên thần la lớn: “Nếu không giữ được con bò này lại thì kinh đô này còn đâu là ánh sáng”. Mọi người trong thành đều chạy đến cố sức giữ bò lại, nhưng rốt cuộc, không ai giữ được nó. Con bò thoát ra khỏi thành và đi mất.
Trong giấc mộng thứ hai, nàng thấy bốn vị vua trời từ trên đỉnh núi Tu Di phóng hào quang ngay thành Ca Tỳ La Vệ. Ngọn cờ đang bay phấp phới trên đền thờ Indra bỗng dưng đập mạnh và rơi xuống đất. Hoa ở trên trời rơi xuống như mưa, hoa đủ năm màu, chói lọi. Khắp nơi như mở đại hội, và tiếng nhạc từ trên không vang dội khắp kinh kỳ.
Trong giấc mộng thứ ba, nàng nghe tiếng hô to trong không gian: “Giờ đã đến! Giờ đã đến!”. Nàng hoảng hốt nhìn sang chỗ Tất Đạt Đa ngồi thì không còn thấy Tất Đạt Đa ở đấy. Những chiếc hoa lài cài trên tóc nàng bỗng rơi xuống sàn nhà và biến thành tro bụi. Tất cả những áo mão và đồ trang sức mà Tất Đạt Đa để lại trên ghế chàng bây giờ bỗng biến thành một con rắn đang trườn ra phía cửa. Trong hoảng hốt, nàng nghe tiếng rống của con bò trắng từ phía ngoài thành. Nàng nghe tiếng phần phật của ngọn cờ trên đền thờ Indra, và nàng nghe tiếng hô lớn trong không gian: “Giờ đã đến! Giờ đã đến!”.
Da Du Đà La thức giấc. Trán nàng toát mồ hôi. Quay sang phía Tất Đạt Đa, nàng lay chàng dậy:
– Anh, anh ơi, anh thức dậy đi anh.
Tất Đạt Đa vẫn còn thức. Chàng đưa tay vỗ về Da Du Đà La. Chàng nói:
– Em vừa mới mơ thấy gì đó? Hãy kể cho anh nghe đi.
Da Du Đà La kể lại những giấc mộng của nàng, và nàng hỏi chàng:
– Có phải những giấc mộng ấy báo trước rằng anh sẽ ra đi tìm đạo và bỏ em ở nhà một mình phải không anh?
Tất Đạt Đa im lặng nghe. Chàng an ủi nàng:
– Này Cù Di, em đừng buồn. Anh biết em là một người có chí khí. Anh biết em là người cộng sự của anh, và em có thể giúp anh hoàn thành được chí nguyện. Em hiểu anh hơn ai hết trong những người thân thuộc của chúng ta. Vậy nếu mai này mà anh phải đi và phải xa em, xa em trong một thời gian, anh mong rằng em sẽ có đủ can đảm để tiếp tục công việc của em. Em sẽ chăm sóc con và nuôi con lớn lên, dù anh có đi, dù anh có ở xa em thì tình thương của anh đối với em bao giờ cũng thế. Anh sẽ chẳng bao giờ không yêu em. Nếu em biết như thế thì em có thể chịu đựng được sự xa cách. Khi anh tìm được đạo, anh sẽ trở về với em, với con. Thôi em ngủ lại đi.
Tiếng Tất Đạt Đa ôn tồn, ngọt ngào và vỗ về đi thẳng vào lòng Da Du Đà La. Nàng có đủ đức tin nơi chàng. Nàng ngoan ngoãn nhắm mắt lại.
Sáng hôm sau, Tất Đạt Đa vào gặp vua cha. Chàng tâu:
– Thưa phụ vương, con xin phép phụ vương xuất gia để tìm đạo.
Vua Tịnh Phạn giật mình, tuy đã từng nghĩ đến biến cố có thể xảy ra này, nhưng vua chưa bao giờ nghĩ nó xảy ra một cách đột ngột như vậy. Trầm ngâm hồi lâu, ngài nhìn con rồi nói:
– Ngày xưa trong dòng họ ta thỉnh thoảng cũng có người đi xuất gia làm sa môn, nhưng không ai bỏ nhà ra đi vào tuổi của con cả. Ai cũng đợi đến sau tuổi năm mươi. Sao con không làm như thế? Con của con còn nhỏ, và nước nhà đang trông cậy vào con…
– Thưa phụ vương, một ngày con ngồi trong cung cũng như một ngày con ngồi trên đống lửa. Tâm con không an thì làm sao con có thể đáp lại sự trông cậy của phụ vương, của nước nhà, cũng như của bất cứ ai? Con thấy ngày tháng qua rất mau, tuổi trẻ của con cũng vậy. Xin phụ vương cho phép con…
Vua ôn tồn:
– Con nên nghĩ đến sơn hà, xã tắc, đến ta, đến Da Du Đà La và đến đứa con còn trứng nước của con.
– Thưa phụ vương, chính vì con nghĩ đến cho nên con mới xin phép phụ vương cho con ra đi. Con đi đây không phải là để cho một mình con. Con không ích kỷ đi trốn tránh nhiệm vụ của con. Chính phụ vương cũng biết rằng phụ vương không giúp được cho con giải tỏa những khổ đau dằn vặt trong con. Ngay cả những khổ đau dằn vặt trong lòng phụ vương, phụ vương cũng chưa giải tỏa được.
Vua đứng dậy nắm lấy tay chàng:
– Con biết rằng ta rất cần con. Con là người mà ta đặt hết kỳ vọng của ta. Con đừng bỏ ta.
– Con không bao giờ bỏ phụ vương. Con chỉ xin phụ vương đi xa. Chừng nào đạt đạo con sẽ trở về.
Nét mặt Tịnh Phạn dàu dàu. Ngài không nói gì nữa. Ngài bỏ vào biệt điện.
Chiều hôm đó, hoàng hậu Kiều Đàm Di qua ở lại suốt buổi với Da Du Đà La.
Cũng chiều hôm đó, Ưu Đà Di bạn của Tất Đạt Đa đến chơi. Chàng rủ theo Đề Bà Đạt Đa, A Nan Đà, Anuruddha, Kim Tỳ La và Bhadrika, những người trai trẻ đòi tổ chức cuộc vui. Ưu Đà Di đã mời được đoàn vũ công tài ba nhất trong kinh thành đến. Đèn đuốc thắp lên sáng rực cả cung điện.
Bà Kiều Đàm Di cho Da Du Đà La biết là Ưu Đà Di đã được vua cho triệu tới và giao trách nhiệm làm đủ mọi cách để ngăn Tất Đạt Đa bỏ nhà ra đi. Cuộc vui tối nay nằm trong chương trình hành động của chàng.
Da Du Đà La ra lệnh cho các thị nữ đi lo thức ăn và thức uống cùng các nhu cầu khác cho cuộc vui và nàng ở lại bên trong đàm đạo với phu nhân Kiều Đàm Di trong khi bên ngoài công viên Tất Đạt Đa tiếp đãi các bè bạn. Hôm đó là ngày trăng tròn tháng Uttarasalha.
Khi tiếng nhạc của cuộc vui bắt đầu trỗi dậy thì trăng cũng bắt đầu nhô lên trên rặng cây phía trời Đông Nam.
Bà Kiều Đàm Di tâm sự với Da Du Đà La cho tới khuya mới về cung an nghỉ. Khi đưa bà ra sân, Da Du Đà La thấy trăng đã lên tới đỉnh đầu. Cuộc vui còn tiếp diễn với tiếng trống tiếng nhạc và tiếng nói cười. Đưa hoàng hậu Kiều Đàm Di khỏi ngõ, nàng trở vào đi tìm Xa Nặc. Người hầu cận này đang ngủ. Nàng đánh thức Xa Nặc dậy, thầm thì:
– Có thể đêm nay thái tử cần đến ngươi. Hãy chuẩn bị cho con Kiền Trắc yên cương đầy đủ, và cũng nên chuẩn bị một con ngựa khác cho chính ngươi.
– Thưa lệnh bà, thái tử đi đâu vào giờ này?
– Ngươi đừng hỏi, cứ việc chuẩn bị như lời ta dặn vì thái tử có thể cần đến ngươi trong đêm nay.
Xa Nặc vâng dạ đi vào tàu ngựa. Da Du Đà La đi trở vào trong cung. Nàng sắp đặt sẵn giầy nón và áo dạ hành cho thái tử. Nàng lại đi lấy thêm một chiếc chăn mỏng để đắp thêm cho La Hầu La, rồi nàng thay áo và lên giường. Nằm trên giường, nàng lắng nghe tiếng nhạc, tiếng ca, tiếng nói và tiếng cười. Cuối cùng, cuộc vui tan. Có lẽ mọi người đều đã tìm nơi an nghỉ. Da Du Đà La nằm yên lắng nghe sự im lặng trở về trong cung cấm. Nằm yên chờ đợi, nhưng lâu lắm nàng vẫn không thấy Tất Đạt Đa đi vào.
Trong khi đó, Tất Đạt Đa ngồi một mình thật lâu ngoài vườn ngự. Chàng nhìn lên trời. Trăng sáng vằng vặc, ngàn sao nhấp nháy. Chàng quyết định đêm nay phải rời bỏ hoàng cung. Chàng đi vào, mang giầy và mặc áo. Chàng vén rèm nhìn vào phòng ngủ, La Hầu La nằm ngay bên cạnh Da Du Đà La. Chàng muốn vào nói lời từ biệt nàng, nhưng chàng lưỡng lự, những lời dặn dò cần thiết nhất, chàng đã nói với nàng rồi. Thức nàng dậy chàng biết chàng sẽ làm cho phút biệt ly khó khăn hơn, và não lòng hơn. Chàng buông rèm xuống, định bước chân ra, nhưng chàng đứng lại vén rèm lần nữa, để nhìn hai mẹ con một lần cuối. Chàng nhìn thật kỹ như để thu lấy thêm một lần nữa cái hình ảnh quen thuộc và thân yêu ấy. Cuối cùng chàng buông rèm, bước ra.
Khi đi ngang qua phòng khánh tiết, Tất Đạt Đa thấy bọn vũ nữ nằm ngủ la liệt và ngả nghiêng trên nệm thảm. Đầu tóc họ xổ tung, có người mở rộng miệng ra như những con cá chết, những cánh tay mềm mại của họ bây giờ cứng đơ như những thanh củi, và chân họ gác ngang gác ngửa như trên một bãi chiến trường. Họ trông giống như những cái xác chết không hồn. Tất Đạt Đa có cảm tưởng mình đang bước ngang qua một cái nghĩa địa.
Chàng mở cửa ra, đi ra phía chuồng ngựa. Xa Nặc đang thức. Chàng bảo:
– Xa Nặc, đem con Kiền Trắc ra đây.
Xa Nặc vâng dạ. Xa Nặc đã chuẩn bị mọi sự chu đáo rồi. Con Kiền Trắc đã có đủ yên cương. Xa Nặc thưa lại:
– Con có đi với điện hạ không?
Tất Đạt Đa gật đầu. Xa Nặc đi vào tàu, dắt ra một con ngựa khác. Con ngựa này cũng đã có đủ yên cương.
Hai thầy trò dắt ngựa ra khỏi cung. Tất Đạt Đa dừng lại, vuốt ve con Kiền Trắc. Chàng nói với ngựa:
– Này Kiền Trắc, chuyến đi này là một chuyến đi quan trọng. Con hãy hết lòng đưa ta đi.
Chàng nhảy lên mình ngựa. Xa Nặc cũng nhảy lên ngựa của mình.
Hai thầy trò cho ngựa đi thong thả để đừng gây nên nhiều tiếng động.
Những người lính gác cửa thành đang ngủ say. Hai thầy trò vượt qua cổng thành một cách dễ dàng. Ra khỏi cổng thành, được chừng một dặm, Tất Đạt Đa dừng ngựa. Chàng quay nhìn lại kinh đô đang nằm im lìm dưới ánh trăng. Chính nơi kinh đô này mà Tất Đạt Đa đã sinh ra và lớn lên. Chính nơi kinh đô này mà chàng đã trải qua bao nhiêu buồn vui và thao thức. Chính trong kinh đô ấy, phụ hoàng, bà Kiều Đàm Di, Da Du Đà La, La Hầu La và tất cả những người thân yêu khác hiện đang ngủ say. Chàng thầm bảo:
– Nếu không tìm ra được con đường, ta sẽ không trở về Ca Tỳ La Vệ nữa.
Chàng quay ngựa về phương Nam. Con Kiền Trắc bắt đầu phi nước đại.
Nắng ấm đã lên. Lá cây xanh mơn mởn. Hoa nở khắp nơi, những cây vô ưu và những cây hồng táo nở hoa đầy mình. Chim chóc ca hát bốn phía. Xa Nặc cho xe đi chậm. Có những người dân quê nhận ra được Tất Đạt Đa và Da Du Đà La. Họ đứng dậy đưa cả hai tay lên vẫy. Xe đã ra tới bờ sông Banganga. Bỗng nhiên, Xa Nặc ghìm cương ngựa lại. Mọi người nhìn về phía trước mặt. Một người đang nằm chặn giữa đường, tay chân người đó co quắp lại. Toàn thân người đó run rẩy. Miệng người đó không ngớt kêu rên. Tất Đạt Đa nhảy xuống, lại gần. Xa Nặc cũng buộc cương ngựa vào thành xe, nhảy xuống. Người nằm bên đường là một người đàn ông, tuổi chắc chưa tới ba mươi. Tất Đạt Đa cầm lấy tay người ấy và ngước mắt hỏi Xa Nặc:
– Người này trúng gió phải không, Xa Nặc? Anh hãy giúp ta xoa bóp và đánh gió cho ông ta.
Xa Nặc lắc đầu:
– Thưa điện hạ, đây không phải là triệu chứng của người trúng gió. Người này mắc phải chứng dịch hạch. Chứng này hiện chưa có thầy thuốc nào biết cách chữa.
– Khổ chưa, thái tử Tất Đạt Đa nhìn kỹ lại người bệnh. Ta có nên chở ông ta về cho ngự y xem xét không?
– Thưa điện hạ, bệnh này ngự y cũng không trị nổi, mà bệnh này lại hay lây. Nếu ta chở người này lên xe thì bệnh có thể lây tới lệnh bà, tới cậu La Hầu La, và tới cả điện hạ nữa. Xin điện hạ buông tay người ấy ra đi, kẻo nguy hiểm lắm.
Tất Đạt Đa vẫn không buông tay người bệnh. Chàng nhìn tay người bệnh rồi nhìn lại tay chàng. Chàng biết chàng là một người mạnh khỏe, nhưng nhìn thấy người bệnh trạc tuổi mình đang nằm trước ngưỡng cửa của cái chết, bao nhiêu sự tự hào về sức khỏe và sự may mắn của riêng mình đột nhiên tan biến hết nơi chàng.
Từ bờ sông, bỗng có tiếng khóc than vọng lại. Chàng đưa mắt nhìn lên. Lại một đám ma. Lại một giàn hỏa. Tiếng đọc kinh đã vọng lên chen lẫn với tiếng khóc than và tiếp đến là tiếng phần phật của giàn lửa bốc cháy.
Tất Đạt Đa nhìn xuống thì người bệnh dưới chân mình đã tắt thở. Hai con mắt ông ta còn trợn trừng. Chàng đặt bàn tay người ấy xuống, đưa tay vuốt mắt người chết. Khi đứng dậy thì chàng thấy Da Du Đà La đã đứng sau lưng chàng không biết từ lúc nào.
Nàng nói giọng nhỏ nhẹ:
– Xin điện hạ xuống rửa tay dưới bến sông. Xa Nặc, anh cũng nên xuống sông rửa tay đi. Rồi chúng ta đánh xe vào xóm báo cho nhà chức trách địa phương biết để họ lo liệu.
Cuộc du hành mùa Xuân tới đây là chấm dứt. Tất Đạt Đa bảo Xa Nặc đánh xe trở về cung điện.
Trên đường về không ai nói với ai một lời nào.
Tối hôm ấy, Da Du Đà La nằm mơ thấy toàn là những ác mộng. Trong giấc mơ đầu, nàng thấy một con bò mộng trắng, trên đầu có gắn một viên ngọc lớn lấp lánh như sao Bắc Đẩu. Con bò đi từng bước thong thả qua đường phố thành Ca Tỳ La Vệ và hướng về cổng thành. Từ đền thờ Indra, có tiếng thiên thần la lớn: “Nếu không giữ được con bò này lại thì kinh đô này còn đâu là ánh sáng”. Mọi người trong thành đều chạy đến cố sức giữ bò lại, nhưng rốt cuộc, không ai giữ được nó. Con bò thoát ra khỏi thành và đi mất.
Trong giấc mộng thứ hai, nàng thấy bốn vị vua trời từ trên đỉnh núi Tu Di phóng hào quang ngay thành Ca Tỳ La Vệ. Ngọn cờ đang bay phấp phới trên đền thờ Indra bỗng dưng đập mạnh và rơi xuống đất. Hoa ở trên trời rơi xuống như mưa, hoa đủ năm màu, chói lọi. Khắp nơi như mở đại hội, và tiếng nhạc từ trên không vang dội khắp kinh kỳ.
Trong giấc mộng thứ ba, nàng nghe tiếng hô to trong không gian: “Giờ đã đến! Giờ đã đến!”. Nàng hoảng hốt nhìn sang chỗ Tất Đạt Đa ngồi thì không còn thấy Tất Đạt Đa ở đấy. Những chiếc hoa lài cài trên tóc nàng bỗng rơi xuống sàn nhà và biến thành tro bụi. Tất cả những áo mão và đồ trang sức mà Tất Đạt Đa để lại trên ghế chàng bây giờ bỗng biến thành một con rắn đang trườn ra phía cửa. Trong hoảng hốt, nàng nghe tiếng rống của con bò trắng từ phía ngoài thành. Nàng nghe tiếng phần phật của ngọn cờ trên đền thờ Indra, và nàng nghe tiếng hô lớn trong không gian: “Giờ đã đến! Giờ đã đến!”.
Da Du Đà La thức giấc. Trán nàng toát mồ hôi. Quay sang phía Tất Đạt Đa, nàng lay chàng dậy:
– Anh, anh ơi, anh thức dậy đi anh.
Tất Đạt Đa vẫn còn thức. Chàng đưa tay vỗ về Da Du Đà La. Chàng nói:
– Em vừa mới mơ thấy gì đó? Hãy kể cho anh nghe đi.
Da Du Đà La kể lại những giấc mộng của nàng, và nàng hỏi chàng:
– Có phải những giấc mộng ấy báo trước rằng anh sẽ ra đi tìm đạo và bỏ em ở nhà một mình phải không anh?
Tất Đạt Đa im lặng nghe. Chàng an ủi nàng:
– Này Cù Di, em đừng buồn. Anh biết em là một người có chí khí. Anh biết em là người cộng sự của anh, và em có thể giúp anh hoàn thành được chí nguyện. Em hiểu anh hơn ai hết trong những người thân thuộc của chúng ta. Vậy nếu mai này mà anh phải đi và phải xa em, xa em trong một thời gian, anh mong rằng em sẽ có đủ can đảm để tiếp tục công việc của em. Em sẽ chăm sóc con và nuôi con lớn lên, dù anh có đi, dù anh có ở xa em thì tình thương của anh đối với em bao giờ cũng thế. Anh sẽ chẳng bao giờ không yêu em. Nếu em biết như thế thì em có thể chịu đựng được sự xa cách. Khi anh tìm được đạo, anh sẽ trở về với em, với con. Thôi em ngủ lại đi.
Tiếng Tất Đạt Đa ôn tồn, ngọt ngào và vỗ về đi thẳng vào lòng Da Du Đà La. Nàng có đủ đức tin nơi chàng. Nàng ngoan ngoãn nhắm mắt lại.
Sáng hôm sau, Tất Đạt Đa vào gặp vua cha. Chàng tâu:
– Thưa phụ vương, con xin phép phụ vương xuất gia để tìm đạo.
Vua Tịnh Phạn giật mình, tuy đã từng nghĩ đến biến cố có thể xảy ra này, nhưng vua chưa bao giờ nghĩ nó xảy ra một cách đột ngột như vậy. Trầm ngâm hồi lâu, ngài nhìn con rồi nói:
– Ngày xưa trong dòng họ ta thỉnh thoảng cũng có người đi xuất gia làm sa môn, nhưng không ai bỏ nhà ra đi vào tuổi của con cả. Ai cũng đợi đến sau tuổi năm mươi. Sao con không làm như thế? Con của con còn nhỏ, và nước nhà đang trông cậy vào con…
– Thưa phụ vương, một ngày con ngồi trong cung cũng như một ngày con ngồi trên đống lửa. Tâm con không an thì làm sao con có thể đáp lại sự trông cậy của phụ vương, của nước nhà, cũng như của bất cứ ai? Con thấy ngày tháng qua rất mau, tuổi trẻ của con cũng vậy. Xin phụ vương cho phép con…
Vua ôn tồn:
– Con nên nghĩ đến sơn hà, xã tắc, đến ta, đến Da Du Đà La và đến đứa con còn trứng nước của con.
– Thưa phụ vương, chính vì con nghĩ đến cho nên con mới xin phép phụ vương cho con ra đi. Con đi đây không phải là để cho một mình con. Con không ích kỷ đi trốn tránh nhiệm vụ của con. Chính phụ vương cũng biết rằng phụ vương không giúp được cho con giải tỏa những khổ đau dằn vặt trong con. Ngay cả những khổ đau dằn vặt trong lòng phụ vương, phụ vương cũng chưa giải tỏa được.
Vua đứng dậy nắm lấy tay chàng:
– Con biết rằng ta rất cần con. Con là người mà ta đặt hết kỳ vọng của ta. Con đừng bỏ ta.
– Con không bao giờ bỏ phụ vương. Con chỉ xin phụ vương đi xa. Chừng nào đạt đạo con sẽ trở về.
Nét mặt Tịnh Phạn dàu dàu. Ngài không nói gì nữa. Ngài bỏ vào biệt điện.
Chiều hôm đó, hoàng hậu Kiều Đàm Di qua ở lại suốt buổi với Da Du Đà La.
Cũng chiều hôm đó, Ưu Đà Di bạn của Tất Đạt Đa đến chơi. Chàng rủ theo Đề Bà Đạt Đa, A Nan Đà, Anuruddha, Kim Tỳ La và Bhadrika, những người trai trẻ đòi tổ chức cuộc vui. Ưu Đà Di đã mời được đoàn vũ công tài ba nhất trong kinh thành đến. Đèn đuốc thắp lên sáng rực cả cung điện.
Bà Kiều Đàm Di cho Da Du Đà La biết là Ưu Đà Di đã được vua cho triệu tới và giao trách nhiệm làm đủ mọi cách để ngăn Tất Đạt Đa bỏ nhà ra đi. Cuộc vui tối nay nằm trong chương trình hành động của chàng.
Da Du Đà La ra lệnh cho các thị nữ đi lo thức ăn và thức uống cùng các nhu cầu khác cho cuộc vui và nàng ở lại bên trong đàm đạo với phu nhân Kiều Đàm Di trong khi bên ngoài công viên Tất Đạt Đa tiếp đãi các bè bạn. Hôm đó là ngày trăng tròn tháng Uttarasalha.
Khi tiếng nhạc của cuộc vui bắt đầu trỗi dậy thì trăng cũng bắt đầu nhô lên trên rặng cây phía trời Đông Nam.
Bà Kiều Đàm Di tâm sự với Da Du Đà La cho tới khuya mới về cung an nghỉ. Khi đưa bà ra sân, Da Du Đà La thấy trăng đã lên tới đỉnh đầu. Cuộc vui còn tiếp diễn với tiếng trống tiếng nhạc và tiếng nói cười. Đưa hoàng hậu Kiều Đàm Di khỏi ngõ, nàng trở vào đi tìm Xa Nặc. Người hầu cận này đang ngủ. Nàng đánh thức Xa Nặc dậy, thầm thì:
– Có thể đêm nay thái tử cần đến ngươi. Hãy chuẩn bị cho con Kiền Trắc yên cương đầy đủ, và cũng nên chuẩn bị một con ngựa khác cho chính ngươi.
– Thưa lệnh bà, thái tử đi đâu vào giờ này?
– Ngươi đừng hỏi, cứ việc chuẩn bị như lời ta dặn vì thái tử có thể cần đến ngươi trong đêm nay.
Xa Nặc vâng dạ đi vào tàu ngựa. Da Du Đà La đi trở vào trong cung. Nàng sắp đặt sẵn giầy nón và áo dạ hành cho thái tử. Nàng lại đi lấy thêm một chiếc chăn mỏng để đắp thêm cho La Hầu La, rồi nàng thay áo và lên giường. Nằm trên giường, nàng lắng nghe tiếng nhạc, tiếng ca, tiếng nói và tiếng cười. Cuối cùng, cuộc vui tan. Có lẽ mọi người đều đã tìm nơi an nghỉ. Da Du Đà La nằm yên lắng nghe sự im lặng trở về trong cung cấm. Nằm yên chờ đợi, nhưng lâu lắm nàng vẫn không thấy Tất Đạt Đa đi vào.
Trong khi đó, Tất Đạt Đa ngồi một mình thật lâu ngoài vườn ngự. Chàng nhìn lên trời. Trăng sáng vằng vặc, ngàn sao nhấp nháy. Chàng quyết định đêm nay phải rời bỏ hoàng cung. Chàng đi vào, mang giầy và mặc áo. Chàng vén rèm nhìn vào phòng ngủ, La Hầu La nằm ngay bên cạnh Da Du Đà La. Chàng muốn vào nói lời từ biệt nàng, nhưng chàng lưỡng lự, những lời dặn dò cần thiết nhất, chàng đã nói với nàng rồi. Thức nàng dậy chàng biết chàng sẽ làm cho phút biệt ly khó khăn hơn, và não lòng hơn. Chàng buông rèm xuống, định bước chân ra, nhưng chàng đứng lại vén rèm lần nữa, để nhìn hai mẹ con một lần cuối. Chàng nhìn thật kỹ như để thu lấy thêm một lần nữa cái hình ảnh quen thuộc và thân yêu ấy. Cuối cùng chàng buông rèm, bước ra.
Khi đi ngang qua phòng khánh tiết, Tất Đạt Đa thấy bọn vũ nữ nằm ngủ la liệt và ngả nghiêng trên nệm thảm. Đầu tóc họ xổ tung, có người mở rộng miệng ra như những con cá chết, những cánh tay mềm mại của họ bây giờ cứng đơ như những thanh củi, và chân họ gác ngang gác ngửa như trên một bãi chiến trường. Họ trông giống như những cái xác chết không hồn. Tất Đạt Đa có cảm tưởng mình đang bước ngang qua một cái nghĩa địa.
Chàng mở cửa ra, đi ra phía chuồng ngựa. Xa Nặc đang thức. Chàng bảo:
– Xa Nặc, đem con Kiền Trắc ra đây.
Xa Nặc vâng dạ. Xa Nặc đã chuẩn bị mọi sự chu đáo rồi. Con Kiền Trắc đã có đủ yên cương. Xa Nặc thưa lại:
– Con có đi với điện hạ không?
Tất Đạt Đa gật đầu. Xa Nặc đi vào tàu, dắt ra một con ngựa khác. Con ngựa này cũng đã có đủ yên cương.
Hai thầy trò dắt ngựa ra khỏi cung. Tất Đạt Đa dừng lại, vuốt ve con Kiền Trắc. Chàng nói với ngựa:
– Này Kiền Trắc, chuyến đi này là một chuyến đi quan trọng. Con hãy hết lòng đưa ta đi.
Chàng nhảy lên mình ngựa. Xa Nặc cũng nhảy lên ngựa của mình.
Hai thầy trò cho ngựa đi thong thả để đừng gây nên nhiều tiếng động.
Những người lính gác cửa thành đang ngủ say. Hai thầy trò vượt qua cổng thành một cách dễ dàng. Ra khỏi cổng thành, được chừng một dặm, Tất Đạt Đa dừng ngựa. Chàng quay nhìn lại kinh đô đang nằm im lìm dưới ánh trăng. Chính nơi kinh đô này mà Tất Đạt Đa đã sinh ra và lớn lên. Chính nơi kinh đô này mà chàng đã trải qua bao nhiêu buồn vui và thao thức. Chính trong kinh đô ấy, phụ hoàng, bà Kiều Đàm Di, Da Du Đà La, La Hầu La và tất cả những người thân yêu khác hiện đang ngủ say. Chàng thầm bảo:
– Nếu không tìm ra được con đường, ta sẽ không trở về Ca Tỳ La Vệ nữa.
Chàng quay ngựa về phương Nam. Con Kiền Trắc bắt đầu phi nước đại.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.