Chương 5: Bộ Thứ Hai: Đến Trình Quốc
Thập Tứ Khuyết
06/03/2015
Dùng chỉ để thêu, có thể thêu ra năm tháng.
Dùng tâm để thêu, có thể thêu ra giang sơn.
Một tòa cung đình, sao có thể giam cầm phượng hoàng?
Mệnh ta là do ta định, không phải do trời!
Hồi Thứ Năm: Hoa Tai
“Hoa lê đã tàn rồi…”.
Ác Du mở cửa sổ, khi đón ánh nắng ban sớm, đã lẩm bẩm một câu như thế.
Quay đầu lại, trong Dao Quang cung hoa lệ, ngọn nến đỏ cỡ lớn đã cháy gần tàn, đêm qua, mười một tháng tư là ngày Tam tiểu thư tiến cung thụ phong, nhưng hoàng thượng không đến.
Trong lòng không phải là không lo lắng.
Tuy biết người trong lòng tiểu thư là Kỳ Úc hầu có nụ cười ôn hòa tựa gió xuân nhưng nhìn không thấu đó, nhưng rốt cuộc một khi đã vào cung là đã trở thành phi tử của hoàng thượng. Đã trở thành hoàng phi, có được nhận ân sủng của hoàng thượng hay không là một chuyện vô cùng trọng đại, đến đêm đầu tiên tiến cung mà hoàng thượng cũng không đến, sau này… thật sự không thể tưởng tượng nổi.
So với người thị nữ thân tín mặt mày lo âu, Khương Trầm Ngư dường như đã sớm đoán sẽ được đãi ngộ như thế này, vì thế không hề có vẻ bi phẫn oán trách, chỉ lạnh nhạt dặn dò chuẩn bị chải đầu thay áo, một lát sau còn phải đến vấn an thái hậu.
Hoài Cẩn vừa chải tóc cho nàng, vừa quan sát lỗ tai trên tai trái của nàng, ngạc nhiên hỏi: “Lỗ tai của tiểu thư xỏ đẹp mà lại không hề bị rách”.
“Có thể đeo hoa tai chưa?”.
“Tiểu thư muốn đeo hoa tai? Nhưng chúng ta không mang theo hoa tai vào cung”.
Khương Trầm Ngư mỉm cười, nói với Ác Du: “Đi lấy chiếc hộp bằng gỗ lê đem lại đây”.
Ác Du vâng một tiếng, mau chóng lôi từ trong hòm ra một chiếc hộp nhỏ, Hoài Cẩn thấy rất quen mắt, không kìm được hỏi: “Đây chẳng phải là viên nghi châu mà Nhị tiểu thư tặng tiểu thư đó sao?”.
Khương Trầm Ngư mở hộp ra, hai tì nữ đều kinh ngạc kêu lên một tiếng, nguyên nhân là vì viên châu trong hộp vẫn là viên châu đó, nhưng đã sửa thành kiểu dáng khác. Vốn là một chiếc phượng thoa nạm vàng khảm ngọc, bây giờ lại biến thành một chiếc hoa tai thật dài. Xỏ vào tai, sợi dây nhỏ màu bạc rủ xuống, kéo hạt châu rủ xuống hõm vai.
Cung nhân bên cạnh chưa bao giờ thấy cách đeo kỳ quái như vậy, không kìm được tròn mắt nhìn.
Khương Trầm Ngư khẽ lắc đầu, hạt châu đó đung đưa qua lại cạnh cổ nàng, mắt Hoài Cẩn sáng lên: “Hoa tai này phối với kiểu tóc búi buông lệch (1) là hợp không gì bằng. Sang bên Nhị tiểu thư, xem tiểu thư ăn nói thế nào đây, tặng chiếc thoa cho tiểu thư, tiểu thư lại tự ý sửa thành hoa tai”.
Nhắc đến tỉ tỉ, Khương Trầm Ngư lòng nặng trĩu, thở dài thật khẽ: “Ngươi cho rằng, chỉ cần ta tiến cung, những chuyện không thể ăn nói với tỉ tỉ còn ít sao?”.
Từ khi thánh chỉ của hoàng đế ban xuống, phía bên tỉ tỉ đã bặt vô âm tín, không tỏ động thái gì. Ca ca vào cung thăm tỉ tỉ một lần, về nhà chỉ nói thần sắc tỉ tỉ bình tĩnh và không có gì khác lạ. Nhưng như thế, trong lòng Khương Trầm Ngư lại càng thêm thấp thỏm. Bình thường tỉ tỉ nàng rất hiếu thắng, biết muội muội cũng sắp tiến cung, sao có thể bình thản, càng huống hồ, không lâu trước nàng còn phát hiện mình không thể sinh con, bị hai tòa núi lớn đè nén, nếu là bất cứ người nào cũng không thể chịu đựng nổi.
Thế nhưng không sao cả. Khương Trầm Ngư nghĩ lát nữa sau khi đi thỉnh an thái hậu xong, nhất định sẽ đến gặp tỉ tỉ. Chỉ cần có thể gặp mặt, nói chuyện, mọi thứ đều có cách giải quyết.
Chọn một chiếc áo màu lam nhạt, soi gương tự cài áo, y phục và hạt châu phối hợp với nhau, khiến làn da nàng càng thêm mịn màng trắng trẻo. Nhưng, chẳng qua cũng chỉ là một bộ da mà thôi.
Vì thiên hạ trọng sắc đẹp(2).
Nhưng dung nhan của một nữ nhân nếu không thể giúp nữ nhân ấy lọt vào mắt xanh của người trong lòng mình thì có đẹp hơn nữa cũng có ích gì?
Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, lại chầm chậm thở ra, cho dù thế nào, chuyện đã đến bước này, hết thảy đều đã trở thành kết cục đã định. Nghĩ những chuyện này, chẳng qua cũng chỉ là giày vò cõi lòng mình một cách vô ích mà thôi.
Cơn mưa hôm đó dường như vẫn còn rơi trong tim, chưa từng quên bất cứ chi tiết nhỏ nào, nàng nhớ khi nhào vào lòng Cơ Anh, nàng đã nghĩ: Kiếp này nếu phải rời xa vòng tay của chàng, sao có thể sống tiếp?
Lúc ấy chỉ cảm thấy đó đã là nỗi đau đớn long trời lở đất, mà nay soi gương, nhìn thấy trán rộng mày ngài, mắt sáng răng trắng phản chiếu trong gương, không kìm được nẠsinh cảm giác tang thương tự trào: Hóa ra, mình vẫn có thể sống tiếp. Hơn nữa còn kiều diễm hơn xưa. Không để đau thương có cơ hội thấm vào trong dung nhan.
Được đám cung nhân đưa ra khỏi Đao Quang cung, đến Ý Thanh cung của thái hậu, vừa đi được mấy bước đã nhìn thấy một nữ tử từ xa bước tới, phía sau có hai cung nhân đi theo, toàn thân áo lục, đó chính là tỉ tỉ Họa Nguyệt của nàng.
Tỉ muội chạm mặt, hai bên đối mắt nhìn nhau, không khí hết sức kỳ lạ.
Khương Trầm Ngư chủ động bước lên hai bước, hành lễ: “Trầm Ngư thỉnh an tỉ tỉ”.
Khương Họa Nguyệt vẫn đứng yên không nói gì, cung nhân phía sau lại nói: “Xin thứ cho nô tì mạo phạm, xưng tỉ tỉ muội muội nên đổi lại. Bây giờ là trong cung, đừng làm ra hỏng quy củ”.
Hàng mi của Khương Trầm Ngư run run, nàng ngước nhìn tỉ tỉ nhưng thấy nàng mặt thản nhiên bước qua mình, mau chóng dẫn theo hai cung nhân biến mất phía sau cánh cửa.
Ác Du trợn mắt há miệng, hỏi gấp: “Nhị tiểu thư sao lại làm thế với tiểu thư…”.
Khương Trầm Ngư khẽ quát: “Câm miệng”. “Nhưng tiểu thư…”.
“Ta nói câm miệng”. Nàng sầm mặt, Ác Du lập tức im bặt.
Hoài Cẩn lại nói: “Lời của người đó tuy khó lọt tai, nhưng là sự thực, bây giờ khác với lúc ở tướng phủ, Ác Du à, cách gọi tiểu thư cũng nên đổi thôi, từ sau gọi là nương nương”.
Nhìn vẻ nhẫn nhịn của Hoài Cẩn và vẻ ấm ức của Ác Du, ngoài mặt Trầm Ngư không biểu lộ gì, nhưng trong lòng còn buồn hơn họ gấp bội. Tỉ tỉ không thêm đoái hoài đến nàng, không chỉ không đoái hoài, mà còn ngầm cho phép một kẻ hạ nhân coi thường nàng…
Tỉ muội họ chưa từng xa cách như thế, những chuyện cũ như chải đầu, cười nói, chia đồ ăn vặt trong chốn khuê các đó rốt cuộc đã trở thành hồi ức.
Nàng lặng lẽ cúi đầu, lặng lẽ đi vào Ý Thanh cung, thấy bên trong đã tề tựu mười mấy mỹ nhân, xuân lan thu cúc, vừa nhìn đã thấy hào quang đầy nhà. Tỉ tỉ Họa Nguyệt đương ngồi trên vị trí thứ hai ở phía trái, nhìn thấy nàng, lại vờ như không thấy, ngược lại mấy phi tử phẩm trật không bằng nàng lại lũ lượt đứng dậy chào hỏi. Nàng nhìn quanh một vòng, vẫn chưa thấy Hy Hòa đâu, cũng không thấy Cơ Hốt.
Thái hậu chưa tới, chúng phi ngồi chờ, vô sự tán gẫu. Một phi tử cười nói: “Lâu nay nghe tiếng tiểu nữ của hữu tướng mỹ mạo hơn người, vừa có tài vừa có đức, nay được diện kiến, quả là danh bất hư truyền. Dáng vẻ tựa như thiên tiên, quả thật khiến ta tự thấy hổ thẹn”.
“Đúng thế, còn chưa chúc mừng Thục phi, hoàng thượng đúng là ân sủng Khương gia, cả hai nữ nhi đều tiến cung, Nữ Anh Nga Hoàng(3), thật khiến người ta ngưỡng mộ”.
Khương Trầm Ngư trong lòng căng thẳng, lo lắng nhìn sang Khương Họa Nguyệt, nhưng tỉ tỉ vẫn luôn coi nàng như không tồn tại, nghe những lời tán dương đó thì nhếch miệng, nửa cười nửa không nói: “Nghe nói Liễu Thục Nghi tuy không có muội muội, nhưng cũng có một đứa cháu gái nghi dung xuất chúng, hay là đưa nó tiến cung đi, cô cháu chung chồng cũng là một giai thoại, không phải sao?”.
Liễu Thục Nghi mặt lúc trắng lúc đỏ, tức thì không nói thêm lời nào nữa.
Đương lúc bối rối, một cung nhân hô to: “Thái hậu giá đáo.” Các phi tần lập tức đồng loạt cung nghênh.
Khương Trầm Ngư đã từng được gặp thái hậu một lần vào mấy năm trước, vẫn còn nhớ thái hậu mày mắt đoan trang, phong thái diễm lệ, mà nay gặp lại, đúng là năm tháng chẳng chừa ai, đặc biệt là được một đám cung nữ tuổi trẻ mỹ mạo vây quanh dìu bước, bà lại càng lộ rõ sự già nua, sắc mặt bệnh tật nhìn dáng vẻ tựa cây đèn cạn dầu.
Thái hậu ngồi xuống vị trí đứng đầu, xua xua tay nói: “Được rồi, tất cả ngồi xuống đi”. Dứt lời liền hỏi: “Ai là Thục phi mới được phong?”.
Khương Trầm Ngư bước ra bái lạy, thái hậu tỉ mỉ đánh giá nàng một lượt, ánh mắt mang đầy thâm ý, còn chưa phát biểu cách nhìn thế nào, bên ngoài lại có tiếng thông báo truyền tới: “Hy Hòa phu nhân tới”.
Trong phòng tuy vẫn yên tĩnh như lúc đầu, nhưng Khương Trầm Ngư đã nhạy cảm ý thức được, bầu không khí giữa các phi tần bắt đầu căng thẳng.
Rèm phòng khẽ mở, Khương Trầm Ngư ngước mắt, đúng lúc ánh mắt của Hy Hòa đang bước từ ngoài vào cũng nhìn thẳng tới, Hy Hòa nở nụ cười tươi rói với nàng.
Tuy nàng hoàn toàn không có thiện cảm với Hy Hòa, nhưng không thể không thừa nhận, nữ nhân này thực sự xinh đẹp. Nàng ta vừa bước vào, lập tức khiến hết thảy mỹ nhân trong phòng đều trở nên nhạt nhòa, không sao sánh kịp.
Vẫn là trường bào rộng trắng muốt, mái tóc đen như mun không vấn cao, chỉ buộc nhẹ nhàng thả phía sau lưng, nhưng có vẻ quyến rũ tự nhiên, phong hoa tuyệt đại, nhan sắc thế tục đâu thể sánh được?
Nhìn mỹ nhân vang danh tứ quốc này, trong lòng Khương Trầm Ngư không kìm được nghĩ, việc mình vào cung liệu có liên quan gì tới nàng ta không? Nếu như nói không liên quan, tại sao nàng ta đòi mình vào cung dạy đàn, cố ý khiến hoàng thượng thấy mặt mình? Nếu như có liên quan, lại khiến người ta nghĩ không ra, nàng ta không sợ sẽ tạo ra một Khương quý nhân thứ hai tranh sủng với nàng ta sao? Nhưng, có lẽ nữ nhân này không có chuyện gì không dám làm chăng?
Hy Hòa bước tới trước mặt thái hậu, thi lễ nói: “Hy Hòa thỉnh an thái hậu”.
Thái hậu gật gật đầu, ban vị trí thứ hai ở phía bên phải cho nàng ta, Hy Hòa vẫn chưa ngồi xuống, một cung nhân già bước vào bẩm: “Thái hậu, người của Đoan Tắc cung tới chuyển lời nói Cơ quý tần đêm qua uống rượu quá chén, bây giờ say vẫn chưa tỉnh miễn cưỡng xuất hành e là sẽ mạo phạm thiên uy, cho nên hôm nay không đến, mong thái hậu thứ tội”.
Khương Trầm Ngư vừa nghe, cảm thấy hơi bất ngờ, lại có chút nằm trong dự tính. Nghe đồn Cơ Hốt không theo phép tắc đã vào cung nhưng không hề có dáng vẻ của phi tử, chỉ là hoàng thượng yêu chuộng tài năng của nàng, đối với nàng ân hậu đức dày, tình cảm khoan dung còn hơn cả đối với Hỳ Hòa.
Cũng vì thế, thái hậu nghe xong nét mặt vẫn bình thản như cũ, gật đầu như không có chuyện gì, nói: “Biết rồi, bảo bọn họ về hầu hạ cho chu đáo”.
Chúng phi thầm thở dài, việc này cũng chỉ Cơ Hốt làm được, đổi lại là người khác, đã sớm bị chém đầu cả trăm lần rồi.
Hy Hòa bên kia cười khanh khách: “Quý tần đã không đến, chiếc ghế đầu tiên này, hãy cho thần thiếp ngồi nhé”.
Thái hậu liếc nàng ta một cái, không ngăn cản.
Chúng phi lại thầm thở dài, chuyện này cũng chỉ Hy Hòa dám làm nếu là người khác trong lòng dù muốn ngồi lên chiếc ghế đó, cũng tuyệt đối không dám nói ra trước mặt mọi người.
Như thế mọi người ai ngồi chỗ nấy xong xuôi, nghe hậu dạy bảo: “Ai gia già rồi, cơ thể cũng không còn nhanh nhẹn nữa, cho nên, chuyện trong cung này cũng ngại quản, có muốn quản cũng không được. Mong các ngươi hãy nghĩ tới hoàng thượng, thiên hạ mới định, nên chia sẻ lo lắng với hoàng thượng nhiều một chút, chớ làm những chuyện ngang ngược, khiến hoàng thượng không vui”.
Chúng phi vội vàng đáp vâng.
Ánh mắt của thái hậu lướt qua gương mặt của các phi tử một vòng, nhìn đến Hy Hòa thì dừng lại một lát, cuối cùng đậu lại trên mặt Khương Trầm Ngư, như có lời muốn nói, nhưng cuối cùng chỉ khẽ thở dài, nói: “Như vậy đi. Ai gia mệt rồi, từ nay về sau, không cần ngày ngày đều tới thỉnh an, làm dâu của hoàng gia khó, chúng ta đều bớt việc đi!”.
Dứt lời, thái hậu đứng dậy, vịn vào tay cung nhân lảo đảo đi khỏi.
Khương Trầm Ngư nhẩm lại câu nói đó của thái hậu “khó làm dâu”, không khỏi có phần ngây ngốc. Bản thân tuổi vừa tròn mười lăm, cả cuộc đời này có thể sẽ chỉ trôi qua trong những bức tường này… Với thế lực của Khương gia, không thể tiêu sái như Cơ Hốt, cũng không thể không sợ hãi như Hy Hòa, thực sự là tình cảnh vạn phần khó xử. Mà người thân duy nhất… nàng nhìn sang Họa Nguyệt, trong lòng lại ảm đạm vài phần.
Trong phòng yên lặng chừng nửa tuần trà, phi tử áo hồng không xinh đẹp lắm ngồi ở vị trí cuối cùng bỗng kinh ngạc kêu lên: “Á”.
Mọi người đều quay đầu lại: “Sao thế?”.
Phi tử đó tự biết thất lễ, run rẩy nói: “Xin lỗi xin lỗi, Tầm Oánh chỉ là nhìn thấy hạt châu trên dây chuyền phu nhân đeo trên cổ và hạt châu trên hoa tai Thục phi đeo ở tai trái dường như là một cặp, cho nên mới nhất thời lỡ lời…”.
Bị nàng ta nhắc nhở như vậy, mọi người đều nhìn theo, quả nhiên, hai hạt châu đó kích thước bằng nhau, tròn sáng long lanh, điểm khác biệt nho nhỏ dưới ánh nắng hạt châu của Khương Trầm Ngư ánh lên sắc lam nhạt, còn hạt châu của Hy Hòa lại ánh lên màu đỏ sẫm, hai thứ cùng soi rọi lẫn nhau, không phân biệt được là ngọc nhờ người mà thêm sắc, hay là người nhờ ngọc mà tỏa sáng.
Liễu Thục Nghi bị khiển trách lúc trước bấy giờ như vớ được cơ hội, nhướn mày cười nói: “Đúng thế, đây chẳng phải là cặp châu Nghi quốc tiến cống năm ngoái sao? Quý nhân quả nhiên là tỉ tỉ tốt, đến hạt châu quý giá như thế cũng đem cho Thục phiChỉ có Thục phi dung mạo như thế mới có thể đua tranh với phu nhân, chị em chúng ta thô lậu, hoàn toàn không thể sánh được”.
Khương Trầm Ngư thầm nghĩ, đây có thể vừa là khích Họa Nguyệt, lại vừa khích Hy Hòa. Ai không biết nếu luận về mỹ mạo, ở Đồ Bích Hy Hòa là người đứng đầu? Liễu Thục Nghi nói như vậy, rõ ràng là muốn làm loạn thiên hạ.
Nào ngờ Hy Hòa không hề bị khích, vẻ mặt vẫn mỉm cười, im lặng ngồi đó, không hề có ý chen lời, ngược lại Họa Nguyệt sắc mặt đổi thay. Trước đây nàng tặng viên châu này cho Trầm Ngư là để chúc mừng hôn sự của Trầm Ngư và Cơ Anh, ai ngờ bị Hy Hòa phá đám giữa chừng, đột nhiên biến thành phi tử của hoàng thượng, như thế, viên châu này đeo trên tai của muội muội thực sự giống như một sự châm biếm to lớn.
Nàng tuy cố gắng chế ngự cơn giận dữ, nhẫn nhịn đè nén, nhưng lần này bị chế nhạo trước mặt đông người, trong chốc lát bị mất thể diện, khó mà nhịn được. Lập tức đứng bật dậy, phất tay áo lạnh lùng nói: “Bản cung cảm thấy mệt rồi, cáo từ trước”.
Khương Trầm Ngư thấy nàng đi, vội vàng đứng dậy theo, nói: “Tỉ tỉ đợi muội với, muội đi cùng tỉ tỉ”. Ai ngờ Khương Họa Nguyệt vờ như không nghe thấy, càng cố bước nhanh hơn, giữa ánh mắt xem trò hay đầy cổ quái của tất cả mọi người trong phòng, Khương Trầm Ngư vừa cay đắng vừa buồn bã, cũng không buồn để ý, vội vã đuổi theo.
Đuổi tới Động Đạt kiều mới theo kịp, nàng nắm lấy một cánh tay của Khương Họa Nguyệt: “Tỉ tỉ, muội có lời muốn nói với tỉ”.
Khương Họa Nguyệt quay lại nhìn nàng, trong ánh mắt có trăm ngàn tâm tư, nhưng chỉ thoáng hiện lên trong một giây lát, cuối cùng rầu rĩ cười nói: “Chuyện đã đến nước này, còn có gì để nói?”.
Khương Trầm Ngư cuống quýt nói: “Tỉ tỉ, tỉ sớm biết vào cung không phải là muội…”.
“Thật sao? Thật là khéo quá!”. Khương Họa Nguyệt nhếch mép, cười nhạt, “Ta vừa tìm ra cơ thể… có bệnh, muội liền vào cung luôn”.
“Tỉ tỉ, chuyện đó muội chưa nói với bất kỳ người nào, bao gồm cả cha, nếu muội nói dối, thì ngũ lôi oanh đỉnh, chết chẳng toàn thây!”.
Khương Họa Nguyệt thấy nàng nói rất kiên quyết, trong đáy mắt lóe một tia đau khổ, quay mặt đi, nói: “Thế thì đã sao? Muội nói hay không nói, đều như nhau cả. Từ nhỏ muội đã thông minh nhất, bề ngoài nhìn như không ham không muốn, nhưng những thứ đã ngắm trúng chưa bao giờ thoát khỏi tay muội. Tất cả đều khen muội tính tình tốt, cũng vì thế đều thích muội, trước mặt hay sau lưng, không biết đã dành cho muội bao nhiêu thứ tốt”.
Khương Trầm Ngư lùi lại ba bước, mặt đầy vẻ kinh ngạc, run giọng hỏi: “Tỉ tỉ… tỉ coi muội như vậy sao?”
“Ta còn nhớ trung thu một năm, cha kiểm tra ba chúng ta, ai có thể ném chiếc lông vũ đi xa nhất thì sẽ thưởng bánh trung thu thủy tinh cho người ấy.
Kết quả muội nhờ một con chim nhỏ giành lấy ngôi đầu, cha thưởng cho muội bánh trung thu, muội lại nói muốn chia sẻ với ta và đại ca. Khi đó ta chỉ cảm thấy muội lương thiện vô tư biết bao, nhưng sư gia biết được chuyện này, từ đó về sau, người thích muội nhất, dốc hết kiến thức truyền thụ cho muội, thậm chí trước khi đi xa còn đem cây đàn của mình tặng cho muội”. Khương Họa Nguyệt nói đến đây, mắt đỏ hoe, ngũ quan bắt đầu méo mó, nghẹn ngào. “Muội rõ ràng biết! Muội rõ ràng biết! Ta thích Tất sư gia…”.
Khương Trầm Ngư hít một hơi khí lạnh, cảm thấy chân tay lạnh toát. Từng chữ từng chữ đó đập xuống, đau đớn hơn cả mưa đá rơi trúng.
Hóa ra khúc mắc đã sớm gieo mầm từ rất lâu, chỉ là nàng khờ dại ngây thơ, không hay biết gì thôi.
“Từ nhỏ muội không hề tranh giành cái gì, chỉ thích tranh giành tình cảm với người ta. Người nào nếu nói một tiếng thích ta, muội ắt sẽ bỏ toàn bộ tâm tư để khiến hắn thích muội hơn, bây giờ, muội chẳng phải tiến cung để giành hoàng thượng sao?”.
“Tỉ tỉ…”, tỉ tỉ, hà cớ gì tỉ phải làm tổn thương muội như vậy? Nước mắt Khương Trầm Ngư trong nháy mắt đã tuôn trào, hết lần này đến lần khác nghĩ: Tỉ tỉ, tỉ làm tổn thương muội như vậy, tỉ vui sao? Tỉ không đau sao? Tỉ tỉ, tỉ không đau sao?
Nàng luôn cho rằng chỉ cần giải thích rõ ràng, tỉ muội tình thâm mười mấy năm, sẽ có thể hóa giải tất cả hiểu lầm. Nàng tưởng rằng tỉ tỉ biết nàng ôm một mối tình sâu nặng thế nào đối với công tử. Nhưng, giờ này, phút này, đứng trước mặt nàng, người dùng câu nói tựa một lưỡi dao lạnh lẽo, từ từ chậm rãi, vô cùng tàn nhẫn moi tim gan nàng là ai?
Là ai?
Lời nói vẫn không dừng lại, tiếp tục vang lên bên tai: “Nhưng lần này muội không làm được đâu. Muội không có cơ hội, Trầm Ngư. Bởi vì, muội không thể tranh được với Hy Hòa. Không phải vì Hy Hòa đẹp hơn muội, mà là vì ả và hoàng thượng có một thứ giống nhau, mà thứ đó, muội không có. Cho nên, Trầm Ngư, muội không có bất cứ cơ hội nào…”.
Khương Trầm Ngư đứng yên như phỗng hồi lâu, cuối cùng mới ngẩng đầu lên, nhìn chằm chằm vào Khương Họa Nguyệt, không nói một lời, quay lưng sải bước rời đi.
“Trường Tương Thủ” đung đưa trên vai nàng, nàng không kìm nổi đưa tay sờ hạt châu đó, thầm nghĩ, thật tốt, bây giờ đều có đủ rồi. Lỗ tai công tử xỏ, hạt châu tỉ tỉ tặng, đều đủ cả.
Từ nay về sau, thế gian này, trên không thứ gì có thể làm tổn thương nàng nữa.
Bởi vì, thứ làm nàng tổn thương nhất, đều tập trung cả trên tai trái của nàng.
Chỉ cần lỗ hổng trên tai trái nàng vẫn còn, chỉ cần hạt châu trên chiếc hoa tai này vẫn còn, nàng sẽ vĩnh viễn vĩnh viễn ghi nhớ nỗi đau này, ghi nhớ nỗi khổ này, ghi nhớ mối hận này. Ghi nhớ tất cả đều nhờ ai ban cho.
Tầng tầng ngói lưu ly, san sát điện vàng ngọc, kẻ khởi nguồn của tất cả khổ nạn ấm ức day dứt tuyệt vọng này đang ngồi ở đó, y có thân phận hiển hách nhất thế gian, có quyền uy tối thượng, tên của y là – Chiêu Doãn.
Đêm lạnh như nước.
Tiếng trống canh từ xa vẳng lại, nghe không chân thực, trong noãn các cách xa chính điện, thiên tử thiếu niên thân mặc thường phục, nằm nghiêng trên chiếc giường gấm, trước giường có đặt một chiếc bàn dài, tấu chương trên bàn chất cao như núi, mà trong tay y cũng cầm một phần, thần sắc y mệt mỏi. La Hoành bên cạnh dè dặt dâng trà sâm, nói: “Hoàng thượng, nghỉ một chút đi”.
Chiêu Doãn đón lấy tách trà nhưng không uống, ánh mắt vẫn dán trên tấu chương, nhìn từ góc độ của La Hoành, có thể thấy bản tấu chương đó rất khác biệt, những tấu chương khác đều có bìa màu lam nhạt, duy chỉ có bản tấu này bìa là màu vàng tím sang trọng vô song, góc dưới bên phải còn vẽ một đồ đằng hình rắn. Nhìn thấy đồ đằng này, La Hoành chợt hiểu ra, đó nào phải tấu chương, rõ ràng là quốc thư của Trình quốc gửi tới.
Trong bốn nước, Bích quốc rộng nhất, đồ đằng hình rồng, Yến quốc mạnh nhất, đồ đằng hình én; Nghi quốc giàu nhất, đồ đằng hình hạc; duy chỉ có Trình quốc, bốn mặt giáp biển, là một đảo quốc nhỏ, hình dáng như con rắn, vì thế coi rắn là thần. Tuy đất đai cằn cỗi, tài nguyên nghèo nàn, nhưng trong nước người người hiểu võ thiện chiến, chịu khổ chịu cực, lại rộng rãi chiêu gọi hiền nhân dị sĩ, thợ khéo thầy hay, dốc sức chế tạo binh khí, nhân khẩu vỏn vẹn không quá tám trăm vạn người, nhưng có đến hai trăm vạn là tinh binh, bọn họ mưu đồ chuyện gì, ai ai cũng biết.
Nào ngờ người tính chẳng bằng trời tính, khi Trình vương Minh Cung chuẩn bị gióng trống thúc quân vượt biển đánh nước giàu có nhất là Nghi quốc, một ngày khi thức giấc đột nhiên trúng gió, dẫn đến bản thân bất toại, đến nay vẫn không thể đi lại.
Ông ta bốn mươi chín tuổi, có ba con trai một con gái, thú vị ở chỗ Minh Cung không coi trọng ba vị hoàng tử, mà chỉ sủng ái công chúa Di Thù. Vì thế có tin đồn vị hoàng tử nào được Di Thù giúp sức, người đó tất có thể trở thành Trình vương kế nhiệm.
Bây giờ Trình vương viết thư tới, không biết là chuyện trọng yếu gì mà lại khiến hoàng thượng suy nghĩ thế.
Chiêu Doãn đặt chén trà sang một bên, khẽ thở dài một tiếng, lẩm bẩm: “Văn võ đầy triều, lẽ nào không tìm ra nổi người thứ hai có thể lấy Di Thù sao?”
La Hoành giật thót mình, hóa ra Trình vương muốn gả công chúa?
Dường như nhìn thấu suy nghĩ của La Hoành, Chiêu Doãn khẽ liếc ông ta, nói: “Ngày hai mươi chín hai tháng sau, Trình vương mừng thọ năm mươi tuổi, muốn nhân dịp này kén chồng cho Di Thù công chúa, La Hoành, ngươi nói xem, trẫm phái ai đi thì được?”.
Hoàng thượng tôn quý, nhất định không thể đích thân đi được, mà trong số văn võ bá quan người có thể xứng với công chúa cao quý, nghĩ tới nghĩ lui chỉ có một người, nhưng nghe ý tứ vừa rồi của hoàng thượng, rõ ràng không muốn vị đó đi, vậy thì, còn có ai nữa… La Hoành vừa thầm suy tính trong lòng, vừa thận trọng đáp: “Nếu như hoàng thượng khó xử, chẳng thà chọn lấy một người xuất sắc, phong cho một tước vị sai hắn đi?”.
“Nói thật dễ dàng, loại bèo bọt không có căn cơ này, Trình quốc công chúa đồng ý mới lạ!”.
“Kỳ thực cũng không tính là không có căn cơ, ví dụ như Giang…”, nói đến đây thì dừng lại đầy ngụ ý.
Mắt Chiêu Doãn quả nhiên sáng lên, nhướn mày gọi: “Điền Cửu!”.
Giây sau, Điền Cửu đã quỳ trước điện.
“Chuyện giao cho ngươi đi xử lý sao rồi?”.
Điền Cửu đáp: “Họ Diệp vốn ít người, đến thời Diệp Nhiễm chỉ còn lại mình ông ta. Cho nên, người họ Diệp thực sự, ngoài phu nhân ra đều đã chết hết, tuy xét kỹ thì Giang thái y miễn cưỡng có thể tính là cậu về đằng ngoại bảy đời của phu nhân, nhưng chung quy vẫn là gượng ép”.
La Hoành cười nói: “Hoàng thượng coi là ông ta có họ, thì tức là có họ”.
Chiêu Doãn chau mày.
La Hoành nhân đó nói tiếp: “Giang thái y thân là Đề điểm Thái y viện, không thể thăng chức được nữa, nhưng con trai của ông ta Giang Vãn Y cũng là đại phu, còn chưa có công danh, phẩm mạo xuất chúng, lại thêm y thuật thần thông, văn tài hẳn cũng không tồi. Sau khi hoàng thượng cho phu nhân và Giang gia nhận họ hàng, hắn chính là biểu huynh của phu nhân, tuy không phải vương hầu, nhưng tiền đồ vô lượng. Nếu hắn lấy Di Thù công chúa thì tương lai phu nhân cũng có thêm giúp đỡ.”
Ánh mắt Chiêu Doãn hơi biến chuyển, bỗng nhiên cười nói: “Tương lai?
Tương lai ta an bài cho Hy Hòa thế nào, lẽ nào La Hoành ngươi đã biết?”.
La Hoành run rẩy, biết đã mạo phạm kỵ húy, vội vàng quỳ xuống: “Lão nô lỡ lời, xin hoàng thượng thứ tội”.
Chiêu Doãn cười mủm mỉm: “Đứng dậy đi, xét ngươi nghĩ ra được lựa chọn tuyệt hay đó, nên ta tha cho lần này. Ngươi xưa nay cực kỳ có chừng mực, chớ để ta nhắc nhở đến lần thứ hai”.
La Hoành rối rít thưa dạ, lau lau trán, đã thay túa mồ hôi lạnh. Ông chứng kiến hoàng đế trưởng thành, không thể không nói, Chiêu Doãn thực sự là một người có tính cách phức tạp nhất trong những con cháu hoàng tộc mà ông từng thấy, có sự kiên nhẫn của sói, sự giảo hoạt của hồ ly, sự cơ trí, cảnh giác của thỏ, bề ngoài luôn cười tủm tỉm, tỏ ra tính khí tốt, nhưng hành sự lại tuyệt tình: Tất cả mọi người đều chưa từng nghĩ y sẽ trở mặt với Tiết gia, đặc biệt là lần Hy Hòa đại náo Cảnh Dương điện, y vẫn toàn lực che chở cho hoàng hậu, ai ngờ nháy mắt đã phế bỏ hoàng hậu bắt giam quốc cữu ép tướng quân mưu phản chặt đầu thị chúng, với phong thái dứt khoát ghê gớm, chỉ trong thời gian hai tháng đã đào gốc trốc rễ Tiết gia – một trong tứ đại thế gia; y trông có vẻ như ân sủng Hy Hoà, nhưng để đạt mục đích không chút thương xót để nàng lấy thân thử độc bệnh liền mấy tháng, còn như đứa trẻ bị sảy đó là thật hay không cũng không rõ, trong cung có những chuyện biết ít đi một chút là phúc; còn đột nhiên y nạp Khương Trầm Ngư làm phi, dù nhìn thế nào thì vẫn giống như cố ý muốn cướp vợ của Kỳ Úc hầu, thật là một con người không thể nắm bắt được. Làm thuộc hạ của vị tân đế này, cần vạn phần cẩn thận mới được, nếu không hễ không chú ý là chưa biết chừng sẽ đắc tội với y, đến vì sao mà chết cũng không hay.
Bên này La Hoành đang lòng đầy sợ hãi, bên kia Chiêu Doãn khẽ day day ấn đường, suy tư nói: “Điền Cửu, sau khi Tiết Thái đến hầu phủ, tình hình thế nào?”.
Điền Cửu đáp: “Hầu gia đi đâu cũng mang theo hắn, sai khiến không khác gì bọn hạ nhân khác, không có điểm nào khác biệt”.
“Có dạy hắn đọc sách luyện võ không?”.
Điền Cửu nghĩ một lát: “Không có, nhưng…”.
“Nhưng cái gì?”
“Nhưng, tiểu nhân cho rằng, ở bên cạnh Kỳ Úc hầu, nhìn cách xử thế của hầu gia đã là tấm gương tốt nhất rồi”.
Chiêu Doãn im lặng, đưa hai ngón tay ra, gõ nhẹ lên mặt bàn, từng nhát từng nhát, không mau không chậm. Hai người còn lại trong phòng, Điền Cửu đang quỳ, La Hoành đang khom lưng đứng, đều không dám lên tiếng.
Cứ thế một thời gian thật dài trôi qua, Chiêu Doãn cuối cùng ngưng gõ bàn, cất tiếng: “Như các ngươi thấy, dụng ý của Kỳ Úc hầu là gì? Là bỏ qua ân cửu đào tạo hắn thành tài, hay là cứ thế mai một, để hắn cả đời không có ngày mở mặt?”.
Điền Cửu nghĩ rất lâu, mới đáp: “Nếu là tiểu nhân, nhất định là không yên tâm giữ một con hổ con bên cạnh, tuyệt đối phải bóp chết từ trong trứng nước, đề phòng tương lai chẳng may”.
“Hửm?”.
“Nhưng, Kỳ Úc hầu không phải là tiểu nhân, cho nên, ngài tuyệt đối không làm như thế”.
“Hửm?”.
“Thần nghe nói kẻ huấn luyện thú đều bắt đầu từ khi con thú còn non, cho nó ăn, rèn luyện nó, bồi dưỡng kỹ năng cho nó mà thu phục tâm nó. Trong đó thu phục tâm là gian nan nhất. Nhưng hễ thành công, con thú nhỏ trở thành con thú lớn, sau đó sẽ trung thành trước sau như một với người huấn luyện, bảo gì nghe nấy”. Điền Cửu nói đến đây, cười cười. “Theo tiểu nhân thấy, Kỳ Úc hầu chính là cao thủ trong việc này, hầu gia có ba nghìn môn khách, ai nấy đều hết lòng vì ngài. Cho nên, một tiểu Tiết Thái bé con, vào tay hầu gia, chẳng qua cũng chỉ là vấn đề thời gian ngắn dài”.
Đôi mắt Chiêu Doãn nheo lại, La Hoành quan sát sắc diện, vội vàng bổ sung: “Có điều cho dù kết cục thế nào, đều không thể thay đổi một sự thực – Tiết cũng được, Cơ cũng xong, chỉ khi hoàng thượng muốn cho họ vẻ vang, họ mới có thể vẻ vang, hoàng thượng không vui, toà nhà lớn sụp đổ cũng chẳng qua là chuyện trong khoảnh khắc thôi”.
Chiêu Doãn “hừ” một tiếng, lại hơi có ý cười: “Ngươi thực là dẻo miệng”, ngừng lại một lát, lại tiếp: “Nhưng, nếu là trẫm, trẫm cũng muốn uốn nắn bồi dưỡng”.
La Hoành lập tức lộ vẻ ngạc nhiên. Chiêu Doãn quả nhiên giải thích: “Bởi vì trăm sông đổ về một biển, biển có sức chứa lớn nhất, Kỳ Úc bản tính ôn hoà, làm việc nhanh nhạy, lời nói thận trọng, dùng câu ninh tinh trí viễn để hình dung cũng không quá. Có thể nói là hoàn toàn khác trẫm, nhưng duy có một điểm tương đồng, đó chính là – tự tin”.
Nói đến đây, hào khí dâng trào, Chiêu Doãn khoanh tay đi đến bên cửa sổ, chăm chú ngắm nhìn trăng tròn trên tầng không, nói: “Trẫm đã có thể giữ lại Tiết Thái, tức là có tự tin nắm chắc hắn trong lòng bàn tay. Đến chút tự tin này cũng không có thì thật thẹn là chủ của một nước, quân vương của Bích quốc!”.
Bên ngoài cửa sổ gió nhẹ khẽ thoảng, cành hoa lay động, một người bước ra khỏi bụi cây, từ xa nhìn lại.
Ánh mắt hai người chạm nhau trong không trung.
Chiêu Doãn ngẩn người, mà người đó đã quỳ xuống, cung kính thưa: “Trầm Ngư tham kiến bệ hạ, thiếp có chuyện muốn cầu xin hoàng thượng truyền gặp”.
Ánh trăng nhàn nhạt như thuỷ ngân, phủ lên cơ thể nàng, khiến toàn thân nàng đều toả ra thứ ánh sáng dịu dàng, chảy tràn tựa băng thanh ngọc khiết không thuộc về trần thế. Mà trong vầng sáng diễm lệ vô hạn đó, thiếu nữ thân mặc áo lam ngẩng đầu lên, đôi mắt như thuỷ tinh trong suốt, dưới thuỷ tinh, còn có đoá hoa đang âm thầm bừng nở.
Mông lung mà sâu thẳm.
Chiêu Doãn nhìn nàng, rất lâu sau, khoé môi nhếch lên cười mỉm, gọi nàng: “Thục phi”.
Cách gọi này, là một loại tuyên thệ quyền lực.
Khương Trầm Ngư cơ hồ có thể cảm thấy được, khí thế uy hiếp đó đang ào ạt lao tới. Rất kỳ quái, rõ ràng là cách chồng gọi vợ, nhưng vì lý do thân phận lại có thể không hề cảm thấy tình cảm, chỉ còn lại sự vạch rõ giai cấp hết sức lạnh lẽo.
Nàng khấu đầu, sau đó đi qua ánh mắt kinh ngạc của đám thị vệ, từng bước đi vào noãn các.
Đêm tháng tư, thời tiết vô cùng dễ chịu. Cửa sổ hai bên vách noãn các đều mở rộng, gió mát lùa vào, thổi tầng tầng rèm sa nặng nề lay động. So với chính điện và thư phòng, nơi này bớt đi ba phần trang nghiêm, tăng thêm bảy phần ấm cúng.
Chiêu Doãn mỉm cười đứng đó, ánh mắt dừng lại trên hạt châu hoa tai của nàng một lát, tấm tắc khen: “Trang sức của Thục phi rất khác biệt”.
Khương Trầm Ngư tươi cười rạng rỡ, lại lần nữa khấu đầu vái lạy, nâng một quyển thư được buộc rất cẩn thận lên đỉnh đầu.
“Đây là cái gì?”.
“Thư tự tiến cử”.
Chiêu Doãn tò mò chau mày, La Hoành bên cạnh đương định đón lấy, y xua xua tay, đích thân cầm lấy, cởi nút dây thừng ra, thứ đầu tiên lọt vào tầm mắt là thể chữ Khải trên văn bia Ngụy ngay ngắn chỉnh tề, bút lực mạnh mẽ, khí tượng hồn hậu, tinh thần bay bổng, kết cấu tự nhiên. Đúng là chưa đọc văn mà đã say mê.
“Chữ đẹp, là thư tự tiến cử của ai?”. Liếc mắt đến lạc khoản bên trái, nhìn thấy để danh cuối cùng, y thoáng ngạc nhiên, “Là của nàng?”.
“Thưa vâng”.
Một cơn gió lướt qua, “Trường Tương Thủ” đung đưa đung đưa.
Đáy mắt Chiêu Doãn nổi vài tia dị sắc, chẳng thèm đọc mà đặt quyển thư sang một bên, chậm rãi nói: “Nàng muốn gì?”.
“Một cơ hội”.
“Cơ hội gì?”.
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, nhìn thẳng y, nói rành rọt từng tiếng: “Một cơ hội tìm được vị trí thực sự thích hợp với bản thân”.
Trong mắt Chiêu Doãn dâng đầy thâm ý, kéo dài tiếng “Ừm”, nhưng vẫn không động thanh sắc. Khương Trầm Ngư biết, vị hoàng đế cố chấp đa nghi này đang đánh giá mình, giờ này phút này, nếu nói sai một câu, nàng sẽ không còn cơ hội đổi đời. Thế nhưng… Cho dù vẫn chưa nói sai, hiện tại ta liệu có cơ hội không?
Vừa nghĩ đến đây, trái tim nàng chùng xuống, bất chấp tất cả, tìm đường sống trong cõi chết, đêm nay, nếu không thể sống thì sẽ chết thôi.
“Hoàng thượng, người có phải là minh quân không?”.
Lời này vừa thốt ra, Chiêu Doãn và La Hoành đồng loạt biến sắc. Một sự uy nghiêm trang trọng vô hình trong không khí trong phút chốc đã nén xuống, tựa như tên đã lên cung, đao nằm trong vỏ, chạm vào là bắn, vung tay là ra.
Chiêu Doãn nhìn chằm chằm Khương Trầm Ngư đang quỳ dưới đất, bỗng bật cười ba tiếng.
Khi y cười tiếng thứ nhất, tên thu đao hồi; cười tiếng thứ hai, áp lực biến mất; cười tiếng thứ ba, gió lành trăng sáng.
Sau ba tiếng cười, thế giới trở về nguyên dạng.
Y ngồi ngả trên ghế, lười biếng hất tua mũ buông trước ngực ra sau vai, mỉm cười nói: “Trẫm có phải là minh quân không, ý nàng thế nào?”.
“Thần thiếp cho rằng, hoàng thượng là minh quân”.
“Ồ, từ đâu mà biết?”.
“Tiền quốc cữu chuyên quyền ngang ngược, ức hiếp bách tính, bao người dám giận mà không dám nói, hoàng thượng tước mũ ô sa của hắn chém đầu hắn, trừ hại cho dân, vạn dân vui mừng, ấy là thánh minh; Tiết Hoài cậy công kiêu ngạo, mạo phạm thánh thượng, cuối cùng phản quốc, hoàng thượng ngự giá thân chinh, tận tay tiễu trừ, vây cánh trăm phương, một lần diệt sạch, ấy là chấn uy, hoàng thượng dùng người chỉ chú trọng tài năng, chẳng tính xuất thân, phong Phan Phương làm tướng, ấy là ân trạch dồi dào. Hơn nữa, hoàng thượng từ khi đăng cơ đến nay, dốc lòng trị quốc, ngày bận muôn việc, giảm sưu dịch, khuyến nông tang, khiến Bích quốc không ngừng phát triển, bách tính an cư lạc nghiệp. Đương nhiên là bậc minh quân”.
Chiêu Doãn nhướn mày, nét cười nơi đáy mắt càng đậm thêm: “Ồ, hóa ra trong mắt Thục phi, trẫm là một hoàng đế tốt như thế”.
“Cho nên, thần thiếp mới cả gan đến đây, đề xuất thỉnh cầu”.
“Nếu trẫm không nghe, thì có phải là sẽ mất chữ “minh” không?”
Khương Trầm Ngư cắn môi run rẩy, đôi mắt như chực khóc, lập tức khiến người ta ý thức được rằng người quỳ dưới đất chẳng qua chỉ là một nữ tử đáng thương, hơn nữa, chỉ mới mười lăm tuổi. Ánh mắt Chiêu Doãn sáng lên trong giây lát, lạnh nhạt nói: “Để giữ chữ “minh” này, trẫm vẫn nghe thử xem. Nói đi”.
Khương Trầm Ngư dập đầu hai cái trên mặt đất, rồi mới nói tiếp: “Điều thần thiếp nói sau đây đều là những lời gan ruột. Có lẽ ấu trĩ nực cười, có lẽ cuồng vọng to gan, có lẽ sẽ xúc phạm long uy, nhưng, đều là suy nghĩ thực sự trong lòng”.
Chiêu Doãn không tỏ thái độ, “ừm” một tiếng.
“Đầu tiên, được lọt vào mắt xanh của hoàng thượng, phong làm Thục phi, người ngoài nhìn vào, vẻ vang biết bao, còn đối với thần thiếp mà nói, lại là khổ không kể xiết…”.
La Hoành nghe đến đây, bỗng trợn trừng mắt, thầm nghĩ tam tiểu thư của hữu tướng gia này thật là to gan, những lời này mà cũng dám nói!
“Người thân trong nhà lo lắng, một khi đã vào thâm cung như biển, kẻ ngu muội ngoan cố như thần thiếp sợ là họa không phải là phúc; trong cung tỉ tỉ tức giận, trước đây là muội muội thân thiết ruột thịt, mà nay lại thành kẻ địch tranh sủng ghen tuông; bản thân thần thiếp cũng hoang mang không chỗ dựa. Mỹ nhân trong cung vô số, luận tài, Cơ quý tần kinh tài tuyệt diễm; luận sắc, Hy Hòa phu nhân diễm lệ vô song. Mà thần thiếp tính cách không đủ ôn hòa, xử sự không đủ khéo léo nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có một thế mạnh”.
“Ồ?”
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, vô cùng chuyên chú nhìn Chiêu Doãn, ánh mắt trong trẻo đó dường như chiếu thẳng vào trái tim y: “Đó chính là – mưu”.
Ba người trong noãn các, Chiêu Doãn ngồi tựa, La Hoành khom lưng và cả Điền Cửu đang ẩn phục, nghe thấy lời này đều bị chấn động.
Giọng nói linh hoạt mà trong trẻo của nàng vẫn như tiếng tiêu trong gió, từng chữ từng chữ xa xăm, từng câu từng câu rành rọt: “Cho nên, thần thiếp đến đây tự tiến cử, nguyện dốc hết trí tuệ nhỏ nhoi, để hoàn thành mưu kế của đế vương”.
Lại một trận gió thổi tới, làm quyển thư trên bàn lăn ra, nội dung bên trong cuối cùng đã hiện ra, rõ ràng là lời nói của một nữ tử yểu điệu, nhưng lại nói lên chí nguyện kinh hãi thế tục dùng thể chữ cứng cỏi, dày dặn như trói tê ngưu, bắt long xà viết từng hàng một: Một mỹ nhân nào hề, tà váy uốn lượn như mây. Gương mặt trắng trẻo mà hình dung tiều tụy hề, y phục phấp phới mà bước đi lảo đảo. Nói năng ngọt ngào từ sớm tới tối, hành vi tĩnh lặng mà ít cười. Phô bày tài năng dung mạo mà không hề diễm lệ, trong lòng đau thương như dao cắt…
Hỏi tên nàng khuê nữ nhà ai, vốn là vợ của chàng đế Nghệ.
Nay trộm được bó cỏ bất tử, bỏ lại hết thảy ơn tình.
Trời lạnh cung trăng sao quạnh quẽ, mây nhô lên cành quế lẻ loi.
Thế đạo tình chàng đều bạc bẽo, ai người hiểu nổi chí xông mây.
Hậu Nghệ kia quả đấng anh hùng, đám mỹ nhân ai ai cũng thích.
Chưa từng nghe hẹn thề trên giấy, sớm đã truyền bàn thạch chuyển dời.
Đáng thương thấy gương mặt phù dung, sương nhuộm thanh tơ (tóc) trắng bời bời.
Chúng phi cười nói vui hết thảy, cô gái nhỏ biết dựa vào ai?
Đấng quân chủ trọng tình ân ái, trong lòng ngài ngưỡng mộ thiên cơ.
Tìm vui những kết tóc tơ, nào đâu được tấc lòng son sắt, Chim lao chim yến bay tán loạn, uyên ương kia phải đâu bất tử.
Nguyện hóa thành nghìn sen tuyệt mỹ, bầu bạn với ván cờ đế vương…
Cái đạo của mưu kế, chính là ở trí tuệ, tranh với đối thủ của mình, thì sẽ thành kết cục. Bốn mục: Phân chế mưu (chia ra để khống chế), thức mưu (nhận ra mưu kế), phá mưu (làm hỏng mưu kế), phản mưu (phản gián), ba mục sau đều lấy khống chế làm trọng, điều chú trọng hàng đầu chính là – công tâm (đánh vào tâm lý).
Vì thế bước này của Khương Trầm Ngư nhìn tưởng là nguy hiểm, nhưng kỳ thực lại tính toán rất chuẩn, không hề có chút hiểm nguy. Tối hôm đó, nàng tắm rửa thay áo xong, xõa tóc nằm trên trường kỷ chăm chú ngắm nhìn ánh trăng trong vắt bên ngoài cửa sổ, tâm tình đã biến đổi hoàn toàn so với lúc trước.
Trước đây là đợi chờ, là nhẫn nhịn, là luyến lưu, là sợ hãi; mà từ nay về sau lại là đợi chờ lâu dài hơn nữa, là nhẫn nhịn lớn hơn nữa, là lưu luyến mà không tỏ thanh sắc hơn nữa, nhưng không cần sợ hãi gì nữa.
Phá phủ trầm u, ai binh tất thắng, khi một người thứ gì cũng dám đem ra trả giá, thì không có gì có thể khiến nàng sợ hãi nữa. Bởi vì, dù sao cũng không thể tồi tệ hơn hiện tại nữa cho nên ngày mai hẳn sẽ càng tốt hơn.
Nàng bỗng lên tiếng: “Hoài Cẩn, tỉ tỉ nói giữa hoàng thượng và Hy Hòa có một điểm chung, là điều người khác không có, vì thế hình thành địa vị độc nhất vô nhị của Hy Hòa, em có biết là gì không?”.
Hoài Cẩn thận trọng suy nghĩ hồi lâu, cười cùng lắc đầu.
“Ta đã nghĩ rất lâu mà không nghĩ ra. Sau đó ta lại nghĩ, vậy thì giữa ta và hoàng thượng có điểm gì khác nhau; giữa Hy Hòa và ta lại có điểm gì khác nhau đây? Khi ta thay đổi cách suy nghĩ, đáp án đã xuất hiện”. Khương Trầm Ngư cười nhàn nhạt với ánh trăng, “Đó chính là – thân thế”.
“Thân thế?”
“Chúng ta đều biết, hoàng thượng do một cung nữ không được sủng ái sinh ra, cho đến trước năm mười tuổi, ngài sống mà không được ai chăm sóc, sau năm mười tuổi, ngài bắt đầu học chữ tỏ chính kiến biết mưu lược thông đế thuật, sự gian khổ nóng lạnh trong đó chỉ có ngài tự biết. Hy Hòa cũng vậy, phụ thân là một con sâu rượu, mẫu thân lại nhu nhược, ta nghe nói khi lên năm tuổi, phu nhân đã phải chân trần bán hoa trước Thiên Mặc Trai, cho đến tận năm mười bốn tuổi.
Tuổi thơ họ đều cực khổ, cho nên hoàng thượng đối với Hy Hòa khó tránh khỏi có cảm giác đồng mệnh tương lân (cùng số mệnh nên thương xót lẫn nhau), cũng vì thế, ngài dùng hết quyền lực tối thượng của mình để thành toàn cho Hy Hòa. Bởi vì, sự sắc sảo của ngài đã bị mài phẳng, đục tận, còn Hy Hòa vẫn còn sắc bén”.
Đây chính là lý do vì sao đêm nay nàng dùng phương thức này đến trước mặt y, tiền đề của vai diễn đó là Chiêu Doãn thích, thậm chí có thể nói là thưởng thức một cách bệnh hoạn và thành toàn cho người có cá tính.
Ví như Hy Hòa ngang tàng diễm lệ, ví như Cơ Hốt cổ quái lập dị.
Còn có… tỉ tỉ của ba năm trước.
Khương Họa Nguyệt khi đó còn mang dã tâm thơ ngây của một thiếu nữ, nhưng vào cung rồi, sắc sảo dần giấu bớt, tính cách cũng thêm khéo léo, lại khiến Chiêu Doãn mất hứng thú.
Vì thế, muốn được Chiêu Doãn coi trọng, đầu tiên phải thể hiện sự khác biệt của mình với đám đông.
Thứ hai, chỉ có tính cách thôi chưa đủ, còn cần năng lực tương xứng với tính cách. Ví như Hy Hòa có mỹ mạo khuynh quốc, Cơ Hốt có tài năng tuyệt thế.
“Nhưng tiểu thư xưa nay chưa từng tỏ ra có hứng thú với mưu lược…”, Ác Du không hiểu. Trong ấn tượng của nàng, tam tiểu thư luôn có tính tình ôn hòa, nhu thuận, nghe lời; đối với bọn người dưới cũng là một chủ nhân tốt, vui vẻ hiền hòa, không nổi nóng bừa bãi, nhưng nều nói nàng là Gia Cát tiên sinh trong đám nữ lưu, thì quả có chút khiên cưỡng.
Khương Trầm Ngư liếc nàng một cái, cười nói: “Ác Du cho rằng thế nào là mưu?”.
“Mưu không phải là bàn mưu tính kế sao?”.
“Mưu chính là làm chuyện có lợi nhất cho chủ nhân, nói lời dễ nghe nhất đối với chủ nhân. Nói đơn giản tức là lấy lòng”.
“Lấy lòng?”. Hai a hoàn đồng loạt trợn tròn mắt, quả thực họ chưa từng nghe thấy luận điệu này.
“Không sai. Lấy lòng. Cho dù nghe có vẻ giản đơn, nhưng cũng chia làm ba tầng thượng trung hạ. Hạng hạ thừa lấy lòng người bên cạnh, hạng trung thừa lấy lòng người đương quyền, hạng thượng thừa lấy lòng toàn thiên hạ, làm được thì mọi việc đều tốt đẹp”. Thấy hai nàng không hiểu, Khương Trầm Ngư bắt đầu lấy ví dụ, “Ví như ta, trước đây là hạng hạ thừa, lấy lòng người bên cạnh, khiến họ đều thích ta; Hy Hòa là hạng trung thừa, nàng ta làm vui lòng hoàng thượng, còn Kỳ Úc hầu…”, nhắc đến cái tên này, ánh mắt không kìm được sầm lại, nhưng khi mở miệng, lại như gió nhẹ mây nhạt, “Chàng chính là hạng thượng thừa, là nơi lòng dân Bích quốc hiện nay hướng về”.
“Cũng có nghĩa là tiểu thư phải từ hạ biến thành thượng?”.
“Hiện giờ ta chưa có bản lĩnh đó”, đầu tiên phải biến thành trung mới là việc cấp bách trước mắt. Mồi đã buông xuống, còn chưa chắc chắn cá có cắn câu hay không.
Đương nghĩ tới đây, ngoài cửa có người thông báo: “Nô tài La Hoành thỉnh an Thục phi”.
Khương Trầm Ngư vội vàng khoác áo trở dậy, đi ra gian ngoài, La Hoành đang đứng giữa sảnh, thi lễ với nàng, nói: “Hoàng thượng lệnh cho nô tài đem vật này giao cho Thục phi”. Nói rồi đưa lên một vật.
Khương Trầm Ngư nhận lấy, lại là một bản tấu màu tím, mở ra xem xong, sắc mặt biến đổi, do dự nhìn La Hoành: “Công công đây là?”.
“Hoàng thượng nói, ngày mai trước buổi chầu sớm, nếu Thục phi có hồi âm, xin hãy sai cung nhân đưa đến”. Ánh mắt Khương Trầm Ngư vụt sáng, tươi cười: “Vâng, mời công công cứ về trước, trước giờ Tí, tất sẽ có hồi âm trình lên hoàng thượng”.
La Hoành khom mình lui ra, Khương Trầm Ngư nhìn theo bóng ông ta, nụ cười dần dần biến mất, quay người đi đến trước thư án, nàng gọi: “Hoài Cẩn, mài mực”.
Ác Du đứng cạnh tò mò hỏi: “Tiểu thư, đó là gì?”. “Đề thi”.
“Hả?”. Hoài Cẩn vừa mài mực lại vừa nhìn đồ đằng và chữ viết trên cuốn sổ, ngạc nhiên hỏi: “Đây chẳng phải là quốc thư của Trình quốc sao?”.
“Ừ”. Khương Trầm Ngư không hề ngẩng đầu, lấy bút chấm mực liền bắt đầu viết, viết mấy hàng, nghĩ một lát, không lâu sau, trên trang giấy đã viết kín tên người.
Hoài Cẩn nói: “Trong thư Trình vương có thỉnh hoàng thượng phái sứ thần đến dự yến, hoàng thượng lại giao bức thư này cho nương nương, rốt cuộc là có dụng ý gì?”.
Khương Trầm Ngư cầm bút, nhìn những cái tên kín đặc trên trang giấy đó, trầm giọng nói: “Ngài đang thử xem ta có đủ tư cách làm mưu sĩ của ngài hay không”.
“Cũng có nghĩa là hoàng thượng muốn xem người mà nương nương chọn có phải là người ngài muốn hay không.”
“Đây là trận đầu của ta, chỉ được thắng không được thua.” Bút lông như đao, lướt bay trên giấy, bút nhấc đao hạ, từng tên người một nhanh chóng bị gạch bỏ, cái tên đầu tiên chính là Cơ Anh.
Hoài Cẩn thở một hơi, dè dặt hỏi: “Với địa vị tôn quý của công chúa Trình quốc, người có thể tương xứng với nàng cũng chỉ Kỳ Úc hầu thôi…”. Lẽ nào tiểu thư vẫn còn để ý chuyện đã từng lập hôn ước, nên còn giấu chút lòng riêng?
Khương Trầm Ngư dường như hiểu suy nghĩ của Hoài Cẩn, lắc đầu nói: “Kỳ Úc hầu là tương xứng nhất, nhưng cũng không thích hợp nhất”.
“Tại sao?”. Ác Du liền hỏi.
“Vì ta đã từng nói, hoàng đế sẽ không cho phép thế lực của Cơ gia càng ngày càng lớn mạnh, trở thành Tiết gia thứ hai, chứ đừng nói là làm phò mã của Trình quốc”.
Ác Du chớp chớp mắt, đột nhiên chỉ một cái tên khác bị loại trừ trên giấy, kêu lên: “A! Tiểu thư cũng loại đại công tử!”.
Hoài Cẩn che miệng cười nói: “Đại công tử đã lấy vợ rồi mà, đương nhiên không nằm trong số người được cân nhắc, huống chi dù công tử muốn lấy, cũng phải chờ thiếu phu nhân đồng ý mới được”. Khương phủ trên dưới đều biết, thiếu phu nhân Lý thị hay ghen, mà Khương Hiếu Thành lại háo sắc, vì thế giữa hai vợ chồng đã cãi nhau không biết bao nhiêu lần.
Khương Trầm Ngư lại có cách nghĩ khác với họ: “Ca ca bản tính bộp chộp, nếu thực sự cưới được Di Thù, là họa chứ không phải phúc, đến lúc vạ lây cả nhà, thần tiên khó cứu”.
Ca ca của mình tính tình thế nào, nàng rõ nhất, nhưng trong chuyện này, chưa nói là có phúc mà được chọn hay không, dù y có thể, nàng cũng không cho phép, hoàng thượng đã không muốn để Cơ Anh nhận được vinh dự đặc biệt này, sao lại có thể cho Khương gia hưởng lợi?
Văn võ khắp triều, bao nhiêu người như thế, nhưng đến lúc cần chọn lựa thực sự, sao lại cảm thấy ít đến đáng thương.
Ngòi bút cứ quẩn quanh trên hàng tên người càng lúc càng ít đi cuối cùng dừng lại trên cái tên “Giang Vãn Y”, trong lòng một tiếng nói nào đó vang lên: Đúng rồi, đúng là hắn.
Một ngày trước khi tiến cung, còn loáng thoáng nghe nói hoàng thượng có ý để cho Đề điểm Thái y viện Giang Hoài nhận họ hàng với Hy Hòa phu nhân, nếu tin này là thực, vậy thì người thích hợp nhất trong lòng hoàng đế chắc chắn là vị bạch y khanh tướng, thiếu niên tài tuấn, y thuật cao thâm này rồi. Bởi vì… ngài đã trừ bỏ một Tiết gia, cho nên, phải vực một Diệp gia lên, để tranh đoạt thế chân vạc này… chăng?
Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn cái tên đó, bất động hồi lâu.
Cho đến khi Hoài Cẩn bên cạnh nhắc nhở: “Nương nương, đã là giờ Hợi ba khắc rồi”.
Nàng giật thót mình như vừa tỉnh mộng, cuối cùng mỉm cười, lấy ra một tờ thiếp hoa văn hoa lệ phủ ánh bạc rất tinh xảo viết một cái tên lên đó, sau đó niêm phong, giao cho Ác Du rồi nói: “Đưa thiếp này cho La công công”.
Thế là, Ác Du giao cho La Hoành tờ thiếp mỏng này, rồi lại từ La Hoành trình lên tay Chiêu Doãn thâu đêm phê tấu chương còn chưa ngủ, y bóc niêm phong, bên trong viết hai chữ: “Phán Phương”.
Không phải là Giang Vãn Y sao?
Canh năm lạnh lẽo.
Khương Trầm Ngư suốt đêm không chợp mắt, ngồi đợi trong Dao Quang điện.
Mà trên triều đường, văn võ bá quan ai nấy sắc mặt nghiêm trang, thì thào bàn tán, một bầu không khí lo lắng bao trùm hết thảy.
Chiêu Doãn tựa vào long ỷ, thấy vậy mỉm cười: “Chư vị ái khanh, đã chọn được người đi Trình quốc chúc thọ chưa?”.
Quần thần ai nấy nhìn nhau, cuối cùng đều dồn ánh mắt sang Cơ Anh, chỉ riêng Cơ Anh là cúi đầu, sắc mặt trầm tĩnh, không nói nửa lời, xem ra không hề hứng thú với chuyện này. Nếu Kỳ Úc hầu không đi, thì có thể cử ai đây?
Ánh mắt Chiêu Doãn quét qua một lượt, nhìn xuống Khương Trọng: “Hữu tướng đề cử ai?”.
Khương Trọng ngần ngừ bước ra khỏi hàng, tâu: “Hồi bẩm hoàng thượng, theo lão thần, ứng cử viên phái đi Trình quốc cần thận trọng suy nghĩ mới phải…”, chỉ nghe câu nói mào đầu này, Chiêu Doãn đã đoán được lão hồ ly này lại bắt đầu vòng vo, quả nhiên, Khương Trọng nói tiếp, “Nghe nói công chúa Trình quốc Di Thù tuy tài mạo song toàn, nhưng đức hạnh không đủ, tính cách)
thô bạo, lại chẳng hề kính trọng ba vị huynh trưởng, một con ngựa yên chi(4 )như thế, không phải là thứ người bình thường có thể thuần phục, cho nên, ứng cử viên của chuyến đi này nhất định phải lựa chọn thận trọng hơn nữa mới phải, hỏi cưới công chúa không thành là chuyện nhỏ, mất thể diện của Bích quốc mới là chuyện lớn. Hoàng thượng anh minh duệ vũ, hẳn trong lòng đã có ứng cử viên…”.
Còn chưa nói xong, Chiêu Doãn đã mất kiên nhẫn khoát tay: “Được rồi. Kỳ Úc, khanh nói đi!”
Quần thần thấy mũi dùi chỉ vào Kỳ Úc hầu, ai nấy đều dỏng tai lắng nghe.
Cơ Anh đứng ra khỏi hàng, nhưng lại đứng yên hồi lâu giữa đại điện, cuối cùng lên tiếng: “Vi thần tiến cử một người – thần y Giang Vãn Y”.
Đáp án này rõ ràng nằm ngoài dự liệu của quần thần, sau cơn kinh ngạc liền chụm đầu xì xầm. Giang Vãn Y này là người thế nào? Chỉ là con trai của một viên Đề điểm Thái y viện ngũ phẩm cỏn con, không có công danh, chỉ nhờ chuyện Hy Hòa phu nhân trúng độc mà nổi danh, nhưng rốt cuộc chỉ là một kẻ hàn sĩ áo vải, sao có thể đại diện cho Bích quốc đua tranh ngôi phò mã?
Chiêu Doãn nghe xong lại gật đầu có vẻ đồng ý, cười nói: “Kỳ Úc hầu đích thân tiến cử, hẳn có chỗ hơn người”.
“Thần tiến cử người này có ba nguyên nhân. Thứ nhất, Trình vương nằm trên giường bệnh đã lâu, Di Thù thân là con gái ắt trong lòng cực kỳ lo âu, nếu Vãn Y có thể trị khỏi bệnh cho Trình vương, nếu không được thụ phong phò mã, cũng có ơn huệ khác”.
Quần thần nghe đến đây, không nhịn được vỗ bàn kêu tuyệt – Đúng thế! Chỉ cần trị khỏi bệnh cho cha, còn sợ con gái không chịu gả sao? Như thế so với hao tổn tâm tư đề thi tài văn võ với ứng cử viên của hai nước khác, khả năng thắng còn nhiều hơn, cũng cao minh hơn nhiều! Quả nhiên không hổ là Kỳ Úc hầu, ứng cử viên ngài đề xuất cũng khác với người bình thường.
“Thứ hai, Vãn Y tuy không có công danh, nhưng lại là anh họ của Hy Hòa phu nhân, hoàng thân quốc thích, thân phận cao quý, đủ để xứng với công chúa”.
Câu thứ hai vừa nói ra, quần thần sửng sốt.
Gì chứ? Giang Vãn Y là anh họ của Hy Hòa phu nhân? Chuyện này là sao?
Hai người họ nhận thân thích khi nào? Mà những đại thần nghe tin đồn trước đó biết được chuyện này lại có vẻ mặt phức tạp: Nếu ngăn cản, ý của thiên tử kẻ nào to gan dám vuốt râu rồng? Nếu không ngăn cản, mắt nhìn thấy yêu phi kia có chỗ dựa chắc chắn, tương lai nhất định càng được ân sủng, đến lúc đó muốn trừ bỏ khó lại càng thêm khó…
Lại nhìn hoàng thượng, mày mắt cong cong, cười rất tươi: “Hóa ra Kỳ Úc hầu đã biết chuyện này, không sai, trẫm đang chuẩn bị chọn ngày lành tháng tốt, để hai nhà Giang – Diệp nhận tổ quy tông, như thế này cũng hay, vừa khéo có thể phong tước vị, để Giang Vãn Y đường hoàng đến Trình quốc”.
Quần thần nghe hoàng thượng nói như vậy, vội vàng nuốt những lời chực nói lại, trong lòng hiểu rõ: Cái gì mà Kỳ Úc hầu tiến cử ứng cử viên, rõ ràng là quân thần hai người đã bàn bạc xong xuôi, một xướng một đáp, đúng là diễn trò.
Cơ Anh tiếp tục nói: “Thứ ba, Vãn Y không chỉ tinh thông y thuật, mà văn tài xuất sắc, lại thêm tướng mạo xuất chúng, khiêm nhã lễ độ, không thua kém bất cứ vương tôn công tử nào, chính là ứng cử viên hàng đầu cho ngôi vị phò mã”.
Chiêu Doãn cười lớn: “Tốt, rất tốt, vô cùng tốt”, dứt lời quay đầu lại nói: “Các ái khanh thấy thế nào?”.
Quần thần đến đây ai còn nói gì được, lập tức cúi đầu nghe theo.
Cùng lúc đó, một tiểu thái giám chạy như bay đến Dao Quang điện, trần thuật lại một lượt tình hình trên triều đường cho Khương Trầm Ngư chờ đợi đã lâu nghe, cuối cùng nói: “Bẩm nương nương, đám đại thần bàn bạc một lượt xong, toàn bộ đều đồng ý phái Giang Vãn Y đi”.
Ác Du lo lắng nói: “Nương nương, làm sao đây? Hoàng thượng chọn Giang Vãn Y”.
Khương Trầm Ngư cắn môi, cuối cùng chỉ nói ba tiếng: “Thăm dò tiếp”.
Trên triều, ứng cử viên sứ thần đã được xác định trong tiếng phụ họa của quần thần. Chiêu Doãn đột nhiên nói: “Đúng rồi, Phan tướng quân đang ở đâu?”.
La Hoành bên cạnh đáp: “Tả tướng quân đi Bình Thu để thu hài cốt tu sửa mộ cho cha, tính ngày cũng sắp về rồi”.
Chiêu Doãn gật đầu nói: “Phan khanh một lòng hiếu thảo, cảm động thấu trời”, ngừng lại một lát, lại nói: “Chuyến này đến Trình quốc, ngàn dặm xa xôi, Vãn Y không biết võ công, lại thêm trời có lúc mưa gió bất trắc, đi thuyền trên biển, sợ gặp hung hiểm. Chi bằng cử Phan khanh cùng đi, hai bên phối hợp với nhau. Truyền thánh chỉ của trẫm, lệnh cho y đợi ở Nguyên Châu, khi Giang khanh đến, cùng nhau lên thuyền, coi như tới Trình quốc cho khuây khỏa”.
Thế là trên thánh chỉ lại có thêm một mục, quần thần đồng loạt tung hô ngô chúa anh minh. Chiêu Doãn nghe những lời tán tụng, nhìn dáng vẻ vâng vâng dạ dạ của họ, trong lòng sung sướng. Nghĩ năm đó khi Tiết thị nắm quyền, mình mấy khi được mát mặt như thế này, nói một, chúng thần đâu dám nói hai? Cảm giác thực quyền trong tay quả nhiên rất tuyệt, rất rất tuyệt…
La Hoành đem thánh chỉ đã soạn xong trình lên cho y duyệt, Chiêu Doãn nhìn thấy hai cái tên “Giang Vãn Y” và “Phan Phương” bằng mực đen trên lụa vàng, đột nhiên nhớ tới bức thiếp thư mà Khương Trầm Ngư đưa đến mấy canh giờ trước, bèn không kìm được bật cười.
Sảng khoái! Sảng khoái! Xưng đế bốn năm, hôm nay là lần sảng khoái nhất!
Y đứng dậy, quay người phất tay áo rời đi, La Hoành lập tức cao giọng: “Bãi triều!”.
Trong Dao Quang điện, Khương Trầm Ngư nghe tiểu thái giám đến báo cáo lần thứ hai, quả tim đang lơ lửng cuối cùng đã hạ xuống, nhưng khi vừa thở phào lại cảm thấy cực kỳ bất an.
Nàng rốt cuộc vẫn đánh giá thấp hoàng đế.
Một lòng muốn ra đòn bất ngờ giành chiến thắng, cho nên tuy biết rõ về tình về thế, Giang Vãn Y đều là ứng cử viên tốt nhất nhưng vẫn một mình một phách, chọn Phan Phương trong đám triều thần.
Nàng chọn Phan Phương cũng có ba nguyên nhân: Thứ nhất Phan Phương là tả tướng đương triều, thân phận quyền thế đã hoàn toàn khác trước, mà hoàng thượng còn có ý lôi kéo y, song song với ban cho y vinh dự tột độ, lại ban cho y hôn sự, đó chính là thêu hoa trên gấm, sủng càng thêm sủng.
Thứ hai, Di Thù tuy cao ngạo, coi nam tử thiên hạ như đồ bỏ, không thèm đoái hoài bọn thư sinh tầm thường, nhưng lại vô cùng sùng bái anh hùng, Phan Phương là một thân nam nhi lẫm liệt, dày dạn sa trường, lại nặng tình với Tần nương, trong lòng chắc chắn không muốn cưới công chúa.
Khi những sứ thần khác lũ lượt giành giật Di Thù, duy chỉ có Phan Phương hững hờ lạnh nhạt, so sánh hai bên, công chúa tâm cao khí ngạo kia sẽ càng có hứng thú với ai hơn, không nói cũng tự biết.
Thứ ba, tất cả đều biết, Trình quốc hiếu võ, đặc biệt là phương diện luyện binh khí, thành tựu nổi bật: Nhưng đã là đồ của mình thì chổi cùn cũng quý, huống hồ những thứ cơ mật như vậy sao chịu tiết lộ cho nước lân bang? Cho nên, lần này trên danh nghĩa là cưới công chúa, nhưng những việc có thể ngầm làm khá nhiều. Giang Vãn Y tuy điểm nào cũng tốt, duy chuyện không biết võ công thật là nguy hiểm, nếu đổi lại là Phan Phương thì sẽ khác, y tuy là võ phu, nhưng có cơ trí, tình cảnh giác, trầm ổn mà lão luyện, nếu không sao có thể chỉ huy ba quân. Cho dù nhìn từ phương diện nào, y cũng là lựa chọn thích hợp nhất.
Về điểm thứ ba này, Hoài Cẩn từng thắc mắc: “Nếu y đúng là người thông minh, ban đầu sao còn một mình đến Tiết phủ, không những không đòi được công bằng cho Tần nương, ngược lại còn bị đánh bán sống bán chết?”.
Khương Trầm Ngư lúc đó đã trả lời nàng như thế này: “Đó là vì quá quan tâm mà hoảng loạn. Tần nương là điểm yếu duy nhất của Phan Phương, hễ chuyện liên quan đến Tần nương, Phan Phương sẽ không còn sáng suốt. Thế nhưng, hiện tại điểm yếu duy nhất này đã không còn, thiên hạ còn có thứ gì có thể khiến y xúc động nữa?”.
Nhưng kỳ thực ba lý do này đều là bề mặt, mà lý do thực sự chỉ có hai điểm: Một là nàng không muốn để Hy Hòa đắc thế, cho nên không thể để Giang Vãn Y trở thành phò mã của Trình quốc.
Hai là so với việc phong hậu của hậu cung, lúc này hoàng thượng coi trọng lòng người trong triều hơn, mà Phan Phương là người mà ngài muốn thu nạp nhất.
Có hai lý do này, nàng có thể bỏ qua ứng cử viên tốt nhất trong dự tính của Chiêu Doãn, đề xuất cái tên nàng muốn nêu.
Chỉ là không ngờ, cuối cùng vẫn là… thua một nước.
Cao minh thay…
Chiêu Doãn thông minh hơn nàng tưởng nhiều, bởi vì y không chọn một trong hai người, mà dứt khoát chọn cả hai, như thế, Giang Vãn Y cớ nhiên có thể trị bệnh cho Trình vương, Phan Phương cũng có thể nhân cơ hội này lén đánh cắp quân tình Trình quốc, cho dù trong hai người họ ai lọt vào mắt xanh của Di Thù, đối với hoàng đế mà nói đều là thắng cuộc. Cho dù họ đều không làm được phò mã của Trình quốc, chỉ cần làm ổn thỏa hai việc kia là đã đạt mục đích của chuyến đi này.
Bản thân nàng quả nhiên vẫn còn hơi non nớt. Khương Trầm Ngư nhìn ban mai ngoài khung cửa sổ, có chút nhụt chí, nhưng rất nhanh chóng đã xốc lại tinh thần, cho dù thế nào, khởi đầu thế này cũng không tồi, con đường tương lai vẫn còn rất dài, trận đánh lần này không thật xuất sắc, lần sau sẽ càng đặc sắc hơn. Cái nàng còn thiếu không phải là trí tuệ mà là kinh nghiệm. Giống như một đứa trẻ còn để chỏm, sao có thể trong một đêm mà vụt lớn.
Cho nên, không có gì đáng ngại.
Nàng nhắm mắt, hết lần này đến lần khác tự nhủ, không đáng ngại, còn có cơ hội lần sau. Lần sau, nàng nhất định sẽ tiến bộ.
Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, sau đó mở mắt, ánh nắng nơi chân trời tươi sáng vô hạn, ánh lên gương mặt mộc của nàng, khiến đôi đồng tử sáng long lanh, tựa như ngôi sao sớm đầu tiên rơi xuống nhân gian.
Chính lúc này, La Hoành xuất hiện ngoài cửa điện, cười híp mắt khom lưng nói: “Hoàng thượng có lời mời Thục phi.”
Đến rồi.
Nhanh như vậy, nàng đã đợi được cơ hội thứ hai.
Tà dương lặn xuống phía Tây, chân trời lúc hoàng hôn mây đỏ như gấm.
Nhưng chốn hậu cung sâu thăm thẳm, dưới tầng tầng mái hiên, bóng râm âm u. Cơ hồ hễ bước vào trong điện là bị hơi lạnh chụp lấy, Khương Trầm Ngư không kìm nổi khép chặt vạt áo.
Trong ngự thư phòng, Chiêu Doãn chắp hai tay sau lưng đứng trước cửa sổ, chăm chú nhìn ánh chiều tà ngoài xa, thần sắc tĩnh lặng, không biết đang nghĩ gì. Thấy nàng tới, cũng chỉ khoát tay cho La Hoành lui xuống, La Hoành biết ý, bảo tất cả cung nhân cùng ra ngoài, chỉ nghe “cạch” một tiếng, cửa phòng đóng lại, trong phòng chỉ còn lại hai người bọn họ.
Khương Trầm Ngư khấu đầu: “Trầm Ngư tham kiến bệ hạ”.
Chiêu Doãn “ừm” một tiếng, không hề quay người lại, ánh mắt vẫn dõi về phía ráng chiều. Y không nói, nàng cũng không dám đứng dậy, chỉ yên phận quỳ dưới đất, trong lòng hơi thấp thỏm, không biết vị hoàng đế hỉ nộ bất thường này rốt cuộc đang nghĩ điều gì.
Cát trong chiếc đồng hồ cát trên trường án chảy từng chút từng chút một, bất cứ tiếng động nhỏ nào đều trở nên cực kỳ rõ ràng trong không gian tĩnh mịch này. Nàng nghe thấy tiếng thở gấp gáp vì căng thẳng của mình, nhưng kỳ lạ là Chiêu Doãn cũng không khá hơn nàng là bao, tiếng thở của y lúc nhanh lúc chậm, rõ ràng đang do dự.
Cứ như thế một lúc lâu, cuối cùng Chiêu Doãn thở dài, cất tiếng: “Trong thư tự tiến cử nàng có viết ‘nguyện hóa thành ngàn sen tuyệt mỹ, bầu bạn với ván cờ đế vương’, có thật hay không?”.
Nàng cụp mi đáp: “Vô cùng thật lòng, chẳng dám khi quân”.
Lúc này Chiêu Doãn mới quay người lại, ánh mắt thâm u khó dò quét qua người nàng một lượt, sau đó đích thân đỡ nàng dậy: “Đứng dậy đi”.
Khương Trầm Ngư ngước mắt lên nhìn y, ánh mắt hai người giao nhau giữa không trung, Chiêu Doãn nhìn nàng chằm chằm, dùng một giọng nói hết sức chân thành, chậm rãi nói: “Trầm Ngư, nàng là một mỹ nhân”.
Rèm mi nàng run rẩy, cảm nhận được ẩn ý của y, quả nhiên, Chiêu Doãn lập tức buông cánh tay nàng ra, quay người đi đến ngồi trước ngự án, tiếp tục nói: “Nhưng, trong cung này, thứ thừa thãi nhất chính là mỹ nhân”.
Nàng im lặng nhìn y, không có bất kỳ phản ứng nào.
Chiêu Doãn lại nói: “Trẫm tuyển nàng vào cung, nàng có hận trẫm không?”.
Hận ư? Trầm Ngư nghĩ: Có lẽ đã từng… mới đầu nghe ‘thánh chỉ’ khi biết mình không thể gả cho Kỳ Úc hầu nữa, khi tỉ tỉ vì vậy mà không thèm để ý đến mình… quả thực nàng từng giận lây vị hoàng đế này. Thế nhưng, đến khi bình tĩnh trở lại, nàng lại hiểu rằng, Chiêu Doãn chỉ là người châm ngòi, còn nguồn họa đã sớm được chôn sâu. Cho nên, bây giờ y hỏi nàng có hận y hay không, nàng có thể trả lời thế nào đây?
Chiêu Doãn không đợi nàng trả lời, tự nói tiếp: “Cho dù nàng hận trẫm, sự tình cũng đã định rồi, nàng thích cũng được, mà không thích cũng chẳng sao. Thâm cung nội viện này từ đây về sau chính là trời và đất của nàng, và cái danh phận phi tử này cũng sẽ theo nàng suốt cuộc đời, không thể thay đổi”.
Khóe môi Khương Trầm Ngư run run, mấy lời cơ hồ đã chực buột ra khỏi miệng, nhưng đến đầu lưỡi lại bị đè sâu xuống. Y nói không sai, hết thảy đều đã định, không thể thay đổi.
“Trẫm biết nàng không cam tâm, cho nên nàng mới chủ động thỉnh cầu được trợ giúp trẫm, mà trẫm cũng hổ thẹn với nàng, cho nên”, trong đồng tử của Chiêu Doãn phản chiếu bóng dáng nàng, y nghiêm giọng nói: “trẫm quyết định thành toàn cho nàng”.
Nàng lập tức ngẩng đầu lên nhìn y, không rõ là buồn hay vui.
“Bây giờ có hai con đường bày ra trước mặt nàng. Con đường thứ nhất cũng là con đường mà tất cả nữ nhân trong cung đều đi, trở thành người đầu gối tay ấp của trẫm, sinh con cho trẫm, nếu như con trai của nàng xuất sắc, tương lai được lập làm người kế vị, nàng có thể trở thành thái hậu, phúc trạch dồi dào già chết trong cung”.
Khương Trầm Ngư mím chặt môi.
“Còn đường thứ hai”, Chiêu Doãn chợt cười, ánh mắt sáng lấp lánh mang theo sự hân hoan tán thưởng, “cũng chính là con đường nàng yêu cầu, trở thành mưu sĩ của trẫm, phò tá cơ nghiệp của trẫm, trở thành cánh tay của trẫm, vì trẫm giữ vững giang sơn Đồ Bích này. Trẫm không cho nàng ngôi hậu, không cho nàng tư tình, nhưng, chỉ cần trẫm còn tại vị một ngày, thì cạnh ngai vàng này luôn có một chỗ cho nàng”.
Khương Trầm Ngư quỳ sụp xuống: “Nguyện cùng hoàng thượng bảo vệ Đồ Bích, không rời không bỏ”. Không sai, đây chính là yêu cầu thực sự của nàng. Chiêu Doãn đã hiểu rõ thư tự tiến cử của nàng. Trong bài thơ nàng dùng điển cố “Thường Nga bôn nguyệt” để bày tỏ mình không muốn làm thê tử của y, bởi vì ân sủng dễ mất, tình ái khó giữ. Nhưng cánh tay thì lại khác, nếu như nói Cơ Anh là cánh tay trái của Chiêu Doãn, vậy thì, bản thân nàng phải trở thành cánh tay phải của y, cho dù không thể trở thành phu thê, nàng cũng phải đứng ở địa vị ngang với Cơ Anh, cùng chàng ngắm nhìn phong cảnh thịnh thế.
Bởi vì… Bởi vì…
Nàng yêu chàng đến mức trở nên hèn mọn, hèn mọn đến mức, cho dù chỉ là có thể có cùng một bầu trời với chàng là đã cảm thấy mãn nguyện.
Cơ Anh không thích nàng, không sao cả nếu đời này đã định không có duyên vợ chồng, vậy thì, có tình đồng liêu vậy. Chỉ có như thế mới không phụ nàng và chàng cùng sinh ra trong thời đại này, cùng sống trên cương thổ Bích quốc, cùng là thần tử của đế vương.
Khi trán nàng chạm phải mặt đất lạnh giá, những giọt lệ nóng hổi trào ra, lòng chợt thấy bình yên nhưng cũng có chút thê lương.
Chiêu Doãn lạnh nhạt nhìn nàng, trong đáy mắt lóe lên vài tia thương xót, nhưng cuối cùng vẫn bị sự hà khắc che phủ: “Nhưng, phải nói rõ ràng, làm cánh tay của trẫm không phải là chuyện dễ dàng. Trí tuệ của nàng trẫm đã lãnh hội một lần, nhưng còn lâu mới đủ. Cho nên, bây giờ trẫm muốn kiểm tra nàng lần thứ hai. Nếu không hoàn thành, sẽ liên lụy tới vận mệnh sau này của nàng và cả Khương gia”.
Trong lòng như có tảng đá từ từ đè nặng, Khương Trầm Ngư mở to mắt, nín thở, sau đó nhìn miệng Chiêu Doãn khép khép mở mở, nói: “Trẫm muốn nàng, Phan Phương, Giang Vãn Y cùng đi Trình quốc”.
Trong tích tắc, hơi thở của nàng như nghẹn lại. Đi Trình quốc… Đi Trình quốc!
Cơ hội thứ hai lại là sai nàng đi Trình quốc.
Không thể không nói chuyện này hoàn toàn bất ngờ với nàng. Dù nàng có thông minh tuyệt đỉnh hơn nữa, cũng không thể ngờ rằng Chiêu Doãn sẽ ra một quyết định có thể nói là to gan đến mức hoang đường như thế này: Phái một phi tử, làm một quân cờ ngầm, ra khỏi hoàng cung, đến nước địch.
Phút chốc, trong đầu lóe lên vô số suy nghĩ, trong lúc rối rắm, lại dường như nắm bắt được một điều vô cùng quan trọng nào đó, hơn nữa còn có một giọng nói bảo nàng, nhất định phải giữ lấy, giữ chặt lấy. Không vào hang cọp, sao bắt được cọp con. Bước ngoặt nguy hiểm nhất, hoang đường nhất luôn là cơ hội tốt nhất!
Nghĩ đến đây, nàng ngẩng đầu kiên định nói: “Bệ hạ muốn thần thiếp đi với thân phận gì?”.
“Dược sư. Sư muội của Vãn Y”.
“Mục đích?”.
“Thúc đẩy một trong hai người liên hôn với công chúa Trình quốc, và, lấy được binh khí phổ cơ mật của Trình quốc”.
Quả nhiên ghê gớm. Vị hoàng đế này không chọn một trong hai, mà là muốn có cả hai.
Khương Trầm Ngư cắn chặt răng, cảm thấy hai tay mình đang không ngừng run rẩy. Nàng quá rõ mức độ gian khổ và nguy hiểm của nhiệm vụ này, cũng biết việc thành việc bại sẽ có kết cục như thế nào. Lẽ nào nàng thực sự phải khiêu chiến một bài toán khó như vậy? Kỳ thực sống suốt đời trong cung như nước chảy bèo trôi cũng chẳng sao, có thể nhàn nhã ngắm hoa cỏ, đợi mình dần dần già đi, ít nhất, không cần lao tâm nhọc sức, không cần rơi vào tình thế nguy cơ bốn bề…
Khương Trầm Ngư nhắm mắt lại. Trái tim chìm xuống tận đáy rồi lại bay lên: Lẽ nào đây không phải là bài toán khó mà nàng muốn? Sao nàng có thể cam tâm chết già trong cung, cam tâm để năm tháng trôi qua trong vô ích? Chưa nói những chuyện khác, chỉ trong cung này cũng chưa chắc đã an toàn, có bao nhiêu thị phi, thấy đã nhiều, nghe còn nhiều hơn. Cho nên hoàn toàn không có gì đáng sợ cả.
Đừng sợ, Trầm Ngư, đừng sợ.
Có thể làm được. Nhất định, nhất định có thể làm được.
Khi Khương Trầm Ngư mở mắt lần nữa, đồng tử sáng long lanh, hai tay cũng không còn run rẩy nữa.
Chiêu Doãn đã nhìn thấy hết một loạt những biến đổi nhỏ trên gương mặt nàng, trong lòng có chút bùi ngùi: Người con gái này tính cách quật cường không chịu thua cuộc thực giống Hy Hòa, mà về khoản thông minh cơ trí lại có chút giống Cơ Hốt, quả nhiên tập hợp sở trường của hai người. Tư chất như thế tư dung như thế, nếu bình thường gặp gỡ, tất sẽ nâng niu như bảo bối, sủng ái có thừa, nhưng đáng tiếc…
Đầu mày y khẽ nhíu lại, ánh mắt từ nhạt chuyển sang đậm.
Lúc này, Khương Trầm Ngư cất tiếng, từng tiếng đều nhả rất chậm: “Thần thiếp nguyện đi. Nhưng, trước lúc lên đường, thần thiếp có ba thỉnh cầu”.
“Nói đi”.
“Thứ nhất, thần thiếp muốn mang theo một tì nữ và hai ám vệ. Tì nữ là Hoài Cẩn, nàng ta theo hầu thần thiếp từ nhỏ, cơ trí trầm ổn trung thành đáng tin. Lần này đi đến Trình quốc, ăn uống ngủ nghỉ có nhiều bất tiện, có nàng ta đi cùng sẽ bớt cho thần thiếp nhiều phiền phức. Còn ám vệ thì tùy ý, chỉ cần võ công cao cường, có thể bảo vệ trong lúc nguy cấp là được”.
“Trẫm chuẩn y”.
“Thứ hai, thần thiếp muốn một thanh chủy thủ sắc bén, và một loại độc dược kịch độc, uống vào bỏ mạng trong chớp mắt”.
Chiêu Doãn ngạc nhiên hỏi: “Tại sao lại cần hai thứ này?”.
“Chủy thủ giấu bên người để phòng khi bất trắc, còn thuốc độc…”, Khương Trầm Ngư nói đến đây, thản nhiên cười, “thần thiếp vô cùng sợ đau, ngộ nhỡ sự tình bại lộ, rơi vào tay địch, sợ không thể chịu nổi cực hình, cho nên, chẳng thà ban cho thiếp cái chết mau lẹ”.
Mặt Chiêu Doãn biến sắc, trong lòng chấn động, nhất thời không nói năng gì. Y nhìn nàng chăm chăm, cơ hồ muốn nhìn thấu nàng, lại dường như muốn đánh giá nàng lại lần nữa.
Gió thổi bên ngoài cửa sổ, mang theo hơi lạnh khi màn đêm mới buông vào trong phòng, tầng tầng màn trướng lay động, tựa như lòng người.
Đáy mắt Chiêu Doãn mơ màng, chậm rãi nói: “Được, chuẩn theo yêu cầu của nàng”.
“Đa tạ bệ hạ”.
“Nàng còn có một yêu cầu, là gì?”. Thật khó mà tưởng tượng một người đến chết cũng đã nhắc đến, yêu cầu cuối cùng sẽ là chuyện hoang đường gì.
Ánh mắt Khương Trầm Ngư bỗng tối đi, cúi đầu nhỏ giọng nói: “Ngày hai mươi bốn tháng sau là sinh nhật của gia tỉ. Thiếp muốn thỉnh cầu bệ hạ ngày hôm đó sẽ ở cạnh tỉ tỉ”.
Chiêu Doãn hơi kinh ngạc, nhưng nhanh chóng hiểu ra, khẽ thở dài: “Được, trẫm sẽ mở thịnh yến, nhất định để Khương quý nhân có một sinh nhật lần thứ mười chín vẻ vang, rạng rỡ”.
“Nếu vậy, thật đa tạ bệ hạ”. Khương Trầm Ngư khấu đầu lần nữa.
Chiêu Doãn chăm chú nhìn nàng, thong thả nói: “Nàng còn có yêu cầu nào khác không?”.
“Như thế là đủ rồi”. Khương Trầm Ngư cười cười, nụ cười này như gió xuân lướt qua chuông gió; như trăng đêm chiếu trên khe suối, như sương mù lúc bình minh, trong sáng mỹ lệ vô cùng vô tận.
Nhưng mà, vào trong mắt Chiêu Doãn, lại trở thành một sự thương tiếc, loáng thoáng, rất nhẹ, rất nhạt, nhưng thực sự tồn tại.
Người con gái này vốn là con gái Khương gia, đáng lẽ là thê tử của Cơ Anh. Người con gái này hiện tại là phi tử của y.
Người con gái này không muốn làm phi tử, muốn làm mưu sĩ. Người con gái này chỉ mới mười lăm tuổi.
Lại gặp người như thế trong hoàn cảnh như thế, thời cơ như thế. Thực là tạo hóa trêu ngươi.
Khi Khương Trầm Ngư ra khỏi thư phòng đã là giờ Hợi.
Đêm lạnh như nước, cung đăng lắc lư chao đảo, đường đi lúc sáng lúc tối.
La Hoành lẽ ra muốn tiễn, nhưng bị nàng từ chối, nàng một mình đi ra Ngọc Hoa môn.
Một trận gió thổi tới, nàng bất giác đưa tay sờ lên hoa tai, nơi vốn đeo Trường Tương Thủ, nay đã đã được đổi thành một viên trân châu bằng hạt gạo, làm nổi bật sắc mặt cực kỳ nhợt nhạt của nàng.
“Loại độc này tên là Hồng Trậm(5), là loại độc nhất trong Trậm độc, một thăng 6) chỉ có thể luyện thành một giọt”. Trước đó, trong ngự thư phòng, Điền Cửu trình lên viên trân châu này và giải thích, “Thuộc hạ đã cho Hồng Trậm vào trong ngọc, thời khắc then chốt chỉ cần dùng răn cắn vỡ nuốt xuống, vào miệng là chết.”
Ánh mắt Chiêu Doãn quét một vòng trên người nàng, nói: “Gỡ Trường Tương Thủ của nàng xuống”.
Khương Trầm Ngư sững người.
Chiêu Doãn nói: “Một dược nữ không thể đeo một chiếc hoa tai như thế này”.
Khương Trầm Ngư lập tức hiểu ý của y, gỡ hoa tai xuống.
Điền Cửu gắn viên trân châu đó thế chỗ của Trường Tương Thủ, lại đưa hoa tai cho nàng.
Chiêu Doãn vừa nhìn nàng đeo hoa tai mới, vừa hài lòng gật đầu, nói: “Thế này là ổn. Cho dù nàng không may bị trói chân trói tay, chỉ cần khẽ nghiêng mặt, là có thể cắn viên ngọc”.
Khương Trầm Ngư làm thử, quả nhiên rất dễ dàng cắn được viên ngọc buông xuống vai trái. Kỳ thực nàng vốn muốn bắt chước đám ám vệ mà phụ thân huấn luyện, giấu thuốc độc ở trong răng, nhưng rõ ràng, phương pháp này của Chiêu Doãn an toàn mà lại kín đáo hơn. Ai có thể nghĩ đến việc chú ý một chiếc hoa tai của nữ tù nhân?
Vừa nghĩ tới đây, Khương Trầm Ngư lấy một chiếc hộp gấm nhỏ trong tay áo, mở hộp ra, Trường Tương Thủ lặng lẽ nằm trên nền gấm, phát sáng lấp lánh. Nàng sờ lên bề mặt lồi mà trơn nhẵn, ngón tay bắt đầu run nhẹ, cảm xúc đã bị đè nén khi ở ngự thư phòng trong phút giây này lại cuồn cuộn trào dâng, không sao cản nổi, cũng không nơi trốn tránh.
Lần này đi Trình quốc, muôn non ngàn núi, con đường phía trước chưa rõ, mà nhiệm vụ của nàng lại gian nan biết mấy, nếu không thành công thì chỉ còn đường chết. Bởi vì, Chiêu Doãn tuyệt đối không để người khác biết gián điệp mà mình phái đến địch quốc lại là phi tử của y. Cũng tức là rất có khả năng, chuyến này mình đi sẽ không thể quay về…
Không thể quay về, đế đô.
Không thể quay về, Đồ Bích.
Không thể quay về, Trường Tương Thủ.
Rèm mi của Khương Trầm Ngư tựa như cánh bướm run rẩy không ngừng, nhưng bước chân của nàng vẫn kiên định, chầm chậm, từng bước từng bước đi đến trước cung môn.
Cung môn vẫn chưa cài then, nửa khép nửa mở, xuyên qua khe hở có thể nhìn thấy nhà bên trong vẫn còn sáng đèn, một bóng dáng quen thuộc hắt bóng trên giấy dán cửa sổ, mau chóng lọt vào mắt nàng.
Nàng đứng im lặng rất lâu, rất lâu bên ngoài, mới chầm chậm bước qua bậu cửa.
ai cung nhân đang vừa nói chuyện vừa từ trong phòng bước ra, nhìn thấy nàng thì ngẩn ra: “Thục phi nương nương?”.
Một người vội vàng bước tới: “Muộn như thế này nương nương tới có việc gì vậy?”.
Ánh mắt của nàng dán chặt lên bóng hình trên cửa sổ: “Ta muốn gặp tỉ tỉ”.
Hai cung nhân đưa mắt nhìn nhau, quay vào bẩm báo với vẻ mặt cổ quái, trên cửa sổ, chỉ thấy cái bóng đó nghiêng đầu, nói gì đó. Sau đó một cung nhân vội vã bước ra nói: “Quý nhân đã ngủ rồi, Thục phi nương nương có chuyện gì ngày mai hãy đến. Muộn thế này, chúng nô tì cũng phải đóng cửa rồi”.
Khương Trầm Ngư đáp lại bằng một giọng cực kỳ bình tĩnh: “Nói với tỉ tỉ, nếu tỉ ấy không gặp, ta sẽ không đi”.
Cung nhân khó xử, chần chừ một lát rồi quay vào phòng.
Cái bóng trên cửa sổ trở nên kích động, xua tay, bước đi, quay vào góc khuất, không còn nhìn thấy đâu nữa.
Gió đêm thoảng lạnh, Khương Trầm Ngư đứng trong sân của Gia Ninh cung, nhìn thấy cây mai vàng trơ trụi, nhớ đến không lâu trước đây, khi nàng đến nơi này, hoa vàng nở chi chít trên cành, mà nay đã tiêu điều tàn tạ. Muốn ngắm cảnh rực rỡ chỉ có thể chờ năm sau.
Năm sau, nó chắc chắn sẽ lại nở, nhưng không biết mình có thể nhìn thấy hay không…
Rèm cửa lần nữa được vén lên, cung nhân bước ra nói: “Quý nhân mời nương nương…”.
Khương Trầm Ngư bước vào trong phòng, mùi hương ấm áp lập tức ập tới, rõ ràng khác một trời một vực với gió lạnh bên ngoài, tựa như là hai thế giới. Bước vào phòng trong, chỉ thấy bức rèm trên chiếc giường ngà đã buông, lờ mờ thấy Khương Họa Nguyệt đắp chăn nằm quay lưng về phía nàng, không hề nhúc nhích.
Đám cung nhân lần lượt lui ra.
Trong phòng lặng như tờ, chỉ có ngọn nến bập bùng, tiếng bốc cháy xèo xèo. Khương Trầm Ngư đứng cách giường ngà chừng năm bước, nhìn bóng hình bên trong trướng, cảm thấy xa xôi như cách cả dải Ngân Hà.
Nhờ sự thủy chung của phụ thân, nàng, Họa Nguyệt và đại ca Hiếu Thành đều cùng một mẹ sinh ra, vì thế, từ nhỏ tình cảm đã vô cùng thân thiết. Trong phủ thừa tướng nô bộc đầy rẫy, nhưng Họa Nguyệt lớn hơn nàng ba tuổi luôn tự tay chải đầu mặc áo cho nàng, không cho các ma ma khác động tay.
Tháng ba én liệng cỏ xanh sẽ dẫn nàng đi hội Đạp Thanh;
Tháng tư trăm hoa đua nở sẽ dẫn nàng đi thưởng hoa; Tháng năm hoa sen chớm nở sẽ dẫn nàng đi chơi hồ;
Tháng tám nóng như đổ lửa sẽ dẫn nàng đi tránh nóng;
Tháng mười hai giá rét sẽ tỉnh dậy lúc nửa đêm đắp chăn cho nàng…
Đối với nàng, Họa Nguyệt là tỉ tỉ, là bạn, cũng là người mẹ thứ hai. Vì thế, ba năm trước, khi thánh chỉ ban xuống đòi Họa Nguyệt vào cung, nàng mới mười hai tuổi đã khóc đỏ cả mắt, lúc Họa Nguyệt lên đường còn kéo tay áo Họa Nguyệt, không chịu buông tay.
Còn Họa Nguyệt cười với nàng, xoa đầu nàng, nói: “Nha đầu ngốc, khóc cái gì? Tỉ tiến cung là đi hưởng phúc đó! Phải làm, thì sẽ làm người trên muôn người; phải gả, thì sẽ gả làm vợ của đế vương, như thế mới không sống uổng kiếp này. Tỉ tỉ của muội như thế này, khắp thiên hạ chỉ có hoàng cung mới xứng là chốn dừng chân của ta. Hơn nữa, muội yên tâm, tỉ chắc chắn sẽ được hoàng thượng sủng ái, đến lúc đó, muội muốn vào cung thăm ta lúc nào, thì sẽ được vào lúc đó, tỉ muội chúng ta còn có thể ngày ngày gặp mặt”.
Khương Họa Nguyệt không nuốt lời, sau khi vào cung khi mới được Chiêu Doãn thịnh sủng, Chiêu Doãn hỏi nàng muốn gì, yêu cầu đầu tiên của nàng chính là để muội muội có thể tự do ra vào hậu cung.
Ba năm… ba năm đã trôi qua, rốt cuộc là cái gì đang thay đổi hết thảy quá khứ? Là nàng ngày càng kiệm lời ít nói, hay là tỉ tỉ bị hoàng cung giày vò đến mức ngày càng đa nghi cay nghiệt?
Rõ ràng là người thân thiết nhất, tại sao lại đi đến hoàn cảnh này?
Khương Trầm Ngư đăm đăm nhìn bức rèm nặng nề đó, nghĩ mãi không hiểu. Khi nàng trầm ngâm im lặng hồi lâu, Khương Họa Nguyệt cuối cùng không kiềm chế được, quay người lại trừng mắt nhìn nàng, hỏi: “Muội muốn gặp ta nhưng lại không nói gì, rốt cuộc muội muốn làm gì?”.
Khương Trầm Ngư vẫn im lặng.
Khương Họa Nguyệt nổi cáu, vén rèm giận dữ: “Lẽ nào muội không biết ta và muội đã không còn gì để nói sao? Hay là muội lại nghĩ ra gian kế gì để hại ta? Ta nói cho muội biết…”.
Giọng nói của nàng bỗng ngưng bặt.
Bởi vì, Khương Trầm Ngư đột nhiên nhào tới, ôm chặt lấy nàng.
Khương Họa Nguyệt sững người, sau đó muốn đẩy nàng ra, nhưng nàng ôm quá chặt, không thể đẩy ra, nhất thời luống cuống: “Muội, muội, muội làm gì vậy? Đêm khuya còn điên, điên, điên cái gì vậy?”.
Khương Trầm Ngư ôm chặt nàng, miệng lẩm bẩm: “Tỉ tỉ, tỉ ôm muội đi, chỉ cần một lát thôi, chỉ một lát thôi… được không?”
Vẻ mặt của Khương Họa Nguyệt từ hoảng loạn chuyển sang mông lung, cứ đứng ngây ra, để mặc nàng ôm mình, rất lâu sau mới khàn giọng nói: “Đừng tưởng làm nũng là ta sẽ tha thứ cho muội…”.
Khương Trầm Ngư vùi đầu vào ngực nàng, cảm nhận được tiếng tim đập từ bên trong lồng ngực truyền ra, từng tiếng từng tiếng, gấp gáp, rối loạn, chân thực biết bao, ấm áp biết bao.
Nàng nghĩ, nàng phải ghi nhớ âm thanh này, nhớ thật sâu thật đậm, sau đó mang theo âm thanh này tới Trình quốc. Như thế, sẽ không bao giờ cảm thấy cô đơn nữa.
Còn Khương Họa Nguyệt cắn môi, giơ một cánh tay lên, định vuốt tóc nàng, nhưng rốt cuộc vẫn ngừng lại, không vuốt nữa, thần sắc phức tạp trào lên nơi đáy mắt, có chút dịu dàng, lại có chút tang thương.
Hai tỉ muội giữ tư thế đó rất lâu rất lâu.
Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, từ từ thả tay, cuối cùng buông Họa Nguyệt ra, ngẩng đầu nhìn nàng mỉm cười: “Cảm ơn tỉ”.
Khương Họa Nguyệt trân trân nhìn nàng. Nàng quay lưng rời gót.
Khương Họa Nguyệt lòng rối bời, bất giác kêu lên: “Muội… muội sao thế?
Trầm Ngư?”.
Nàng quay đầu lại mỉm cười với Họa Nguyệt lần nữa: “Không sao, muội chỉ làm nũng mà thôi”.
Ánh mắt Họa Nguyệt chuyển thành hồ nghi, thấp giọng nói một câu: “Không hiểu ra sao”.
Nàng mỉm cười lần thứ ba, dịu giọng nói: “Ngủ ngon, tỉ tỉ”.
Sau đó đẩy cửa bước ra. Ánh trăng như lụa mỏng phủ trên gương mặt nàng, từng điểm long lanh, từng gợn lăn tăn.
Đó là những giọt lệ trong suốt như thủy tinh.
Tỉ tỉ ơi, nếu muội chết ở nước người, đời này không thể gặp lại, xin tỉ chớ buồn. Bởi vì, ít nhất, trong thời khắc chia ly cuối cùng, chúng ta không cãi nhau, mà là ôm chặt lấy nhau. Tương thân tương ái như khi còn nhỏ.
Đồ Bích năm thứ tư, ngày hai mươi lăm tháng năm, tả tướng quân Phan Phương, Đông Bích hầu Giang Vãn Y, cùng hai trăm tám mươi người đủ cả văn sĩ dược sư nhạc công nông phu… đi sứ Trình quốc, thanh thế vang dội, chúng dân ngưỡng mộ.
Ngày hôm sau, hoàng đế cùng hai phi tử đi săn ở Tương Sơn, hai phi tử này, một là Hy Hòa, hai là Trầm Ngư. Giữa đường Thục phi không cẩn thận nhiễm bệnh nặng. Phụng lệnh hoàng đế đưa về tĩnh dưỡng tại sơn trang Bích Thủy nằm ở ngoại ô kinh thành.
Ghi chú: (1) Nguyên văn là “Trụy mã kế”: Là tạo hình tóc của phụ nữ thời kỳ Ngụy Tấn, búi tóc buông lệch một bên, còn gọi là Ngụy đọa kết (búi tóc giả vờ buông).
(2) Nguyên văn “Diễm sắc thiên hạ trọng”, là một câu trong bài “Tây Thi vịnh” của Vương Duy (Đường).
(3) Nữ Anh Nga Hoàng là con gái của vua Nghiêu trong truyền thuyết, Nga Hoàng là chị, Nữ Anh là em, hai người cùng được gả cho vua Thuấn.
(4) Ngựa yên chi: tức giống ngựa đỏ, ên một con ngựa nổi tiếng thời cổ xuất xứ từ Tây Vực.
(5) Trậm là loài chim rất độc, tương truyền lấy cánh của nó khuấy vào rượu, uống là chết ngay.
(6) Thăng hay còn gọi là thưng, đơn vị đo lường cổ.
Dùng tâm để thêu, có thể thêu ra giang sơn.
Một tòa cung đình, sao có thể giam cầm phượng hoàng?
Mệnh ta là do ta định, không phải do trời!
Hồi Thứ Năm: Hoa Tai
“Hoa lê đã tàn rồi…”.
Ác Du mở cửa sổ, khi đón ánh nắng ban sớm, đã lẩm bẩm một câu như thế.
Quay đầu lại, trong Dao Quang cung hoa lệ, ngọn nến đỏ cỡ lớn đã cháy gần tàn, đêm qua, mười một tháng tư là ngày Tam tiểu thư tiến cung thụ phong, nhưng hoàng thượng không đến.
Trong lòng không phải là không lo lắng.
Tuy biết người trong lòng tiểu thư là Kỳ Úc hầu có nụ cười ôn hòa tựa gió xuân nhưng nhìn không thấu đó, nhưng rốt cuộc một khi đã vào cung là đã trở thành phi tử của hoàng thượng. Đã trở thành hoàng phi, có được nhận ân sủng của hoàng thượng hay không là một chuyện vô cùng trọng đại, đến đêm đầu tiên tiến cung mà hoàng thượng cũng không đến, sau này… thật sự không thể tưởng tượng nổi.
So với người thị nữ thân tín mặt mày lo âu, Khương Trầm Ngư dường như đã sớm đoán sẽ được đãi ngộ như thế này, vì thế không hề có vẻ bi phẫn oán trách, chỉ lạnh nhạt dặn dò chuẩn bị chải đầu thay áo, một lát sau còn phải đến vấn an thái hậu.
Hoài Cẩn vừa chải tóc cho nàng, vừa quan sát lỗ tai trên tai trái của nàng, ngạc nhiên hỏi: “Lỗ tai của tiểu thư xỏ đẹp mà lại không hề bị rách”.
“Có thể đeo hoa tai chưa?”.
“Tiểu thư muốn đeo hoa tai? Nhưng chúng ta không mang theo hoa tai vào cung”.
Khương Trầm Ngư mỉm cười, nói với Ác Du: “Đi lấy chiếc hộp bằng gỗ lê đem lại đây”.
Ác Du vâng một tiếng, mau chóng lôi từ trong hòm ra một chiếc hộp nhỏ, Hoài Cẩn thấy rất quen mắt, không kìm được hỏi: “Đây chẳng phải là viên nghi châu mà Nhị tiểu thư tặng tiểu thư đó sao?”.
Khương Trầm Ngư mở hộp ra, hai tì nữ đều kinh ngạc kêu lên một tiếng, nguyên nhân là vì viên châu trong hộp vẫn là viên châu đó, nhưng đã sửa thành kiểu dáng khác. Vốn là một chiếc phượng thoa nạm vàng khảm ngọc, bây giờ lại biến thành một chiếc hoa tai thật dài. Xỏ vào tai, sợi dây nhỏ màu bạc rủ xuống, kéo hạt châu rủ xuống hõm vai.
Cung nhân bên cạnh chưa bao giờ thấy cách đeo kỳ quái như vậy, không kìm được tròn mắt nhìn.
Khương Trầm Ngư khẽ lắc đầu, hạt châu đó đung đưa qua lại cạnh cổ nàng, mắt Hoài Cẩn sáng lên: “Hoa tai này phối với kiểu tóc búi buông lệch (1) là hợp không gì bằng. Sang bên Nhị tiểu thư, xem tiểu thư ăn nói thế nào đây, tặng chiếc thoa cho tiểu thư, tiểu thư lại tự ý sửa thành hoa tai”.
Nhắc đến tỉ tỉ, Khương Trầm Ngư lòng nặng trĩu, thở dài thật khẽ: “Ngươi cho rằng, chỉ cần ta tiến cung, những chuyện không thể ăn nói với tỉ tỉ còn ít sao?”.
Từ khi thánh chỉ của hoàng đế ban xuống, phía bên tỉ tỉ đã bặt vô âm tín, không tỏ động thái gì. Ca ca vào cung thăm tỉ tỉ một lần, về nhà chỉ nói thần sắc tỉ tỉ bình tĩnh và không có gì khác lạ. Nhưng như thế, trong lòng Khương Trầm Ngư lại càng thêm thấp thỏm. Bình thường tỉ tỉ nàng rất hiếu thắng, biết muội muội cũng sắp tiến cung, sao có thể bình thản, càng huống hồ, không lâu trước nàng còn phát hiện mình không thể sinh con, bị hai tòa núi lớn đè nén, nếu là bất cứ người nào cũng không thể chịu đựng nổi.
Thế nhưng không sao cả. Khương Trầm Ngư nghĩ lát nữa sau khi đi thỉnh an thái hậu xong, nhất định sẽ đến gặp tỉ tỉ. Chỉ cần có thể gặp mặt, nói chuyện, mọi thứ đều có cách giải quyết.
Chọn một chiếc áo màu lam nhạt, soi gương tự cài áo, y phục và hạt châu phối hợp với nhau, khiến làn da nàng càng thêm mịn màng trắng trẻo. Nhưng, chẳng qua cũng chỉ là một bộ da mà thôi.
Vì thiên hạ trọng sắc đẹp(2).
Nhưng dung nhan của một nữ nhân nếu không thể giúp nữ nhân ấy lọt vào mắt xanh của người trong lòng mình thì có đẹp hơn nữa cũng có ích gì?
Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, lại chầm chậm thở ra, cho dù thế nào, chuyện đã đến bước này, hết thảy đều đã trở thành kết cục đã định. Nghĩ những chuyện này, chẳng qua cũng chỉ là giày vò cõi lòng mình một cách vô ích mà thôi.
Cơn mưa hôm đó dường như vẫn còn rơi trong tim, chưa từng quên bất cứ chi tiết nhỏ nào, nàng nhớ khi nhào vào lòng Cơ Anh, nàng đã nghĩ: Kiếp này nếu phải rời xa vòng tay của chàng, sao có thể sống tiếp?
Lúc ấy chỉ cảm thấy đó đã là nỗi đau đớn long trời lở đất, mà nay soi gương, nhìn thấy trán rộng mày ngài, mắt sáng răng trắng phản chiếu trong gương, không kìm được nẠsinh cảm giác tang thương tự trào: Hóa ra, mình vẫn có thể sống tiếp. Hơn nữa còn kiều diễm hơn xưa. Không để đau thương có cơ hội thấm vào trong dung nhan.
Được đám cung nhân đưa ra khỏi Đao Quang cung, đến Ý Thanh cung của thái hậu, vừa đi được mấy bước đã nhìn thấy một nữ tử từ xa bước tới, phía sau có hai cung nhân đi theo, toàn thân áo lục, đó chính là tỉ tỉ Họa Nguyệt của nàng.
Tỉ muội chạm mặt, hai bên đối mắt nhìn nhau, không khí hết sức kỳ lạ.
Khương Trầm Ngư chủ động bước lên hai bước, hành lễ: “Trầm Ngư thỉnh an tỉ tỉ”.
Khương Họa Nguyệt vẫn đứng yên không nói gì, cung nhân phía sau lại nói: “Xin thứ cho nô tì mạo phạm, xưng tỉ tỉ muội muội nên đổi lại. Bây giờ là trong cung, đừng làm ra hỏng quy củ”.
Hàng mi của Khương Trầm Ngư run run, nàng ngước nhìn tỉ tỉ nhưng thấy nàng mặt thản nhiên bước qua mình, mau chóng dẫn theo hai cung nhân biến mất phía sau cánh cửa.
Ác Du trợn mắt há miệng, hỏi gấp: “Nhị tiểu thư sao lại làm thế với tiểu thư…”.
Khương Trầm Ngư khẽ quát: “Câm miệng”. “Nhưng tiểu thư…”.
“Ta nói câm miệng”. Nàng sầm mặt, Ác Du lập tức im bặt.
Hoài Cẩn lại nói: “Lời của người đó tuy khó lọt tai, nhưng là sự thực, bây giờ khác với lúc ở tướng phủ, Ác Du à, cách gọi tiểu thư cũng nên đổi thôi, từ sau gọi là nương nương”.
Nhìn vẻ nhẫn nhịn của Hoài Cẩn và vẻ ấm ức của Ác Du, ngoài mặt Trầm Ngư không biểu lộ gì, nhưng trong lòng còn buồn hơn họ gấp bội. Tỉ tỉ không thêm đoái hoài đến nàng, không chỉ không đoái hoài, mà còn ngầm cho phép một kẻ hạ nhân coi thường nàng…
Tỉ muội họ chưa từng xa cách như thế, những chuyện cũ như chải đầu, cười nói, chia đồ ăn vặt trong chốn khuê các đó rốt cuộc đã trở thành hồi ức.
Nàng lặng lẽ cúi đầu, lặng lẽ đi vào Ý Thanh cung, thấy bên trong đã tề tựu mười mấy mỹ nhân, xuân lan thu cúc, vừa nhìn đã thấy hào quang đầy nhà. Tỉ tỉ Họa Nguyệt đương ngồi trên vị trí thứ hai ở phía trái, nhìn thấy nàng, lại vờ như không thấy, ngược lại mấy phi tử phẩm trật không bằng nàng lại lũ lượt đứng dậy chào hỏi. Nàng nhìn quanh một vòng, vẫn chưa thấy Hy Hòa đâu, cũng không thấy Cơ Hốt.
Thái hậu chưa tới, chúng phi ngồi chờ, vô sự tán gẫu. Một phi tử cười nói: “Lâu nay nghe tiếng tiểu nữ của hữu tướng mỹ mạo hơn người, vừa có tài vừa có đức, nay được diện kiến, quả là danh bất hư truyền. Dáng vẻ tựa như thiên tiên, quả thật khiến ta tự thấy hổ thẹn”.
“Đúng thế, còn chưa chúc mừng Thục phi, hoàng thượng đúng là ân sủng Khương gia, cả hai nữ nhi đều tiến cung, Nữ Anh Nga Hoàng(3), thật khiến người ta ngưỡng mộ”.
Khương Trầm Ngư trong lòng căng thẳng, lo lắng nhìn sang Khương Họa Nguyệt, nhưng tỉ tỉ vẫn luôn coi nàng như không tồn tại, nghe những lời tán dương đó thì nhếch miệng, nửa cười nửa không nói: “Nghe nói Liễu Thục Nghi tuy không có muội muội, nhưng cũng có một đứa cháu gái nghi dung xuất chúng, hay là đưa nó tiến cung đi, cô cháu chung chồng cũng là một giai thoại, không phải sao?”.
Liễu Thục Nghi mặt lúc trắng lúc đỏ, tức thì không nói thêm lời nào nữa.
Đương lúc bối rối, một cung nhân hô to: “Thái hậu giá đáo.” Các phi tần lập tức đồng loạt cung nghênh.
Khương Trầm Ngư đã từng được gặp thái hậu một lần vào mấy năm trước, vẫn còn nhớ thái hậu mày mắt đoan trang, phong thái diễm lệ, mà nay gặp lại, đúng là năm tháng chẳng chừa ai, đặc biệt là được một đám cung nữ tuổi trẻ mỹ mạo vây quanh dìu bước, bà lại càng lộ rõ sự già nua, sắc mặt bệnh tật nhìn dáng vẻ tựa cây đèn cạn dầu.
Thái hậu ngồi xuống vị trí đứng đầu, xua xua tay nói: “Được rồi, tất cả ngồi xuống đi”. Dứt lời liền hỏi: “Ai là Thục phi mới được phong?”.
Khương Trầm Ngư bước ra bái lạy, thái hậu tỉ mỉ đánh giá nàng một lượt, ánh mắt mang đầy thâm ý, còn chưa phát biểu cách nhìn thế nào, bên ngoài lại có tiếng thông báo truyền tới: “Hy Hòa phu nhân tới”.
Trong phòng tuy vẫn yên tĩnh như lúc đầu, nhưng Khương Trầm Ngư đã nhạy cảm ý thức được, bầu không khí giữa các phi tần bắt đầu căng thẳng.
Rèm phòng khẽ mở, Khương Trầm Ngư ngước mắt, đúng lúc ánh mắt của Hy Hòa đang bước từ ngoài vào cũng nhìn thẳng tới, Hy Hòa nở nụ cười tươi rói với nàng.
Tuy nàng hoàn toàn không có thiện cảm với Hy Hòa, nhưng không thể không thừa nhận, nữ nhân này thực sự xinh đẹp. Nàng ta vừa bước vào, lập tức khiến hết thảy mỹ nhân trong phòng đều trở nên nhạt nhòa, không sao sánh kịp.
Vẫn là trường bào rộng trắng muốt, mái tóc đen như mun không vấn cao, chỉ buộc nhẹ nhàng thả phía sau lưng, nhưng có vẻ quyến rũ tự nhiên, phong hoa tuyệt đại, nhan sắc thế tục đâu thể sánh được?
Nhìn mỹ nhân vang danh tứ quốc này, trong lòng Khương Trầm Ngư không kìm được nghĩ, việc mình vào cung liệu có liên quan gì tới nàng ta không? Nếu như nói không liên quan, tại sao nàng ta đòi mình vào cung dạy đàn, cố ý khiến hoàng thượng thấy mặt mình? Nếu như có liên quan, lại khiến người ta nghĩ không ra, nàng ta không sợ sẽ tạo ra một Khương quý nhân thứ hai tranh sủng với nàng ta sao? Nhưng, có lẽ nữ nhân này không có chuyện gì không dám làm chăng?
Hy Hòa bước tới trước mặt thái hậu, thi lễ nói: “Hy Hòa thỉnh an thái hậu”.
Thái hậu gật gật đầu, ban vị trí thứ hai ở phía bên phải cho nàng ta, Hy Hòa vẫn chưa ngồi xuống, một cung nhân già bước vào bẩm: “Thái hậu, người của Đoan Tắc cung tới chuyển lời nói Cơ quý tần đêm qua uống rượu quá chén, bây giờ say vẫn chưa tỉnh miễn cưỡng xuất hành e là sẽ mạo phạm thiên uy, cho nên hôm nay không đến, mong thái hậu thứ tội”.
Khương Trầm Ngư vừa nghe, cảm thấy hơi bất ngờ, lại có chút nằm trong dự tính. Nghe đồn Cơ Hốt không theo phép tắc đã vào cung nhưng không hề có dáng vẻ của phi tử, chỉ là hoàng thượng yêu chuộng tài năng của nàng, đối với nàng ân hậu đức dày, tình cảm khoan dung còn hơn cả đối với Hỳ Hòa.
Cũng vì thế, thái hậu nghe xong nét mặt vẫn bình thản như cũ, gật đầu như không có chuyện gì, nói: “Biết rồi, bảo bọn họ về hầu hạ cho chu đáo”.
Chúng phi thầm thở dài, việc này cũng chỉ Cơ Hốt làm được, đổi lại là người khác, đã sớm bị chém đầu cả trăm lần rồi.
Hy Hòa bên kia cười khanh khách: “Quý tần đã không đến, chiếc ghế đầu tiên này, hãy cho thần thiếp ngồi nhé”.
Thái hậu liếc nàng ta một cái, không ngăn cản.
Chúng phi lại thầm thở dài, chuyện này cũng chỉ Hy Hòa dám làm nếu là người khác trong lòng dù muốn ngồi lên chiếc ghế đó, cũng tuyệt đối không dám nói ra trước mặt mọi người.
Như thế mọi người ai ngồi chỗ nấy xong xuôi, nghe hậu dạy bảo: “Ai gia già rồi, cơ thể cũng không còn nhanh nhẹn nữa, cho nên, chuyện trong cung này cũng ngại quản, có muốn quản cũng không được. Mong các ngươi hãy nghĩ tới hoàng thượng, thiên hạ mới định, nên chia sẻ lo lắng với hoàng thượng nhiều một chút, chớ làm những chuyện ngang ngược, khiến hoàng thượng không vui”.
Chúng phi vội vàng đáp vâng.
Ánh mắt của thái hậu lướt qua gương mặt của các phi tử một vòng, nhìn đến Hy Hòa thì dừng lại một lát, cuối cùng đậu lại trên mặt Khương Trầm Ngư, như có lời muốn nói, nhưng cuối cùng chỉ khẽ thở dài, nói: “Như vậy đi. Ai gia mệt rồi, từ nay về sau, không cần ngày ngày đều tới thỉnh an, làm dâu của hoàng gia khó, chúng ta đều bớt việc đi!”.
Dứt lời, thái hậu đứng dậy, vịn vào tay cung nhân lảo đảo đi khỏi.
Khương Trầm Ngư nhẩm lại câu nói đó của thái hậu “khó làm dâu”, không khỏi có phần ngây ngốc. Bản thân tuổi vừa tròn mười lăm, cả cuộc đời này có thể sẽ chỉ trôi qua trong những bức tường này… Với thế lực của Khương gia, không thể tiêu sái như Cơ Hốt, cũng không thể không sợ hãi như Hy Hòa, thực sự là tình cảnh vạn phần khó xử. Mà người thân duy nhất… nàng nhìn sang Họa Nguyệt, trong lòng lại ảm đạm vài phần.
Trong phòng yên lặng chừng nửa tuần trà, phi tử áo hồng không xinh đẹp lắm ngồi ở vị trí cuối cùng bỗng kinh ngạc kêu lên: “Á”.
Mọi người đều quay đầu lại: “Sao thế?”.
Phi tử đó tự biết thất lễ, run rẩy nói: “Xin lỗi xin lỗi, Tầm Oánh chỉ là nhìn thấy hạt châu trên dây chuyền phu nhân đeo trên cổ và hạt châu trên hoa tai Thục phi đeo ở tai trái dường như là một cặp, cho nên mới nhất thời lỡ lời…”.
Bị nàng ta nhắc nhở như vậy, mọi người đều nhìn theo, quả nhiên, hai hạt châu đó kích thước bằng nhau, tròn sáng long lanh, điểm khác biệt nho nhỏ dưới ánh nắng hạt châu của Khương Trầm Ngư ánh lên sắc lam nhạt, còn hạt châu của Hy Hòa lại ánh lên màu đỏ sẫm, hai thứ cùng soi rọi lẫn nhau, không phân biệt được là ngọc nhờ người mà thêm sắc, hay là người nhờ ngọc mà tỏa sáng.
Liễu Thục Nghi bị khiển trách lúc trước bấy giờ như vớ được cơ hội, nhướn mày cười nói: “Đúng thế, đây chẳng phải là cặp châu Nghi quốc tiến cống năm ngoái sao? Quý nhân quả nhiên là tỉ tỉ tốt, đến hạt châu quý giá như thế cũng đem cho Thục phiChỉ có Thục phi dung mạo như thế mới có thể đua tranh với phu nhân, chị em chúng ta thô lậu, hoàn toàn không thể sánh được”.
Khương Trầm Ngư thầm nghĩ, đây có thể vừa là khích Họa Nguyệt, lại vừa khích Hy Hòa. Ai không biết nếu luận về mỹ mạo, ở Đồ Bích Hy Hòa là người đứng đầu? Liễu Thục Nghi nói như vậy, rõ ràng là muốn làm loạn thiên hạ.
Nào ngờ Hy Hòa không hề bị khích, vẻ mặt vẫn mỉm cười, im lặng ngồi đó, không hề có ý chen lời, ngược lại Họa Nguyệt sắc mặt đổi thay. Trước đây nàng tặng viên châu này cho Trầm Ngư là để chúc mừng hôn sự của Trầm Ngư và Cơ Anh, ai ngờ bị Hy Hòa phá đám giữa chừng, đột nhiên biến thành phi tử của hoàng thượng, như thế, viên châu này đeo trên tai của muội muội thực sự giống như một sự châm biếm to lớn.
Nàng tuy cố gắng chế ngự cơn giận dữ, nhẫn nhịn đè nén, nhưng lần này bị chế nhạo trước mặt đông người, trong chốc lát bị mất thể diện, khó mà nhịn được. Lập tức đứng bật dậy, phất tay áo lạnh lùng nói: “Bản cung cảm thấy mệt rồi, cáo từ trước”.
Khương Trầm Ngư thấy nàng đi, vội vàng đứng dậy theo, nói: “Tỉ tỉ đợi muội với, muội đi cùng tỉ tỉ”. Ai ngờ Khương Họa Nguyệt vờ như không nghe thấy, càng cố bước nhanh hơn, giữa ánh mắt xem trò hay đầy cổ quái của tất cả mọi người trong phòng, Khương Trầm Ngư vừa cay đắng vừa buồn bã, cũng không buồn để ý, vội vã đuổi theo.
Đuổi tới Động Đạt kiều mới theo kịp, nàng nắm lấy một cánh tay của Khương Họa Nguyệt: “Tỉ tỉ, muội có lời muốn nói với tỉ”.
Khương Họa Nguyệt quay lại nhìn nàng, trong ánh mắt có trăm ngàn tâm tư, nhưng chỉ thoáng hiện lên trong một giây lát, cuối cùng rầu rĩ cười nói: “Chuyện đã đến nước này, còn có gì để nói?”.
Khương Trầm Ngư cuống quýt nói: “Tỉ tỉ, tỉ sớm biết vào cung không phải là muội…”.
“Thật sao? Thật là khéo quá!”. Khương Họa Nguyệt nhếch mép, cười nhạt, “Ta vừa tìm ra cơ thể… có bệnh, muội liền vào cung luôn”.
“Tỉ tỉ, chuyện đó muội chưa nói với bất kỳ người nào, bao gồm cả cha, nếu muội nói dối, thì ngũ lôi oanh đỉnh, chết chẳng toàn thây!”.
Khương Họa Nguyệt thấy nàng nói rất kiên quyết, trong đáy mắt lóe một tia đau khổ, quay mặt đi, nói: “Thế thì đã sao? Muội nói hay không nói, đều như nhau cả. Từ nhỏ muội đã thông minh nhất, bề ngoài nhìn như không ham không muốn, nhưng những thứ đã ngắm trúng chưa bao giờ thoát khỏi tay muội. Tất cả đều khen muội tính tình tốt, cũng vì thế đều thích muội, trước mặt hay sau lưng, không biết đã dành cho muội bao nhiêu thứ tốt”.
Khương Trầm Ngư lùi lại ba bước, mặt đầy vẻ kinh ngạc, run giọng hỏi: “Tỉ tỉ… tỉ coi muội như vậy sao?”
“Ta còn nhớ trung thu một năm, cha kiểm tra ba chúng ta, ai có thể ném chiếc lông vũ đi xa nhất thì sẽ thưởng bánh trung thu thủy tinh cho người ấy.
Kết quả muội nhờ một con chim nhỏ giành lấy ngôi đầu, cha thưởng cho muội bánh trung thu, muội lại nói muốn chia sẻ với ta và đại ca. Khi đó ta chỉ cảm thấy muội lương thiện vô tư biết bao, nhưng sư gia biết được chuyện này, từ đó về sau, người thích muội nhất, dốc hết kiến thức truyền thụ cho muội, thậm chí trước khi đi xa còn đem cây đàn của mình tặng cho muội”. Khương Họa Nguyệt nói đến đây, mắt đỏ hoe, ngũ quan bắt đầu méo mó, nghẹn ngào. “Muội rõ ràng biết! Muội rõ ràng biết! Ta thích Tất sư gia…”.
Khương Trầm Ngư hít một hơi khí lạnh, cảm thấy chân tay lạnh toát. Từng chữ từng chữ đó đập xuống, đau đớn hơn cả mưa đá rơi trúng.
Hóa ra khúc mắc đã sớm gieo mầm từ rất lâu, chỉ là nàng khờ dại ngây thơ, không hay biết gì thôi.
“Từ nhỏ muội không hề tranh giành cái gì, chỉ thích tranh giành tình cảm với người ta. Người nào nếu nói một tiếng thích ta, muội ắt sẽ bỏ toàn bộ tâm tư để khiến hắn thích muội hơn, bây giờ, muội chẳng phải tiến cung để giành hoàng thượng sao?”.
“Tỉ tỉ…”, tỉ tỉ, hà cớ gì tỉ phải làm tổn thương muội như vậy? Nước mắt Khương Trầm Ngư trong nháy mắt đã tuôn trào, hết lần này đến lần khác nghĩ: Tỉ tỉ, tỉ làm tổn thương muội như vậy, tỉ vui sao? Tỉ không đau sao? Tỉ tỉ, tỉ không đau sao?
Nàng luôn cho rằng chỉ cần giải thích rõ ràng, tỉ muội tình thâm mười mấy năm, sẽ có thể hóa giải tất cả hiểu lầm. Nàng tưởng rằng tỉ tỉ biết nàng ôm một mối tình sâu nặng thế nào đối với công tử. Nhưng, giờ này, phút này, đứng trước mặt nàng, người dùng câu nói tựa một lưỡi dao lạnh lẽo, từ từ chậm rãi, vô cùng tàn nhẫn moi tim gan nàng là ai?
Là ai?
Lời nói vẫn không dừng lại, tiếp tục vang lên bên tai: “Nhưng lần này muội không làm được đâu. Muội không có cơ hội, Trầm Ngư. Bởi vì, muội không thể tranh được với Hy Hòa. Không phải vì Hy Hòa đẹp hơn muội, mà là vì ả và hoàng thượng có một thứ giống nhau, mà thứ đó, muội không có. Cho nên, Trầm Ngư, muội không có bất cứ cơ hội nào…”.
Khương Trầm Ngư đứng yên như phỗng hồi lâu, cuối cùng mới ngẩng đầu lên, nhìn chằm chằm vào Khương Họa Nguyệt, không nói một lời, quay lưng sải bước rời đi.
“Trường Tương Thủ” đung đưa trên vai nàng, nàng không kìm nổi đưa tay sờ hạt châu đó, thầm nghĩ, thật tốt, bây giờ đều có đủ rồi. Lỗ tai công tử xỏ, hạt châu tỉ tỉ tặng, đều đủ cả.
Từ nay về sau, thế gian này, trên không thứ gì có thể làm tổn thương nàng nữa.
Bởi vì, thứ làm nàng tổn thương nhất, đều tập trung cả trên tai trái của nàng.
Chỉ cần lỗ hổng trên tai trái nàng vẫn còn, chỉ cần hạt châu trên chiếc hoa tai này vẫn còn, nàng sẽ vĩnh viễn vĩnh viễn ghi nhớ nỗi đau này, ghi nhớ nỗi khổ này, ghi nhớ mối hận này. Ghi nhớ tất cả đều nhờ ai ban cho.
Tầng tầng ngói lưu ly, san sát điện vàng ngọc, kẻ khởi nguồn của tất cả khổ nạn ấm ức day dứt tuyệt vọng này đang ngồi ở đó, y có thân phận hiển hách nhất thế gian, có quyền uy tối thượng, tên của y là – Chiêu Doãn.
Đêm lạnh như nước.
Tiếng trống canh từ xa vẳng lại, nghe không chân thực, trong noãn các cách xa chính điện, thiên tử thiếu niên thân mặc thường phục, nằm nghiêng trên chiếc giường gấm, trước giường có đặt một chiếc bàn dài, tấu chương trên bàn chất cao như núi, mà trong tay y cũng cầm một phần, thần sắc y mệt mỏi. La Hoành bên cạnh dè dặt dâng trà sâm, nói: “Hoàng thượng, nghỉ một chút đi”.
Chiêu Doãn đón lấy tách trà nhưng không uống, ánh mắt vẫn dán trên tấu chương, nhìn từ góc độ của La Hoành, có thể thấy bản tấu chương đó rất khác biệt, những tấu chương khác đều có bìa màu lam nhạt, duy chỉ có bản tấu này bìa là màu vàng tím sang trọng vô song, góc dưới bên phải còn vẽ một đồ đằng hình rắn. Nhìn thấy đồ đằng này, La Hoành chợt hiểu ra, đó nào phải tấu chương, rõ ràng là quốc thư của Trình quốc gửi tới.
Trong bốn nước, Bích quốc rộng nhất, đồ đằng hình rồng, Yến quốc mạnh nhất, đồ đằng hình én; Nghi quốc giàu nhất, đồ đằng hình hạc; duy chỉ có Trình quốc, bốn mặt giáp biển, là một đảo quốc nhỏ, hình dáng như con rắn, vì thế coi rắn là thần. Tuy đất đai cằn cỗi, tài nguyên nghèo nàn, nhưng trong nước người người hiểu võ thiện chiến, chịu khổ chịu cực, lại rộng rãi chiêu gọi hiền nhân dị sĩ, thợ khéo thầy hay, dốc sức chế tạo binh khí, nhân khẩu vỏn vẹn không quá tám trăm vạn người, nhưng có đến hai trăm vạn là tinh binh, bọn họ mưu đồ chuyện gì, ai ai cũng biết.
Nào ngờ người tính chẳng bằng trời tính, khi Trình vương Minh Cung chuẩn bị gióng trống thúc quân vượt biển đánh nước giàu có nhất là Nghi quốc, một ngày khi thức giấc đột nhiên trúng gió, dẫn đến bản thân bất toại, đến nay vẫn không thể đi lại.
Ông ta bốn mươi chín tuổi, có ba con trai một con gái, thú vị ở chỗ Minh Cung không coi trọng ba vị hoàng tử, mà chỉ sủng ái công chúa Di Thù. Vì thế có tin đồn vị hoàng tử nào được Di Thù giúp sức, người đó tất có thể trở thành Trình vương kế nhiệm.
Bây giờ Trình vương viết thư tới, không biết là chuyện trọng yếu gì mà lại khiến hoàng thượng suy nghĩ thế.
Chiêu Doãn đặt chén trà sang một bên, khẽ thở dài một tiếng, lẩm bẩm: “Văn võ đầy triều, lẽ nào không tìm ra nổi người thứ hai có thể lấy Di Thù sao?”
La Hoành giật thót mình, hóa ra Trình vương muốn gả công chúa?
Dường như nhìn thấu suy nghĩ của La Hoành, Chiêu Doãn khẽ liếc ông ta, nói: “Ngày hai mươi chín hai tháng sau, Trình vương mừng thọ năm mươi tuổi, muốn nhân dịp này kén chồng cho Di Thù công chúa, La Hoành, ngươi nói xem, trẫm phái ai đi thì được?”.
Hoàng thượng tôn quý, nhất định không thể đích thân đi được, mà trong số văn võ bá quan người có thể xứng với công chúa cao quý, nghĩ tới nghĩ lui chỉ có một người, nhưng nghe ý tứ vừa rồi của hoàng thượng, rõ ràng không muốn vị đó đi, vậy thì, còn có ai nữa… La Hoành vừa thầm suy tính trong lòng, vừa thận trọng đáp: “Nếu như hoàng thượng khó xử, chẳng thà chọn lấy một người xuất sắc, phong cho một tước vị sai hắn đi?”.
“Nói thật dễ dàng, loại bèo bọt không có căn cơ này, Trình quốc công chúa đồng ý mới lạ!”.
“Kỳ thực cũng không tính là không có căn cơ, ví dụ như Giang…”, nói đến đây thì dừng lại đầy ngụ ý.
Mắt Chiêu Doãn quả nhiên sáng lên, nhướn mày gọi: “Điền Cửu!”.
Giây sau, Điền Cửu đã quỳ trước điện.
“Chuyện giao cho ngươi đi xử lý sao rồi?”.
Điền Cửu đáp: “Họ Diệp vốn ít người, đến thời Diệp Nhiễm chỉ còn lại mình ông ta. Cho nên, người họ Diệp thực sự, ngoài phu nhân ra đều đã chết hết, tuy xét kỹ thì Giang thái y miễn cưỡng có thể tính là cậu về đằng ngoại bảy đời của phu nhân, nhưng chung quy vẫn là gượng ép”.
La Hoành cười nói: “Hoàng thượng coi là ông ta có họ, thì tức là có họ”.
Chiêu Doãn chau mày.
La Hoành nhân đó nói tiếp: “Giang thái y thân là Đề điểm Thái y viện, không thể thăng chức được nữa, nhưng con trai của ông ta Giang Vãn Y cũng là đại phu, còn chưa có công danh, phẩm mạo xuất chúng, lại thêm y thuật thần thông, văn tài hẳn cũng không tồi. Sau khi hoàng thượng cho phu nhân và Giang gia nhận họ hàng, hắn chính là biểu huynh của phu nhân, tuy không phải vương hầu, nhưng tiền đồ vô lượng. Nếu hắn lấy Di Thù công chúa thì tương lai phu nhân cũng có thêm giúp đỡ.”
Ánh mắt Chiêu Doãn hơi biến chuyển, bỗng nhiên cười nói: “Tương lai?
Tương lai ta an bài cho Hy Hòa thế nào, lẽ nào La Hoành ngươi đã biết?”.
La Hoành run rẩy, biết đã mạo phạm kỵ húy, vội vàng quỳ xuống: “Lão nô lỡ lời, xin hoàng thượng thứ tội”.
Chiêu Doãn cười mủm mỉm: “Đứng dậy đi, xét ngươi nghĩ ra được lựa chọn tuyệt hay đó, nên ta tha cho lần này. Ngươi xưa nay cực kỳ có chừng mực, chớ để ta nhắc nhở đến lần thứ hai”.
La Hoành rối rít thưa dạ, lau lau trán, đã thay túa mồ hôi lạnh. Ông chứng kiến hoàng đế trưởng thành, không thể không nói, Chiêu Doãn thực sự là một người có tính cách phức tạp nhất trong những con cháu hoàng tộc mà ông từng thấy, có sự kiên nhẫn của sói, sự giảo hoạt của hồ ly, sự cơ trí, cảnh giác của thỏ, bề ngoài luôn cười tủm tỉm, tỏ ra tính khí tốt, nhưng hành sự lại tuyệt tình: Tất cả mọi người đều chưa từng nghĩ y sẽ trở mặt với Tiết gia, đặc biệt là lần Hy Hòa đại náo Cảnh Dương điện, y vẫn toàn lực che chở cho hoàng hậu, ai ngờ nháy mắt đã phế bỏ hoàng hậu bắt giam quốc cữu ép tướng quân mưu phản chặt đầu thị chúng, với phong thái dứt khoát ghê gớm, chỉ trong thời gian hai tháng đã đào gốc trốc rễ Tiết gia – một trong tứ đại thế gia; y trông có vẻ như ân sủng Hy Hoà, nhưng để đạt mục đích không chút thương xót để nàng lấy thân thử độc bệnh liền mấy tháng, còn như đứa trẻ bị sảy đó là thật hay không cũng không rõ, trong cung có những chuyện biết ít đi một chút là phúc; còn đột nhiên y nạp Khương Trầm Ngư làm phi, dù nhìn thế nào thì vẫn giống như cố ý muốn cướp vợ của Kỳ Úc hầu, thật là một con người không thể nắm bắt được. Làm thuộc hạ của vị tân đế này, cần vạn phần cẩn thận mới được, nếu không hễ không chú ý là chưa biết chừng sẽ đắc tội với y, đến vì sao mà chết cũng không hay.
Bên này La Hoành đang lòng đầy sợ hãi, bên kia Chiêu Doãn khẽ day day ấn đường, suy tư nói: “Điền Cửu, sau khi Tiết Thái đến hầu phủ, tình hình thế nào?”.
Điền Cửu đáp: “Hầu gia đi đâu cũng mang theo hắn, sai khiến không khác gì bọn hạ nhân khác, không có điểm nào khác biệt”.
“Có dạy hắn đọc sách luyện võ không?”.
Điền Cửu nghĩ một lát: “Không có, nhưng…”.
“Nhưng cái gì?”
“Nhưng, tiểu nhân cho rằng, ở bên cạnh Kỳ Úc hầu, nhìn cách xử thế của hầu gia đã là tấm gương tốt nhất rồi”.
Chiêu Doãn im lặng, đưa hai ngón tay ra, gõ nhẹ lên mặt bàn, từng nhát từng nhát, không mau không chậm. Hai người còn lại trong phòng, Điền Cửu đang quỳ, La Hoành đang khom lưng đứng, đều không dám lên tiếng.
Cứ thế một thời gian thật dài trôi qua, Chiêu Doãn cuối cùng ngưng gõ bàn, cất tiếng: “Như các ngươi thấy, dụng ý của Kỳ Úc hầu là gì? Là bỏ qua ân cửu đào tạo hắn thành tài, hay là cứ thế mai một, để hắn cả đời không có ngày mở mặt?”.
Điền Cửu nghĩ rất lâu, mới đáp: “Nếu là tiểu nhân, nhất định là không yên tâm giữ một con hổ con bên cạnh, tuyệt đối phải bóp chết từ trong trứng nước, đề phòng tương lai chẳng may”.
“Hửm?”.
“Nhưng, Kỳ Úc hầu không phải là tiểu nhân, cho nên, ngài tuyệt đối không làm như thế”.
“Hửm?”.
“Thần nghe nói kẻ huấn luyện thú đều bắt đầu từ khi con thú còn non, cho nó ăn, rèn luyện nó, bồi dưỡng kỹ năng cho nó mà thu phục tâm nó. Trong đó thu phục tâm là gian nan nhất. Nhưng hễ thành công, con thú nhỏ trở thành con thú lớn, sau đó sẽ trung thành trước sau như một với người huấn luyện, bảo gì nghe nấy”. Điền Cửu nói đến đây, cười cười. “Theo tiểu nhân thấy, Kỳ Úc hầu chính là cao thủ trong việc này, hầu gia có ba nghìn môn khách, ai nấy đều hết lòng vì ngài. Cho nên, một tiểu Tiết Thái bé con, vào tay hầu gia, chẳng qua cũng chỉ là vấn đề thời gian ngắn dài”.
Đôi mắt Chiêu Doãn nheo lại, La Hoành quan sát sắc diện, vội vàng bổ sung: “Có điều cho dù kết cục thế nào, đều không thể thay đổi một sự thực – Tiết cũng được, Cơ cũng xong, chỉ khi hoàng thượng muốn cho họ vẻ vang, họ mới có thể vẻ vang, hoàng thượng không vui, toà nhà lớn sụp đổ cũng chẳng qua là chuyện trong khoảnh khắc thôi”.
Chiêu Doãn “hừ” một tiếng, lại hơi có ý cười: “Ngươi thực là dẻo miệng”, ngừng lại một lát, lại tiếp: “Nhưng, nếu là trẫm, trẫm cũng muốn uốn nắn bồi dưỡng”.
La Hoành lập tức lộ vẻ ngạc nhiên. Chiêu Doãn quả nhiên giải thích: “Bởi vì trăm sông đổ về một biển, biển có sức chứa lớn nhất, Kỳ Úc bản tính ôn hoà, làm việc nhanh nhạy, lời nói thận trọng, dùng câu ninh tinh trí viễn để hình dung cũng không quá. Có thể nói là hoàn toàn khác trẫm, nhưng duy có một điểm tương đồng, đó chính là – tự tin”.
Nói đến đây, hào khí dâng trào, Chiêu Doãn khoanh tay đi đến bên cửa sổ, chăm chú ngắm nhìn trăng tròn trên tầng không, nói: “Trẫm đã có thể giữ lại Tiết Thái, tức là có tự tin nắm chắc hắn trong lòng bàn tay. Đến chút tự tin này cũng không có thì thật thẹn là chủ của một nước, quân vương của Bích quốc!”.
Bên ngoài cửa sổ gió nhẹ khẽ thoảng, cành hoa lay động, một người bước ra khỏi bụi cây, từ xa nhìn lại.
Ánh mắt hai người chạm nhau trong không trung.
Chiêu Doãn ngẩn người, mà người đó đã quỳ xuống, cung kính thưa: “Trầm Ngư tham kiến bệ hạ, thiếp có chuyện muốn cầu xin hoàng thượng truyền gặp”.
Ánh trăng nhàn nhạt như thuỷ ngân, phủ lên cơ thể nàng, khiến toàn thân nàng đều toả ra thứ ánh sáng dịu dàng, chảy tràn tựa băng thanh ngọc khiết không thuộc về trần thế. Mà trong vầng sáng diễm lệ vô hạn đó, thiếu nữ thân mặc áo lam ngẩng đầu lên, đôi mắt như thuỷ tinh trong suốt, dưới thuỷ tinh, còn có đoá hoa đang âm thầm bừng nở.
Mông lung mà sâu thẳm.
Chiêu Doãn nhìn nàng, rất lâu sau, khoé môi nhếch lên cười mỉm, gọi nàng: “Thục phi”.
Cách gọi này, là một loại tuyên thệ quyền lực.
Khương Trầm Ngư cơ hồ có thể cảm thấy được, khí thế uy hiếp đó đang ào ạt lao tới. Rất kỳ quái, rõ ràng là cách chồng gọi vợ, nhưng vì lý do thân phận lại có thể không hề cảm thấy tình cảm, chỉ còn lại sự vạch rõ giai cấp hết sức lạnh lẽo.
Nàng khấu đầu, sau đó đi qua ánh mắt kinh ngạc của đám thị vệ, từng bước đi vào noãn các.
Đêm tháng tư, thời tiết vô cùng dễ chịu. Cửa sổ hai bên vách noãn các đều mở rộng, gió mát lùa vào, thổi tầng tầng rèm sa nặng nề lay động. So với chính điện và thư phòng, nơi này bớt đi ba phần trang nghiêm, tăng thêm bảy phần ấm cúng.
Chiêu Doãn mỉm cười đứng đó, ánh mắt dừng lại trên hạt châu hoa tai của nàng một lát, tấm tắc khen: “Trang sức của Thục phi rất khác biệt”.
Khương Trầm Ngư tươi cười rạng rỡ, lại lần nữa khấu đầu vái lạy, nâng một quyển thư được buộc rất cẩn thận lên đỉnh đầu.
“Đây là cái gì?”.
“Thư tự tiến cử”.
Chiêu Doãn tò mò chau mày, La Hoành bên cạnh đương định đón lấy, y xua xua tay, đích thân cầm lấy, cởi nút dây thừng ra, thứ đầu tiên lọt vào tầm mắt là thể chữ Khải trên văn bia Ngụy ngay ngắn chỉnh tề, bút lực mạnh mẽ, khí tượng hồn hậu, tinh thần bay bổng, kết cấu tự nhiên. Đúng là chưa đọc văn mà đã say mê.
“Chữ đẹp, là thư tự tiến cử của ai?”. Liếc mắt đến lạc khoản bên trái, nhìn thấy để danh cuối cùng, y thoáng ngạc nhiên, “Là của nàng?”.
“Thưa vâng”.
Một cơn gió lướt qua, “Trường Tương Thủ” đung đưa đung đưa.
Đáy mắt Chiêu Doãn nổi vài tia dị sắc, chẳng thèm đọc mà đặt quyển thư sang một bên, chậm rãi nói: “Nàng muốn gì?”.
“Một cơ hội”.
“Cơ hội gì?”.
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, nhìn thẳng y, nói rành rọt từng tiếng: “Một cơ hội tìm được vị trí thực sự thích hợp với bản thân”.
Trong mắt Chiêu Doãn dâng đầy thâm ý, kéo dài tiếng “Ừm”, nhưng vẫn không động thanh sắc. Khương Trầm Ngư biết, vị hoàng đế cố chấp đa nghi này đang đánh giá mình, giờ này phút này, nếu nói sai một câu, nàng sẽ không còn cơ hội đổi đời. Thế nhưng… Cho dù vẫn chưa nói sai, hiện tại ta liệu có cơ hội không?
Vừa nghĩ đến đây, trái tim nàng chùng xuống, bất chấp tất cả, tìm đường sống trong cõi chết, đêm nay, nếu không thể sống thì sẽ chết thôi.
“Hoàng thượng, người có phải là minh quân không?”.
Lời này vừa thốt ra, Chiêu Doãn và La Hoành đồng loạt biến sắc. Một sự uy nghiêm trang trọng vô hình trong không khí trong phút chốc đã nén xuống, tựa như tên đã lên cung, đao nằm trong vỏ, chạm vào là bắn, vung tay là ra.
Chiêu Doãn nhìn chằm chằm Khương Trầm Ngư đang quỳ dưới đất, bỗng bật cười ba tiếng.
Khi y cười tiếng thứ nhất, tên thu đao hồi; cười tiếng thứ hai, áp lực biến mất; cười tiếng thứ ba, gió lành trăng sáng.
Sau ba tiếng cười, thế giới trở về nguyên dạng.
Y ngồi ngả trên ghế, lười biếng hất tua mũ buông trước ngực ra sau vai, mỉm cười nói: “Trẫm có phải là minh quân không, ý nàng thế nào?”.
“Thần thiếp cho rằng, hoàng thượng là minh quân”.
“Ồ, từ đâu mà biết?”.
“Tiền quốc cữu chuyên quyền ngang ngược, ức hiếp bách tính, bao người dám giận mà không dám nói, hoàng thượng tước mũ ô sa của hắn chém đầu hắn, trừ hại cho dân, vạn dân vui mừng, ấy là thánh minh; Tiết Hoài cậy công kiêu ngạo, mạo phạm thánh thượng, cuối cùng phản quốc, hoàng thượng ngự giá thân chinh, tận tay tiễu trừ, vây cánh trăm phương, một lần diệt sạch, ấy là chấn uy, hoàng thượng dùng người chỉ chú trọng tài năng, chẳng tính xuất thân, phong Phan Phương làm tướng, ấy là ân trạch dồi dào. Hơn nữa, hoàng thượng từ khi đăng cơ đến nay, dốc lòng trị quốc, ngày bận muôn việc, giảm sưu dịch, khuyến nông tang, khiến Bích quốc không ngừng phát triển, bách tính an cư lạc nghiệp. Đương nhiên là bậc minh quân”.
Chiêu Doãn nhướn mày, nét cười nơi đáy mắt càng đậm thêm: “Ồ, hóa ra trong mắt Thục phi, trẫm là một hoàng đế tốt như thế”.
“Cho nên, thần thiếp mới cả gan đến đây, đề xuất thỉnh cầu”.
“Nếu trẫm không nghe, thì có phải là sẽ mất chữ “minh” không?”
Khương Trầm Ngư cắn môi run rẩy, đôi mắt như chực khóc, lập tức khiến người ta ý thức được rằng người quỳ dưới đất chẳng qua chỉ là một nữ tử đáng thương, hơn nữa, chỉ mới mười lăm tuổi. Ánh mắt Chiêu Doãn sáng lên trong giây lát, lạnh nhạt nói: “Để giữ chữ “minh” này, trẫm vẫn nghe thử xem. Nói đi”.
Khương Trầm Ngư dập đầu hai cái trên mặt đất, rồi mới nói tiếp: “Điều thần thiếp nói sau đây đều là những lời gan ruột. Có lẽ ấu trĩ nực cười, có lẽ cuồng vọng to gan, có lẽ sẽ xúc phạm long uy, nhưng, đều là suy nghĩ thực sự trong lòng”.
Chiêu Doãn không tỏ thái độ, “ừm” một tiếng.
“Đầu tiên, được lọt vào mắt xanh của hoàng thượng, phong làm Thục phi, người ngoài nhìn vào, vẻ vang biết bao, còn đối với thần thiếp mà nói, lại là khổ không kể xiết…”.
La Hoành nghe đến đây, bỗng trợn trừng mắt, thầm nghĩ tam tiểu thư của hữu tướng gia này thật là to gan, những lời này mà cũng dám nói!
“Người thân trong nhà lo lắng, một khi đã vào thâm cung như biển, kẻ ngu muội ngoan cố như thần thiếp sợ là họa không phải là phúc; trong cung tỉ tỉ tức giận, trước đây là muội muội thân thiết ruột thịt, mà nay lại thành kẻ địch tranh sủng ghen tuông; bản thân thần thiếp cũng hoang mang không chỗ dựa. Mỹ nhân trong cung vô số, luận tài, Cơ quý tần kinh tài tuyệt diễm; luận sắc, Hy Hòa phu nhân diễm lệ vô song. Mà thần thiếp tính cách không đủ ôn hòa, xử sự không đủ khéo léo nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có một thế mạnh”.
“Ồ?”
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, vô cùng chuyên chú nhìn Chiêu Doãn, ánh mắt trong trẻo đó dường như chiếu thẳng vào trái tim y: “Đó chính là – mưu”.
Ba người trong noãn các, Chiêu Doãn ngồi tựa, La Hoành khom lưng và cả Điền Cửu đang ẩn phục, nghe thấy lời này đều bị chấn động.
Giọng nói linh hoạt mà trong trẻo của nàng vẫn như tiếng tiêu trong gió, từng chữ từng chữ xa xăm, từng câu từng câu rành rọt: “Cho nên, thần thiếp đến đây tự tiến cử, nguyện dốc hết trí tuệ nhỏ nhoi, để hoàn thành mưu kế của đế vương”.
Lại một trận gió thổi tới, làm quyển thư trên bàn lăn ra, nội dung bên trong cuối cùng đã hiện ra, rõ ràng là lời nói của một nữ tử yểu điệu, nhưng lại nói lên chí nguyện kinh hãi thế tục dùng thể chữ cứng cỏi, dày dặn như trói tê ngưu, bắt long xà viết từng hàng một: Một mỹ nhân nào hề, tà váy uốn lượn như mây. Gương mặt trắng trẻo mà hình dung tiều tụy hề, y phục phấp phới mà bước đi lảo đảo. Nói năng ngọt ngào từ sớm tới tối, hành vi tĩnh lặng mà ít cười. Phô bày tài năng dung mạo mà không hề diễm lệ, trong lòng đau thương như dao cắt…
Hỏi tên nàng khuê nữ nhà ai, vốn là vợ của chàng đế Nghệ.
Nay trộm được bó cỏ bất tử, bỏ lại hết thảy ơn tình.
Trời lạnh cung trăng sao quạnh quẽ, mây nhô lên cành quế lẻ loi.
Thế đạo tình chàng đều bạc bẽo, ai người hiểu nổi chí xông mây.
Hậu Nghệ kia quả đấng anh hùng, đám mỹ nhân ai ai cũng thích.
Chưa từng nghe hẹn thề trên giấy, sớm đã truyền bàn thạch chuyển dời.
Đáng thương thấy gương mặt phù dung, sương nhuộm thanh tơ (tóc) trắng bời bời.
Chúng phi cười nói vui hết thảy, cô gái nhỏ biết dựa vào ai?
Đấng quân chủ trọng tình ân ái, trong lòng ngài ngưỡng mộ thiên cơ.
Tìm vui những kết tóc tơ, nào đâu được tấc lòng son sắt, Chim lao chim yến bay tán loạn, uyên ương kia phải đâu bất tử.
Nguyện hóa thành nghìn sen tuyệt mỹ, bầu bạn với ván cờ đế vương…
Cái đạo của mưu kế, chính là ở trí tuệ, tranh với đối thủ của mình, thì sẽ thành kết cục. Bốn mục: Phân chế mưu (chia ra để khống chế), thức mưu (nhận ra mưu kế), phá mưu (làm hỏng mưu kế), phản mưu (phản gián), ba mục sau đều lấy khống chế làm trọng, điều chú trọng hàng đầu chính là – công tâm (đánh vào tâm lý).
Vì thế bước này của Khương Trầm Ngư nhìn tưởng là nguy hiểm, nhưng kỳ thực lại tính toán rất chuẩn, không hề có chút hiểm nguy. Tối hôm đó, nàng tắm rửa thay áo xong, xõa tóc nằm trên trường kỷ chăm chú ngắm nhìn ánh trăng trong vắt bên ngoài cửa sổ, tâm tình đã biến đổi hoàn toàn so với lúc trước.
Trước đây là đợi chờ, là nhẫn nhịn, là luyến lưu, là sợ hãi; mà từ nay về sau lại là đợi chờ lâu dài hơn nữa, là nhẫn nhịn lớn hơn nữa, là lưu luyến mà không tỏ thanh sắc hơn nữa, nhưng không cần sợ hãi gì nữa.
Phá phủ trầm u, ai binh tất thắng, khi một người thứ gì cũng dám đem ra trả giá, thì không có gì có thể khiến nàng sợ hãi nữa. Bởi vì, dù sao cũng không thể tồi tệ hơn hiện tại nữa cho nên ngày mai hẳn sẽ càng tốt hơn.
Nàng bỗng lên tiếng: “Hoài Cẩn, tỉ tỉ nói giữa hoàng thượng và Hy Hòa có một điểm chung, là điều người khác không có, vì thế hình thành địa vị độc nhất vô nhị của Hy Hòa, em có biết là gì không?”.
Hoài Cẩn thận trọng suy nghĩ hồi lâu, cười cùng lắc đầu.
“Ta đã nghĩ rất lâu mà không nghĩ ra. Sau đó ta lại nghĩ, vậy thì giữa ta và hoàng thượng có điểm gì khác nhau; giữa Hy Hòa và ta lại có điểm gì khác nhau đây? Khi ta thay đổi cách suy nghĩ, đáp án đã xuất hiện”. Khương Trầm Ngư cười nhàn nhạt với ánh trăng, “Đó chính là – thân thế”.
“Thân thế?”
“Chúng ta đều biết, hoàng thượng do một cung nữ không được sủng ái sinh ra, cho đến trước năm mười tuổi, ngài sống mà không được ai chăm sóc, sau năm mười tuổi, ngài bắt đầu học chữ tỏ chính kiến biết mưu lược thông đế thuật, sự gian khổ nóng lạnh trong đó chỉ có ngài tự biết. Hy Hòa cũng vậy, phụ thân là một con sâu rượu, mẫu thân lại nhu nhược, ta nghe nói khi lên năm tuổi, phu nhân đã phải chân trần bán hoa trước Thiên Mặc Trai, cho đến tận năm mười bốn tuổi.
Tuổi thơ họ đều cực khổ, cho nên hoàng thượng đối với Hy Hòa khó tránh khỏi có cảm giác đồng mệnh tương lân (cùng số mệnh nên thương xót lẫn nhau), cũng vì thế, ngài dùng hết quyền lực tối thượng của mình để thành toàn cho Hy Hòa. Bởi vì, sự sắc sảo của ngài đã bị mài phẳng, đục tận, còn Hy Hòa vẫn còn sắc bén”.
Đây chính là lý do vì sao đêm nay nàng dùng phương thức này đến trước mặt y, tiền đề của vai diễn đó là Chiêu Doãn thích, thậm chí có thể nói là thưởng thức một cách bệnh hoạn và thành toàn cho người có cá tính.
Ví như Hy Hòa ngang tàng diễm lệ, ví như Cơ Hốt cổ quái lập dị.
Còn có… tỉ tỉ của ba năm trước.
Khương Họa Nguyệt khi đó còn mang dã tâm thơ ngây của một thiếu nữ, nhưng vào cung rồi, sắc sảo dần giấu bớt, tính cách cũng thêm khéo léo, lại khiến Chiêu Doãn mất hứng thú.
Vì thế, muốn được Chiêu Doãn coi trọng, đầu tiên phải thể hiện sự khác biệt của mình với đám đông.
Thứ hai, chỉ có tính cách thôi chưa đủ, còn cần năng lực tương xứng với tính cách. Ví như Hy Hòa có mỹ mạo khuynh quốc, Cơ Hốt có tài năng tuyệt thế.
“Nhưng tiểu thư xưa nay chưa từng tỏ ra có hứng thú với mưu lược…”, Ác Du không hiểu. Trong ấn tượng của nàng, tam tiểu thư luôn có tính tình ôn hòa, nhu thuận, nghe lời; đối với bọn người dưới cũng là một chủ nhân tốt, vui vẻ hiền hòa, không nổi nóng bừa bãi, nhưng nều nói nàng là Gia Cát tiên sinh trong đám nữ lưu, thì quả có chút khiên cưỡng.
Khương Trầm Ngư liếc nàng một cái, cười nói: “Ác Du cho rằng thế nào là mưu?”.
“Mưu không phải là bàn mưu tính kế sao?”.
“Mưu chính là làm chuyện có lợi nhất cho chủ nhân, nói lời dễ nghe nhất đối với chủ nhân. Nói đơn giản tức là lấy lòng”.
“Lấy lòng?”. Hai a hoàn đồng loạt trợn tròn mắt, quả thực họ chưa từng nghe thấy luận điệu này.
“Không sai. Lấy lòng. Cho dù nghe có vẻ giản đơn, nhưng cũng chia làm ba tầng thượng trung hạ. Hạng hạ thừa lấy lòng người bên cạnh, hạng trung thừa lấy lòng người đương quyền, hạng thượng thừa lấy lòng toàn thiên hạ, làm được thì mọi việc đều tốt đẹp”. Thấy hai nàng không hiểu, Khương Trầm Ngư bắt đầu lấy ví dụ, “Ví như ta, trước đây là hạng hạ thừa, lấy lòng người bên cạnh, khiến họ đều thích ta; Hy Hòa là hạng trung thừa, nàng ta làm vui lòng hoàng thượng, còn Kỳ Úc hầu…”, nhắc đến cái tên này, ánh mắt không kìm được sầm lại, nhưng khi mở miệng, lại như gió nhẹ mây nhạt, “Chàng chính là hạng thượng thừa, là nơi lòng dân Bích quốc hiện nay hướng về”.
“Cũng có nghĩa là tiểu thư phải từ hạ biến thành thượng?”.
“Hiện giờ ta chưa có bản lĩnh đó”, đầu tiên phải biến thành trung mới là việc cấp bách trước mắt. Mồi đã buông xuống, còn chưa chắc chắn cá có cắn câu hay không.
Đương nghĩ tới đây, ngoài cửa có người thông báo: “Nô tài La Hoành thỉnh an Thục phi”.
Khương Trầm Ngư vội vàng khoác áo trở dậy, đi ra gian ngoài, La Hoành đang đứng giữa sảnh, thi lễ với nàng, nói: “Hoàng thượng lệnh cho nô tài đem vật này giao cho Thục phi”. Nói rồi đưa lên một vật.
Khương Trầm Ngư nhận lấy, lại là một bản tấu màu tím, mở ra xem xong, sắc mặt biến đổi, do dự nhìn La Hoành: “Công công đây là?”.
“Hoàng thượng nói, ngày mai trước buổi chầu sớm, nếu Thục phi có hồi âm, xin hãy sai cung nhân đưa đến”. Ánh mắt Khương Trầm Ngư vụt sáng, tươi cười: “Vâng, mời công công cứ về trước, trước giờ Tí, tất sẽ có hồi âm trình lên hoàng thượng”.
La Hoành khom mình lui ra, Khương Trầm Ngư nhìn theo bóng ông ta, nụ cười dần dần biến mất, quay người đi đến trước thư án, nàng gọi: “Hoài Cẩn, mài mực”.
Ác Du đứng cạnh tò mò hỏi: “Tiểu thư, đó là gì?”. “Đề thi”.
“Hả?”. Hoài Cẩn vừa mài mực lại vừa nhìn đồ đằng và chữ viết trên cuốn sổ, ngạc nhiên hỏi: “Đây chẳng phải là quốc thư của Trình quốc sao?”.
“Ừ”. Khương Trầm Ngư không hề ngẩng đầu, lấy bút chấm mực liền bắt đầu viết, viết mấy hàng, nghĩ một lát, không lâu sau, trên trang giấy đã viết kín tên người.
Hoài Cẩn nói: “Trong thư Trình vương có thỉnh hoàng thượng phái sứ thần đến dự yến, hoàng thượng lại giao bức thư này cho nương nương, rốt cuộc là có dụng ý gì?”.
Khương Trầm Ngư cầm bút, nhìn những cái tên kín đặc trên trang giấy đó, trầm giọng nói: “Ngài đang thử xem ta có đủ tư cách làm mưu sĩ của ngài hay không”.
“Cũng có nghĩa là hoàng thượng muốn xem người mà nương nương chọn có phải là người ngài muốn hay không.”
“Đây là trận đầu của ta, chỉ được thắng không được thua.” Bút lông như đao, lướt bay trên giấy, bút nhấc đao hạ, từng tên người một nhanh chóng bị gạch bỏ, cái tên đầu tiên chính là Cơ Anh.
Hoài Cẩn thở một hơi, dè dặt hỏi: “Với địa vị tôn quý của công chúa Trình quốc, người có thể tương xứng với nàng cũng chỉ Kỳ Úc hầu thôi…”. Lẽ nào tiểu thư vẫn còn để ý chuyện đã từng lập hôn ước, nên còn giấu chút lòng riêng?
Khương Trầm Ngư dường như hiểu suy nghĩ của Hoài Cẩn, lắc đầu nói: “Kỳ Úc hầu là tương xứng nhất, nhưng cũng không thích hợp nhất”.
“Tại sao?”. Ác Du liền hỏi.
“Vì ta đã từng nói, hoàng đế sẽ không cho phép thế lực của Cơ gia càng ngày càng lớn mạnh, trở thành Tiết gia thứ hai, chứ đừng nói là làm phò mã của Trình quốc”.
Ác Du chớp chớp mắt, đột nhiên chỉ một cái tên khác bị loại trừ trên giấy, kêu lên: “A! Tiểu thư cũng loại đại công tử!”.
Hoài Cẩn che miệng cười nói: “Đại công tử đã lấy vợ rồi mà, đương nhiên không nằm trong số người được cân nhắc, huống chi dù công tử muốn lấy, cũng phải chờ thiếu phu nhân đồng ý mới được”. Khương phủ trên dưới đều biết, thiếu phu nhân Lý thị hay ghen, mà Khương Hiếu Thành lại háo sắc, vì thế giữa hai vợ chồng đã cãi nhau không biết bao nhiêu lần.
Khương Trầm Ngư lại có cách nghĩ khác với họ: “Ca ca bản tính bộp chộp, nếu thực sự cưới được Di Thù, là họa chứ không phải phúc, đến lúc vạ lây cả nhà, thần tiên khó cứu”.
Ca ca của mình tính tình thế nào, nàng rõ nhất, nhưng trong chuyện này, chưa nói là có phúc mà được chọn hay không, dù y có thể, nàng cũng không cho phép, hoàng thượng đã không muốn để Cơ Anh nhận được vinh dự đặc biệt này, sao lại có thể cho Khương gia hưởng lợi?
Văn võ khắp triều, bao nhiêu người như thế, nhưng đến lúc cần chọn lựa thực sự, sao lại cảm thấy ít đến đáng thương.
Ngòi bút cứ quẩn quanh trên hàng tên người càng lúc càng ít đi cuối cùng dừng lại trên cái tên “Giang Vãn Y”, trong lòng một tiếng nói nào đó vang lên: Đúng rồi, đúng là hắn.
Một ngày trước khi tiến cung, còn loáng thoáng nghe nói hoàng thượng có ý để cho Đề điểm Thái y viện Giang Hoài nhận họ hàng với Hy Hòa phu nhân, nếu tin này là thực, vậy thì người thích hợp nhất trong lòng hoàng đế chắc chắn là vị bạch y khanh tướng, thiếu niên tài tuấn, y thuật cao thâm này rồi. Bởi vì… ngài đã trừ bỏ một Tiết gia, cho nên, phải vực một Diệp gia lên, để tranh đoạt thế chân vạc này… chăng?
Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn cái tên đó, bất động hồi lâu.
Cho đến khi Hoài Cẩn bên cạnh nhắc nhở: “Nương nương, đã là giờ Hợi ba khắc rồi”.
Nàng giật thót mình như vừa tỉnh mộng, cuối cùng mỉm cười, lấy ra một tờ thiếp hoa văn hoa lệ phủ ánh bạc rất tinh xảo viết một cái tên lên đó, sau đó niêm phong, giao cho Ác Du rồi nói: “Đưa thiếp này cho La công công”.
Thế là, Ác Du giao cho La Hoành tờ thiếp mỏng này, rồi lại từ La Hoành trình lên tay Chiêu Doãn thâu đêm phê tấu chương còn chưa ngủ, y bóc niêm phong, bên trong viết hai chữ: “Phán Phương”.
Không phải là Giang Vãn Y sao?
Canh năm lạnh lẽo.
Khương Trầm Ngư suốt đêm không chợp mắt, ngồi đợi trong Dao Quang điện.
Mà trên triều đường, văn võ bá quan ai nấy sắc mặt nghiêm trang, thì thào bàn tán, một bầu không khí lo lắng bao trùm hết thảy.
Chiêu Doãn tựa vào long ỷ, thấy vậy mỉm cười: “Chư vị ái khanh, đã chọn được người đi Trình quốc chúc thọ chưa?”.
Quần thần ai nấy nhìn nhau, cuối cùng đều dồn ánh mắt sang Cơ Anh, chỉ riêng Cơ Anh là cúi đầu, sắc mặt trầm tĩnh, không nói nửa lời, xem ra không hề hứng thú với chuyện này. Nếu Kỳ Úc hầu không đi, thì có thể cử ai đây?
Ánh mắt Chiêu Doãn quét qua một lượt, nhìn xuống Khương Trọng: “Hữu tướng đề cử ai?”.
Khương Trọng ngần ngừ bước ra khỏi hàng, tâu: “Hồi bẩm hoàng thượng, theo lão thần, ứng cử viên phái đi Trình quốc cần thận trọng suy nghĩ mới phải…”, chỉ nghe câu nói mào đầu này, Chiêu Doãn đã đoán được lão hồ ly này lại bắt đầu vòng vo, quả nhiên, Khương Trọng nói tiếp, “Nghe nói công chúa Trình quốc Di Thù tuy tài mạo song toàn, nhưng đức hạnh không đủ, tính cách)
thô bạo, lại chẳng hề kính trọng ba vị huynh trưởng, một con ngựa yên chi(4 )như thế, không phải là thứ người bình thường có thể thuần phục, cho nên, ứng cử viên của chuyến đi này nhất định phải lựa chọn thận trọng hơn nữa mới phải, hỏi cưới công chúa không thành là chuyện nhỏ, mất thể diện của Bích quốc mới là chuyện lớn. Hoàng thượng anh minh duệ vũ, hẳn trong lòng đã có ứng cử viên…”.
Còn chưa nói xong, Chiêu Doãn đã mất kiên nhẫn khoát tay: “Được rồi. Kỳ Úc, khanh nói đi!”
Quần thần thấy mũi dùi chỉ vào Kỳ Úc hầu, ai nấy đều dỏng tai lắng nghe.
Cơ Anh đứng ra khỏi hàng, nhưng lại đứng yên hồi lâu giữa đại điện, cuối cùng lên tiếng: “Vi thần tiến cử một người – thần y Giang Vãn Y”.
Đáp án này rõ ràng nằm ngoài dự liệu của quần thần, sau cơn kinh ngạc liền chụm đầu xì xầm. Giang Vãn Y này là người thế nào? Chỉ là con trai của một viên Đề điểm Thái y viện ngũ phẩm cỏn con, không có công danh, chỉ nhờ chuyện Hy Hòa phu nhân trúng độc mà nổi danh, nhưng rốt cuộc chỉ là một kẻ hàn sĩ áo vải, sao có thể đại diện cho Bích quốc đua tranh ngôi phò mã?
Chiêu Doãn nghe xong lại gật đầu có vẻ đồng ý, cười nói: “Kỳ Úc hầu đích thân tiến cử, hẳn có chỗ hơn người”.
“Thần tiến cử người này có ba nguyên nhân. Thứ nhất, Trình vương nằm trên giường bệnh đã lâu, Di Thù thân là con gái ắt trong lòng cực kỳ lo âu, nếu Vãn Y có thể trị khỏi bệnh cho Trình vương, nếu không được thụ phong phò mã, cũng có ơn huệ khác”.
Quần thần nghe đến đây, không nhịn được vỗ bàn kêu tuyệt – Đúng thế! Chỉ cần trị khỏi bệnh cho cha, còn sợ con gái không chịu gả sao? Như thế so với hao tổn tâm tư đề thi tài văn võ với ứng cử viên của hai nước khác, khả năng thắng còn nhiều hơn, cũng cao minh hơn nhiều! Quả nhiên không hổ là Kỳ Úc hầu, ứng cử viên ngài đề xuất cũng khác với người bình thường.
“Thứ hai, Vãn Y tuy không có công danh, nhưng lại là anh họ của Hy Hòa phu nhân, hoàng thân quốc thích, thân phận cao quý, đủ để xứng với công chúa”.
Câu thứ hai vừa nói ra, quần thần sửng sốt.
Gì chứ? Giang Vãn Y là anh họ của Hy Hòa phu nhân? Chuyện này là sao?
Hai người họ nhận thân thích khi nào? Mà những đại thần nghe tin đồn trước đó biết được chuyện này lại có vẻ mặt phức tạp: Nếu ngăn cản, ý của thiên tử kẻ nào to gan dám vuốt râu rồng? Nếu không ngăn cản, mắt nhìn thấy yêu phi kia có chỗ dựa chắc chắn, tương lai nhất định càng được ân sủng, đến lúc đó muốn trừ bỏ khó lại càng thêm khó…
Lại nhìn hoàng thượng, mày mắt cong cong, cười rất tươi: “Hóa ra Kỳ Úc hầu đã biết chuyện này, không sai, trẫm đang chuẩn bị chọn ngày lành tháng tốt, để hai nhà Giang – Diệp nhận tổ quy tông, như thế này cũng hay, vừa khéo có thể phong tước vị, để Giang Vãn Y đường hoàng đến Trình quốc”.
Quần thần nghe hoàng thượng nói như vậy, vội vàng nuốt những lời chực nói lại, trong lòng hiểu rõ: Cái gì mà Kỳ Úc hầu tiến cử ứng cử viên, rõ ràng là quân thần hai người đã bàn bạc xong xuôi, một xướng một đáp, đúng là diễn trò.
Cơ Anh tiếp tục nói: “Thứ ba, Vãn Y không chỉ tinh thông y thuật, mà văn tài xuất sắc, lại thêm tướng mạo xuất chúng, khiêm nhã lễ độ, không thua kém bất cứ vương tôn công tử nào, chính là ứng cử viên hàng đầu cho ngôi vị phò mã”.
Chiêu Doãn cười lớn: “Tốt, rất tốt, vô cùng tốt”, dứt lời quay đầu lại nói: “Các ái khanh thấy thế nào?”.
Quần thần đến đây ai còn nói gì được, lập tức cúi đầu nghe theo.
Cùng lúc đó, một tiểu thái giám chạy như bay đến Dao Quang điện, trần thuật lại một lượt tình hình trên triều đường cho Khương Trầm Ngư chờ đợi đã lâu nghe, cuối cùng nói: “Bẩm nương nương, đám đại thần bàn bạc một lượt xong, toàn bộ đều đồng ý phái Giang Vãn Y đi”.
Ác Du lo lắng nói: “Nương nương, làm sao đây? Hoàng thượng chọn Giang Vãn Y”.
Khương Trầm Ngư cắn môi, cuối cùng chỉ nói ba tiếng: “Thăm dò tiếp”.
Trên triều, ứng cử viên sứ thần đã được xác định trong tiếng phụ họa của quần thần. Chiêu Doãn đột nhiên nói: “Đúng rồi, Phan tướng quân đang ở đâu?”.
La Hoành bên cạnh đáp: “Tả tướng quân đi Bình Thu để thu hài cốt tu sửa mộ cho cha, tính ngày cũng sắp về rồi”.
Chiêu Doãn gật đầu nói: “Phan khanh một lòng hiếu thảo, cảm động thấu trời”, ngừng lại một lát, lại nói: “Chuyến này đến Trình quốc, ngàn dặm xa xôi, Vãn Y không biết võ công, lại thêm trời có lúc mưa gió bất trắc, đi thuyền trên biển, sợ gặp hung hiểm. Chi bằng cử Phan khanh cùng đi, hai bên phối hợp với nhau. Truyền thánh chỉ của trẫm, lệnh cho y đợi ở Nguyên Châu, khi Giang khanh đến, cùng nhau lên thuyền, coi như tới Trình quốc cho khuây khỏa”.
Thế là trên thánh chỉ lại có thêm một mục, quần thần đồng loạt tung hô ngô chúa anh minh. Chiêu Doãn nghe những lời tán tụng, nhìn dáng vẻ vâng vâng dạ dạ của họ, trong lòng sung sướng. Nghĩ năm đó khi Tiết thị nắm quyền, mình mấy khi được mát mặt như thế này, nói một, chúng thần đâu dám nói hai? Cảm giác thực quyền trong tay quả nhiên rất tuyệt, rất rất tuyệt…
La Hoành đem thánh chỉ đã soạn xong trình lên cho y duyệt, Chiêu Doãn nhìn thấy hai cái tên “Giang Vãn Y” và “Phan Phương” bằng mực đen trên lụa vàng, đột nhiên nhớ tới bức thiếp thư mà Khương Trầm Ngư đưa đến mấy canh giờ trước, bèn không kìm được bật cười.
Sảng khoái! Sảng khoái! Xưng đế bốn năm, hôm nay là lần sảng khoái nhất!
Y đứng dậy, quay người phất tay áo rời đi, La Hoành lập tức cao giọng: “Bãi triều!”.
Trong Dao Quang điện, Khương Trầm Ngư nghe tiểu thái giám đến báo cáo lần thứ hai, quả tim đang lơ lửng cuối cùng đã hạ xuống, nhưng khi vừa thở phào lại cảm thấy cực kỳ bất an.
Nàng rốt cuộc vẫn đánh giá thấp hoàng đế.
Một lòng muốn ra đòn bất ngờ giành chiến thắng, cho nên tuy biết rõ về tình về thế, Giang Vãn Y đều là ứng cử viên tốt nhất nhưng vẫn một mình một phách, chọn Phan Phương trong đám triều thần.
Nàng chọn Phan Phương cũng có ba nguyên nhân: Thứ nhất Phan Phương là tả tướng đương triều, thân phận quyền thế đã hoàn toàn khác trước, mà hoàng thượng còn có ý lôi kéo y, song song với ban cho y vinh dự tột độ, lại ban cho y hôn sự, đó chính là thêu hoa trên gấm, sủng càng thêm sủng.
Thứ hai, Di Thù tuy cao ngạo, coi nam tử thiên hạ như đồ bỏ, không thèm đoái hoài bọn thư sinh tầm thường, nhưng lại vô cùng sùng bái anh hùng, Phan Phương là một thân nam nhi lẫm liệt, dày dạn sa trường, lại nặng tình với Tần nương, trong lòng chắc chắn không muốn cưới công chúa.
Khi những sứ thần khác lũ lượt giành giật Di Thù, duy chỉ có Phan Phương hững hờ lạnh nhạt, so sánh hai bên, công chúa tâm cao khí ngạo kia sẽ càng có hứng thú với ai hơn, không nói cũng tự biết.
Thứ ba, tất cả đều biết, Trình quốc hiếu võ, đặc biệt là phương diện luyện binh khí, thành tựu nổi bật: Nhưng đã là đồ của mình thì chổi cùn cũng quý, huống hồ những thứ cơ mật như vậy sao chịu tiết lộ cho nước lân bang? Cho nên, lần này trên danh nghĩa là cưới công chúa, nhưng những việc có thể ngầm làm khá nhiều. Giang Vãn Y tuy điểm nào cũng tốt, duy chuyện không biết võ công thật là nguy hiểm, nếu đổi lại là Phan Phương thì sẽ khác, y tuy là võ phu, nhưng có cơ trí, tình cảnh giác, trầm ổn mà lão luyện, nếu không sao có thể chỉ huy ba quân. Cho dù nhìn từ phương diện nào, y cũng là lựa chọn thích hợp nhất.
Về điểm thứ ba này, Hoài Cẩn từng thắc mắc: “Nếu y đúng là người thông minh, ban đầu sao còn một mình đến Tiết phủ, không những không đòi được công bằng cho Tần nương, ngược lại còn bị đánh bán sống bán chết?”.
Khương Trầm Ngư lúc đó đã trả lời nàng như thế này: “Đó là vì quá quan tâm mà hoảng loạn. Tần nương là điểm yếu duy nhất của Phan Phương, hễ chuyện liên quan đến Tần nương, Phan Phương sẽ không còn sáng suốt. Thế nhưng, hiện tại điểm yếu duy nhất này đã không còn, thiên hạ còn có thứ gì có thể khiến y xúc động nữa?”.
Nhưng kỳ thực ba lý do này đều là bề mặt, mà lý do thực sự chỉ có hai điểm: Một là nàng không muốn để Hy Hòa đắc thế, cho nên không thể để Giang Vãn Y trở thành phò mã của Trình quốc.
Hai là so với việc phong hậu của hậu cung, lúc này hoàng thượng coi trọng lòng người trong triều hơn, mà Phan Phương là người mà ngài muốn thu nạp nhất.
Có hai lý do này, nàng có thể bỏ qua ứng cử viên tốt nhất trong dự tính của Chiêu Doãn, đề xuất cái tên nàng muốn nêu.
Chỉ là không ngờ, cuối cùng vẫn là… thua một nước.
Cao minh thay…
Chiêu Doãn thông minh hơn nàng tưởng nhiều, bởi vì y không chọn một trong hai người, mà dứt khoát chọn cả hai, như thế, Giang Vãn Y cớ nhiên có thể trị bệnh cho Trình vương, Phan Phương cũng có thể nhân cơ hội này lén đánh cắp quân tình Trình quốc, cho dù trong hai người họ ai lọt vào mắt xanh của Di Thù, đối với hoàng đế mà nói đều là thắng cuộc. Cho dù họ đều không làm được phò mã của Trình quốc, chỉ cần làm ổn thỏa hai việc kia là đã đạt mục đích của chuyến đi này.
Bản thân nàng quả nhiên vẫn còn hơi non nớt. Khương Trầm Ngư nhìn ban mai ngoài khung cửa sổ, có chút nhụt chí, nhưng rất nhanh chóng đã xốc lại tinh thần, cho dù thế nào, khởi đầu thế này cũng không tồi, con đường tương lai vẫn còn rất dài, trận đánh lần này không thật xuất sắc, lần sau sẽ càng đặc sắc hơn. Cái nàng còn thiếu không phải là trí tuệ mà là kinh nghiệm. Giống như một đứa trẻ còn để chỏm, sao có thể trong một đêm mà vụt lớn.
Cho nên, không có gì đáng ngại.
Nàng nhắm mắt, hết lần này đến lần khác tự nhủ, không đáng ngại, còn có cơ hội lần sau. Lần sau, nàng nhất định sẽ tiến bộ.
Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, sau đó mở mắt, ánh nắng nơi chân trời tươi sáng vô hạn, ánh lên gương mặt mộc của nàng, khiến đôi đồng tử sáng long lanh, tựa như ngôi sao sớm đầu tiên rơi xuống nhân gian.
Chính lúc này, La Hoành xuất hiện ngoài cửa điện, cười híp mắt khom lưng nói: “Hoàng thượng có lời mời Thục phi.”
Đến rồi.
Nhanh như vậy, nàng đã đợi được cơ hội thứ hai.
Tà dương lặn xuống phía Tây, chân trời lúc hoàng hôn mây đỏ như gấm.
Nhưng chốn hậu cung sâu thăm thẳm, dưới tầng tầng mái hiên, bóng râm âm u. Cơ hồ hễ bước vào trong điện là bị hơi lạnh chụp lấy, Khương Trầm Ngư không kìm nổi khép chặt vạt áo.
Trong ngự thư phòng, Chiêu Doãn chắp hai tay sau lưng đứng trước cửa sổ, chăm chú nhìn ánh chiều tà ngoài xa, thần sắc tĩnh lặng, không biết đang nghĩ gì. Thấy nàng tới, cũng chỉ khoát tay cho La Hoành lui xuống, La Hoành biết ý, bảo tất cả cung nhân cùng ra ngoài, chỉ nghe “cạch” một tiếng, cửa phòng đóng lại, trong phòng chỉ còn lại hai người bọn họ.
Khương Trầm Ngư khấu đầu: “Trầm Ngư tham kiến bệ hạ”.
Chiêu Doãn “ừm” một tiếng, không hề quay người lại, ánh mắt vẫn dõi về phía ráng chiều. Y không nói, nàng cũng không dám đứng dậy, chỉ yên phận quỳ dưới đất, trong lòng hơi thấp thỏm, không biết vị hoàng đế hỉ nộ bất thường này rốt cuộc đang nghĩ điều gì.
Cát trong chiếc đồng hồ cát trên trường án chảy từng chút từng chút một, bất cứ tiếng động nhỏ nào đều trở nên cực kỳ rõ ràng trong không gian tĩnh mịch này. Nàng nghe thấy tiếng thở gấp gáp vì căng thẳng của mình, nhưng kỳ lạ là Chiêu Doãn cũng không khá hơn nàng là bao, tiếng thở của y lúc nhanh lúc chậm, rõ ràng đang do dự.
Cứ như thế một lúc lâu, cuối cùng Chiêu Doãn thở dài, cất tiếng: “Trong thư tự tiến cử nàng có viết ‘nguyện hóa thành ngàn sen tuyệt mỹ, bầu bạn với ván cờ đế vương’, có thật hay không?”.
Nàng cụp mi đáp: “Vô cùng thật lòng, chẳng dám khi quân”.
Lúc này Chiêu Doãn mới quay người lại, ánh mắt thâm u khó dò quét qua người nàng một lượt, sau đó đích thân đỡ nàng dậy: “Đứng dậy đi”.
Khương Trầm Ngư ngước mắt lên nhìn y, ánh mắt hai người giao nhau giữa không trung, Chiêu Doãn nhìn nàng chằm chằm, dùng một giọng nói hết sức chân thành, chậm rãi nói: “Trầm Ngư, nàng là một mỹ nhân”.
Rèm mi nàng run rẩy, cảm nhận được ẩn ý của y, quả nhiên, Chiêu Doãn lập tức buông cánh tay nàng ra, quay người đi đến ngồi trước ngự án, tiếp tục nói: “Nhưng, trong cung này, thứ thừa thãi nhất chính là mỹ nhân”.
Nàng im lặng nhìn y, không có bất kỳ phản ứng nào.
Chiêu Doãn lại nói: “Trẫm tuyển nàng vào cung, nàng có hận trẫm không?”.
Hận ư? Trầm Ngư nghĩ: Có lẽ đã từng… mới đầu nghe ‘thánh chỉ’ khi biết mình không thể gả cho Kỳ Úc hầu nữa, khi tỉ tỉ vì vậy mà không thèm để ý đến mình… quả thực nàng từng giận lây vị hoàng đế này. Thế nhưng, đến khi bình tĩnh trở lại, nàng lại hiểu rằng, Chiêu Doãn chỉ là người châm ngòi, còn nguồn họa đã sớm được chôn sâu. Cho nên, bây giờ y hỏi nàng có hận y hay không, nàng có thể trả lời thế nào đây?
Chiêu Doãn không đợi nàng trả lời, tự nói tiếp: “Cho dù nàng hận trẫm, sự tình cũng đã định rồi, nàng thích cũng được, mà không thích cũng chẳng sao. Thâm cung nội viện này từ đây về sau chính là trời và đất của nàng, và cái danh phận phi tử này cũng sẽ theo nàng suốt cuộc đời, không thể thay đổi”.
Khóe môi Khương Trầm Ngư run run, mấy lời cơ hồ đã chực buột ra khỏi miệng, nhưng đến đầu lưỡi lại bị đè sâu xuống. Y nói không sai, hết thảy đều đã định, không thể thay đổi.
“Trẫm biết nàng không cam tâm, cho nên nàng mới chủ động thỉnh cầu được trợ giúp trẫm, mà trẫm cũng hổ thẹn với nàng, cho nên”, trong đồng tử của Chiêu Doãn phản chiếu bóng dáng nàng, y nghiêm giọng nói: “trẫm quyết định thành toàn cho nàng”.
Nàng lập tức ngẩng đầu lên nhìn y, không rõ là buồn hay vui.
“Bây giờ có hai con đường bày ra trước mặt nàng. Con đường thứ nhất cũng là con đường mà tất cả nữ nhân trong cung đều đi, trở thành người đầu gối tay ấp của trẫm, sinh con cho trẫm, nếu như con trai của nàng xuất sắc, tương lai được lập làm người kế vị, nàng có thể trở thành thái hậu, phúc trạch dồi dào già chết trong cung”.
Khương Trầm Ngư mím chặt môi.
“Còn đường thứ hai”, Chiêu Doãn chợt cười, ánh mắt sáng lấp lánh mang theo sự hân hoan tán thưởng, “cũng chính là con đường nàng yêu cầu, trở thành mưu sĩ của trẫm, phò tá cơ nghiệp của trẫm, trở thành cánh tay của trẫm, vì trẫm giữ vững giang sơn Đồ Bích này. Trẫm không cho nàng ngôi hậu, không cho nàng tư tình, nhưng, chỉ cần trẫm còn tại vị một ngày, thì cạnh ngai vàng này luôn có một chỗ cho nàng”.
Khương Trầm Ngư quỳ sụp xuống: “Nguyện cùng hoàng thượng bảo vệ Đồ Bích, không rời không bỏ”. Không sai, đây chính là yêu cầu thực sự của nàng. Chiêu Doãn đã hiểu rõ thư tự tiến cử của nàng. Trong bài thơ nàng dùng điển cố “Thường Nga bôn nguyệt” để bày tỏ mình không muốn làm thê tử của y, bởi vì ân sủng dễ mất, tình ái khó giữ. Nhưng cánh tay thì lại khác, nếu như nói Cơ Anh là cánh tay trái của Chiêu Doãn, vậy thì, bản thân nàng phải trở thành cánh tay phải của y, cho dù không thể trở thành phu thê, nàng cũng phải đứng ở địa vị ngang với Cơ Anh, cùng chàng ngắm nhìn phong cảnh thịnh thế.
Bởi vì… Bởi vì…
Nàng yêu chàng đến mức trở nên hèn mọn, hèn mọn đến mức, cho dù chỉ là có thể có cùng một bầu trời với chàng là đã cảm thấy mãn nguyện.
Cơ Anh không thích nàng, không sao cả nếu đời này đã định không có duyên vợ chồng, vậy thì, có tình đồng liêu vậy. Chỉ có như thế mới không phụ nàng và chàng cùng sinh ra trong thời đại này, cùng sống trên cương thổ Bích quốc, cùng là thần tử của đế vương.
Khi trán nàng chạm phải mặt đất lạnh giá, những giọt lệ nóng hổi trào ra, lòng chợt thấy bình yên nhưng cũng có chút thê lương.
Chiêu Doãn lạnh nhạt nhìn nàng, trong đáy mắt lóe lên vài tia thương xót, nhưng cuối cùng vẫn bị sự hà khắc che phủ: “Nhưng, phải nói rõ ràng, làm cánh tay của trẫm không phải là chuyện dễ dàng. Trí tuệ của nàng trẫm đã lãnh hội một lần, nhưng còn lâu mới đủ. Cho nên, bây giờ trẫm muốn kiểm tra nàng lần thứ hai. Nếu không hoàn thành, sẽ liên lụy tới vận mệnh sau này của nàng và cả Khương gia”.
Trong lòng như có tảng đá từ từ đè nặng, Khương Trầm Ngư mở to mắt, nín thở, sau đó nhìn miệng Chiêu Doãn khép khép mở mở, nói: “Trẫm muốn nàng, Phan Phương, Giang Vãn Y cùng đi Trình quốc”.
Trong tích tắc, hơi thở của nàng như nghẹn lại. Đi Trình quốc… Đi Trình quốc!
Cơ hội thứ hai lại là sai nàng đi Trình quốc.
Không thể không nói chuyện này hoàn toàn bất ngờ với nàng. Dù nàng có thông minh tuyệt đỉnh hơn nữa, cũng không thể ngờ rằng Chiêu Doãn sẽ ra một quyết định có thể nói là to gan đến mức hoang đường như thế này: Phái một phi tử, làm một quân cờ ngầm, ra khỏi hoàng cung, đến nước địch.
Phút chốc, trong đầu lóe lên vô số suy nghĩ, trong lúc rối rắm, lại dường như nắm bắt được một điều vô cùng quan trọng nào đó, hơn nữa còn có một giọng nói bảo nàng, nhất định phải giữ lấy, giữ chặt lấy. Không vào hang cọp, sao bắt được cọp con. Bước ngoặt nguy hiểm nhất, hoang đường nhất luôn là cơ hội tốt nhất!
Nghĩ đến đây, nàng ngẩng đầu kiên định nói: “Bệ hạ muốn thần thiếp đi với thân phận gì?”.
“Dược sư. Sư muội của Vãn Y”.
“Mục đích?”.
“Thúc đẩy một trong hai người liên hôn với công chúa Trình quốc, và, lấy được binh khí phổ cơ mật của Trình quốc”.
Quả nhiên ghê gớm. Vị hoàng đế này không chọn một trong hai, mà là muốn có cả hai.
Khương Trầm Ngư cắn chặt răng, cảm thấy hai tay mình đang không ngừng run rẩy. Nàng quá rõ mức độ gian khổ và nguy hiểm của nhiệm vụ này, cũng biết việc thành việc bại sẽ có kết cục như thế nào. Lẽ nào nàng thực sự phải khiêu chiến một bài toán khó như vậy? Kỳ thực sống suốt đời trong cung như nước chảy bèo trôi cũng chẳng sao, có thể nhàn nhã ngắm hoa cỏ, đợi mình dần dần già đi, ít nhất, không cần lao tâm nhọc sức, không cần rơi vào tình thế nguy cơ bốn bề…
Khương Trầm Ngư nhắm mắt lại. Trái tim chìm xuống tận đáy rồi lại bay lên: Lẽ nào đây không phải là bài toán khó mà nàng muốn? Sao nàng có thể cam tâm chết già trong cung, cam tâm để năm tháng trôi qua trong vô ích? Chưa nói những chuyện khác, chỉ trong cung này cũng chưa chắc đã an toàn, có bao nhiêu thị phi, thấy đã nhiều, nghe còn nhiều hơn. Cho nên hoàn toàn không có gì đáng sợ cả.
Đừng sợ, Trầm Ngư, đừng sợ.
Có thể làm được. Nhất định, nhất định có thể làm được.
Khi Khương Trầm Ngư mở mắt lần nữa, đồng tử sáng long lanh, hai tay cũng không còn run rẩy nữa.
Chiêu Doãn đã nhìn thấy hết một loạt những biến đổi nhỏ trên gương mặt nàng, trong lòng có chút bùi ngùi: Người con gái này tính cách quật cường không chịu thua cuộc thực giống Hy Hòa, mà về khoản thông minh cơ trí lại có chút giống Cơ Hốt, quả nhiên tập hợp sở trường của hai người. Tư chất như thế tư dung như thế, nếu bình thường gặp gỡ, tất sẽ nâng niu như bảo bối, sủng ái có thừa, nhưng đáng tiếc…
Đầu mày y khẽ nhíu lại, ánh mắt từ nhạt chuyển sang đậm.
Lúc này, Khương Trầm Ngư cất tiếng, từng tiếng đều nhả rất chậm: “Thần thiếp nguyện đi. Nhưng, trước lúc lên đường, thần thiếp có ba thỉnh cầu”.
“Nói đi”.
“Thứ nhất, thần thiếp muốn mang theo một tì nữ và hai ám vệ. Tì nữ là Hoài Cẩn, nàng ta theo hầu thần thiếp từ nhỏ, cơ trí trầm ổn trung thành đáng tin. Lần này đi đến Trình quốc, ăn uống ngủ nghỉ có nhiều bất tiện, có nàng ta đi cùng sẽ bớt cho thần thiếp nhiều phiền phức. Còn ám vệ thì tùy ý, chỉ cần võ công cao cường, có thể bảo vệ trong lúc nguy cấp là được”.
“Trẫm chuẩn y”.
“Thứ hai, thần thiếp muốn một thanh chủy thủ sắc bén, và một loại độc dược kịch độc, uống vào bỏ mạng trong chớp mắt”.
Chiêu Doãn ngạc nhiên hỏi: “Tại sao lại cần hai thứ này?”.
“Chủy thủ giấu bên người để phòng khi bất trắc, còn thuốc độc…”, Khương Trầm Ngư nói đến đây, thản nhiên cười, “thần thiếp vô cùng sợ đau, ngộ nhỡ sự tình bại lộ, rơi vào tay địch, sợ không thể chịu nổi cực hình, cho nên, chẳng thà ban cho thiếp cái chết mau lẹ”.
Mặt Chiêu Doãn biến sắc, trong lòng chấn động, nhất thời không nói năng gì. Y nhìn nàng chăm chăm, cơ hồ muốn nhìn thấu nàng, lại dường như muốn đánh giá nàng lại lần nữa.
Gió thổi bên ngoài cửa sổ, mang theo hơi lạnh khi màn đêm mới buông vào trong phòng, tầng tầng màn trướng lay động, tựa như lòng người.
Đáy mắt Chiêu Doãn mơ màng, chậm rãi nói: “Được, chuẩn theo yêu cầu của nàng”.
“Đa tạ bệ hạ”.
“Nàng còn có một yêu cầu, là gì?”. Thật khó mà tưởng tượng một người đến chết cũng đã nhắc đến, yêu cầu cuối cùng sẽ là chuyện hoang đường gì.
Ánh mắt Khương Trầm Ngư bỗng tối đi, cúi đầu nhỏ giọng nói: “Ngày hai mươi bốn tháng sau là sinh nhật của gia tỉ. Thiếp muốn thỉnh cầu bệ hạ ngày hôm đó sẽ ở cạnh tỉ tỉ”.
Chiêu Doãn hơi kinh ngạc, nhưng nhanh chóng hiểu ra, khẽ thở dài: “Được, trẫm sẽ mở thịnh yến, nhất định để Khương quý nhân có một sinh nhật lần thứ mười chín vẻ vang, rạng rỡ”.
“Nếu vậy, thật đa tạ bệ hạ”. Khương Trầm Ngư khấu đầu lần nữa.
Chiêu Doãn chăm chú nhìn nàng, thong thả nói: “Nàng còn có yêu cầu nào khác không?”.
“Như thế là đủ rồi”. Khương Trầm Ngư cười cười, nụ cười này như gió xuân lướt qua chuông gió; như trăng đêm chiếu trên khe suối, như sương mù lúc bình minh, trong sáng mỹ lệ vô cùng vô tận.
Nhưng mà, vào trong mắt Chiêu Doãn, lại trở thành một sự thương tiếc, loáng thoáng, rất nhẹ, rất nhạt, nhưng thực sự tồn tại.
Người con gái này vốn là con gái Khương gia, đáng lẽ là thê tử của Cơ Anh. Người con gái này hiện tại là phi tử của y.
Người con gái này không muốn làm phi tử, muốn làm mưu sĩ. Người con gái này chỉ mới mười lăm tuổi.
Lại gặp người như thế trong hoàn cảnh như thế, thời cơ như thế. Thực là tạo hóa trêu ngươi.
Khi Khương Trầm Ngư ra khỏi thư phòng đã là giờ Hợi.
Đêm lạnh như nước, cung đăng lắc lư chao đảo, đường đi lúc sáng lúc tối.
La Hoành lẽ ra muốn tiễn, nhưng bị nàng từ chối, nàng một mình đi ra Ngọc Hoa môn.
Một trận gió thổi tới, nàng bất giác đưa tay sờ lên hoa tai, nơi vốn đeo Trường Tương Thủ, nay đã đã được đổi thành một viên trân châu bằng hạt gạo, làm nổi bật sắc mặt cực kỳ nhợt nhạt của nàng.
“Loại độc này tên là Hồng Trậm(5), là loại độc nhất trong Trậm độc, một thăng 6) chỉ có thể luyện thành một giọt”. Trước đó, trong ngự thư phòng, Điền Cửu trình lên viên trân châu này và giải thích, “Thuộc hạ đã cho Hồng Trậm vào trong ngọc, thời khắc then chốt chỉ cần dùng răn cắn vỡ nuốt xuống, vào miệng là chết.”
Ánh mắt Chiêu Doãn quét một vòng trên người nàng, nói: “Gỡ Trường Tương Thủ của nàng xuống”.
Khương Trầm Ngư sững người.
Chiêu Doãn nói: “Một dược nữ không thể đeo một chiếc hoa tai như thế này”.
Khương Trầm Ngư lập tức hiểu ý của y, gỡ hoa tai xuống.
Điền Cửu gắn viên trân châu đó thế chỗ của Trường Tương Thủ, lại đưa hoa tai cho nàng.
Chiêu Doãn vừa nhìn nàng đeo hoa tai mới, vừa hài lòng gật đầu, nói: “Thế này là ổn. Cho dù nàng không may bị trói chân trói tay, chỉ cần khẽ nghiêng mặt, là có thể cắn viên ngọc”.
Khương Trầm Ngư làm thử, quả nhiên rất dễ dàng cắn được viên ngọc buông xuống vai trái. Kỳ thực nàng vốn muốn bắt chước đám ám vệ mà phụ thân huấn luyện, giấu thuốc độc ở trong răng, nhưng rõ ràng, phương pháp này của Chiêu Doãn an toàn mà lại kín đáo hơn. Ai có thể nghĩ đến việc chú ý một chiếc hoa tai của nữ tù nhân?
Vừa nghĩ tới đây, Khương Trầm Ngư lấy một chiếc hộp gấm nhỏ trong tay áo, mở hộp ra, Trường Tương Thủ lặng lẽ nằm trên nền gấm, phát sáng lấp lánh. Nàng sờ lên bề mặt lồi mà trơn nhẵn, ngón tay bắt đầu run nhẹ, cảm xúc đã bị đè nén khi ở ngự thư phòng trong phút giây này lại cuồn cuộn trào dâng, không sao cản nổi, cũng không nơi trốn tránh.
Lần này đi Trình quốc, muôn non ngàn núi, con đường phía trước chưa rõ, mà nhiệm vụ của nàng lại gian nan biết mấy, nếu không thành công thì chỉ còn đường chết. Bởi vì, Chiêu Doãn tuyệt đối không để người khác biết gián điệp mà mình phái đến địch quốc lại là phi tử của y. Cũng tức là rất có khả năng, chuyến này mình đi sẽ không thể quay về…
Không thể quay về, đế đô.
Không thể quay về, Đồ Bích.
Không thể quay về, Trường Tương Thủ.
Rèm mi của Khương Trầm Ngư tựa như cánh bướm run rẩy không ngừng, nhưng bước chân của nàng vẫn kiên định, chầm chậm, từng bước từng bước đi đến trước cung môn.
Cung môn vẫn chưa cài then, nửa khép nửa mở, xuyên qua khe hở có thể nhìn thấy nhà bên trong vẫn còn sáng đèn, một bóng dáng quen thuộc hắt bóng trên giấy dán cửa sổ, mau chóng lọt vào mắt nàng.
Nàng đứng im lặng rất lâu, rất lâu bên ngoài, mới chầm chậm bước qua bậu cửa.
ai cung nhân đang vừa nói chuyện vừa từ trong phòng bước ra, nhìn thấy nàng thì ngẩn ra: “Thục phi nương nương?”.
Một người vội vàng bước tới: “Muộn như thế này nương nương tới có việc gì vậy?”.
Ánh mắt của nàng dán chặt lên bóng hình trên cửa sổ: “Ta muốn gặp tỉ tỉ”.
Hai cung nhân đưa mắt nhìn nhau, quay vào bẩm báo với vẻ mặt cổ quái, trên cửa sổ, chỉ thấy cái bóng đó nghiêng đầu, nói gì đó. Sau đó một cung nhân vội vã bước ra nói: “Quý nhân đã ngủ rồi, Thục phi nương nương có chuyện gì ngày mai hãy đến. Muộn thế này, chúng nô tì cũng phải đóng cửa rồi”.
Khương Trầm Ngư đáp lại bằng một giọng cực kỳ bình tĩnh: “Nói với tỉ tỉ, nếu tỉ ấy không gặp, ta sẽ không đi”.
Cung nhân khó xử, chần chừ một lát rồi quay vào phòng.
Cái bóng trên cửa sổ trở nên kích động, xua tay, bước đi, quay vào góc khuất, không còn nhìn thấy đâu nữa.
Gió đêm thoảng lạnh, Khương Trầm Ngư đứng trong sân của Gia Ninh cung, nhìn thấy cây mai vàng trơ trụi, nhớ đến không lâu trước đây, khi nàng đến nơi này, hoa vàng nở chi chít trên cành, mà nay đã tiêu điều tàn tạ. Muốn ngắm cảnh rực rỡ chỉ có thể chờ năm sau.
Năm sau, nó chắc chắn sẽ lại nở, nhưng không biết mình có thể nhìn thấy hay không…
Rèm cửa lần nữa được vén lên, cung nhân bước ra nói: “Quý nhân mời nương nương…”.
Khương Trầm Ngư bước vào trong phòng, mùi hương ấm áp lập tức ập tới, rõ ràng khác một trời một vực với gió lạnh bên ngoài, tựa như là hai thế giới. Bước vào phòng trong, chỉ thấy bức rèm trên chiếc giường ngà đã buông, lờ mờ thấy Khương Họa Nguyệt đắp chăn nằm quay lưng về phía nàng, không hề nhúc nhích.
Đám cung nhân lần lượt lui ra.
Trong phòng lặng như tờ, chỉ có ngọn nến bập bùng, tiếng bốc cháy xèo xèo. Khương Trầm Ngư đứng cách giường ngà chừng năm bước, nhìn bóng hình bên trong trướng, cảm thấy xa xôi như cách cả dải Ngân Hà.
Nhờ sự thủy chung của phụ thân, nàng, Họa Nguyệt và đại ca Hiếu Thành đều cùng một mẹ sinh ra, vì thế, từ nhỏ tình cảm đã vô cùng thân thiết. Trong phủ thừa tướng nô bộc đầy rẫy, nhưng Họa Nguyệt lớn hơn nàng ba tuổi luôn tự tay chải đầu mặc áo cho nàng, không cho các ma ma khác động tay.
Tháng ba én liệng cỏ xanh sẽ dẫn nàng đi hội Đạp Thanh;
Tháng tư trăm hoa đua nở sẽ dẫn nàng đi thưởng hoa; Tháng năm hoa sen chớm nở sẽ dẫn nàng đi chơi hồ;
Tháng tám nóng như đổ lửa sẽ dẫn nàng đi tránh nóng;
Tháng mười hai giá rét sẽ tỉnh dậy lúc nửa đêm đắp chăn cho nàng…
Đối với nàng, Họa Nguyệt là tỉ tỉ, là bạn, cũng là người mẹ thứ hai. Vì thế, ba năm trước, khi thánh chỉ ban xuống đòi Họa Nguyệt vào cung, nàng mới mười hai tuổi đã khóc đỏ cả mắt, lúc Họa Nguyệt lên đường còn kéo tay áo Họa Nguyệt, không chịu buông tay.
Còn Họa Nguyệt cười với nàng, xoa đầu nàng, nói: “Nha đầu ngốc, khóc cái gì? Tỉ tiến cung là đi hưởng phúc đó! Phải làm, thì sẽ làm người trên muôn người; phải gả, thì sẽ gả làm vợ của đế vương, như thế mới không sống uổng kiếp này. Tỉ tỉ của muội như thế này, khắp thiên hạ chỉ có hoàng cung mới xứng là chốn dừng chân của ta. Hơn nữa, muội yên tâm, tỉ chắc chắn sẽ được hoàng thượng sủng ái, đến lúc đó, muội muốn vào cung thăm ta lúc nào, thì sẽ được vào lúc đó, tỉ muội chúng ta còn có thể ngày ngày gặp mặt”.
Khương Họa Nguyệt không nuốt lời, sau khi vào cung khi mới được Chiêu Doãn thịnh sủng, Chiêu Doãn hỏi nàng muốn gì, yêu cầu đầu tiên của nàng chính là để muội muội có thể tự do ra vào hậu cung.
Ba năm… ba năm đã trôi qua, rốt cuộc là cái gì đang thay đổi hết thảy quá khứ? Là nàng ngày càng kiệm lời ít nói, hay là tỉ tỉ bị hoàng cung giày vò đến mức ngày càng đa nghi cay nghiệt?
Rõ ràng là người thân thiết nhất, tại sao lại đi đến hoàn cảnh này?
Khương Trầm Ngư đăm đăm nhìn bức rèm nặng nề đó, nghĩ mãi không hiểu. Khi nàng trầm ngâm im lặng hồi lâu, Khương Họa Nguyệt cuối cùng không kiềm chế được, quay người lại trừng mắt nhìn nàng, hỏi: “Muội muốn gặp ta nhưng lại không nói gì, rốt cuộc muội muốn làm gì?”.
Khương Trầm Ngư vẫn im lặng.
Khương Họa Nguyệt nổi cáu, vén rèm giận dữ: “Lẽ nào muội không biết ta và muội đã không còn gì để nói sao? Hay là muội lại nghĩ ra gian kế gì để hại ta? Ta nói cho muội biết…”.
Giọng nói của nàng bỗng ngưng bặt.
Bởi vì, Khương Trầm Ngư đột nhiên nhào tới, ôm chặt lấy nàng.
Khương Họa Nguyệt sững người, sau đó muốn đẩy nàng ra, nhưng nàng ôm quá chặt, không thể đẩy ra, nhất thời luống cuống: “Muội, muội, muội làm gì vậy? Đêm khuya còn điên, điên, điên cái gì vậy?”.
Khương Trầm Ngư ôm chặt nàng, miệng lẩm bẩm: “Tỉ tỉ, tỉ ôm muội đi, chỉ cần một lát thôi, chỉ một lát thôi… được không?”
Vẻ mặt của Khương Họa Nguyệt từ hoảng loạn chuyển sang mông lung, cứ đứng ngây ra, để mặc nàng ôm mình, rất lâu sau mới khàn giọng nói: “Đừng tưởng làm nũng là ta sẽ tha thứ cho muội…”.
Khương Trầm Ngư vùi đầu vào ngực nàng, cảm nhận được tiếng tim đập từ bên trong lồng ngực truyền ra, từng tiếng từng tiếng, gấp gáp, rối loạn, chân thực biết bao, ấm áp biết bao.
Nàng nghĩ, nàng phải ghi nhớ âm thanh này, nhớ thật sâu thật đậm, sau đó mang theo âm thanh này tới Trình quốc. Như thế, sẽ không bao giờ cảm thấy cô đơn nữa.
Còn Khương Họa Nguyệt cắn môi, giơ một cánh tay lên, định vuốt tóc nàng, nhưng rốt cuộc vẫn ngừng lại, không vuốt nữa, thần sắc phức tạp trào lên nơi đáy mắt, có chút dịu dàng, lại có chút tang thương.
Hai tỉ muội giữ tư thế đó rất lâu rất lâu.
Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, từ từ thả tay, cuối cùng buông Họa Nguyệt ra, ngẩng đầu nhìn nàng mỉm cười: “Cảm ơn tỉ”.
Khương Họa Nguyệt trân trân nhìn nàng. Nàng quay lưng rời gót.
Khương Họa Nguyệt lòng rối bời, bất giác kêu lên: “Muội… muội sao thế?
Trầm Ngư?”.
Nàng quay đầu lại mỉm cười với Họa Nguyệt lần nữa: “Không sao, muội chỉ làm nũng mà thôi”.
Ánh mắt Họa Nguyệt chuyển thành hồ nghi, thấp giọng nói một câu: “Không hiểu ra sao”.
Nàng mỉm cười lần thứ ba, dịu giọng nói: “Ngủ ngon, tỉ tỉ”.
Sau đó đẩy cửa bước ra. Ánh trăng như lụa mỏng phủ trên gương mặt nàng, từng điểm long lanh, từng gợn lăn tăn.
Đó là những giọt lệ trong suốt như thủy tinh.
Tỉ tỉ ơi, nếu muội chết ở nước người, đời này không thể gặp lại, xin tỉ chớ buồn. Bởi vì, ít nhất, trong thời khắc chia ly cuối cùng, chúng ta không cãi nhau, mà là ôm chặt lấy nhau. Tương thân tương ái như khi còn nhỏ.
Đồ Bích năm thứ tư, ngày hai mươi lăm tháng năm, tả tướng quân Phan Phương, Đông Bích hầu Giang Vãn Y, cùng hai trăm tám mươi người đủ cả văn sĩ dược sư nhạc công nông phu… đi sứ Trình quốc, thanh thế vang dội, chúng dân ngưỡng mộ.
Ngày hôm sau, hoàng đế cùng hai phi tử đi săn ở Tương Sơn, hai phi tử này, một là Hy Hòa, hai là Trầm Ngư. Giữa đường Thục phi không cẩn thận nhiễm bệnh nặng. Phụng lệnh hoàng đế đưa về tĩnh dưỡng tại sơn trang Bích Thủy nằm ở ngoại ô kinh thành.
Ghi chú: (1) Nguyên văn là “Trụy mã kế”: Là tạo hình tóc của phụ nữ thời kỳ Ngụy Tấn, búi tóc buông lệch một bên, còn gọi là Ngụy đọa kết (búi tóc giả vờ buông).
(2) Nguyên văn “Diễm sắc thiên hạ trọng”, là một câu trong bài “Tây Thi vịnh” của Vương Duy (Đường).
(3) Nữ Anh Nga Hoàng là con gái của vua Nghiêu trong truyền thuyết, Nga Hoàng là chị, Nữ Anh là em, hai người cùng được gả cho vua Thuấn.
(4) Ngựa yên chi: tức giống ngựa đỏ, ên một con ngựa nổi tiếng thời cổ xuất xứ từ Tây Vực.
(5) Trậm là loài chim rất độc, tương truyền lấy cánh của nó khuấy vào rượu, uống là chết ngay.
(6) Thăng hay còn gọi là thưng, đơn vị đo lường cổ.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.