Chương 3: Uyên để Tiêu Dao ngộ - Hồi gia tam nghi mang
Ưu Đàm Hoa
21/05/2013
Hai người ra roi, thúc ngựa lên đèo. Đến đỉnh, Tiểu Băng kinh hãi nhận ra hai lão già cao gầy, sắc diện tái xám, mũi két, mắt diều loang loáng hàn quang.
Dung mạo ấy chính là của Chấp Pháp song tướng của Thiên Độc giáo. Uy quyền của bọn họ chỉ dưới một mình Giáo chủ Ôn Thiếu Bảo.
Tiểu Băng tuyệt vọng nói :
- Nay nhị bá phụ đã đứng ra gã tiểu nữ cho công tử đây rồi, nhị vị còn truy đuổi làm gì nữa?
Lão không râu là Đệ nhất chấp pháp Bùi Tự Viên, cười nhạt đáp :
- Giáo chủ đã nghe báo việc này. Người bảo chỉ cần giết gã oắt con kia đi là tiểu thư lại trở thành gái không chồng.
Dường như đã bàn bạc từ trước, lão vừa dứt lời thì Đệ nhị chấp pháp Bùi Thế Đông vung chưởng quạt bay Văn Tuấn Hạc xuống vực thẳm.
Ôn Tiểu Băng đau đớn gào lên, chưa kịp có phản ứng gì thì đã bị Bùi Tự Viên búng một đạo chỉ phong vào huyệt Bộ Long. Nàng điên cuồng chửi mắng :
- Hai lão khốn kiếp kia, bổn cô nương thề sẽ phân thây bọn ngươi ra!
Lão cười nhạt, điểm luôn Thụy huyệt của nàng. Cả hai lên ngựi phi mau, không để ý gì đến việc sống chết của Tuấn Hạc.
Lúc này chàng đang rơi xuống vực thẳm. Chưởng lực của Bùi lão quái quả là uy mãnh tuyệt luân.
Nhưng không hiểu do hoàng thiên hữu nhãn hay Tuấn Hạc chưa đến số chết, chàng rơi vào đám dây leo gai góc mọc trên vách. Nhờ vậy, tốc độ rơi chậm dần.
Cuối cùng, chàng nằm lịm người trên một mõm đá lớn bằng ba mảnh chiếu nhô ra khỏi sườn vực thẳm.
Tuấn Hạc ngất xỉu đến gần một canh giờ mới hồi tỉnh. Chàng mừng rỡ khi nhận thấy mình còn sống nhưng lo âu khi thấy miệng vực cao đến bốn năm chục trượng. Kiểm tra lại cơ thể, chàng nhận ra mặt và toàn thân đầy những vết trầy sướt do gai góc.
May thay, bọc hành lý may bằng lụa dày nên chưa rách tung ra và vẫn còn vướng trên vai. Chàng và Tiểu Băng đã dồn chung y phục vào một bọc nên chiếc hỏa tập của nàng cũng ở đây. Tuấn Hạc tìm thấy, mừng rỡ bật lên quan sát vách vực Trước mặt chàng là một động khẩu nhỏ rộng độ nửa trượng.
Lúc đầu, vì e sợ độc vật, rắn rít nên chàng không dám vào. Nhưng nhờ lại rằng mình đã uống Thiên Độc thần đan, chàng bạo dạn tiến lên. Nếu ở lại mõm đá chàng sẽ không chịu được cái lạnh của đêm đông.
Tuấn Hạc ngạc nhiên khi thấy đường vào sạch sẽ, bằng phẳng, hai bên vách lại có khảm dạ minh châu to bằng quả trứng tỏa ánh sáng dịu nhạt. Chợt có luồng gió nhẹ từ trong thổi ra, mang theo mùi hương thơm của quả chín.
Đang đói khát, chàng phấn khởi bước nhanh. Được vài trượng, một hang động thiên nhiên rộng rãi hiện ra. Trần hang lố nhố muôn ngàn thạch nhũ, phía dưới là một hồ nước nhỏ rộng chừng hơn trượng.
Cạnh hồ là một cây thấp, lá màu tím thẫm và lủng lẳng trên cành là bảy quả lạ, hình dáng giống lê mà vỏ trắng như sữa.
Chắc đã đến lúc chín mùi nên hương thơm ngào ngạt.
Dù đọc nhiều sách vở cổ kim, nhưng chàng vẫn không nhận ra lai lịch cây lạ kia. Không ăn cũng chết! Tuấn Hạc thở dài phó mặc, hái một trái ăn thử. Không ngờ, mùi vị lại ngon phi thường, tuy có hơi đắng vị thuốc bắc. Chàng ăn một mạch hết bảy quả, cúi xuống uống vài ngụm nước trong hồ.
Bỗng chàng nghe bụng nóng lên dữ dội, luồng nhiệt khí lan khắp châu thân, xông thẳng lên óc, da thịt trương phồng vô cùng đau đớn. Tuấn Hạc kinh hãi, cố lết xa hồ nước, đến cạnh vách động mà rên la, quằn quại.
Chàng lăn lộn đến nỗi tấm đồng bài trong giầy rơi ra, nằm lăn lóc bên cạnh.
Lát sau, Tuấn Hạc mê man bất tỉnh, không còn biết gì nữa.
Và rồi, từ ngoài cửa động, một bóng trắng nhỏ bé lướt vào. Đó mà một con vượn bạch, mắt đỏ như lửa.
Nhận ra linh quả đã bị ăn sạch, nó giận dữ hú lên ghê rợn, định chụp lấy Tuấn Hạc mà xé xác. Nhưng nó chợt thấy tấm đồng bài liền dừng tay, nhặt lên xem xét và gãi đầu ngơ ngẩn.
Lát sau, Bạch Viên nhảy nhót như mừng rỡ. Nó lao vào trong, lấy ra một vò rượu rỗng, múc nước dưới hồ tạt vào mặt Tuấn Hạc. Có lẽ sự công phạt của dị quả đã hết, chàng hồi tỉnh.
Ngày còn thơ ấu, Tuấn Hạc cũng nuôi một con khỉ nên rất mến loài linh trưởng này. Chàng vui vẻ hỏi :
- Phải chăng đây là nơi cư trú của ngươi?
Hỏi chỉ để tỏ sự thân tình, không ngờ Bạch Viên gật đầu xác nhận. Nó còn giơ tấm đồng bài lên và chỉ vào ngực chàng, như muốn hỏi có phải của chàng hay không? Tuấn Hạc hiểu ý đáp :
- Đúng vậy! Vật này là của ta!
Bạch Viên vui mừng, hoa tay múa chân, thọt khét một hồi. Tuấn Hạc chịu thua, cười bảo :
- Ta không thể hiểu được!
Bạch Viên tức tối nắm tay chàng lôi vào trong. Tận cùng của hang động là một tảng đá vôn vức, nhẵn nhụi, cao hơn dầu người. Trên ấy là pháp thể của một lão nhân mặc áo thư sinh màu trắng đã ố vàng vì thời gian. Đầu ông đội mũ Khổng Minh. Bộ râu dài năm chòm và gương mặt đoan chính khiến Tuấn Hạc sinh lòng kính nghiêng. Chàng sụp xuống thi đại lễ :
- Vãn bối ngộ nạn, vô tình lạc bước đến nơi tọa hóa của tiền bối. Ba lạy này gọi là để tạ lỗi đã mạo phạm chốn tôn nghiêm.
Chàng lạy xong, nhận ra Bạch Viên tỏ vẻ hài lòng. Nó chạy vào gốc động, mày mò một lát, đem ra một gói giấy dầy đưa cho chàng xem.
Thấy trên thạch án có ngọn tọa đăng còn hơn nửa bình dầu, chàng vươn tay lấy xuống đốt lên.
Sau lớp giấy dầu kia là bọc vải dầy, chứa hai quyển sách và một mảnh hoa tiên cũ kỹ. Tuấn Hạc mở ra đọc thử :
“Hậu sinh nhã giám!
Lão phu tung hoành thiên hạ bốn chục năm, không tìm ra đối thủ nên cảm thấy mình cô độc. Năm bảy mươi tuổi, phát hiện vực thẳm này có một cây Tử Diệp Bạch Lê - Kỳ toàn chí bảo của đất trời - Lão phu tìm xuống xem thử. Nhận ra nơi nầy thanh tịnh có thể tu tiên được nên ở lại ẩn cư và chờ đợi. Hai mươi năm sau, lão phu giác ngộ đại đạo, lòng hư tĩnh, sáng suốt, không còn chút dục vọng nào nữa và tính toán được cả chuyện vị lai. Vì vậy lão phu biết rằng mười lăm năm sau sẽ có người lạc vào đây, đúng lúc linh quả chín mùi. Người này sẽ kế thừa sở học của lão phu mà tạo phúc cho bách tính.
Lão phu cho rằng không còn vướng bận gì nơi trần tục nên thanh thản ra đi. Tiểu Bạch là thần vật hiếm có, hiểu rõ tính người và dũng mãnh tuyệt luân. Mong người hữu duyên hãy đối xử tử tế với Bạch Viên!
Cuồng Kiếm Thần Y Công Tôn Quang Nguyệt di bút!”
Tuấn Hạc vui mừng khôn xiết, xem đến hai quyển sách. Một là pho “Võ kinh thủ lục”, hai là “Y kinh chân giải”.
Chàng biết là mình đã ngộ kỳ duyên, liền đứng trước thạch án lạy chín lạy khấn rằng :
- Ân sư! Đồ nhi quyết không phụ lòng của người!
Từ đó, chàng ở lại thạch động, chuyên tâm rèn luyện. Bạch Viên chính là một vị sư huynh rất tốt, nó đã ở bên Công Tôn Quang Nguyệt suốt năm mươi năm nên thuộc lòng từng thế thức trong pho Cuồng Kiếm. Chàng thi triển sai là nó biết ngay và sửa lại. Tuy chỉ có mười tám chiêu nhưng biến hóa thành ngàn chiêu rất dễ dàng.
Pho chưởng có tên là Tiêu Dao thất thập nhị thủ, bao gồm cả quyền, cước, chưởng, chỉ và phất huyệt vô cùng uyên ảo bác tạp. Tiểu Bạch đã được chân truyền tuyệt kỹ này. Nhưng do không thể luyện nội công, chỉ dựa vào thần lực thiên sinh nên không phát ra chưởng kình.
Bảy trái Tử Diệp Bạch Lê đã đem lại cho Tuấn Hạc gần bốn mươi năm công lực. Nếu không, chàng chẳng thể nào hoàn thành được các tuyệt kỹ của Cuồng Kiếm Thần Y. Nhất là pho khinh công “Thiên Tinh Quá Hải” đòi hỏi một nguồn chân khí sung mãn, hùng hậu mới thi triển được.
Thần viên Tiểu Bạch là đối thủ duy nhất của chàng. Nó từng theo Công Tôn Quang Nguyệt đánh hàng trăm trận, lịch duyệt có thừa. Cộng với tính linh thông, ranh mãnh. Tiểu Bạch nhiều lần dồn Tuấn Hạc vào thế hạ phong. Nhờ vậy, chàng ngày càng lãnh hội được tinh túy sở học của ân sư.
Chàng cũng học luôn cả phép xoay chuyển linh hoạt của loài vượn nên thân pháp nhanh như điện chớp.
Không muốn tuyệt học gia truyền bị mai một, Tuấn Hạc rèn luyện luôn pho Ngô Câu Đoạt Mệnh kiếm pháp. Tuy không hùng mạnh bằng pho Cuồng Kiếm nhưng mức độ quỷ dị, ác độc có phần hơn. Lý do là vì Ngô Câu kiếm có móc câu ở đầu nên thêm những thức móc giật, đối phương khó đề phòng.
Sau bốn năm khổ luyện, Tuấn Hạc đã đạt được bảy thành Thiết Thạch thần công, chịu liền mười đòn như trời giáng của Tiểu Bạch mà vẫn không thọ thương.
Chàng tự lượng đủ sức giết Văn Chí Khải nên tính chuyện rời vực thẳm.
Giờ đây, chàng leo trèo nhanh nhẹn không thua gì Thần viên, nhưng cơ thể cao lớn và nặng đến hơn trăm cân nên chẳng thể tự trèo lên được. Tuấn Hạc liền bảo Tiểu Bạch ra ngoài tìm mấy chục sợi giây leo bền chắc, nối lại với nhau.
Lạy tạ pháp thể Cuồng Kiếm Thần Y xong, chàng thu xếp bọc hành lý ít ỏi rồi bảo Tiểu Bạch cầm một đầu dây trèo lên miệng vực, cột vào gốc cây.
Tuấn Hạc thông minh tuyệt thế, lại thực tâm yêu thương Tiểu Bạch nên đã hiểu hết mọi cách biểu hiện của Thần viên. Cả hai tâm ý tương thông, chẳng còn chút ngăn cách nào cả.
Thoát khỏi vực thẳm, chàng mừng rỡ hú lên cao vút. Tiểu Bạch thấy vậy cũng hú theo.
Y phục cũ của chàng đã quá nhỏ bé, Tuấn Hạc đành phải mượn một bộ trường bào của sư phụ. Tuy cũ kỹ nhưng dệt bằng tơ tốt nên chưa hề rách.
Đã mấy năm qua không thấy ánh dương quang, Tuấn Hạc có làn da trắng xanh, làm nổi bật bộ râu mép rậm rì. Một vết thẹo nhỏ vắt từ tai bên tả xuống khóe miệng chính là dấu vết còn lại của lần rơi xuống vực. Nó không làm cho chàng xấu đi mà càng tăng phần uy vũ, phong trần.
Chàng thừa hưởng của Thiết Long Văn Chí Lãm dáng vóc cao lớn, tay dài chạm gối nhưng không thô ráp như ông và Tuấn Thu, mà đầy vẻ tuấn nhã, thông tuệ.
Tuy nhiên, trong đôi mắt sáng như sao kia, man mác một nỗi buồn sâu thẳm.
Chàng buồn vì nhung nhớ và lo lắng cho Ôn Tiểu Băng. Chàng đã khổ luyện vì mối huyết cừu và hình bóng kiều diễm của nàng là sự an ủi, khích lệ.
Chàng không biết nàng có thoát khỏi cuộc hôn nhân ép buộc với Tích Ngọc Lang Quân Trương Ân Tuấn hay không?
Nghĩ đến tính tình cuộng liệt của tình nương, bất giác Tuấn Hạc toát mồ hôi lạnh. Nếu chẳng may nàng đã tự sát thì sao?
Còn nỗi buồn thứ hai chính là hạ lạc của đại ca Văn Tuấn Thu và ẩn tình của mối gia thù. Chàng tin rằng Hoàng Diện Thái Tuế Nhâm Bá Linh không hề nói dối, nhưng vì sao Văn Chí Khải lại đột nhiên yêu thương chàng như ruột thịt?
Trong tâm trạng u uẩn ấy, Tuấn Hạc đưa Thần viên Tiểu Bạch đi về hướng Nam.
Hai ngày sau, bọn chàng đến thành Hoắc Châu. Việc làm đầu tiên là mua sắm vài bộ y phục và sửa sang râu tóc. Lúc đầu, chàng định cạo phăng hàng râu mép, nhưng nhớ đến bào huynh, chàng giữ lại. Tuấn Thu cũng có hàng râu xanh như vậy.
Hỏi thăm lão thợ cạo, chàng mới biết giờ đã là giữa tháng tư năm Hồng Vỗ thứ hai mươi bốn.
Đẻ tưởng nhớ đến những kỷ niệm ôn nhu ngày nào với Tiểu Băng, chàng tìm đến khách điếm cũ. Tắm gội thỏa thuê xong, chàng ra phố chọn tửu lâu lớn nhất mà vào.
Không phải vì chàng thèm rượu mà vì chỉ những nơi náo nhiệt như thế, chàng mới có thể hỏi thăm tin tức Thiên Độc Thánh Nữ Ôn Tiểu Băng. Đây là một trong những kinh nghiệm mà Nhâm Bá Linh đã dạy cho chàng.
Quả nhiên, lầu trên của Hoắc Châu đại tửu lâu đầy ắp khách giang hồ. Họ ồn ào đàm luận về cục diện võ lâm, hoặc khoe khoang kiến văn của mình.
Trong đám người ấy có một lão nhân tóc hoa râm, dáng người nhỏ bé, mặt mũi tinh ranh như mặt chồn. Lão chẳng nói gì mà cứ vân vê chòm râu dê vàng hoe, mỉm cười khinh mạn. Nhưng lát sau, lão ngứa miệng bật thốt :
- Chư vị quả là những người thông thái lịch lãm. Nhưng liệu có biết một việc động trời vừa xảy ra ở vùng Giang Nam hay không?
Quần hùng xôn xao hẳn lên. Một hán tử áo xám tươi cười bợ đỡ :
- Việc ấy thì chỉ có Vạn Bác Hồ Tinh mới biết được thôi! Mong tiền bối dạy cho.
Tuấn Hạc từng nghe Nhâm Bá Linh giới thiệu qua về nhân vật này. Lão có tên là Cù Sở Hòa, thông minh tuyệt mức, xảo quyệt có thừa. Không việc gì trong võ lâm mà lão không biết. Nghe nói lão là người của Cái bang nên bao giờ cũng nắm được thông tin trước thiên hạ. Chàng định bụng sẽ hỏi lão về tin tức của Tiểu Băng.
Hồ Tinh đắc ý, hắng giọng rồi mới kể :
- Chư vị có nhớ việc Thiết Long Văn Chí Lãm treo giải thưởng một ngàn lượng vàng - cho ai tìm thấy nhị công tử Văn Tuấn Hạc - hồi bốn năm trước hay không? Tháng rồi, Văn nhị công tử xuất hiện ở Triết Giang, thành lập Hoài Hạc bang. Chàng ta lại lên tiếng tố cáo Thiết Long hiện nay là giả mạo. Lão ấy chính thực là Văn Chí Khải. Mười năm trước đã giết chết Thiết Long và phu nhân rồi thế thân vào. Minh chủ võ lâm Thanh Long Tử - Chưởng môn phái Võ Đang - đã nhận được đơn kiện. Ông bèn phát võ lâm lệnh bài, triệu Thiết Long đến Võ Đang sơn trần tình - Vào ngày đầu tháng năm này!
Mọi người kinh hãi ồ lên, tíu tít gọi tiểu nhị tính tiền và kéo đi hết. Họ về chuẩn bị gia sự, thu xếp tiền bạc rồi đi Tung Sơn.
Hồ Tinh bực bội lẩm bẩm :
- Tin tức sốt dẻo như vậy mà chẳng tên nào dám bỏ tiền chiêu đãi lão phu cả! Thật là một lũ bần tiện!
Tuấn Hạc nghe thấy ứng tiếng ngay :
- Tiểu sinh xin được làm việc ấy!
Chàng đứng lên bước qua bàn lão, gọi tiểu nhị dọn một mâm rượu thịt mới.
Vạn Bác Hồ Tinh khoan khoái cười hề hề hỏi :
- Lão phu đang được làm quen với ai đây?
Chàng mỉm cười đáp :
- Vãn sinh là Văn Tư Băng!
Lúc nãy nghe Cù Sở Hòa nhắc đến chuyện Hoài Hạc bang, chàng linh cảm tên Tuấn Hạc giả mạo kia có thể là đại ca Tuấn Thu, hoặc chính Ôn Tiểu Băng.
Nhưng nếu là Tuấn Thu thì bang hội kia sẽ không mang tên Hoài Hạc. Chỉ mình Tiểu Băng biết chàng rơi xuống vực.
Vì vậy bất giác xưng tên giả là Văn Tư Bang - để tỏ lòng hoài vọng mỹ nhân.
Tuy nhiên, chàng phải hỏi cho ra lẽ mới có thể xác quyết Thần viên Tiểu Bạch thấy chàng sang bàn khác cũng đi theo. Nó chễm chệ ngồi xuống cạnh bàn, giương đôi mắt đỏ rực nhìn Vạn Bác Hồ Tinh với vẻ nghi ngờ.
Quả thực, gương mặt chồn già kia không lấy gì làm lương thiên.
Cù lão kinh hãi nói :
- Văn lão đệ! Đây là giống Hỏa Nhãn Tuyết Viên hiếm có trên đời, sao lão đệ lại có được?
Tuấn Hạc cười đáp :
- Vãn sinh gặp Tiểu Bạch cách đây bốn năm ở rặng núi phía Nam thành Tinh Châu.
Rượn thịt được đem ra, hai người nâng chén mời nhau. Cù lão nheo cặp mắt tinh quái hỏi :
- Phải chăng công tử có điều gì muốn nhờ lão phu gỡ rối?
- Thưa phải! Vãn sinh mong tiền bối chỉ giáo tình hình của Thiên Độc Thánh Nữ Ôn Tiểu Băng?
Cù Sở Hòa cau mày đáp :
- Cách đây bốn năm, nàng được gã cho Tích Ngọc Lang Quân, Thiếu giáo chủ của Thiên Sư giáo. Nhưng khi thuyền hoa đưa dâu xuôi dòng Trường Giang thì Tiểu Băng đánh trọng thương tân lang rồi gieo mình xuống sông tự tử. Việc này lan truyền khắp thiên hạ, sao công tử không biết?
Tuấn Hạc chết điếng người. Đôi giòng lệ thương tâm lén trào ra mà chàng không hay biết.
Cù lão lộ vẻ cảm thông :
- Té ra công tử có mối thâm tình với Ôn tiểu thư. Như vậy cái tên Văn Tư Băng chắc là tên giả?
Chàng giật mình, gượng cười :
- Tiền bối quả là thần nhân! Vãn sinh đích thực là Văn Tuấn Hạc ở Văn gia bảo đây.
Đến lượt Hồ Tinh nhảy nhổm lên :
- Không lẽ Bang chủ Hoài Hạc bang là kẻ giả mạo?
Chàng biết lão là người tinh minh, thông thái nên thố lộ tâm sự, nhờ lão gỡ rối cho :
- Đúng thế! Vãn sinh còn đoán ràng người ấy là đại ca Văn Tuấn Thu!
Cù lão hỏi thêm :
- Vậy lời tố cáo kia có phải là sự thật hay không?
Chàng gật đầu xác nhận :
- Bốn năm trước, Hoàng Diện Thái Tuế Nhâm Bá Linh đã tiết lộ việc này cho vãn sinh biết. Sau đó ông ta bị bọn Hoàng Sơn nhị quỷ đánh rơi xuống Hoàng Hà, không rõ số sanh tử thế nào?
Cù Sở Hòa vốn là kẻ hiếu kỳ số một võ lâm, gặp nan đề phải giải cho ra. Vì vậy lão vô cùng thích thú trước vụ án bí ẩn của nhà họ Văn. Lão trầm ngâm suy nghĩ rồi hỏi :
- Thế trong bốn năm nay, công tử lưu lạc phương nào?
Biết lão tinh ranh như hồ ly, chàng đành thú thực :
- Vãn sinh cùng Ôn tiểu thư trên đường đến Huyền Không tự để tìm Hằng Sơn Thiền Ông thì bị Chấp Pháp nhị tướng của Thiên Độc giáo chặn lại. Họ đánh bay vãn sinh xuống vực thẳm rồi bắt Ôn tiểu thư về Nghi Xương. Vãn sinh may mắn thoát chết, nhưng mãi đến nay mới thoát khỏi vực sâu.
Tuy chàng không nói rõ việc mình gặp kỳ duyên nhưng Cù lão cũng đoán ra. Nếu không, chàng chẳng thể nào trở lại nhân gian. Lão cười khà khà :
- Họa trung đắc phúc, xin chúc mừng công tử!
Bỗng lão ngớ người suy nghĩ, rồi hồ hỡi nói :
- Lão phu võ đoán rằng công tử đã kể cho Ôn tiểu thư nghe nội tình Văn gia bảo? Nếu đúng vậy thì gã Hoài Hạc bang chủ kia có thể chính là nàng ta. Cái tên Hoài Hạc chẳng phải là để tưởng nhớ đến công tử đó sao?
Tuấn Hạc mừng rỡ :
- Vãn sinh cũng nghĩ như vậy nhưng không dám chắc!
Cù lão mỉm cười :
- Đầu tháng năm tới đây, cả Thiết Long lẫn Hoài Hạc bang chủ đểu có mặt ở Võ Đang sơn, công tử cứ đến đấy tất sẽ rõ nội tình.
Tuấn Hạc cảm tạ, gọi tiểu nhị tính tiền rồi cáo biệt Hồ Tinh.Thấy lão già nua cô độc áo rách không người vá, Tuấn Hạc cung kính nói :
- Còn tiền bối, tiền tài như phấn thổ, nhân nghĩa tợ thiên kim. Mong tiền bối nhận chút lòng thành của vãn sinh.
Nói xong, chàng đặt ba tấm tiền giấy trăm lượng bạc xuống bàn.
Cù Sở Hòa chua chát hỏi :
- Dung mạo lão phu gian xảo, hèn hạ như vậy mà công tử không chán ghét sao?
Tuấn Hạc chỉnh sắc :
- Khổng Phu Tử có tướng ngũ lộ xấu xí Lão Tử thì mộc mạc, quê mùa, thô thiển như cây khô! Sao có thể nhìn dung mạo mà xét đoán con người? Hình dáng xấu đẹp tròn vuông là do tự nhiên ban cho, nhưng ai cũng sẵn có cái thiện căn trong tâm. Tiền bối một đời bôn ba vì chuyện của thiên hạ, không màng lợi lộc, vãn sinh hết lòng ngưỡng mộ.
Vạn Bác Hồ Tinh vỗ bàn khoan khoái :
- Sinh ra ta là cha mẹ nhưng hiểu ta chỉ có mình công tử. Lão phu xin đem tấm thân tàn này theo hầu vậy!
Biết lão là người tài trí, Tuấn Hạc phấn khởi vòng tay :
- Được tiền bối di theo dạy bảo, vãn sinh vui mừng khôn xiết!
Hai người vui vẻ rời tửu lâu, mua ngựa rồi lên đường xuôi Nam. Tiểu Bạch quen tính nghịch ngợm, cứ nhảy từ con tuấn mã này sang con kia, Tuấn Hạc hòa nhã nói :
- Tiểu Bạch! Hãy ngồi im, đừng làm ngựa sợ!
Thần viên lập tức ngoan ngoãn ngồi sau lưng chàng. Cù Sở Hòa thấy con vượn thông hiểu tiếng người, lão suy nghĩ miên man. Cuối cùng, không dằn được tính tò mò, lão cất tiếng :
- Văn công tử, lão phu nhớ ra một cố sự võ lâm, cách nay đã mấy chục năm, đó là một vị đại kỳ nhân có danh hiệu Cuồng Kiếm Thần Y. Ông ta có nuôi một con vượn trắng như Tiểu Bạch đây. Dám hỏi sư thừa của công tử?
Tuấn Hạc mỉm cười gật đầu :
- Đúng vây! Người ấy chính là tiên sư!
* * * * *
Tám ngày sau, khi bọn Tuấn Hạc đến thành Lạc Dương thì nghe tin Thanh Long Tử qua đời vì tẩu hỏa nhập ma. Vụ án Văn gia bảo đành phải hoãn lại chờ bầu tân Minh chủ.
Vạn Bác Hồ Tinh liền bàn :
- Nếu vậy, công tử cứ về Văn gia bảo xem thái độ Thiết Long thế nào. Lão phu sẽ đi Chiết Giang dò xem Bang chủ Hoài Hạc bang là ai. Đệ tử Cái bang sẽ giữ liên lạc giữa hai chúng ta.
Lão trao cho chàng một đồng tiền cổ để làm tín vật điều động bọn hóa tử. Hồ Tinh chua xót nói :
- Tiền nhiệm Bang chủ vì tham vinh hoa phú quý nên đã phục vụ quân Mông Cổ. Vì vậy sau khi cuộc chiến kháng nguyên thành công, các môn phái khác đều được tuyên dương và tự do phát triển, duy chỉ có Cái bang là mất cả tông môn. Tuy nhiên, anh em vẫn âm thầm duy trì bang hội.
Tuấn Hạc an ủi lão :
- Cái bang có truyền thống trượng nghĩa, trung liệt từ mấy trăm năm nay, đâu thể vì lỗi lầm của một đời Bang chủ mà tiêu diệt được? Sau này tất có ngày trùng hưng trở lại được.
Hai người rời Lạc Dương, đồng hành thêm mấy trăm dặm nữa, đến tận Tín Dương mới chia tay.
Cuối tháng năm, Tuấn Hạc về đến Lư Lăng. Tòa Văn gia bảo thân yêu vẫn sừng sững đứng bên dòng sông Lư Giang trầm lặng.
Cửa bảo đóng kính, chàng xuống ngựa nắm song sắt đập vào cánh cửa gỗ. Lát sau, Trương tổng quản chạy ra, ngỡ ngàng nhìn chàng trai trẻ. Lão đã già đi, mắt mũi kèm nhèm nên chẳng thể nhìn ra nhị công tử. Gia dĩ, chàng đã khác xưa rất nhiều. Bộ râu mấy ngày không cạo càng khiến gương mặt thêm xa lạ.
Câu đầu tiên mà chàng hỏi là :
- Xin hỏi Nhâm đại thúc có mặt ở đây không?
Trương lão buồn rầu đáp :
- Bốn năm trước, lão ta đưa nhị công tử lên kinh thi Hội, cuối cùng chẳng thấy trở về.
Tuấn Hạc thầm thương cho Hoàng Diện Thái Tuế nhưng lại yên tâm vì việc này phù hợp với kế hoạch đã định. Chàng cười bảo :
- Trương lão không nhận ra Hạc nhi sao? Ta là nhị công tử đây!
Trương Phúc kinh hãi, trợn mắt nhìn cho kỹ rồi ré lên :
- Nhị công tử!
Lão ôm chàng khóc dài :
- Trời cao có mắt nên công tử còn sống. Bốn năm qua, Văn gia bảo buồn như có đám ma.
Tuấn Hạc vỗ về lão :
- Trương lão đừng khóc nữa, để ta vào xem có ai nhận ra ta không?
Chàng trao cương ngựa cho lão rồi đủng đỉnh bước vào. Thiết Long Văn Chí Lãm và Hà nhị nương đang ngồi trên bàn bát tiên ở giữa đại sảnh. Bước chân Tuấn Hạc quá êm ái nên họ chẳng hề phát hiện.
Văn bảo chủ thì thờ thẫn nhìn qua song cửa phía Tây ngắm ánh hoàng hôn thoi thóp. Gương mặt ông hốc hác, đầy vẻ buồn phiền. Hà Tú Chân cặm cụi khâu va.
Tuấn Hạc bước đến gần họ mới nhận ra. Thiết Long ngỡ ngàng nhìn khách, đôi mắt ánh lên niềm nghi hoặc và hân hoan vô hạn. Cuối cùng, từ đôi mắt hổ trào ra những giọt lệ. Thiết Long thất thanh :
- Hạc nhi!
Tuấn Hạc nhìn thấy tất cả. Chàng biết ông ta thực lòng yêu mến mình. Người này chẳng thể là Văn Chí Khải được!
Chàng sụp xuống khóc :
- Hài nhi bái kiến phụ thân và nhị nương!
Thiết Long lao đến ôm chặt lấy chàng, bật cười vang dội :
- Ôi hoàng thiên! Ta đội ơn người!
Hà nhị nương cũng khóc. Nàng chẳng thể chạy đến ôm lấy Tuấn Hạc vì chàng đã cao bằng Thiết Long. Tú Chân nghẹn ngào nói :
- Hạc nhi! Ta tưởng rằng kiếp này không còn được gặp con nữa.
Thiết Long kéo chàng về bàn rồi quát vang :
- Trương tổng quản đâu, mau chuẩn bị đại yến mừng nhị công tử!
Trương lão đã biết trước và thông báo các gia nhân nên mọi người kéo lên sảnh chúc mừng. Lát sau, họ ùa xuống bếp, chuẩn bị yến tiệc.
Họ đi cả rồi mới có một đứa bé gái độ ba tuổi chạy ra. Dường như nó đang ngủ và bị đánh thức bởi những tiếng ồn ào.
Thiết Long nhấc bổng cô bé lên cười khanh khách :
- Hạc nhi, tiểu nha đầu này là em ngươi đấy! Tên nó là Uyển Lan!
Lan nhi tròn mắt nhìn Tuấn Hạc rồi bập bẹ :
- Phụ thân! Chẳng phải đây là nhị ca mà người vẫn thường nhắc đến?
Thiết Long gật đầu, trao nó cho Tuấn Hạc. Lan nhi bụ bẫm, xinh đẹp như trong tranh, khiến chàng sinh lòng yêu mến.
Lan nhi ôm cổ chàng thủ thỉ :
- Nhị ca đi đâu không chịu về làm phụ mẫu sầu khổ, chẳng ngày nào vui vẻ. Tiểu muội cũng chẳng có ai chơi cùng.
Tuấn Hạc cảm động nói :
- Nhị ca sẽ không đi đâu nữa, Lan muội hãy yên tâm.
Thiết Long nghiêm giọng :
- Bốn năm qua Hạc nhi lưu lạc nơi nào, sao không viết thư về cho phụ mẫu yên lòng? Phải chăng ngươi chính là Hoài Hạc bang chủ?
Giọng ông nghiêm khắc nhưng ánh mắt đầy vẻ quan hoài.
Tuấn Hạc quên cả kế hoạch đã tính toán, bi phẫn nói :
- Hài nhi không phải là Hoài Hạc bang chủ, nhưng chẳng hay lời tố cáo ấy có đúng hay không?
Thiết Long cười dài, rồi chỉnh sắc chỉ lên trời mà thề :
- Nếu ta là Văn Chí Khải thì xin cho lôi thần đả tử, trầm luân trăm kiếp trong Địa ngục A tỳ!
Vào thời ấy Phật giáo đang hồi hưng thịnh. Ai cũng tin vào thuyết luân hồi.
Hà nhị nương cũng nói vào :
- Hạc nhi! Nếu lão gia là Văn Chí Khải sao có thể đối đãi với ngươi như vậy được? Bốn năm nay, người ăn ngủ không yên, tiêu tốn cả nửa gia sản để truy tìm tông tích.
Tuấn Hạc cảm nhận được sự thành thực của họ nhưng vẫn chưa dám tin hẳn.
Chàng gượng cười :
- Hài nhi đã tin, mong phụ thân thứ tội.
Nhấp hớp trà thơm, Tuấn Hạc kể ra thiên cố sự bịa đặt :
- “Năm ấy, Nhâm đại thúc đưa hài nhi đến bờ Trường Giang thì gặp kẻ cựu thù, họ đánh bay hài nhi xuống sông. Tình cờ có một lão già cứu hài nhi lên. Nhưng lão không cho hài nhi đi Nam Kinh mà đưa vào một khu rừng già âm u, cách bờ Bắc chừng hơn trăm dặm. Trong suốt bốn năm, lão bắt hài nhi phải hầu hạ, phục vụ.
Dường như lão già là một lang trung, đang luyện loại đan dược nào đấy. Trong lúc đi hái thuốc, hài nhi tình cờ quen được một con vượn trắng. Một hôm, trong lúc lão ta đang đánh đập hài nhi, Tiểu Bạch xuất hiện giết chết lão Hồ đại phu gian ác. Nhờ vậy hài nhi mới có thể trở về đây”
Câu chuyện này do chính Vạn Bác Hồ Tinh sắp đặt. Quả thực là phía Bắc Trường Giang có một khu rừng rậm và một người tên Ác Y Hồ Lộ Kỳ - lão này đã chết từ lâu nhưng ít ai biết được.
Thiết Long nghe xong quắc mắt gầm lên :
- Khốn nạn thực, nếu lão ta còn sống thì hay biết mấy. Văn mỗ sẽ rửa hận cho Hạc nhi.
Tú Chân cười bảo :
- Tướng công nói lạ! Nếu lão còn sống thì sao Hạc nhi có thể về nhà được?
Thiết Long sững người, cười xòa :
- Ừ nhỉ! Thế con Thần viên ấy đâu?
Tuấn Hạc quay ra gọi :
- Tiểu Bạch!
Linh thú đang say sưa hái quả, nghe gọi liền phóng vào như tia chớp. Tuấn Hạc giới thiệu xong, Tiểu Bạch nghiêm trang vòng tay vái chào.
Hà nhị nương ngạc nhiên :
- Chẳng lẽ Tiểu Bạch lại thông linh đến thế ư?
- Thưa phải! Nó thông hiểu tiếng người và có sức mạnh như thần.
Uyển Lan thích thú, tuột khỏi lòng Tuấn Hạc, chạy đến vuốt ve con vượn bạch.
Chàng liền dặn dò :
- Tiểu Bạch! Lan nhi còn nhỏ và rất yếu đuối ngươi phải nhẹ nhàng, không được đùa giỡn nặng tay.
Tiểu Bạch gật đầu, ôm lấy Lan nhi đưa ra vườn. Tú Chân biến sắc sợ hãi nhưng Tuấn Hạc đã trấn an :
- Nhị nương chớ lo, hài nhi xin chịu trách nhiệm.
Lát sau, ngoài kia vọng lại tiếng cười trong trẻo của Uyển Lan.
* * * * *
Từ đó, Tuấn Hạc trở lại là Văn nhị công tử, danh sĩ Triết Giang Tây. Chàng vẫn đọc sách ngâm thơ như ngày nào nhưng sáng sáng cũng ra vườn múa quyền. Thiết Long rất vui vì điều ấy, chỉ bảo thêm cho chàng. Nhưng rồi ông lại bị cuốn hút vào sanh ý của Thiết Long tiêu cục.
Giữa tháng sáu, Phó tổng tiêu đầu Thiên Phương Kích Chu Tứ Lân xuất hiện. Tay và chân ông quấn đầy băng trắng. Cách nay mười mấy ngày, họ Chu áp tải đoàn tiêu đi Quý Dương.
Thiết Long kinh hãi hỏi :
- Phải chăng đã gặp cường địch?
Chu Tứ Lân thiểu não nói :
- Bảo chủ! Phen này nguy ngập lắm rồi! Chính Thiên Độc giáo đã ra tay cườm tiêu xa và ngang nhiên thách thức Bang chủ đến hồ Động Đình phó ước! Tam hộ pháp Thiên Độc giáo là Cổ Túc Chi bảo rằng nếu Thiết Long tiêu cục không chịu nộp mỗi năm sáu vạn lượng thì đừng hòng đi về phía Tây nữa!
Thiết Long giận dữ nói :
- Vân mỗ coi lũ chó rơm đó ra gì! Sáng mai chúng ta sẽ lên đường đi Động Đình hồ!
Chu Tú Lân đi rồi, Tuấn Hạc hỏi ngay :
- Hài nhi nghe nói Thiên Độc giáo rất lợi hại. Phụ thân kéo quân đi không sợ đối phương dùng độc hay sao?
thiết Long buồn rầu đáp :
- Ta cũng biết mình không địch lại Thiên Độc giáo, nhưng chẳng thể để thanh danh trôi theo dòng nước! Ngày mai ta sẽ đi một mình vì không muốn anh em uổng mạng!
Tuấn Hạc vui vẻ bảo :
- Hài nhi ở với Ác Y Hồ Lộ Kỳ mấy năm, cũng học được đôi điều hữu ích. Chờ hài nhi vào chế xong thuốc phòng độc rồi người hãy đi!
Thiết Long hân hoan trả lời :
- Hay lắm! Nếu thế thì ta chẳng sợ ai ca.
Trong bốn năm ở dưới vực sâu, Tuấn Hạc có đủ thời gian để thuộc lòng và thấu hiểu Y kinh. Nhờ vậy, chàng biết được đặc tính thần diệu của rễ cây Tử Diệp Bạch Lê. Khi trở lên mặt đất, chàng đã đem theo số rễ cây ấy - dưới dạng bột khô. Đây là nguyên liệu quý giá để tiền chế những loại thuốc bổ, thuốc trị thương và thuốc giải độc.
Chỉ trong ba ngày, chàng đã có trong tay hơn trăm viên Giải Độc đan.
Sáng ngày mười chín tháng sáu, Thiết Long cùng hai mươi tiêu sư lên đường đến Động Đình hồ.
Trước lúc khởi hành, Tuấn Hạc bảo Thiết Long :
- Phụ thân! Sao người không nhờ nghĩa công và nghĩa bà - Nhật Nguyệt song ma - đi theo trợ chiến? Nếu lần này Thiên Độc giáo đưa đến nhiều đại cao thủ thì sao?
Thiết Long sững người suy nghĩ, vỗ đùi khen :
- Hay lắm! Ý kiến của Hạc nhi quả là tuyệt diệu. Ta sẽ ghé ngang qua Ngọc Sơn thỉnh họ cùng đi.
Đoàn nhân mã khuất xa, Tuấn Hạc cùng Hà nhị nương trở vào, chàng bỏ ra vườn đi xuyên qua cánh rừng tùng sau bảo, dện bờ sông Lư Giang ngắm gióng nước hiền hòa trôi. Lư Giang là dòng sông nhỏ, nước trong xanh chứ không vàng đục như Hoàng Hà.
Nửa tháng qua, chàng đã để tâm quan sát theo dõi hành động của Thiết Long.
Nhiều đêm, chàng phục dưới cánh cửa sổ để nghe ngóng, cố tìm ra chút sơ hở, nhưng chẳng phát hiện được gì. Trong câu chuyện phòng the, Thiết Long vẫn mãi nhắc đến chàng với giọng trìu mến, thương yêu.
Sau ngày chàng trở lại nhà, chàng đã hỏi Thiết Long về tin tức của đại ca Văn Tuấn Thu. Văn bảo chủ buồn bã nói rằng không biết. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau có một lái buôn đem đến tiêu cục - ở thành Lư Lăng - một phong thư của Tuấn Thu.
Thiết Long nhận được, mừng rỡ trao cho chàng đọc. Tuấn Hạc rất quen thuộc với nét chữ của đại ca nên biết rằng không phải là giả. Nội dung trong thư, Tuấn Thu tạ lỗi vời Thiết Long và bảo rằng chàng đã định cư ở Tây Vực và không bao giờ trở lại Trung Nguyên nữa.
Có cả những lời hỏi thăm thân thiết dành cho Tuấn Hạc.
Như vậy Thiết Long không hề giết Tuấn Thu như lời Nhâm Bá Linh đã phỏng đoán. Nhưng sơ hở lớn nhất của Thiết Long và Hà Tú Chân là họ không hề mở miệng thóa mạ Hoàng Diện Thái Tuế Nhâm Bá Linh. Lão ta chính là người có tội lớn nhất trong việc ly gián tình phụ tử giữa Thiết Long và Tuấn Hạc. Chính điểm này đã nuôi dưỡng nghi ngờ trong lòng chàng.
Một chiếc thuyền chài lướt ngang qua.
Trên thuyền thấp thoáng một bóng nghi nữ áo đen đang uyển chuyển đẩy mái chèo. Cảnh tượng này hợi nhớ đến Thiên Độc Thánh Nữ Ôn Tiểu Băng. Chàng muốn đi ngay Chiết Giang để xem gã Bang chủ kia có phải là nàng hay không?
Chàng lại lo lắng khi không nhận được tin tức của Vạn Bác Hồ Tinh.
Thơ thẩn cả canh giờ, chàng mới trở lại khu hậu viện. Lúc đi ngang qua khuê phòng của nhị nương, Tuấn Hạc thoáng thấy bà đang ngồi ủ rũ, nhìn qua khung cửa sổ đôi dòng châu lã chã tuôn rơi.
Chàng biết bà đang lo lắng cho Thiết Long, định vào an ủi nhưng không dám.
Ngày còn thơ ấu, chàng thích thú được bà ôm ấp vỗ về. Giờ đây, chàng đã trưởng thành mà bà vẫn thon thả, kiều diễm. Ở tuổi ba mươi bảy, nhị nương chỉ như gần tam thập.
Tuấn Hạc trở về phòng, chuẩn bị đi Động Đình hồ. Trước khi biết rõ thực hư, chàng không thể để Thiết Long gặp nguy được Nhưng Hà nhị nương đã đến. Bà dặn dò chàng :
- Hạc nhi! Nhị nương có hẹn đến chơi với phu nhân huyện lệnh Lư Lăng, có thể mai mới về. Mọi việc trong Bảo, mong Hạc nhi quán xuyến dùm.
Chàng vui vẻ gật đầu nhưng trong lòng đầy nghi vấn. Hà nhị nương rất yêu thương Thiết Long, không thể thản nhiên đi chơi trong khi trượng phu đang đi vào hổ huyệt. Nhất là lúc nãy bà đã khóc vì lo lắng.
Bà đi rồi, Tuấn Hạc giao sự vụ cho Trương tổng quản rồi cũng đi luôn. Văn Uyển Lan đã có nhũ mẫu trong nom nhưng chàng cũng phải để Thần viên ở lại chơi với nó. Chàng đã nói với Trương lão là mình đi Cát An thăm bằng hữu.
Tuấn Hạc dùng khinh công bám theo ngựa của Hà Tú Chân. Đến một cánh rừng vắng gần thành, nhị nương nhìn trước nhìn sau rồi rẽ vào. Được hơn mười trượng bà nhảy xuống ngựa, cởi bỏ bộ cung trang. Tuấn Hạc kinh hãi không dám nhìn.
Khi chàng mở mắt ra thì bà đã mặc xong bộ võ phục màu thanh thiên, dung mạo thay đổi hoàn toàn. Thì ra người đàn bà dịu dàng, nhân hậu kia là một cao thủ võ lâm có tài dịch dung thần diệu.
Đôi nhãn quang sắc bén của chàng không hề nhận ra chút sơ hở của gương mặt giả kia. Tuấn Hạc toát mồ hôi nghĩ đến việc Thiết Long cũng mang mặt nạ.
Nhưng suy nghĩ lại, chàng biết Hà Tú Chân không dính dáng đến vụ huyết án thay mận đổi đào mười chín năm trước.
Việc đại ca Tuấn Thu cứu nhị nương đem về Bảo thì chàng vẫn nhớ rõ.
Văn nhị phu nhân hóa trang xong, rời khỏi cánh rừng và phi nước đại. Tuấn Hạc đoán rằng bà đi Động Đình hồ để hỗ trợ cho Thiết Long Văn Chí Lãm. Địch thủ chưa rõ nhưng chàng vẫn mừng cho Thiết Long có được người vợ chí tình, chí nghĩa.
Đã biết mục tiêu, Tuấn Hạc thong thả đuổi theo. Đến trấn Đại Lâm, chàng ghé vào mua ngựa đi tiếp.
Hà nhị nương nóng ruột quất ngựa phi nhanh. Tuấn Hạc cũng vội nhưng giữ một khoảng cách chừng gần trăm trượng.
Chiều hôm sau, Hà Tú Chân và Tuấn Hạc lần lượt đến trấn Trường Đức - gần hồ Động Đình.
Đoàn người ngựa của Thiết Long tuy khởi hành trước hai canh giờ nhưng cũng đến trước chẳng bao lâu. Ông không biết rằng vợ và con cũng đuổi theo.
Hà nhị nương trong dung mạo giả, thản nhiên trọ cùng khách điếm với phu quân. Tuấn Hạc thì ở lữ quán đối diện.
Sáng ra, Thiết Long dương cờ tiêu cục, tiến ra bờ hồ. Nơi đây, có một Phân đàn của Thiên Độc giáo. Ông kéo quân đến trước cửa, quát vang như sấm :
- Thiên Độc giáo! Van mỗ đã y hẹn đến phó ước!
Chung quanh khu vực này có những khoảng rừng đào, liễu rậm rạp nên Tú Chân và Tuấn Hạc ẩn nấp dễ dàng. Tuấn Hạc chăm chú nhìn kỹ hai nhân vật đứng cạnh Thiết Long, họ chính là Nhật Nguyệt song ma.
Nhật Ma Hách Động Doanh người béo lùn, râu bạc, mặt đỏ như son, quanh lưng quấn một sợi nhuyễn tiên vàng nhạt. Còn Nguyệt Ma Hân Hàn Thúy là một lão bà cao gầy, mặt sát xương tái mét. Trong tay bà có một cây Long Đầu quải trượng bằng một thứ kim loại đen sì.
Hoàng Diện Thái Tuế từng kể rằng :
- Mười chín năm trước, Song ma đã theo Văn Chí Khải về Văn gia bảo. Họ ở lại một đêm mới quay về Ngọc Sơn - Nam Xương. Chí Khải nói là chính Song ma cứu mạng lão nên trở thành nghĩa phụ, nghĩa mẫu. Tuấn Hạc thầm nghĩ: có thể Song ma có liên quan đến cái chết của cha chàng vì một mình Văn Chí Khải không thể giết được Văn Chí Lãm.
Lúc này, các cao thủ Thiên Độc giáo xuất hiện. Tuấn Hạc đã không đoán sai, ngoài Tam hộ pháp Cổ Túc Chi, còn có Chấp Pháp nhị tướng Bùi Tự Viên và Bùi Thế Đông. Sau lưng là năm mươi giáo chúng áo xanh, hông đeo độc đao.
Nhật Ma tính nóng như lửa, thấy mặt đối phương là mắng ngay :
- Thiết Long là nghĩa tử của Nhật Nguyệt song ma. Nay Thiên Độc giáo dám cướp tiêu, đòi cống nạp, tức là chẳng coi vợ chồng lão phu ra gì rồi!
Tam hộ pháp Cổ Túc Chi cười nhạt :
- Bổn giáo thống trị địa bàn ba phủ Hồ Nam, Giang Tây, Quí châu. Các nơi khác đều răm rắp tuân phục, lẽ nào Thiết Long tiêu cục lại được ngoại lệ?
Thật ra thì họ chỉ mới có ý định bành trướng vào phủ Giang Tây mà thôi. Văn gia bảo chính là hòn đá cản đường mà họ muốn hất đi.
Nguyệt Ma bật cười the thé :
- Để xem lũ ngươi có được bao nhiêu bản lĩnh mà dám ngông cuồng?
Dứt lời, bà vung Quải trượng lao đến như tia chớp. Khí thế mãnh liệt như vũ bão. Phu thê tâm ý tương thông, Nhật Ma cũng đồng thời xuất thủ. Cây Hoàng Long tiên của lão thắt nên những vòng tròn chết chóc, chụp xuống đầu Chấp Pháp nhị tướng.
Thiết Long và hai mươi tiêu sư cũng xông vào đám giáo chúng áo xanh. Thanh Ngô Câu kiếm đặc dị trong tay ông lồng lộn như thần long, lập tức chém chết hai tên.
Đám tiêu sư đi theo Thiết Long thục ra là những đệ tử thân tín. Họ được ông truyền cho phép đánh Ngô Câu kiếm của dòng họ Văn. Vì thế, bản lĩnh vô cùng lợi hại. Tuy nhân số ít hơn phe Thiên Độc giáo nhưng lại được thế thượng phong.
Mười tám người lập thành kiếm trận, tiến thoái nhịp nhàng, liên thủ mà tấn công nên khí thế càng hùng hậu. Hai người còn lại theo sau Thiết Long để bảo vệ hậu tâm của ông. Thiết Thạch thần công chống lại được đao kiếm nhưng nếu gặp tay nội gia cao thủ đánh trộm thì cũng không tránh khỏi bị thương.
Nhờ có hai gã đệ tử này mà Thiết Long yên tâm chém giết. Chỉ hơn nửa khắc, phe Thiên Độc giáo đã bỏ mạng mười mấy tên. Bọn còn lại vội tung độc phấn, độc châm nhưng cũng chỉ hoài công.
Tuấn Hạc núp trong rừng liễu, mỉm cười hài lòng khi thấy thuốc giải của mình phát huy hiệu dụng.
Phần Nguyệt Ma, cây Long Đầu quải trượng liên tiếp giáng xuống đầu Tam hộ pháp Cổ Túc Chi những đòn sấm sét. Họ Cổ đón đỡ vài chiêu đã nghe hổ khẩu đau rát. Thanh kiếm tẩm độc mẻ từng miếng lớn. Lão vung tả thủ, đẩy ra những luồng độc chưởng đen mờ, nên tạm thời duy trì được.
Bên kia Nhật Ma cùng Chấp Pháp nhị tướng giữ thế quân bình. Hách Đông Danh là người duy nhất trong võ lâm luyện phép đánh nhuyễn tiên đến mức đại thành Cây Hoàng Long tiên dài gần trượng biến hóa quỷ dị vô song. Nếu lão không úy ky chất độc thì đối phương đã thảm bại từ lâu rồi. Vì tự ái mà Song ma không chịu uống thuốc Giải Độc đan mà Thiết Long đưa cho.
Nguyệt Ma Hân Hàn Thúy tính tình kiêu ngạo, nóng nảy. Thấy trượng phu ung dung đối phó với nhị tướng trong khi mình đánh một mà chưa xong, bà động sát khí rú lên. Cây Long Đầu quải trượng hóa thành trận cuồng phong đen thổi về phía Cổ Túc Chi. Lão ta kinh hãi trước khí thế của chiêu trượng, vội buông kiếm, dùng cả hai tay giáng liền tám chưởng vào màn trượng ảnh.
Tiếc rằng công lực của Nguyệt Ma thâm hậu hơn nhiều, Quải trượng ập đến gõ vỡ đầu họ Cổ. Bà đắc ý cười khanh khách, định sang liên thủ với Nhật Ma.
Nhưng mấy chục thớt ngựa đã lao đến.
Ba người áo vàng nhảy xuống tấn công Nguyệt Ma, số còn lại đánh vào kiếm trận của bọn tiêu sư.
Tuấn Hạc giật mình khi thấy ba mươi sáu tên mới đến có hình dạng rất kỳ dị.
Toàn thân chúng được bao phủ bởi những miếng da dày đen xám, xếp như vảy cá.
Tay hữu cầm độc kiếm, tay tả thủ thiết chùy. Trên đầu chúng lại chụp mũ sắt dầy.
Được trang bị kín đáo như vậy, khó ai mà đả thương được. Hơn nữa, thủ pháp kiếm chùy hợp nhất kia vô cùng đáng sợ, mới ra tay đã có bốn tiêu sư bị thương.
Thiết Long gầm vang, bỏ đám giáo chúng áo xanh, tung mình đón đánh hai tên giáp sĩ. Thanh Ngô Câu kiếm như tia chớp rạch sáu đường trên ngực chúng nhưng không chém đứt được lớp giáp kia.
Họ Văn điên tiết nhắm vào mặt và hai cổ tay bọn chúng mà đánh. Với những mục tiêu giới hạn như vậy, làm sao đắc thủ được.
Lại thêm bảy tiêu sư nữa rú lên vì thương tích. Kiếm trận bắt đầu loạn. Một mình Thiết Long chống cự với tám gã giáp sĩ nên bắt đầu nguy ngập. Ông bị trúng hai chùy vào lưng, không rách da thịt nhưng máu miệng rỉ ra.
Tuấn Hạc cau mày suy nghĩ :
- “Lạ thực! Nếu phụ thân ta đã luyện xong lớp thứ bảy của Thiết Thạch thần công thì đâu thể bị thương bởi hai đòn kia được?”
Chàng cũng đã luyện tâm pháp này nên biết rõ điều ấy. Tuấn Hạc chưa kịp nhảy ra hỗ trợ Thiết Long thì Hà nhị nương đã nhanh hơn. Bà lướt về phía trận địa của Thiết Long và tung mình lên không. Từ tay tả của bà, những cây kim vàng bay vào mặt tám tên giáp sĩ. Thủ pháp kỳ tuyệt kia đã có tác dụng, bón tên bị kim đâm mù mắt, rú lên những tiếng khàn đặc Thiết Long phấn khởi chặt liền hai bàn tay của chúng.
Hà nhị nương lướt khắp trận địa phóng kim châm vào mắt bọn giáp sĩ để cứu các tiêu sư. Cục diện được vãn hồi đôi chút, bọn giáp sĩ e sợ nên không hung hăng như trước Nhưng một lão áo trắng - đang vây đánh Nguyệt Ma - đã thoát ra, chặn đường Hà Tú Chân. Người ấy là Tứ hộ pháp Lưu Độc Hà. Võ công của lão ta cao hơn Tú Chân rất nhiều nên bà bị thương ngay sau mười mấy chiêu kiếm.
Tuấn Hạc kinh hãi, lướt nhanh về phía Hà nhị nương. Thấy bà bị thêm một vết kiếm thương trên vai trái, Tuấn Hạc căm hận rú lên cao vút. Từ trên không chàng đách chiêu “Tinh Sa Lạc Nhạn”. Hàng ngàn chưởng ảnh giăng mắc khiến lão Tứ hộ pháp hoa mắt, không biết đâu là hư thực.
Lão kinh hãi cử song thủ giáng mạnh vào giữa đám ma thủ. Nhưng chưởng kình đã hụt mục tiêu. Lúc này, trái cầu ma quái kia phủ xuống và hai đạo chưởng phong nặng như núi bổ vào ngực lão.
Tuấn Hạc được Hà nhị nương nuôi nấng, yêu thương suốt bảy năm dài. Trong thâm tâm, chàng vẫn coi người đàn bà hiền thục kia là mẹ của mình. Chính vì thế khi thấy bà đã bị thương, chàng đã xuất thủ rất độc ác. Xương lồng ngực của lão ma gãy nát và thân hình lão văng xa hơn trượng.
Tú Chân ngỡ ngàng nhìn người bịt mặt.
Chàng điểm huyệt chỉ huyết, xé vạt áo băng bó hai vết thương và cho bà uống thuốc giải độc. Lúc này, Hà nhị nương đã kiệt lực vì sự công phá của chất độc trên lưỡi kiếm.
Tuấn Hạc ẵm bà trên đôi tay mạnh mẽ rồi lướt khỏi trận địa. Bọn giáp sĩ xông đến cản đường nhưng thân pháp chàng cực kỳ linh hoạt và nhanh nhẹn, thoát đi rất dễ dàng. Lúc sắp đến bìa trận, một tên giáp sĩ bất ngờ phóng thiết chùy vào lưng Tuấn Hạc. Toàn thân chàng chấn động nhưng không dừng chân. Tú Chân kinh hãi hỏi :
- Các hạ có sao không?
Chàng không dám mở miệng.
Tuấn Hạc chạy vào khu rừng liễu, đặt bà xuống chỗ kín đáo rồi quay trở ra.
Chàng giở pho Tiêu Dao thất thập nhị thủ ra tàn sát bọn giáp sĩ. Chỉ trong nửa khác đã bẻ gãy tay mười mấy tên. cục diện được vãn hồi.
Thấy vậy, Tuấn Hạc quay sang trận địa của Nhật Nguyệt song ma. Họ đang bị áp đảo vì khí độc đã ngấm vào huyết mạch.
Nhờ công lực thâm hậu nên còn tạm thời chống đỡ được.
Tuấn Hạc nhớ đến việc Chấp Pháp nhị tướng đẩy mình xuống vực và bắt Ôn Tiểu Băng, liền nhặt thanh kiếm trong tay xác một tên tiêu sư rồi xông vào. Chàng dùng pho Cuồng Kiếm mà tấn công Nhị chấp pháp Cầu Triệu Linh.
Nhật Ma mừng rỡ bảo :
- Hay lắm! Tiểu tử cố cầm chân hắn để ta giết lão quỷ ốm này.
Họ Bùi cười âm hiểm, tung Hắc Độc chưởng bao phủ lấy Tuấn Hạc. Nhưng lão đâu biết rằng chàng đã uống Thiên Độc đan nên chẳng hề e sợ, lao thẳng vào luồng độc chưởng. Dù trúng hai đòn vào ngực và bụng nhưng chiêu kiếm vẫn vun vút bay đến. Đây lại là chiêu sát thủ trong pho kiếm pháp, lợi hại khôn lường. Bùi lão ma bị bất ngờ nên không kịp tránh né, bị thanh Ngô Câu kiếm chặt đứt tay trái và vạch bốn đường trên ngực - máu bắn tung tóe. Lão rú lên thê thiết, hồn về chín suối.
Nhật Ma thấy chàng trai này chỉ một chiêu đã lấy mạng địch thủ, nổi lòng háo thắng, lao thẳng vào luồng độc chưởng của Đại chấp pháp - Hoàng Long tiên thắt chín vòng quanh thân đối phương. Lão trúng một chưởng vào vai tả nhưng cần cổ Bùi Thế Đông cũng bị ngọn roi xiết đứt.
Nhật Ma đắc ý cười ha hả rồi gục xuống. Tuấn Hạc là người nhân hậu, tuy nghi ngờ Song ma dự phần giết cha mình, nhưng vẫn không thể để lão chết được.
Chàng vội nhảy đến, nhét vào miệng lão ba viên linh đan và trút nội lực hỗ trợ.
Nhật Ma có đến hơn hai hoa giáp tu vi nên mau chóng phục hồi. Lão gượng cười hỏi :
- Tiểu tử là ai mà lại cứu lão phu?
Tuấn Hạc chưa kịp đáp thì nghe Nguyệt Ma rên nhỏ. Chàng vội lướt về phía bà ta, chém vào lưng Ngũ hộ pháp Cốc Tòng Châu để giải vây.
Là người quang minh chính đại, chàng quát lên cho đối phương biết. Lão này thấy chàng giết Nhị chấp pháp nên không dám tiếp chiêu, tung mình đào tẩu. Đại hộ pháp Cố An Từ cũng vội chạy theo.
Nhưng vừa đi được hai, ba trượng, lão quay ngoắt lại, phóng thanh độc kiếm vào Nguyệt Ma, bà ta đang lảo đảo vì chất độc mắt nhắm nghiền nên không phát hiện.
Nhật Ma đứng xa đến bốn năm trượng nên không kịp cứu hiền thê, lão thét lên kinh hoàng :
- Hân muội! Coi chừng!
Nguyệt Ma mở mắt nhưng không còn sức né tránh. Tuấn Hạc đã như tia chớp lao đến ôm bà, hứng lấy mũi kiếm oan nghiệt kia.
Cố An Từ là cao thủ có hạng trong võ lâm, công lực thâm hậu nên thanh kiếm có sức công phá rất mãnh liệt. Tuấn Hạc vươn tả thủ vỗ vào bản kiếm, đẩy nó lệch đi. Thủ pháp của chàng khiến Nhật Ma giật mình.
Lão chưa kịp nói lời cảm ơn thì người bịt mặt kia đã như tia chớp rút lui khỏi đấu trường, biến mất trong khu rừng liễu.
Lúc này, bọn giáp sĩ đã rút lui theo các hộ pháp. Thiết Long rảnh tay chạy đến, nhét thuốc giải độc vào miệng Nguyệt Ma. Nhờ có Nhật Ma truyền thêm công lực bà ta hồi phục rất nhanh. Vừa mở mắt, bà đã hỏi ngay :
- Chí Lãm! Cái gã bịt mặt đã cứu ta lúc nãy là ai vậy?
Thiết Long cười khổ đáp :
- Hài nhi cũng chẳng biết người ấy là cao nhân phương nào nữa? Ông ta dường như có mói thâm thù với Thiên Độc giáo nên xuất thủ rất nặng tay. Nếu không, hôm nay chúng ta khó thoát chết.
Nhật Ma thở dài :
- Ta nghĩ mãi mà không tìm ra ai là kẻ có bản lãnh cao siêu như vậy! Mối đại ân này làm sao trả được?
Nguyệt Ma nhớ đến nữ nhân vãi kim vàng liền hỏi :
- Như vậy nữ lang mặc võ phục màu xanh lúc nãy cũng là đồng bọn của người bịt mặt?
Thiết Long không hề biết Hà Tú Chân giỏi nghề phóng kim châm nên cũng tán thành Nhật Ma nghiêm giọng :
- Nay Văn gia bảo và Thiên Độc giáo trở thành tử đối đầu vợ chồng ta sẽ đến Lư Lăng để gúp ngươi chống cự. Trước sau gì lão họ Ôn cũng đến đòi lại món nợ hôm nay.
Thiết Long vòng tay cảm tạ rồi thét thủ hạ đưa tiêu xa về. Tổng cộng, Thiết Long tiêu cục chết mất năm tiêu sư và bị thương gần hết. Tuy nhiên, đây là một chiến thắng oanh liệt!
Tiêu xa nặng nề, lại có người mang thương nên cước trình châm chạp, mãi ba ngày sau bọn Thiết Long mới về đến Văn gia bảo.
Tuấn Hạc và Hà nhị nương đều đã có mặt ở nhà. Chàng về trước Tú Chân hai canh giờ vì bà bị thương không đi nhanh được. Lúc nhìn thấy Văn nhị công tử Nhật Nguyệt song ma đều hết lời khen ngợi :
- Cốt cách của Hạc nhi mà học võ thì chỉ bốn năm là có thể ngạo thị giang hồ!
Thiết Long ứng tiếng :
- Nếu vây, xin nhị vị tài bồi cho.
Nhật Nguyệt song ma chưa có truyền nhân nên hoan hỉ chấp thuận. Tuấn Hạc đã có dịp quan sát nên nhận ra Song ma không phải là người xấu. Nhất là Hách Đông Danh lại có tướng phúc hậu, hào sảng. Chàng đã là nghĩa tôn của họ nên không cần xưng hô là sư phụ.
Trong đại yến tẩy trần, Thiết Long hết lời ca ngợi công lao nữ lang áo xanh và người bịt mặt. Nhật Ma cười bảo :
- Lão phu ước lượng người ấy có khoảng bốn mươi năm công lực. Như vậy, tuổi tác sẽ vào khoảng lục tuần.
Tuấn Hạc đã bao kín cả tóc nên họ không thể đoán ra tuổi.
Dung mạo ấy chính là của Chấp Pháp song tướng của Thiên Độc giáo. Uy quyền của bọn họ chỉ dưới một mình Giáo chủ Ôn Thiếu Bảo.
Tiểu Băng tuyệt vọng nói :
- Nay nhị bá phụ đã đứng ra gã tiểu nữ cho công tử đây rồi, nhị vị còn truy đuổi làm gì nữa?
Lão không râu là Đệ nhất chấp pháp Bùi Tự Viên, cười nhạt đáp :
- Giáo chủ đã nghe báo việc này. Người bảo chỉ cần giết gã oắt con kia đi là tiểu thư lại trở thành gái không chồng.
Dường như đã bàn bạc từ trước, lão vừa dứt lời thì Đệ nhị chấp pháp Bùi Thế Đông vung chưởng quạt bay Văn Tuấn Hạc xuống vực thẳm.
Ôn Tiểu Băng đau đớn gào lên, chưa kịp có phản ứng gì thì đã bị Bùi Tự Viên búng một đạo chỉ phong vào huyệt Bộ Long. Nàng điên cuồng chửi mắng :
- Hai lão khốn kiếp kia, bổn cô nương thề sẽ phân thây bọn ngươi ra!
Lão cười nhạt, điểm luôn Thụy huyệt của nàng. Cả hai lên ngựi phi mau, không để ý gì đến việc sống chết của Tuấn Hạc.
Lúc này chàng đang rơi xuống vực thẳm. Chưởng lực của Bùi lão quái quả là uy mãnh tuyệt luân.
Nhưng không hiểu do hoàng thiên hữu nhãn hay Tuấn Hạc chưa đến số chết, chàng rơi vào đám dây leo gai góc mọc trên vách. Nhờ vậy, tốc độ rơi chậm dần.
Cuối cùng, chàng nằm lịm người trên một mõm đá lớn bằng ba mảnh chiếu nhô ra khỏi sườn vực thẳm.
Tuấn Hạc ngất xỉu đến gần một canh giờ mới hồi tỉnh. Chàng mừng rỡ khi nhận thấy mình còn sống nhưng lo âu khi thấy miệng vực cao đến bốn năm chục trượng. Kiểm tra lại cơ thể, chàng nhận ra mặt và toàn thân đầy những vết trầy sướt do gai góc.
May thay, bọc hành lý may bằng lụa dày nên chưa rách tung ra và vẫn còn vướng trên vai. Chàng và Tiểu Băng đã dồn chung y phục vào một bọc nên chiếc hỏa tập của nàng cũng ở đây. Tuấn Hạc tìm thấy, mừng rỡ bật lên quan sát vách vực Trước mặt chàng là một động khẩu nhỏ rộng độ nửa trượng.
Lúc đầu, vì e sợ độc vật, rắn rít nên chàng không dám vào. Nhưng nhờ lại rằng mình đã uống Thiên Độc thần đan, chàng bạo dạn tiến lên. Nếu ở lại mõm đá chàng sẽ không chịu được cái lạnh của đêm đông.
Tuấn Hạc ngạc nhiên khi thấy đường vào sạch sẽ, bằng phẳng, hai bên vách lại có khảm dạ minh châu to bằng quả trứng tỏa ánh sáng dịu nhạt. Chợt có luồng gió nhẹ từ trong thổi ra, mang theo mùi hương thơm của quả chín.
Đang đói khát, chàng phấn khởi bước nhanh. Được vài trượng, một hang động thiên nhiên rộng rãi hiện ra. Trần hang lố nhố muôn ngàn thạch nhũ, phía dưới là một hồ nước nhỏ rộng chừng hơn trượng.
Cạnh hồ là một cây thấp, lá màu tím thẫm và lủng lẳng trên cành là bảy quả lạ, hình dáng giống lê mà vỏ trắng như sữa.
Chắc đã đến lúc chín mùi nên hương thơm ngào ngạt.
Dù đọc nhiều sách vở cổ kim, nhưng chàng vẫn không nhận ra lai lịch cây lạ kia. Không ăn cũng chết! Tuấn Hạc thở dài phó mặc, hái một trái ăn thử. Không ngờ, mùi vị lại ngon phi thường, tuy có hơi đắng vị thuốc bắc. Chàng ăn một mạch hết bảy quả, cúi xuống uống vài ngụm nước trong hồ.
Bỗng chàng nghe bụng nóng lên dữ dội, luồng nhiệt khí lan khắp châu thân, xông thẳng lên óc, da thịt trương phồng vô cùng đau đớn. Tuấn Hạc kinh hãi, cố lết xa hồ nước, đến cạnh vách động mà rên la, quằn quại.
Chàng lăn lộn đến nỗi tấm đồng bài trong giầy rơi ra, nằm lăn lóc bên cạnh.
Lát sau, Tuấn Hạc mê man bất tỉnh, không còn biết gì nữa.
Và rồi, từ ngoài cửa động, một bóng trắng nhỏ bé lướt vào. Đó mà một con vượn bạch, mắt đỏ như lửa.
Nhận ra linh quả đã bị ăn sạch, nó giận dữ hú lên ghê rợn, định chụp lấy Tuấn Hạc mà xé xác. Nhưng nó chợt thấy tấm đồng bài liền dừng tay, nhặt lên xem xét và gãi đầu ngơ ngẩn.
Lát sau, Bạch Viên nhảy nhót như mừng rỡ. Nó lao vào trong, lấy ra một vò rượu rỗng, múc nước dưới hồ tạt vào mặt Tuấn Hạc. Có lẽ sự công phạt của dị quả đã hết, chàng hồi tỉnh.
Ngày còn thơ ấu, Tuấn Hạc cũng nuôi một con khỉ nên rất mến loài linh trưởng này. Chàng vui vẻ hỏi :
- Phải chăng đây là nơi cư trú của ngươi?
Hỏi chỉ để tỏ sự thân tình, không ngờ Bạch Viên gật đầu xác nhận. Nó còn giơ tấm đồng bài lên và chỉ vào ngực chàng, như muốn hỏi có phải của chàng hay không? Tuấn Hạc hiểu ý đáp :
- Đúng vậy! Vật này là của ta!
Bạch Viên vui mừng, hoa tay múa chân, thọt khét một hồi. Tuấn Hạc chịu thua, cười bảo :
- Ta không thể hiểu được!
Bạch Viên tức tối nắm tay chàng lôi vào trong. Tận cùng của hang động là một tảng đá vôn vức, nhẵn nhụi, cao hơn dầu người. Trên ấy là pháp thể của một lão nhân mặc áo thư sinh màu trắng đã ố vàng vì thời gian. Đầu ông đội mũ Khổng Minh. Bộ râu dài năm chòm và gương mặt đoan chính khiến Tuấn Hạc sinh lòng kính nghiêng. Chàng sụp xuống thi đại lễ :
- Vãn bối ngộ nạn, vô tình lạc bước đến nơi tọa hóa của tiền bối. Ba lạy này gọi là để tạ lỗi đã mạo phạm chốn tôn nghiêm.
Chàng lạy xong, nhận ra Bạch Viên tỏ vẻ hài lòng. Nó chạy vào gốc động, mày mò một lát, đem ra một gói giấy dầy đưa cho chàng xem.
Thấy trên thạch án có ngọn tọa đăng còn hơn nửa bình dầu, chàng vươn tay lấy xuống đốt lên.
Sau lớp giấy dầu kia là bọc vải dầy, chứa hai quyển sách và một mảnh hoa tiên cũ kỹ. Tuấn Hạc mở ra đọc thử :
“Hậu sinh nhã giám!
Lão phu tung hoành thiên hạ bốn chục năm, không tìm ra đối thủ nên cảm thấy mình cô độc. Năm bảy mươi tuổi, phát hiện vực thẳm này có một cây Tử Diệp Bạch Lê - Kỳ toàn chí bảo của đất trời - Lão phu tìm xuống xem thử. Nhận ra nơi nầy thanh tịnh có thể tu tiên được nên ở lại ẩn cư và chờ đợi. Hai mươi năm sau, lão phu giác ngộ đại đạo, lòng hư tĩnh, sáng suốt, không còn chút dục vọng nào nữa và tính toán được cả chuyện vị lai. Vì vậy lão phu biết rằng mười lăm năm sau sẽ có người lạc vào đây, đúng lúc linh quả chín mùi. Người này sẽ kế thừa sở học của lão phu mà tạo phúc cho bách tính.
Lão phu cho rằng không còn vướng bận gì nơi trần tục nên thanh thản ra đi. Tiểu Bạch là thần vật hiếm có, hiểu rõ tính người và dũng mãnh tuyệt luân. Mong người hữu duyên hãy đối xử tử tế với Bạch Viên!
Cuồng Kiếm Thần Y Công Tôn Quang Nguyệt di bút!”
Tuấn Hạc vui mừng khôn xiết, xem đến hai quyển sách. Một là pho “Võ kinh thủ lục”, hai là “Y kinh chân giải”.
Chàng biết là mình đã ngộ kỳ duyên, liền đứng trước thạch án lạy chín lạy khấn rằng :
- Ân sư! Đồ nhi quyết không phụ lòng của người!
Từ đó, chàng ở lại thạch động, chuyên tâm rèn luyện. Bạch Viên chính là một vị sư huynh rất tốt, nó đã ở bên Công Tôn Quang Nguyệt suốt năm mươi năm nên thuộc lòng từng thế thức trong pho Cuồng Kiếm. Chàng thi triển sai là nó biết ngay và sửa lại. Tuy chỉ có mười tám chiêu nhưng biến hóa thành ngàn chiêu rất dễ dàng.
Pho chưởng có tên là Tiêu Dao thất thập nhị thủ, bao gồm cả quyền, cước, chưởng, chỉ và phất huyệt vô cùng uyên ảo bác tạp. Tiểu Bạch đã được chân truyền tuyệt kỹ này. Nhưng do không thể luyện nội công, chỉ dựa vào thần lực thiên sinh nên không phát ra chưởng kình.
Bảy trái Tử Diệp Bạch Lê đã đem lại cho Tuấn Hạc gần bốn mươi năm công lực. Nếu không, chàng chẳng thể nào hoàn thành được các tuyệt kỹ của Cuồng Kiếm Thần Y. Nhất là pho khinh công “Thiên Tinh Quá Hải” đòi hỏi một nguồn chân khí sung mãn, hùng hậu mới thi triển được.
Thần viên Tiểu Bạch là đối thủ duy nhất của chàng. Nó từng theo Công Tôn Quang Nguyệt đánh hàng trăm trận, lịch duyệt có thừa. Cộng với tính linh thông, ranh mãnh. Tiểu Bạch nhiều lần dồn Tuấn Hạc vào thế hạ phong. Nhờ vậy, chàng ngày càng lãnh hội được tinh túy sở học của ân sư.
Chàng cũng học luôn cả phép xoay chuyển linh hoạt của loài vượn nên thân pháp nhanh như điện chớp.
Không muốn tuyệt học gia truyền bị mai một, Tuấn Hạc rèn luyện luôn pho Ngô Câu Đoạt Mệnh kiếm pháp. Tuy không hùng mạnh bằng pho Cuồng Kiếm nhưng mức độ quỷ dị, ác độc có phần hơn. Lý do là vì Ngô Câu kiếm có móc câu ở đầu nên thêm những thức móc giật, đối phương khó đề phòng.
Sau bốn năm khổ luyện, Tuấn Hạc đã đạt được bảy thành Thiết Thạch thần công, chịu liền mười đòn như trời giáng của Tiểu Bạch mà vẫn không thọ thương.
Chàng tự lượng đủ sức giết Văn Chí Khải nên tính chuyện rời vực thẳm.
Giờ đây, chàng leo trèo nhanh nhẹn không thua gì Thần viên, nhưng cơ thể cao lớn và nặng đến hơn trăm cân nên chẳng thể tự trèo lên được. Tuấn Hạc liền bảo Tiểu Bạch ra ngoài tìm mấy chục sợi giây leo bền chắc, nối lại với nhau.
Lạy tạ pháp thể Cuồng Kiếm Thần Y xong, chàng thu xếp bọc hành lý ít ỏi rồi bảo Tiểu Bạch cầm một đầu dây trèo lên miệng vực, cột vào gốc cây.
Tuấn Hạc thông minh tuyệt thế, lại thực tâm yêu thương Tiểu Bạch nên đã hiểu hết mọi cách biểu hiện của Thần viên. Cả hai tâm ý tương thông, chẳng còn chút ngăn cách nào cả.
Thoát khỏi vực thẳm, chàng mừng rỡ hú lên cao vút. Tiểu Bạch thấy vậy cũng hú theo.
Y phục cũ của chàng đã quá nhỏ bé, Tuấn Hạc đành phải mượn một bộ trường bào của sư phụ. Tuy cũ kỹ nhưng dệt bằng tơ tốt nên chưa hề rách.
Đã mấy năm qua không thấy ánh dương quang, Tuấn Hạc có làn da trắng xanh, làm nổi bật bộ râu mép rậm rì. Một vết thẹo nhỏ vắt từ tai bên tả xuống khóe miệng chính là dấu vết còn lại của lần rơi xuống vực. Nó không làm cho chàng xấu đi mà càng tăng phần uy vũ, phong trần.
Chàng thừa hưởng của Thiết Long Văn Chí Lãm dáng vóc cao lớn, tay dài chạm gối nhưng không thô ráp như ông và Tuấn Thu, mà đầy vẻ tuấn nhã, thông tuệ.
Tuy nhiên, trong đôi mắt sáng như sao kia, man mác một nỗi buồn sâu thẳm.
Chàng buồn vì nhung nhớ và lo lắng cho Ôn Tiểu Băng. Chàng đã khổ luyện vì mối huyết cừu và hình bóng kiều diễm của nàng là sự an ủi, khích lệ.
Chàng không biết nàng có thoát khỏi cuộc hôn nhân ép buộc với Tích Ngọc Lang Quân Trương Ân Tuấn hay không?
Nghĩ đến tính tình cuộng liệt của tình nương, bất giác Tuấn Hạc toát mồ hôi lạnh. Nếu chẳng may nàng đã tự sát thì sao?
Còn nỗi buồn thứ hai chính là hạ lạc của đại ca Văn Tuấn Thu và ẩn tình của mối gia thù. Chàng tin rằng Hoàng Diện Thái Tuế Nhâm Bá Linh không hề nói dối, nhưng vì sao Văn Chí Khải lại đột nhiên yêu thương chàng như ruột thịt?
Trong tâm trạng u uẩn ấy, Tuấn Hạc đưa Thần viên Tiểu Bạch đi về hướng Nam.
Hai ngày sau, bọn chàng đến thành Hoắc Châu. Việc làm đầu tiên là mua sắm vài bộ y phục và sửa sang râu tóc. Lúc đầu, chàng định cạo phăng hàng râu mép, nhưng nhớ đến bào huynh, chàng giữ lại. Tuấn Thu cũng có hàng râu xanh như vậy.
Hỏi thăm lão thợ cạo, chàng mới biết giờ đã là giữa tháng tư năm Hồng Vỗ thứ hai mươi bốn.
Đẻ tưởng nhớ đến những kỷ niệm ôn nhu ngày nào với Tiểu Băng, chàng tìm đến khách điếm cũ. Tắm gội thỏa thuê xong, chàng ra phố chọn tửu lâu lớn nhất mà vào.
Không phải vì chàng thèm rượu mà vì chỉ những nơi náo nhiệt như thế, chàng mới có thể hỏi thăm tin tức Thiên Độc Thánh Nữ Ôn Tiểu Băng. Đây là một trong những kinh nghiệm mà Nhâm Bá Linh đã dạy cho chàng.
Quả nhiên, lầu trên của Hoắc Châu đại tửu lâu đầy ắp khách giang hồ. Họ ồn ào đàm luận về cục diện võ lâm, hoặc khoe khoang kiến văn của mình.
Trong đám người ấy có một lão nhân tóc hoa râm, dáng người nhỏ bé, mặt mũi tinh ranh như mặt chồn. Lão chẳng nói gì mà cứ vân vê chòm râu dê vàng hoe, mỉm cười khinh mạn. Nhưng lát sau, lão ngứa miệng bật thốt :
- Chư vị quả là những người thông thái lịch lãm. Nhưng liệu có biết một việc động trời vừa xảy ra ở vùng Giang Nam hay không?
Quần hùng xôn xao hẳn lên. Một hán tử áo xám tươi cười bợ đỡ :
- Việc ấy thì chỉ có Vạn Bác Hồ Tinh mới biết được thôi! Mong tiền bối dạy cho.
Tuấn Hạc từng nghe Nhâm Bá Linh giới thiệu qua về nhân vật này. Lão có tên là Cù Sở Hòa, thông minh tuyệt mức, xảo quyệt có thừa. Không việc gì trong võ lâm mà lão không biết. Nghe nói lão là người của Cái bang nên bao giờ cũng nắm được thông tin trước thiên hạ. Chàng định bụng sẽ hỏi lão về tin tức của Tiểu Băng.
Hồ Tinh đắc ý, hắng giọng rồi mới kể :
- Chư vị có nhớ việc Thiết Long Văn Chí Lãm treo giải thưởng một ngàn lượng vàng - cho ai tìm thấy nhị công tử Văn Tuấn Hạc - hồi bốn năm trước hay không? Tháng rồi, Văn nhị công tử xuất hiện ở Triết Giang, thành lập Hoài Hạc bang. Chàng ta lại lên tiếng tố cáo Thiết Long hiện nay là giả mạo. Lão ấy chính thực là Văn Chí Khải. Mười năm trước đã giết chết Thiết Long và phu nhân rồi thế thân vào. Minh chủ võ lâm Thanh Long Tử - Chưởng môn phái Võ Đang - đã nhận được đơn kiện. Ông bèn phát võ lâm lệnh bài, triệu Thiết Long đến Võ Đang sơn trần tình - Vào ngày đầu tháng năm này!
Mọi người kinh hãi ồ lên, tíu tít gọi tiểu nhị tính tiền và kéo đi hết. Họ về chuẩn bị gia sự, thu xếp tiền bạc rồi đi Tung Sơn.
Hồ Tinh bực bội lẩm bẩm :
- Tin tức sốt dẻo như vậy mà chẳng tên nào dám bỏ tiền chiêu đãi lão phu cả! Thật là một lũ bần tiện!
Tuấn Hạc nghe thấy ứng tiếng ngay :
- Tiểu sinh xin được làm việc ấy!
Chàng đứng lên bước qua bàn lão, gọi tiểu nhị dọn một mâm rượu thịt mới.
Vạn Bác Hồ Tinh khoan khoái cười hề hề hỏi :
- Lão phu đang được làm quen với ai đây?
Chàng mỉm cười đáp :
- Vãn sinh là Văn Tư Băng!
Lúc nãy nghe Cù Sở Hòa nhắc đến chuyện Hoài Hạc bang, chàng linh cảm tên Tuấn Hạc giả mạo kia có thể là đại ca Tuấn Thu, hoặc chính Ôn Tiểu Băng.
Nhưng nếu là Tuấn Thu thì bang hội kia sẽ không mang tên Hoài Hạc. Chỉ mình Tiểu Băng biết chàng rơi xuống vực.
Vì vậy bất giác xưng tên giả là Văn Tư Bang - để tỏ lòng hoài vọng mỹ nhân.
Tuy nhiên, chàng phải hỏi cho ra lẽ mới có thể xác quyết Thần viên Tiểu Bạch thấy chàng sang bàn khác cũng đi theo. Nó chễm chệ ngồi xuống cạnh bàn, giương đôi mắt đỏ rực nhìn Vạn Bác Hồ Tinh với vẻ nghi ngờ.
Quả thực, gương mặt chồn già kia không lấy gì làm lương thiên.
Cù lão kinh hãi nói :
- Văn lão đệ! Đây là giống Hỏa Nhãn Tuyết Viên hiếm có trên đời, sao lão đệ lại có được?
Tuấn Hạc cười đáp :
- Vãn sinh gặp Tiểu Bạch cách đây bốn năm ở rặng núi phía Nam thành Tinh Châu.
Rượn thịt được đem ra, hai người nâng chén mời nhau. Cù lão nheo cặp mắt tinh quái hỏi :
- Phải chăng công tử có điều gì muốn nhờ lão phu gỡ rối?
- Thưa phải! Vãn sinh mong tiền bối chỉ giáo tình hình của Thiên Độc Thánh Nữ Ôn Tiểu Băng?
Cù Sở Hòa cau mày đáp :
- Cách đây bốn năm, nàng được gã cho Tích Ngọc Lang Quân, Thiếu giáo chủ của Thiên Sư giáo. Nhưng khi thuyền hoa đưa dâu xuôi dòng Trường Giang thì Tiểu Băng đánh trọng thương tân lang rồi gieo mình xuống sông tự tử. Việc này lan truyền khắp thiên hạ, sao công tử không biết?
Tuấn Hạc chết điếng người. Đôi giòng lệ thương tâm lén trào ra mà chàng không hay biết.
Cù lão lộ vẻ cảm thông :
- Té ra công tử có mối thâm tình với Ôn tiểu thư. Như vậy cái tên Văn Tư Băng chắc là tên giả?
Chàng giật mình, gượng cười :
- Tiền bối quả là thần nhân! Vãn sinh đích thực là Văn Tuấn Hạc ở Văn gia bảo đây.
Đến lượt Hồ Tinh nhảy nhổm lên :
- Không lẽ Bang chủ Hoài Hạc bang là kẻ giả mạo?
Chàng biết lão là người tinh minh, thông thái nên thố lộ tâm sự, nhờ lão gỡ rối cho :
- Đúng thế! Vãn sinh còn đoán ràng người ấy là đại ca Văn Tuấn Thu!
Cù lão hỏi thêm :
- Vậy lời tố cáo kia có phải là sự thật hay không?
Chàng gật đầu xác nhận :
- Bốn năm trước, Hoàng Diện Thái Tuế Nhâm Bá Linh đã tiết lộ việc này cho vãn sinh biết. Sau đó ông ta bị bọn Hoàng Sơn nhị quỷ đánh rơi xuống Hoàng Hà, không rõ số sanh tử thế nào?
Cù Sở Hòa vốn là kẻ hiếu kỳ số một võ lâm, gặp nan đề phải giải cho ra. Vì vậy lão vô cùng thích thú trước vụ án bí ẩn của nhà họ Văn. Lão trầm ngâm suy nghĩ rồi hỏi :
- Thế trong bốn năm nay, công tử lưu lạc phương nào?
Biết lão tinh ranh như hồ ly, chàng đành thú thực :
- Vãn sinh cùng Ôn tiểu thư trên đường đến Huyền Không tự để tìm Hằng Sơn Thiền Ông thì bị Chấp Pháp nhị tướng của Thiên Độc giáo chặn lại. Họ đánh bay vãn sinh xuống vực thẳm rồi bắt Ôn tiểu thư về Nghi Xương. Vãn sinh may mắn thoát chết, nhưng mãi đến nay mới thoát khỏi vực sâu.
Tuy chàng không nói rõ việc mình gặp kỳ duyên nhưng Cù lão cũng đoán ra. Nếu không, chàng chẳng thể nào trở lại nhân gian. Lão cười khà khà :
- Họa trung đắc phúc, xin chúc mừng công tử!
Bỗng lão ngớ người suy nghĩ, rồi hồ hỡi nói :
- Lão phu võ đoán rằng công tử đã kể cho Ôn tiểu thư nghe nội tình Văn gia bảo? Nếu đúng vậy thì gã Hoài Hạc bang chủ kia có thể chính là nàng ta. Cái tên Hoài Hạc chẳng phải là để tưởng nhớ đến công tử đó sao?
Tuấn Hạc mừng rỡ :
- Vãn sinh cũng nghĩ như vậy nhưng không dám chắc!
Cù lão mỉm cười :
- Đầu tháng năm tới đây, cả Thiết Long lẫn Hoài Hạc bang chủ đểu có mặt ở Võ Đang sơn, công tử cứ đến đấy tất sẽ rõ nội tình.
Tuấn Hạc cảm tạ, gọi tiểu nhị tính tiền rồi cáo biệt Hồ Tinh.Thấy lão già nua cô độc áo rách không người vá, Tuấn Hạc cung kính nói :
- Còn tiền bối, tiền tài như phấn thổ, nhân nghĩa tợ thiên kim. Mong tiền bối nhận chút lòng thành của vãn sinh.
Nói xong, chàng đặt ba tấm tiền giấy trăm lượng bạc xuống bàn.
Cù Sở Hòa chua chát hỏi :
- Dung mạo lão phu gian xảo, hèn hạ như vậy mà công tử không chán ghét sao?
Tuấn Hạc chỉnh sắc :
- Khổng Phu Tử có tướng ngũ lộ xấu xí Lão Tử thì mộc mạc, quê mùa, thô thiển như cây khô! Sao có thể nhìn dung mạo mà xét đoán con người? Hình dáng xấu đẹp tròn vuông là do tự nhiên ban cho, nhưng ai cũng sẵn có cái thiện căn trong tâm. Tiền bối một đời bôn ba vì chuyện của thiên hạ, không màng lợi lộc, vãn sinh hết lòng ngưỡng mộ.
Vạn Bác Hồ Tinh vỗ bàn khoan khoái :
- Sinh ra ta là cha mẹ nhưng hiểu ta chỉ có mình công tử. Lão phu xin đem tấm thân tàn này theo hầu vậy!
Biết lão là người tài trí, Tuấn Hạc phấn khởi vòng tay :
- Được tiền bối di theo dạy bảo, vãn sinh vui mừng khôn xiết!
Hai người vui vẻ rời tửu lâu, mua ngựa rồi lên đường xuôi Nam. Tiểu Bạch quen tính nghịch ngợm, cứ nhảy từ con tuấn mã này sang con kia, Tuấn Hạc hòa nhã nói :
- Tiểu Bạch! Hãy ngồi im, đừng làm ngựa sợ!
Thần viên lập tức ngoan ngoãn ngồi sau lưng chàng. Cù Sở Hòa thấy con vượn thông hiểu tiếng người, lão suy nghĩ miên man. Cuối cùng, không dằn được tính tò mò, lão cất tiếng :
- Văn công tử, lão phu nhớ ra một cố sự võ lâm, cách nay đã mấy chục năm, đó là một vị đại kỳ nhân có danh hiệu Cuồng Kiếm Thần Y. Ông ta có nuôi một con vượn trắng như Tiểu Bạch đây. Dám hỏi sư thừa của công tử?
Tuấn Hạc mỉm cười gật đầu :
- Đúng vây! Người ấy chính là tiên sư!
* * * * *
Tám ngày sau, khi bọn Tuấn Hạc đến thành Lạc Dương thì nghe tin Thanh Long Tử qua đời vì tẩu hỏa nhập ma. Vụ án Văn gia bảo đành phải hoãn lại chờ bầu tân Minh chủ.
Vạn Bác Hồ Tinh liền bàn :
- Nếu vậy, công tử cứ về Văn gia bảo xem thái độ Thiết Long thế nào. Lão phu sẽ đi Chiết Giang dò xem Bang chủ Hoài Hạc bang là ai. Đệ tử Cái bang sẽ giữ liên lạc giữa hai chúng ta.
Lão trao cho chàng một đồng tiền cổ để làm tín vật điều động bọn hóa tử. Hồ Tinh chua xót nói :
- Tiền nhiệm Bang chủ vì tham vinh hoa phú quý nên đã phục vụ quân Mông Cổ. Vì vậy sau khi cuộc chiến kháng nguyên thành công, các môn phái khác đều được tuyên dương và tự do phát triển, duy chỉ có Cái bang là mất cả tông môn. Tuy nhiên, anh em vẫn âm thầm duy trì bang hội.
Tuấn Hạc an ủi lão :
- Cái bang có truyền thống trượng nghĩa, trung liệt từ mấy trăm năm nay, đâu thể vì lỗi lầm của một đời Bang chủ mà tiêu diệt được? Sau này tất có ngày trùng hưng trở lại được.
Hai người rời Lạc Dương, đồng hành thêm mấy trăm dặm nữa, đến tận Tín Dương mới chia tay.
Cuối tháng năm, Tuấn Hạc về đến Lư Lăng. Tòa Văn gia bảo thân yêu vẫn sừng sững đứng bên dòng sông Lư Giang trầm lặng.
Cửa bảo đóng kính, chàng xuống ngựa nắm song sắt đập vào cánh cửa gỗ. Lát sau, Trương tổng quản chạy ra, ngỡ ngàng nhìn chàng trai trẻ. Lão đã già đi, mắt mũi kèm nhèm nên chẳng thể nhìn ra nhị công tử. Gia dĩ, chàng đã khác xưa rất nhiều. Bộ râu mấy ngày không cạo càng khiến gương mặt thêm xa lạ.
Câu đầu tiên mà chàng hỏi là :
- Xin hỏi Nhâm đại thúc có mặt ở đây không?
Trương lão buồn rầu đáp :
- Bốn năm trước, lão ta đưa nhị công tử lên kinh thi Hội, cuối cùng chẳng thấy trở về.
Tuấn Hạc thầm thương cho Hoàng Diện Thái Tuế nhưng lại yên tâm vì việc này phù hợp với kế hoạch đã định. Chàng cười bảo :
- Trương lão không nhận ra Hạc nhi sao? Ta là nhị công tử đây!
Trương Phúc kinh hãi, trợn mắt nhìn cho kỹ rồi ré lên :
- Nhị công tử!
Lão ôm chàng khóc dài :
- Trời cao có mắt nên công tử còn sống. Bốn năm qua, Văn gia bảo buồn như có đám ma.
Tuấn Hạc vỗ về lão :
- Trương lão đừng khóc nữa, để ta vào xem có ai nhận ra ta không?
Chàng trao cương ngựa cho lão rồi đủng đỉnh bước vào. Thiết Long Văn Chí Lãm và Hà nhị nương đang ngồi trên bàn bát tiên ở giữa đại sảnh. Bước chân Tuấn Hạc quá êm ái nên họ chẳng hề phát hiện.
Văn bảo chủ thì thờ thẫn nhìn qua song cửa phía Tây ngắm ánh hoàng hôn thoi thóp. Gương mặt ông hốc hác, đầy vẻ buồn phiền. Hà Tú Chân cặm cụi khâu va.
Tuấn Hạc bước đến gần họ mới nhận ra. Thiết Long ngỡ ngàng nhìn khách, đôi mắt ánh lên niềm nghi hoặc và hân hoan vô hạn. Cuối cùng, từ đôi mắt hổ trào ra những giọt lệ. Thiết Long thất thanh :
- Hạc nhi!
Tuấn Hạc nhìn thấy tất cả. Chàng biết ông ta thực lòng yêu mến mình. Người này chẳng thể là Văn Chí Khải được!
Chàng sụp xuống khóc :
- Hài nhi bái kiến phụ thân và nhị nương!
Thiết Long lao đến ôm chặt lấy chàng, bật cười vang dội :
- Ôi hoàng thiên! Ta đội ơn người!
Hà nhị nương cũng khóc. Nàng chẳng thể chạy đến ôm lấy Tuấn Hạc vì chàng đã cao bằng Thiết Long. Tú Chân nghẹn ngào nói :
- Hạc nhi! Ta tưởng rằng kiếp này không còn được gặp con nữa.
Thiết Long kéo chàng về bàn rồi quát vang :
- Trương tổng quản đâu, mau chuẩn bị đại yến mừng nhị công tử!
Trương lão đã biết trước và thông báo các gia nhân nên mọi người kéo lên sảnh chúc mừng. Lát sau, họ ùa xuống bếp, chuẩn bị yến tiệc.
Họ đi cả rồi mới có một đứa bé gái độ ba tuổi chạy ra. Dường như nó đang ngủ và bị đánh thức bởi những tiếng ồn ào.
Thiết Long nhấc bổng cô bé lên cười khanh khách :
- Hạc nhi, tiểu nha đầu này là em ngươi đấy! Tên nó là Uyển Lan!
Lan nhi tròn mắt nhìn Tuấn Hạc rồi bập bẹ :
- Phụ thân! Chẳng phải đây là nhị ca mà người vẫn thường nhắc đến?
Thiết Long gật đầu, trao nó cho Tuấn Hạc. Lan nhi bụ bẫm, xinh đẹp như trong tranh, khiến chàng sinh lòng yêu mến.
Lan nhi ôm cổ chàng thủ thỉ :
- Nhị ca đi đâu không chịu về làm phụ mẫu sầu khổ, chẳng ngày nào vui vẻ. Tiểu muội cũng chẳng có ai chơi cùng.
Tuấn Hạc cảm động nói :
- Nhị ca sẽ không đi đâu nữa, Lan muội hãy yên tâm.
Thiết Long nghiêm giọng :
- Bốn năm qua Hạc nhi lưu lạc nơi nào, sao không viết thư về cho phụ mẫu yên lòng? Phải chăng ngươi chính là Hoài Hạc bang chủ?
Giọng ông nghiêm khắc nhưng ánh mắt đầy vẻ quan hoài.
Tuấn Hạc quên cả kế hoạch đã tính toán, bi phẫn nói :
- Hài nhi không phải là Hoài Hạc bang chủ, nhưng chẳng hay lời tố cáo ấy có đúng hay không?
Thiết Long cười dài, rồi chỉnh sắc chỉ lên trời mà thề :
- Nếu ta là Văn Chí Khải thì xin cho lôi thần đả tử, trầm luân trăm kiếp trong Địa ngục A tỳ!
Vào thời ấy Phật giáo đang hồi hưng thịnh. Ai cũng tin vào thuyết luân hồi.
Hà nhị nương cũng nói vào :
- Hạc nhi! Nếu lão gia là Văn Chí Khải sao có thể đối đãi với ngươi như vậy được? Bốn năm nay, người ăn ngủ không yên, tiêu tốn cả nửa gia sản để truy tìm tông tích.
Tuấn Hạc cảm nhận được sự thành thực của họ nhưng vẫn chưa dám tin hẳn.
Chàng gượng cười :
- Hài nhi đã tin, mong phụ thân thứ tội.
Nhấp hớp trà thơm, Tuấn Hạc kể ra thiên cố sự bịa đặt :
- “Năm ấy, Nhâm đại thúc đưa hài nhi đến bờ Trường Giang thì gặp kẻ cựu thù, họ đánh bay hài nhi xuống sông. Tình cờ có một lão già cứu hài nhi lên. Nhưng lão không cho hài nhi đi Nam Kinh mà đưa vào một khu rừng già âm u, cách bờ Bắc chừng hơn trăm dặm. Trong suốt bốn năm, lão bắt hài nhi phải hầu hạ, phục vụ.
Dường như lão già là một lang trung, đang luyện loại đan dược nào đấy. Trong lúc đi hái thuốc, hài nhi tình cờ quen được một con vượn trắng. Một hôm, trong lúc lão ta đang đánh đập hài nhi, Tiểu Bạch xuất hiện giết chết lão Hồ đại phu gian ác. Nhờ vậy hài nhi mới có thể trở về đây”
Câu chuyện này do chính Vạn Bác Hồ Tinh sắp đặt. Quả thực là phía Bắc Trường Giang có một khu rừng rậm và một người tên Ác Y Hồ Lộ Kỳ - lão này đã chết từ lâu nhưng ít ai biết được.
Thiết Long nghe xong quắc mắt gầm lên :
- Khốn nạn thực, nếu lão ta còn sống thì hay biết mấy. Văn mỗ sẽ rửa hận cho Hạc nhi.
Tú Chân cười bảo :
- Tướng công nói lạ! Nếu lão còn sống thì sao Hạc nhi có thể về nhà được?
Thiết Long sững người, cười xòa :
- Ừ nhỉ! Thế con Thần viên ấy đâu?
Tuấn Hạc quay ra gọi :
- Tiểu Bạch!
Linh thú đang say sưa hái quả, nghe gọi liền phóng vào như tia chớp. Tuấn Hạc giới thiệu xong, Tiểu Bạch nghiêm trang vòng tay vái chào.
Hà nhị nương ngạc nhiên :
- Chẳng lẽ Tiểu Bạch lại thông linh đến thế ư?
- Thưa phải! Nó thông hiểu tiếng người và có sức mạnh như thần.
Uyển Lan thích thú, tuột khỏi lòng Tuấn Hạc, chạy đến vuốt ve con vượn bạch.
Chàng liền dặn dò :
- Tiểu Bạch! Lan nhi còn nhỏ và rất yếu đuối ngươi phải nhẹ nhàng, không được đùa giỡn nặng tay.
Tiểu Bạch gật đầu, ôm lấy Lan nhi đưa ra vườn. Tú Chân biến sắc sợ hãi nhưng Tuấn Hạc đã trấn an :
- Nhị nương chớ lo, hài nhi xin chịu trách nhiệm.
Lát sau, ngoài kia vọng lại tiếng cười trong trẻo của Uyển Lan.
* * * * *
Từ đó, Tuấn Hạc trở lại là Văn nhị công tử, danh sĩ Triết Giang Tây. Chàng vẫn đọc sách ngâm thơ như ngày nào nhưng sáng sáng cũng ra vườn múa quyền. Thiết Long rất vui vì điều ấy, chỉ bảo thêm cho chàng. Nhưng rồi ông lại bị cuốn hút vào sanh ý của Thiết Long tiêu cục.
Giữa tháng sáu, Phó tổng tiêu đầu Thiên Phương Kích Chu Tứ Lân xuất hiện. Tay và chân ông quấn đầy băng trắng. Cách nay mười mấy ngày, họ Chu áp tải đoàn tiêu đi Quý Dương.
Thiết Long kinh hãi hỏi :
- Phải chăng đã gặp cường địch?
Chu Tứ Lân thiểu não nói :
- Bảo chủ! Phen này nguy ngập lắm rồi! Chính Thiên Độc giáo đã ra tay cườm tiêu xa và ngang nhiên thách thức Bang chủ đến hồ Động Đình phó ước! Tam hộ pháp Thiên Độc giáo là Cổ Túc Chi bảo rằng nếu Thiết Long tiêu cục không chịu nộp mỗi năm sáu vạn lượng thì đừng hòng đi về phía Tây nữa!
Thiết Long giận dữ nói :
- Vân mỗ coi lũ chó rơm đó ra gì! Sáng mai chúng ta sẽ lên đường đi Động Đình hồ!
Chu Tú Lân đi rồi, Tuấn Hạc hỏi ngay :
- Hài nhi nghe nói Thiên Độc giáo rất lợi hại. Phụ thân kéo quân đi không sợ đối phương dùng độc hay sao?
thiết Long buồn rầu đáp :
- Ta cũng biết mình không địch lại Thiên Độc giáo, nhưng chẳng thể để thanh danh trôi theo dòng nước! Ngày mai ta sẽ đi một mình vì không muốn anh em uổng mạng!
Tuấn Hạc vui vẻ bảo :
- Hài nhi ở với Ác Y Hồ Lộ Kỳ mấy năm, cũng học được đôi điều hữu ích. Chờ hài nhi vào chế xong thuốc phòng độc rồi người hãy đi!
Thiết Long hân hoan trả lời :
- Hay lắm! Nếu thế thì ta chẳng sợ ai ca.
Trong bốn năm ở dưới vực sâu, Tuấn Hạc có đủ thời gian để thuộc lòng và thấu hiểu Y kinh. Nhờ vậy, chàng biết được đặc tính thần diệu của rễ cây Tử Diệp Bạch Lê. Khi trở lên mặt đất, chàng đã đem theo số rễ cây ấy - dưới dạng bột khô. Đây là nguyên liệu quý giá để tiền chế những loại thuốc bổ, thuốc trị thương và thuốc giải độc.
Chỉ trong ba ngày, chàng đã có trong tay hơn trăm viên Giải Độc đan.
Sáng ngày mười chín tháng sáu, Thiết Long cùng hai mươi tiêu sư lên đường đến Động Đình hồ.
Trước lúc khởi hành, Tuấn Hạc bảo Thiết Long :
- Phụ thân! Sao người không nhờ nghĩa công và nghĩa bà - Nhật Nguyệt song ma - đi theo trợ chiến? Nếu lần này Thiên Độc giáo đưa đến nhiều đại cao thủ thì sao?
Thiết Long sững người suy nghĩ, vỗ đùi khen :
- Hay lắm! Ý kiến của Hạc nhi quả là tuyệt diệu. Ta sẽ ghé ngang qua Ngọc Sơn thỉnh họ cùng đi.
Đoàn nhân mã khuất xa, Tuấn Hạc cùng Hà nhị nương trở vào, chàng bỏ ra vườn đi xuyên qua cánh rừng tùng sau bảo, dện bờ sông Lư Giang ngắm gióng nước hiền hòa trôi. Lư Giang là dòng sông nhỏ, nước trong xanh chứ không vàng đục như Hoàng Hà.
Nửa tháng qua, chàng đã để tâm quan sát theo dõi hành động của Thiết Long.
Nhiều đêm, chàng phục dưới cánh cửa sổ để nghe ngóng, cố tìm ra chút sơ hở, nhưng chẳng phát hiện được gì. Trong câu chuyện phòng the, Thiết Long vẫn mãi nhắc đến chàng với giọng trìu mến, thương yêu.
Sau ngày chàng trở lại nhà, chàng đã hỏi Thiết Long về tin tức của đại ca Văn Tuấn Thu. Văn bảo chủ buồn bã nói rằng không biết. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau có một lái buôn đem đến tiêu cục - ở thành Lư Lăng - một phong thư của Tuấn Thu.
Thiết Long nhận được, mừng rỡ trao cho chàng đọc. Tuấn Hạc rất quen thuộc với nét chữ của đại ca nên biết rằng không phải là giả. Nội dung trong thư, Tuấn Thu tạ lỗi vời Thiết Long và bảo rằng chàng đã định cư ở Tây Vực và không bao giờ trở lại Trung Nguyên nữa.
Có cả những lời hỏi thăm thân thiết dành cho Tuấn Hạc.
Như vậy Thiết Long không hề giết Tuấn Thu như lời Nhâm Bá Linh đã phỏng đoán. Nhưng sơ hở lớn nhất của Thiết Long và Hà Tú Chân là họ không hề mở miệng thóa mạ Hoàng Diện Thái Tuế Nhâm Bá Linh. Lão ta chính là người có tội lớn nhất trong việc ly gián tình phụ tử giữa Thiết Long và Tuấn Hạc. Chính điểm này đã nuôi dưỡng nghi ngờ trong lòng chàng.
Một chiếc thuyền chài lướt ngang qua.
Trên thuyền thấp thoáng một bóng nghi nữ áo đen đang uyển chuyển đẩy mái chèo. Cảnh tượng này hợi nhớ đến Thiên Độc Thánh Nữ Ôn Tiểu Băng. Chàng muốn đi ngay Chiết Giang để xem gã Bang chủ kia có phải là nàng hay không?
Chàng lại lo lắng khi không nhận được tin tức của Vạn Bác Hồ Tinh.
Thơ thẩn cả canh giờ, chàng mới trở lại khu hậu viện. Lúc đi ngang qua khuê phòng của nhị nương, Tuấn Hạc thoáng thấy bà đang ngồi ủ rũ, nhìn qua khung cửa sổ đôi dòng châu lã chã tuôn rơi.
Chàng biết bà đang lo lắng cho Thiết Long, định vào an ủi nhưng không dám.
Ngày còn thơ ấu, chàng thích thú được bà ôm ấp vỗ về. Giờ đây, chàng đã trưởng thành mà bà vẫn thon thả, kiều diễm. Ở tuổi ba mươi bảy, nhị nương chỉ như gần tam thập.
Tuấn Hạc trở về phòng, chuẩn bị đi Động Đình hồ. Trước khi biết rõ thực hư, chàng không thể để Thiết Long gặp nguy được Nhưng Hà nhị nương đã đến. Bà dặn dò chàng :
- Hạc nhi! Nhị nương có hẹn đến chơi với phu nhân huyện lệnh Lư Lăng, có thể mai mới về. Mọi việc trong Bảo, mong Hạc nhi quán xuyến dùm.
Chàng vui vẻ gật đầu nhưng trong lòng đầy nghi vấn. Hà nhị nương rất yêu thương Thiết Long, không thể thản nhiên đi chơi trong khi trượng phu đang đi vào hổ huyệt. Nhất là lúc nãy bà đã khóc vì lo lắng.
Bà đi rồi, Tuấn Hạc giao sự vụ cho Trương tổng quản rồi cũng đi luôn. Văn Uyển Lan đã có nhũ mẫu trong nom nhưng chàng cũng phải để Thần viên ở lại chơi với nó. Chàng đã nói với Trương lão là mình đi Cát An thăm bằng hữu.
Tuấn Hạc dùng khinh công bám theo ngựa của Hà Tú Chân. Đến một cánh rừng vắng gần thành, nhị nương nhìn trước nhìn sau rồi rẽ vào. Được hơn mười trượng bà nhảy xuống ngựa, cởi bỏ bộ cung trang. Tuấn Hạc kinh hãi không dám nhìn.
Khi chàng mở mắt ra thì bà đã mặc xong bộ võ phục màu thanh thiên, dung mạo thay đổi hoàn toàn. Thì ra người đàn bà dịu dàng, nhân hậu kia là một cao thủ võ lâm có tài dịch dung thần diệu.
Đôi nhãn quang sắc bén của chàng không hề nhận ra chút sơ hở của gương mặt giả kia. Tuấn Hạc toát mồ hôi nghĩ đến việc Thiết Long cũng mang mặt nạ.
Nhưng suy nghĩ lại, chàng biết Hà Tú Chân không dính dáng đến vụ huyết án thay mận đổi đào mười chín năm trước.
Việc đại ca Tuấn Thu cứu nhị nương đem về Bảo thì chàng vẫn nhớ rõ.
Văn nhị phu nhân hóa trang xong, rời khỏi cánh rừng và phi nước đại. Tuấn Hạc đoán rằng bà đi Động Đình hồ để hỗ trợ cho Thiết Long Văn Chí Lãm. Địch thủ chưa rõ nhưng chàng vẫn mừng cho Thiết Long có được người vợ chí tình, chí nghĩa.
Đã biết mục tiêu, Tuấn Hạc thong thả đuổi theo. Đến trấn Đại Lâm, chàng ghé vào mua ngựa đi tiếp.
Hà nhị nương nóng ruột quất ngựa phi nhanh. Tuấn Hạc cũng vội nhưng giữ một khoảng cách chừng gần trăm trượng.
Chiều hôm sau, Hà Tú Chân và Tuấn Hạc lần lượt đến trấn Trường Đức - gần hồ Động Đình.
Đoàn người ngựa của Thiết Long tuy khởi hành trước hai canh giờ nhưng cũng đến trước chẳng bao lâu. Ông không biết rằng vợ và con cũng đuổi theo.
Hà nhị nương trong dung mạo giả, thản nhiên trọ cùng khách điếm với phu quân. Tuấn Hạc thì ở lữ quán đối diện.
Sáng ra, Thiết Long dương cờ tiêu cục, tiến ra bờ hồ. Nơi đây, có một Phân đàn của Thiên Độc giáo. Ông kéo quân đến trước cửa, quát vang như sấm :
- Thiên Độc giáo! Van mỗ đã y hẹn đến phó ước!
Chung quanh khu vực này có những khoảng rừng đào, liễu rậm rạp nên Tú Chân và Tuấn Hạc ẩn nấp dễ dàng. Tuấn Hạc chăm chú nhìn kỹ hai nhân vật đứng cạnh Thiết Long, họ chính là Nhật Nguyệt song ma.
Nhật Ma Hách Động Doanh người béo lùn, râu bạc, mặt đỏ như son, quanh lưng quấn một sợi nhuyễn tiên vàng nhạt. Còn Nguyệt Ma Hân Hàn Thúy là một lão bà cao gầy, mặt sát xương tái mét. Trong tay bà có một cây Long Đầu quải trượng bằng một thứ kim loại đen sì.
Hoàng Diện Thái Tuế từng kể rằng :
- Mười chín năm trước, Song ma đã theo Văn Chí Khải về Văn gia bảo. Họ ở lại một đêm mới quay về Ngọc Sơn - Nam Xương. Chí Khải nói là chính Song ma cứu mạng lão nên trở thành nghĩa phụ, nghĩa mẫu. Tuấn Hạc thầm nghĩ: có thể Song ma có liên quan đến cái chết của cha chàng vì một mình Văn Chí Khải không thể giết được Văn Chí Lãm.
Lúc này, các cao thủ Thiên Độc giáo xuất hiện. Tuấn Hạc đã không đoán sai, ngoài Tam hộ pháp Cổ Túc Chi, còn có Chấp Pháp nhị tướng Bùi Tự Viên và Bùi Thế Đông. Sau lưng là năm mươi giáo chúng áo xanh, hông đeo độc đao.
Nhật Ma tính nóng như lửa, thấy mặt đối phương là mắng ngay :
- Thiết Long là nghĩa tử của Nhật Nguyệt song ma. Nay Thiên Độc giáo dám cướp tiêu, đòi cống nạp, tức là chẳng coi vợ chồng lão phu ra gì rồi!
Tam hộ pháp Cổ Túc Chi cười nhạt :
- Bổn giáo thống trị địa bàn ba phủ Hồ Nam, Giang Tây, Quí châu. Các nơi khác đều răm rắp tuân phục, lẽ nào Thiết Long tiêu cục lại được ngoại lệ?
Thật ra thì họ chỉ mới có ý định bành trướng vào phủ Giang Tây mà thôi. Văn gia bảo chính là hòn đá cản đường mà họ muốn hất đi.
Nguyệt Ma bật cười the thé :
- Để xem lũ ngươi có được bao nhiêu bản lĩnh mà dám ngông cuồng?
Dứt lời, bà vung Quải trượng lao đến như tia chớp. Khí thế mãnh liệt như vũ bão. Phu thê tâm ý tương thông, Nhật Ma cũng đồng thời xuất thủ. Cây Hoàng Long tiên của lão thắt nên những vòng tròn chết chóc, chụp xuống đầu Chấp Pháp nhị tướng.
Thiết Long và hai mươi tiêu sư cũng xông vào đám giáo chúng áo xanh. Thanh Ngô Câu kiếm đặc dị trong tay ông lồng lộn như thần long, lập tức chém chết hai tên.
Đám tiêu sư đi theo Thiết Long thục ra là những đệ tử thân tín. Họ được ông truyền cho phép đánh Ngô Câu kiếm của dòng họ Văn. Vì thế, bản lĩnh vô cùng lợi hại. Tuy nhân số ít hơn phe Thiên Độc giáo nhưng lại được thế thượng phong.
Mười tám người lập thành kiếm trận, tiến thoái nhịp nhàng, liên thủ mà tấn công nên khí thế càng hùng hậu. Hai người còn lại theo sau Thiết Long để bảo vệ hậu tâm của ông. Thiết Thạch thần công chống lại được đao kiếm nhưng nếu gặp tay nội gia cao thủ đánh trộm thì cũng không tránh khỏi bị thương.
Nhờ có hai gã đệ tử này mà Thiết Long yên tâm chém giết. Chỉ hơn nửa khắc, phe Thiên Độc giáo đã bỏ mạng mười mấy tên. Bọn còn lại vội tung độc phấn, độc châm nhưng cũng chỉ hoài công.
Tuấn Hạc núp trong rừng liễu, mỉm cười hài lòng khi thấy thuốc giải của mình phát huy hiệu dụng.
Phần Nguyệt Ma, cây Long Đầu quải trượng liên tiếp giáng xuống đầu Tam hộ pháp Cổ Túc Chi những đòn sấm sét. Họ Cổ đón đỡ vài chiêu đã nghe hổ khẩu đau rát. Thanh kiếm tẩm độc mẻ từng miếng lớn. Lão vung tả thủ, đẩy ra những luồng độc chưởng đen mờ, nên tạm thời duy trì được.
Bên kia Nhật Ma cùng Chấp Pháp nhị tướng giữ thế quân bình. Hách Đông Danh là người duy nhất trong võ lâm luyện phép đánh nhuyễn tiên đến mức đại thành Cây Hoàng Long tiên dài gần trượng biến hóa quỷ dị vô song. Nếu lão không úy ky chất độc thì đối phương đã thảm bại từ lâu rồi. Vì tự ái mà Song ma không chịu uống thuốc Giải Độc đan mà Thiết Long đưa cho.
Nguyệt Ma Hân Hàn Thúy tính tình kiêu ngạo, nóng nảy. Thấy trượng phu ung dung đối phó với nhị tướng trong khi mình đánh một mà chưa xong, bà động sát khí rú lên. Cây Long Đầu quải trượng hóa thành trận cuồng phong đen thổi về phía Cổ Túc Chi. Lão ta kinh hãi trước khí thế của chiêu trượng, vội buông kiếm, dùng cả hai tay giáng liền tám chưởng vào màn trượng ảnh.
Tiếc rằng công lực của Nguyệt Ma thâm hậu hơn nhiều, Quải trượng ập đến gõ vỡ đầu họ Cổ. Bà đắc ý cười khanh khách, định sang liên thủ với Nhật Ma.
Nhưng mấy chục thớt ngựa đã lao đến.
Ba người áo vàng nhảy xuống tấn công Nguyệt Ma, số còn lại đánh vào kiếm trận của bọn tiêu sư.
Tuấn Hạc giật mình khi thấy ba mươi sáu tên mới đến có hình dạng rất kỳ dị.
Toàn thân chúng được bao phủ bởi những miếng da dày đen xám, xếp như vảy cá.
Tay hữu cầm độc kiếm, tay tả thủ thiết chùy. Trên đầu chúng lại chụp mũ sắt dầy.
Được trang bị kín đáo như vậy, khó ai mà đả thương được. Hơn nữa, thủ pháp kiếm chùy hợp nhất kia vô cùng đáng sợ, mới ra tay đã có bốn tiêu sư bị thương.
Thiết Long gầm vang, bỏ đám giáo chúng áo xanh, tung mình đón đánh hai tên giáp sĩ. Thanh Ngô Câu kiếm như tia chớp rạch sáu đường trên ngực chúng nhưng không chém đứt được lớp giáp kia.
Họ Văn điên tiết nhắm vào mặt và hai cổ tay bọn chúng mà đánh. Với những mục tiêu giới hạn như vậy, làm sao đắc thủ được.
Lại thêm bảy tiêu sư nữa rú lên vì thương tích. Kiếm trận bắt đầu loạn. Một mình Thiết Long chống cự với tám gã giáp sĩ nên bắt đầu nguy ngập. Ông bị trúng hai chùy vào lưng, không rách da thịt nhưng máu miệng rỉ ra.
Tuấn Hạc cau mày suy nghĩ :
- “Lạ thực! Nếu phụ thân ta đã luyện xong lớp thứ bảy của Thiết Thạch thần công thì đâu thể bị thương bởi hai đòn kia được?”
Chàng cũng đã luyện tâm pháp này nên biết rõ điều ấy. Tuấn Hạc chưa kịp nhảy ra hỗ trợ Thiết Long thì Hà nhị nương đã nhanh hơn. Bà lướt về phía trận địa của Thiết Long và tung mình lên không. Từ tay tả của bà, những cây kim vàng bay vào mặt tám tên giáp sĩ. Thủ pháp kỳ tuyệt kia đã có tác dụng, bón tên bị kim đâm mù mắt, rú lên những tiếng khàn đặc Thiết Long phấn khởi chặt liền hai bàn tay của chúng.
Hà nhị nương lướt khắp trận địa phóng kim châm vào mắt bọn giáp sĩ để cứu các tiêu sư. Cục diện được vãn hồi đôi chút, bọn giáp sĩ e sợ nên không hung hăng như trước Nhưng một lão áo trắng - đang vây đánh Nguyệt Ma - đã thoát ra, chặn đường Hà Tú Chân. Người ấy là Tứ hộ pháp Lưu Độc Hà. Võ công của lão ta cao hơn Tú Chân rất nhiều nên bà bị thương ngay sau mười mấy chiêu kiếm.
Tuấn Hạc kinh hãi, lướt nhanh về phía Hà nhị nương. Thấy bà bị thêm một vết kiếm thương trên vai trái, Tuấn Hạc căm hận rú lên cao vút. Từ trên không chàng đách chiêu “Tinh Sa Lạc Nhạn”. Hàng ngàn chưởng ảnh giăng mắc khiến lão Tứ hộ pháp hoa mắt, không biết đâu là hư thực.
Lão kinh hãi cử song thủ giáng mạnh vào giữa đám ma thủ. Nhưng chưởng kình đã hụt mục tiêu. Lúc này, trái cầu ma quái kia phủ xuống và hai đạo chưởng phong nặng như núi bổ vào ngực lão.
Tuấn Hạc được Hà nhị nương nuôi nấng, yêu thương suốt bảy năm dài. Trong thâm tâm, chàng vẫn coi người đàn bà hiền thục kia là mẹ của mình. Chính vì thế khi thấy bà đã bị thương, chàng đã xuất thủ rất độc ác. Xương lồng ngực của lão ma gãy nát và thân hình lão văng xa hơn trượng.
Tú Chân ngỡ ngàng nhìn người bịt mặt.
Chàng điểm huyệt chỉ huyết, xé vạt áo băng bó hai vết thương và cho bà uống thuốc giải độc. Lúc này, Hà nhị nương đã kiệt lực vì sự công phá của chất độc trên lưỡi kiếm.
Tuấn Hạc ẵm bà trên đôi tay mạnh mẽ rồi lướt khỏi trận địa. Bọn giáp sĩ xông đến cản đường nhưng thân pháp chàng cực kỳ linh hoạt và nhanh nhẹn, thoát đi rất dễ dàng. Lúc sắp đến bìa trận, một tên giáp sĩ bất ngờ phóng thiết chùy vào lưng Tuấn Hạc. Toàn thân chàng chấn động nhưng không dừng chân. Tú Chân kinh hãi hỏi :
- Các hạ có sao không?
Chàng không dám mở miệng.
Tuấn Hạc chạy vào khu rừng liễu, đặt bà xuống chỗ kín đáo rồi quay trở ra.
Chàng giở pho Tiêu Dao thất thập nhị thủ ra tàn sát bọn giáp sĩ. Chỉ trong nửa khác đã bẻ gãy tay mười mấy tên. cục diện được vãn hồi.
Thấy vậy, Tuấn Hạc quay sang trận địa của Nhật Nguyệt song ma. Họ đang bị áp đảo vì khí độc đã ngấm vào huyết mạch.
Nhờ công lực thâm hậu nên còn tạm thời chống đỡ được.
Tuấn Hạc nhớ đến việc Chấp Pháp nhị tướng đẩy mình xuống vực và bắt Ôn Tiểu Băng, liền nhặt thanh kiếm trong tay xác một tên tiêu sư rồi xông vào. Chàng dùng pho Cuồng Kiếm mà tấn công Nhị chấp pháp Cầu Triệu Linh.
Nhật Ma mừng rỡ bảo :
- Hay lắm! Tiểu tử cố cầm chân hắn để ta giết lão quỷ ốm này.
Họ Bùi cười âm hiểm, tung Hắc Độc chưởng bao phủ lấy Tuấn Hạc. Nhưng lão đâu biết rằng chàng đã uống Thiên Độc đan nên chẳng hề e sợ, lao thẳng vào luồng độc chưởng. Dù trúng hai đòn vào ngực và bụng nhưng chiêu kiếm vẫn vun vút bay đến. Đây lại là chiêu sát thủ trong pho kiếm pháp, lợi hại khôn lường. Bùi lão ma bị bất ngờ nên không kịp tránh né, bị thanh Ngô Câu kiếm chặt đứt tay trái và vạch bốn đường trên ngực - máu bắn tung tóe. Lão rú lên thê thiết, hồn về chín suối.
Nhật Ma thấy chàng trai này chỉ một chiêu đã lấy mạng địch thủ, nổi lòng háo thắng, lao thẳng vào luồng độc chưởng của Đại chấp pháp - Hoàng Long tiên thắt chín vòng quanh thân đối phương. Lão trúng một chưởng vào vai tả nhưng cần cổ Bùi Thế Đông cũng bị ngọn roi xiết đứt.
Nhật Ma đắc ý cười ha hả rồi gục xuống. Tuấn Hạc là người nhân hậu, tuy nghi ngờ Song ma dự phần giết cha mình, nhưng vẫn không thể để lão chết được.
Chàng vội nhảy đến, nhét vào miệng lão ba viên linh đan và trút nội lực hỗ trợ.
Nhật Ma có đến hơn hai hoa giáp tu vi nên mau chóng phục hồi. Lão gượng cười hỏi :
- Tiểu tử là ai mà lại cứu lão phu?
Tuấn Hạc chưa kịp đáp thì nghe Nguyệt Ma rên nhỏ. Chàng vội lướt về phía bà ta, chém vào lưng Ngũ hộ pháp Cốc Tòng Châu để giải vây.
Là người quang minh chính đại, chàng quát lên cho đối phương biết. Lão này thấy chàng giết Nhị chấp pháp nên không dám tiếp chiêu, tung mình đào tẩu. Đại hộ pháp Cố An Từ cũng vội chạy theo.
Nhưng vừa đi được hai, ba trượng, lão quay ngoắt lại, phóng thanh độc kiếm vào Nguyệt Ma, bà ta đang lảo đảo vì chất độc mắt nhắm nghiền nên không phát hiện.
Nhật Ma đứng xa đến bốn năm trượng nên không kịp cứu hiền thê, lão thét lên kinh hoàng :
- Hân muội! Coi chừng!
Nguyệt Ma mở mắt nhưng không còn sức né tránh. Tuấn Hạc đã như tia chớp lao đến ôm bà, hứng lấy mũi kiếm oan nghiệt kia.
Cố An Từ là cao thủ có hạng trong võ lâm, công lực thâm hậu nên thanh kiếm có sức công phá rất mãnh liệt. Tuấn Hạc vươn tả thủ vỗ vào bản kiếm, đẩy nó lệch đi. Thủ pháp của chàng khiến Nhật Ma giật mình.
Lão chưa kịp nói lời cảm ơn thì người bịt mặt kia đã như tia chớp rút lui khỏi đấu trường, biến mất trong khu rừng liễu.
Lúc này, bọn giáp sĩ đã rút lui theo các hộ pháp. Thiết Long rảnh tay chạy đến, nhét thuốc giải độc vào miệng Nguyệt Ma. Nhờ có Nhật Ma truyền thêm công lực bà ta hồi phục rất nhanh. Vừa mở mắt, bà đã hỏi ngay :
- Chí Lãm! Cái gã bịt mặt đã cứu ta lúc nãy là ai vậy?
Thiết Long cười khổ đáp :
- Hài nhi cũng chẳng biết người ấy là cao nhân phương nào nữa? Ông ta dường như có mói thâm thù với Thiên Độc giáo nên xuất thủ rất nặng tay. Nếu không, hôm nay chúng ta khó thoát chết.
Nhật Ma thở dài :
- Ta nghĩ mãi mà không tìm ra ai là kẻ có bản lãnh cao siêu như vậy! Mối đại ân này làm sao trả được?
Nguyệt Ma nhớ đến nữ nhân vãi kim vàng liền hỏi :
- Như vậy nữ lang mặc võ phục màu xanh lúc nãy cũng là đồng bọn của người bịt mặt?
Thiết Long không hề biết Hà Tú Chân giỏi nghề phóng kim châm nên cũng tán thành Nhật Ma nghiêm giọng :
- Nay Văn gia bảo và Thiên Độc giáo trở thành tử đối đầu vợ chồng ta sẽ đến Lư Lăng để gúp ngươi chống cự. Trước sau gì lão họ Ôn cũng đến đòi lại món nợ hôm nay.
Thiết Long vòng tay cảm tạ rồi thét thủ hạ đưa tiêu xa về. Tổng cộng, Thiết Long tiêu cục chết mất năm tiêu sư và bị thương gần hết. Tuy nhiên, đây là một chiến thắng oanh liệt!
Tiêu xa nặng nề, lại có người mang thương nên cước trình châm chạp, mãi ba ngày sau bọn Thiết Long mới về đến Văn gia bảo.
Tuấn Hạc và Hà nhị nương đều đã có mặt ở nhà. Chàng về trước Tú Chân hai canh giờ vì bà bị thương không đi nhanh được. Lúc nhìn thấy Văn nhị công tử Nhật Nguyệt song ma đều hết lời khen ngợi :
- Cốt cách của Hạc nhi mà học võ thì chỉ bốn năm là có thể ngạo thị giang hồ!
Thiết Long ứng tiếng :
- Nếu vây, xin nhị vị tài bồi cho.
Nhật Nguyệt song ma chưa có truyền nhân nên hoan hỉ chấp thuận. Tuấn Hạc đã có dịp quan sát nên nhận ra Song ma không phải là người xấu. Nhất là Hách Đông Danh lại có tướng phúc hậu, hào sảng. Chàng đã là nghĩa tôn của họ nên không cần xưng hô là sư phụ.
Trong đại yến tẩy trần, Thiết Long hết lời ca ngợi công lao nữ lang áo xanh và người bịt mặt. Nhật Ma cười bảo :
- Lão phu ước lượng người ấy có khoảng bốn mươi năm công lực. Như vậy, tuổi tác sẽ vào khoảng lục tuần.
Tuấn Hạc đã bao kín cả tóc nên họ không thể đoán ra tuổi.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.