Hoa Tư Dẫn

Quyển 2 - Chương 5

Đường Thất Công Tử

11/07/2013

Một tháng sau, Thanh Trì cư bỗng nhiên có rất nhiều đại phu ra vào, những lão đại phu đó đều bị bịt mắt, từng người thay nhau được cáng đưa vào phòng Oanh Ca, không lâu sau lại được cáng ra. Con lạch thoát nước chảy từ trong ra ngoài có màu bã thuốc, bã thuốc màu nâu mỗi ngày một đậm. Cả Thanh Trì cư vẫn tĩnh mịch như chết trong dòng đời cuộn chảy. Một tháng yên tĩnh như vậy, những vết thương cũ trên cơ thể Oanh Ca đã biến mất như kỳ tích, có thể thấy kỹ thuật chỉnh hình của Trịnh quốc thời đó quả rất cao siêu.

Có lẽ Dung Tầm muốn Oanh Ca biến thành Cẩm Tước từ trong ra ngoài. Về cốt cách thì không thể, nhưng ít nhất thân thể phải giống Cẩm Tước, nghĩa là tuyệt đối không thể có một vết sẹo. Cho dù có, cũng không thể là vết đao, vết kiếm, cùng lắm chỉ là vết đứt tay do dao gọt hoa quả gây ra mà thôi, như thế mới giống thiếu nữ xuất thân thanh bạch, đáng để Dung Viên vừa gặp đã yêu.

Dung Viên trị quốc xưa nay thái bình, hầu như không xảy ra cố sự. Oanh Ca vào cung trở thành đại sự của nước Trịnh năm đó, các sử quan rất phấn khởi, cũng phải thôi, thử nghĩ, nếu Oanh Ca không vào cung, năm đó họ biết viết gì vào Trịnh sử.

Có thể dẫn Mộ Ngôn bước qua mộng kiều vào giấc chiêm bao của Oanh Ca là do viên giao châu khiến tôi và cô thần trí tương thông ở mức độ nhất định, nhưng cho dù vậy, tôi cũng không thể đoán được cái đêm vào cung, Oanh Ca ngồi trong điện Chiêu Ninh phía tây vương cung thực ra trong lòng nghĩ gì.

Lúc đó rõ ràng là mùa thu tháng mười, tay cô vẫn cầm chiếc quạt ngà chỉ dùng trong mùa hạ. Đôi mắt bẩm sinh hơi lạnh giờ đây trở nên vừa nhu mì vừa e dè nhẫn nhịn, hoàn toàn không nhận ra bóng dáng sát thủ. Khi cô cầm cái quạt gõ lên đầu con báo gấm dưới chân, ý bảo nó nhích xa một chút, chúng tôi hiểu công dụng cụ thể của chiếc quạt đó, chỉ là chưa kịp nghiên cứu thêm đã thấy Dung Viên xuất hiện ở cửa tẩm điện.

Thực ra, từ chỗ tôi và Mộ Ngôn đứng, quả khó có thể nhìn thấy Dung Viên xuất hiện, chỉ cảm thấy bầu không khí khác thường phả đến, ngẩng đầu đã thấy thân hình dong dỏng của Trịnh hầu vương ở ngay trước mặt, làm lu mờ ánh nến trước điện.

Điều đó chứng tỏ Dung Viên là mệnh đế vương. Một người khí chất mạnh mẽ tự lộ phát như vậy chính là bậc đế vương, chiếc quạt gõ trên đầu con báo hơi dừng lại, biến thành động tác vuốt ve âu yếm. Đối với Oanh Ca, những vật mềm mại được chia làm hai loại, có thể ăn được và không thể ăn được, nhưng lúc này, trước mặt Dung Viên, trong mắt Dung Viên cô là Cẩm Tước dịu hiền đã cứu con báo, một Cẩm Tước thân thiết ân cần với cả con kiến, còn bản thân cô ghét nhất những trò yểu điệu như cưng nựng vuốt ve động vật, tuy nhiên Dung Viên không biết cô không phải là Cẩm Tước.

Do ngược sáng, mặc dù khoảng cách gần mấy thước cũng không nhìn rõ biểu hiện trên mặt Dung Viên, chỉ thấy chiếc áo chùng màu trắng lóng lánh ánh sao, giống như một thân cây màu bạc, mỗi bước đi đều lóng lánh phát sáng trong ánh nến.

Oanh Ca miễn cưỡng ôm con báo gấm đang ư ử vùng vẫy trong lòng ngồi bên mép giường, đầu hơi cúi, vẻ như e thẹn, có lẽ vốn muốn tỏ vẻ e thẹn nhưng cố gắng lâu như vậy vẻ mặt cô lại không hiện ra nét ửng hồng e lệ như ý mà khuôn mặt xinh đẹp dưới làn tóc mai càng trắng xanh. Dung Viên đứng trước mặt, đôi mắt đen như đầm sâu lướt qua con báo gấm đang cố vùng vẫy trong lòng cô, lại lướt qua mái đầu cúi thấp của cô: “Hầu nữ đâu?”.

Con báo cuối cùng thoát ra được, luồn qua đầu gối cô lẻn ra ngoài, cô ngây người: “Đông người khiến thiếp nhức đầu, thiếp cho bọn họ lui rồi”.

Chàng gật đầu, giơ tay kéo bức rèm trước giường, ánh nến từ giá nến cao hắt lên bức rèm in bóng hai người áp sát vào nhau, giọng chàng trầm trầm phía trên đầu cô: “Vậy đêm nay nàng thay áo cho quả nhân”.

Ánh nến hồng lờ mờ, những ngón tay thon thả của Oanh Ca từ từ nắm lấy dải đai áo của Dung Viên, tiếng ngọc bội rung nhè nhẹ.

Chàng đột nhiên trở tay nắm tay cô, cô ngẩng đầu ngạc nhiên nhìn chàng, môi chàng lướt trên má cô.

Trên bức rèm in bóng hai người giao vào nhau, xiêm áo Dung Viên vẫn còn trên người chàng, chiếc váy tím dài trên người Oanh Ca đã trượt từ vai xuống, lộ ra làn da trắng tuyết.

Rõ ràng đang hôn, nhưng mắt hai người vẫn mở to, chứng tỏ cả hai đều tỉnh táo. Hơn nữa ép vào nhau lâu như vậy, tư thế hai người vẫn không thay đổi, đối với cả hai đều là một đòn đau, buông ra giữa chừng, Oanh Ca thở gấp, đôi môi vốn hơi tái chuyển màu hồng rất đẹp, khóe mắt nhòe ướt. Ngón tay Dung Viên chạm vào đuôi mắt cô, hỏi nhỏ: “Khóc ư?”. Cô nhìn chàng không nói. Chàng chống tay bên gối, hơi cau mày: “Sợ hả?”. Không chờ cô trả lời đã quay người nằm thẳng, gối lên chiếc gối khác. “Sợ thì ngủ đi”.

Tôi thất vọng thở dài, chưa thở hết một hơi, lại thấy Oanh Ca nửa người để trần ngồi trên bụng Dung Viên: “Bệ hạ để thiếp tự làm, thiếp sẽ không sợ”.

Mắt đỏ hoe, môi mím, thần sắc kiên định... nhìn không giống đang nói đùa...

Mặc dù Oanh Ca thuận theo lời Dung Viên thừa nhận mình sợ, nhưng tôi hiểu không phải cô khóc vì sợ, một người ngay sự sống chết cũng xem thường, thì cũng có thể xem thường trinh tiết, huống hồ Dung Viên là một người đàn ông ưu tú, dung mạo ngời ngời.

Thần trí của tôi và Oanh Ca lúc thông lúc không, khiến tôi hiểu cô chỉ đột nhiên nghĩ đến Dung Tầm, lòng thấy buồn. Nhưng cô buồn không phải do Dung Tầm thay lòng đổi dạ yêu Cẩm Tước, mà là do chàng biết đêm nay sẽ xảy ra chuyện gì, vô số đêm sau này sẽ xảy ra chuyện gì nhưng chàng vẫn đưa cô vào cung dâng cho Dung Viên, cô khóc vì lẽ đó.

Đôi mắt Dung Viên sâu thẳm, mở to nhìn cô. Cô vùi đầu vào vai chàng, mái tóc xõa theo sống lưng, như dòng thác đen đổ xuống, một lúc sau, cô cười, “Nhất định có ngày cùng bệ hạ như vậy, chi bằng ngay đêm nay, bệ hạ thấy đúng không?”. Nói xong quả quyết, ngẩng đầu cởi áo chùng gấm không một nếp nhăn trên người chàng, bàn tay quen cầm đao run run, nhưng vẫn không dừng lại.

Thần sắc Dung Viên chìm trong bóng cô phủ lên người chàng, lát sau chàng hỏi: “Nàng có thể không?”.

Theo bản năng, thực lòng tôi muốn xem tiếp. Người luyện Hoa Tư dẫn nhất định không được sợ máu, sợ bạo lực, sợ chuyện phòng the, và bạo lực phòng the.

Luyện Hoa Tư dẫn thành bại quyết định ở chỗ phải biết quan sát nhận ra ẩn tình trong rất nhiều chi tiết của mộng cảnh. Nhưng lúc này có Mộ Ngôn bên cạnh, nhất định chàng sẽ cho rằng như vậy là đáng xấu hổ, từ khi Dung Viên hôn Oanh Ca tôi đã nghĩ chàng sắp kéo tôi ra khỏi điện Chiêu Ninh.

Và tôi cũng đã nghĩ xong câu ứng phó với chàng. Có thể chàng sẽ nói: “Cô còn nhỏ không nên nhìn cảnh người ta ân ái, đi theo tôi”. Tôi sẽ nói: “Mỗi người một khác, hôm nay họ động phòng, cái huynh nhìn thấy chỉ là chuyện ân ái hoan lạc hay sao? Xin lỗi, cái tôi nhìn hoàn toàn khác, tôi muốn nhìn để biết cái gì khiến Oanh Ca chìm mãi vào giấc mơ không tỉnh, nhìn thấy trăm mối tâm tư trong lòng cô ấy”. Chàng nhất định xấu hổ hỏi tôi: “Vậy tâm tư của cô ấy là gì?”. Tôi sẽ trả lời: “À, hiện chưa tìm hiểu toàn diện, để tôi xem hết đoạn này hẵng hay”.

Lúc Oanh Ca ôm cổ Dung Viên, cuối cùng Mộ Ngôn lên tiếng, nhưng lời nói khác hẳn giả định của tôi. Chàng phe phảy cái quạt, chậm rãi hỏi tôi: “Hay không?”.

Đương nhiên không tiện nói là hay, ấp úng một hồi, tôi trả lời, “Không, không hay”.

Chàng vẫn phe phảy quạt: “Đã không hay, vậy sao còn xem tiếp?”.

Tôi nói: “Cũng tạm...”.

Chàng hỏi: “Sao, cô nói gì? Cô cảm thấy chuyện đó rất hay?”.

Tôi nói: “Không, không xem, cái đó rất khó coi, không hợp tuổi tôi chút nào”.

Chàng gật đầu: “Vậy ta đi thôi”.

Chàng đi mấy bước về phía cửa điện, ngoái đầu nhìn tôi nửa cười nửa không: “Sao còn chưa đi?”.

Tôi liếc nhìn bức rèm trước giường, bực mình chạy đuổi theo chàng: “Đi đây”.

Năm Dung Viên gặp Oanh Ca, chàng mới hai nhăm tuổi âm, hậu cung có tám vị phu nhân, năm trước một vị lâm bệnh qua đời, còn bảy vị, Oanh Ca vào cung, vừa may bổ sung chỗ trống trên bàn mạt chược, khiến hậu cung Trịnh quốc luôn vang tiếng cười, mọi người hòa hợp vui vẻ...

Tuy nhiên đấy là hình dung của tôi, kỳ thực Oanh Ca không chơi mạt chược, bảy vị phu nhân cũng không chơi mạt chược.

Có thể hình dung, nếu Quân Vỹ hai nhăm tuổi, lấy tám bà vợ, anh ta sẽ chỉ còn là bộ xương, nhưng Dung Tầm hai nhăm tuổi có tám vị phu nhân, thiên hạ lại cảm thấy quân vương Trịnh quốc thật là thanh tâm quả dục, thích thanh tịnh. Có thể thấy yêu cầu của thiên hạ đối với quân vương quả là rất thấp.

Nhưng nói vậy, cho dù hậu cung chỉ có tám vị phu nhân, cạnh tranh vẫn vô cùng ác liệt, vị nào cũng bận chải chuốt, trang điểm, chăm sóc dung nhan, ngay lúc ngủ cũng không lơ là. Ai cũng muốn dùng diện mạo đẹp nhất hấp dẫn quân vương, cho dù có khi Dung Viên nửa đêm canh ba chạy đến cung nào đó cũng phải xinh đẹp rạng ngời trước mắt chàng ta, thậm chí cả khi chàng ta đến lúc họ đang bận đi vệ sinh.

Lâu dần họ trở thành những người đi vệ sinh nhanh nhất Trịnh quốc.

Tình trạng đó kéo dài đến khi Tâm Liễu phu nhân sau khi sinh hạ công chúa Hy Hòa lâm bệnh qua đời.

Tâm Liễu phu nhân lâm bệnh qua đời, để lại công chúa Hy Hòa năm tuổi, Hy Hòa công chúa Dung Đàm là tử tức duy nhất của Dung Viên.

Một bên là quân vương thanh tâm quả dục, đế dạ khó dò, chiếm được lòng cũng không dễ. Một bên là tiểu công chúa còn nhỏ mất thân mẫu, không có bất kỳ uy hiếp nào, chỉ cần nuôi dưỡng công chúa, nhất định tương lai được đảm bảo.

Vậy là bảy vị phu nhân trong cung từ bỏ lối sống cũ, lao vào cuộc chiến tranh giành nuôi dưỡng tiểu công chúa. Nhưng sự đời nhiều khi tranh tức là không tranh, không tranh tức là tranh, kết quả cuộc đấu hậu cung là Dung Tầm thân chinh đưa tiểu công chúa đến điện Chiêu Ninh giao cho Oanh Ca mới vào cung vài tháng.

Tiểu công chúa mặt buồn bã ôm một con thỏ bị thương đứng trước Oanh Ca: “Phụ vương nói phu nhân có thể băng bó vết thương cho thỏ. Ở đây, ở đây, ở đây, con thỏ bị nô tài xấu đánh đau, một, hai, ba, ba vết thương. Phu nhân, mau băng cho nó đi”.

Hai cây anh đào trước điện Chiêu Ninh đã rụng hết lá, cô ngẩng đầu bắt gặp ánh mắt Dung Viên đứng sau tiểu công chúa, dáng thanh tú như ngọc, dưới cây anh đào trụi lá, đôi mắt đen như đầm sâu bình thản khó dò. Chưa làm mẹ đã làm mẹ kế là một chuyện phiền phức.

Cũng may Oanh Ca không mơ hồ về cuộc sống như những cô gái đẹp thông thường, không ôm ảo tưởng lãng mạn về cuộc sống vương giả trong cung. Từ lúc bước vào hậu cung của Dung Viên, cô vẫn luôn chờ đợi thời cơ, một thời cơ để cô có thể bỏ trốn trót lọt.

Nửa đời trước cô là sát thủ, sống vì Dung Tầm, nhưng Dung Tầm không đắn đo đem cô vứt vào hậu cung hưu quạnh của Trịnh quốc. Cô mới hiểu mình sống bằng ấy năm thực ra chỉ là một công cụ, công cụ chỉ cần hoàn thành sứ mệnh của công cụ, một công cụ không nên yêu cầu chủ nhân suốt đời có trách nhiệm với mình, một công cụ tốt không cầu báo đáp, chỉ một lòng hoàn thành tâm nguyện của chủ, lúc chết còn muốn hóa thành bùn bón cho cỏ cây trong hoa viên của chủ.

Lúc này, Oanh Ca cảm thấy cô đã làm đủ sứ mệnh của một công cụ, giờ rơi vào chiếc lồng khổng lồ này, không ai cứu cô, cô sẽ tự cứu mình, không ai tốt với cô, cô phải tự tốt với mình.

Trong ánh mặt trời ấm áp hiếm hoi của mùa đông, trong điện Chiêu Ninh cô đưa ra một quyết định xem ra không tồi: Nếu có cơ hội rời khỏi thành Tứ Phương cô sẽ tìm một ngôi làng nhỏ có sông có suối, mua vài mẫu đất, học nghề dệt vải như những người đàn bà khác, tự nuôi sống mình mà không phải giết người.

Thời cơ đó đến rất nhanh.

Mùa đông tháng mười hai, vào ngày giỗ của Tâm Liễu phu nhân, mẫu thân tiểu công chúa, Oanh Ca dẫn công chúa lên linh sơn thắp hương tế bái, Dung Viên phái một toán cấm vệ quân đi theo. Chiếc kiệu đi đến lưng chừng núi bất thần gặp một toán thích khách không biết từ đâu ra, mặc dù được cấm vệ quân bảo vệ chu đáo, nhưng sơ sẩy vẫn khó lường, lại thêm thế núi hiểm trở, Oanh Ca ôm công chúa ngã lăn xuống núi.

Thực ra theo ý Oanh Ca không nên đem theo công chúa, nhưng không có cách nào khác, tất cả xảy ra quá nhanh, cô còn chưa kịp chớp đúng thời cơ, chuẩn bị chủ động lăn xuống núi, đã thấy Hy Hòa công chúa ôm con thỏ lăn xuống trước, nếu cô không cứu công chúa sẽ chết, làm mẹ kế hai tháng cô cũng không đành lòng.

Rơi thẳng từ sườn núi xuống, tay ôm đứa trẻ, thân thủ tốt đến mấy cũng không dễ làm gì để giảm nhẹ hậu quả. Nhưng may núi cũng không quá cao, trong khi lăn xuống cô đã cố một tay ôm công chúa, tay kia cởi thắt lưng quăng móc vào thân cây để làm chậm đà rơi, vì vậy khi tiếp đất chỉ có xương bàn chân phải bị gẫy. Tiểu công chúa nằm trên người cô, tay vẫn ôm chặt con thỏ con bị thương hai tháng trước, công chúa không bị thương, chỉ sợ quá ngất đi.

Dưới chân núi bóng đêm đặc dần, cô chống người bò dậy, bế công chúa vào một cái hang gần đó, đốt lửa, làm thịt con thỏ, xiên cành cây nướng vàng ươm, xong xuôi bóc hết xương, chỉ còn thịt nạc để trên chiếc lá to đặt cạnh công chúa.

Rừng núi đêm đông, chim náu trong tổ, mọi sinh vật sống đều đã ngủ, tiếc là giờ cô đã bị què chân, cho dù tứ chi vẹn toàn, trong cảnh ngộ thế này cũng khó tìm cái ăn, may khi ngã công chúa vẫn ôm con thỏ, như vậy cho dù cô bỏ đi, thị vệ của Dung Viên cũng chưa thể tìm được cô ngay, có chỗ thịt thỏ nướng, tiểu công chúa sẽ không bị đói, chắc chắn sáng ngày mai họ sẽ tìm thấy công chúa.

Khi lê được cái chân đau ra ngoài, Oanh Ca kiếm một cành cây to làm gậy chống, hình dung ra bộ dạng của mình, cô bất giác bật cười.

Nhưng chưa được hai bước nụ cười đã đông cứng trong mắt.

Phía trước, bên một cái đầm bốc khói mù mịt, đột nhiên hiện ra một bóng người như từ trên trời rơi xuống, áo chùng gấm màu bạc lóe sáng. Mấy con chim trên ngọn cây chí chóe cãi nhau, nửa vầng trăng ló khỏi đám mây, tỏa ánh sáng trắng mờ lạnh lẽo, xung quanh không có chỗ nào có thể trốn, cô nắm chặt cái gậy, mắt tối sầm, trân trân nhìn Dung Viên khoác ánh trăng bước đến. Ủng mềm đạp trên cành lá khô, chàng dừng trước mặt cô cách hai bước, ống tay áo dính đất và vụn cỏ, nét mặt tư lự, dáng thanh tao, khuôn mặt đẹp của chàng dưới ánh trăng như dát bạc, đôi mắt đen trầm tư lướt qua cái gậy trong tay cô, lướt qua bàn chân đau của cô: “Sao lại ra nông nỗi này?”.

Cô ngẩng đầu, mắt lại nhìn về đầm nước bốc khói: “Hy Hòa không sao, chỉ bị kinh động vẫn đang ngủ, thiếp đi ra...”. Cô dừng lại: “... kiếm nước cho công chúa”.

Chàng nhìn cô không nói.

Cô ngây người, gượng cười: “Chân thiếp... cũng không sao...”.

Đôi mắt đen bỗng lóe lên giận dữ, vừa trở tay đã ép cô vào vách núi bên cạnh, bàn chân gãy bị kéo đi đột ngột, đau xói đến tận óc, nhưng Oanh Ca chỉ nghiến chặt răng, hơi cau mày.

Chàng khóa cô giữa hai cánh tay mình, “Đau không?”.

Cô cắn môi không đáp, chỉ có làn hơi lạnh lọt qua kẽ răng. Mắt chàng tối lại, bỗng giơ tay giật dải lụa buộc trên búi tóc, nhét vào miệng cô, mái tóc xõa xuống, chàng cúi đầu, hai tay nắm chặt bàn chân gẫy của cô: “Nếu đau cứ kêu lên”.

Một tiếng “rắc” nhẹ, chỗ xương gãy bị chệch đã được kéo về đúng vị trí, trán cô toát mồ hôi, cơn đau từ chỗ xương gẫy như làn sóng lập tức lan ra toàn thân, đau ứa nước mắt, nhưng cô cắn môi không để bật ra tiếng rên, nộ khí trong mắt chàng càng tăng, nhìn cô đăm đăm: “Ai dạy nàng như thế, chân gẫy cũng không nói, đau mấy cũng cố chịu?”.

Cô ngây người nhìn chàng.

Chàng cau mày đón nhận ánh mắt đó, ngón tay đưa lên chạm vào đuôi mắt cô, nét mặt dịu dần, lại trở về là một Dung Viên thâm trầm, mắt cô vừa chớp, long lanh ngấn nước, cô vội ngẩng đầu.

Chàng giữ chặt đầu cô không cho động đậy, cứ vậy nhìn thẳng vào đôi mắt ngấn nước của cô, nhìn giọt nước lăn ra từ khóe mắt, áp trán vào trán cô, nhẹ nhàng nói: “Cẩm Tước, hãy khóc đi”.

Tiếng khóc khi đã bật ra không thể kìm lại, sụt sùi, sau đó bật thành tiếng, nức nở, đau đớn, có lẽ Oanh Ca cũng không biết tại sao mình khóc, nhưng ít nhất cũng khiến chúng tôi hiểu, thì ra các cô gái trên đời không có ai sinh ra đã không biết khóc.

Chàng ôm chặt cô, dưới ánh trăng, bên mặt đầm khói phủ, giọng trầm trầm: “Được rồi, có ta ở đây”.

Oanh Ca khóc to như vậy, tôi nghĩ nguyên nhân một nửa là do khó khăn lắm mới tìm được cơ hội bỏ trốn, cuối cùng lại bị Dung Viên phá hỏng, niềm tiếc nuối cần được xả ra, khi tôi nói suy nghĩ đó với Mộ Ngôn, chàng phán một câu: “A Phất, cô là người rất thực tế”.

Chung quy tôi là người làm ăn, mặc dù tự biết vẫn là người đa sầu đa cảm. Nhưng khi thần trí bất tương thông, tôi hầu như không hiểu được suy nghĩ của Oanh Ca, đây là một cô gái rất thực tế, có ý thức cảnh giác cao nhất mà tôi từng gặp.

Bởi vì đây là giấc mơ của Oanh Ca trong lúc hôn mê, không phải là ảo mộng tôi dệt cho cô, đành chỉ có thể nhìn mọi cảnh trôi qua như là xem đèn kéo quân mà thôi, không thể tác động vào. Không biết sau lần ngã xuống núi đó tình cảm giữa Dung Viên và cô có gì tiến triển, điều đó quả khó phán đoán, nhưng dường như những gì cần tiến triển đều đã tiến triển hết. Bởi vì đêm đó, sau khi được kiệu đưa về Trịnh cung, Oanh Ca không ở điện Chiêu Ninh nữa, mà chuyển đến điện Thanh Lương, tẩm cung của Dung Viên.

Tẩm cung của Trịnh hầu vương Dung Viên có tên là Thanh Lương, bày trí trong cung rất trang nhã, đơn giản, cạnh giá nến cao có một chiếc bình gốm cắm hai cành anh đào trắng khô héo, giữa tiết đông hàn trông càng lạnh lẽo cô liêu. Vết thương ở chân Oanh Ca được các ngự y trong cung chăm sóc chu đáo, nhưng do bị giày vò lâu, vừa vào đến giường đã mệt mỏi nhắm mắt ngả đầu xuống gối. Hầu nữ thắp thêm nến, Dung Viên đầu tựa thành giường, tay cầm cuốn sách, vẻ bồn chồn, cả hai đều im lặng.

Tôi cảm thấy chẳng có gì đáng xem, định kéo Mộ Ngôn đi ngắm sao, chưa kịp nắm ống tay áo Mộ Ngôn, đã nhìn thấy Dung Viên vừa giở sách vừa ngẩng nhìn Oanh Ca, rồi lại cúi xuống trang sách, giọng nhẹ nhàng: “Nằm lui lại đây”.

Mộ Ngôn nghiêng đầu nhìn tôi, tôi dừng bước. Oanh Ca lặng lẽ trở người, mắt vẫn nhắm, tấm chăn hơi phồng lên, có vẻ như thu hẹp khoảng cách giữa hai người, thực tế chỉ là thay đổi tư thế nằm, Dung Viên ngẩng đầu khỏi trang sách, cau mày đắn đo một hồi, lại cúi đầu đọc tiếp: “Ta sợ lạnh, lại gần hơn chút nữa”.

Lần này Oanh Ca không nhúc nhích, chắc là giả bộ ngủ. Thực tế đã nằm cùng một giường giả bộ ngủ hay không cũng thế. Quả nhiên, lát sau Oanh Ca bị Dung Viên kéo vào lòng. Cô hơi giãy giụa trong lòng chàng, điều này chỉ đoán ra thông qua chuyển động của tấm chăn, tiếng cọ xát của xiêm y và lời nói của Dung Viên.

Trong ánh nến hồng mờ ảo, giọng Dung Viên trầm lạnh vang lên: “Sao khó bảo thế, đã nói rồi, ta sợ lạnh”. Giọng Oanh Ca: “Bảo người đi lấy thêm...”. Lát sau, nghe thấy giọng Dung Viên vui vẻ, rõ ràng đang đùa nhưng nghiêm túc như một mệnh lệnh: “Nằm yên nào”.

Đàn ông muốn ngủ cùng phụ nữ là một chuyện, nhưng đắp chung chăn với phụ nữ thuần túy chỉ để nói chuyện lại là chuyện khác, từ đó có thể thấy Dung Viên là một minh quân, đương nhiên, nếu người khác phủ định tôi cũng chẳng nói gì. Nhưng tôi nghĩ, một người đàn ông có thể chuyện trò chia sẻ, lắng nghe ý kiến của người đàn bà của mình nhất định là người đàn ông tốt, huống hồ người đàn ông đó lại là bậc quân vương.

Ngày hôm sau khi Oanh Ca thức dậy, nắng ấm tỏa trên cao. Ngoài cửa sổ có tiếng chim hót vang, ánh mặt trời hắt qua cửa sổ chạm hoa văn, chiếu lên chăn lụa óng ánh như dát vàng. Chân Oanh Ca vẫn đau, đang mơ màng ngơ ngẩn.

Vừa ra khỏi cung đã xảy ra chuyện lớn ngã xuống núi, là một người chồng có trách nhiệm, trong thời gian sau đó đương nhiên không nên để vợ ra khỏi cửa. Nhưng tư duy của những đệ nhất không thể dùng đạo lý thông thường để suy đoán, cho dù là đệ nhất gọt táo, đệ nhất cắn hạt dưa, huống hồ Dung Viên lại là Trịnh quốc đệ nhất đao thủ.

Chỉ nửa tháng, vết thương của Oanh Ca đã lành hẳn, ban đêm Dung Viên đến điện Chiêu Ninh, ánh mắt dừng lại trên bàn chân nhỏ đã khỏi hẳn dưới gấu váy tím, lát sau chàng nói: “Vào cung đã ba tháng, chắc nàng buồn lắm, ngày mai quả nhân sẽ đưa nàng đi loanh quanh”.

Có lẽ đi loanh quanh mà Dung Viên nói chỉ là đi dạo trong vương cung, thật sự được đưa ra đường phố của thành Tứ Phương, vốn điềm tĩnh như Oanh Ca cũng nhất thời cơ hồ không dám tin. Còn tôi và Mộ Ngôn chỉ cảm thấy sự phồn hoa của phố phường kinh đô Trịnh quốc cũng chẳng khác hiện tại bao nhiêu.

Quý công tử dung sắc lạnh nhạt, nghiêng đầu hỏi tân nương mới cưới ba tháng: “Muốn đi đâu?”.

Cả người Oanh Ca bọc kín trong chiếc áo dài mền bông dày, bên ngoài còn khoác thêm áo choàng gió bằng lụa tím viền lông cáo, dưới vành mũ lộ ra đôi mắt lóng lánh tuyệt đẹp: “Nếu bệ hạ để thần thiếp lựa chọn...”, nghĩ một lát, nói “... thiếp muốn đến Bích Phù lầu”.



Dung Viên hơi ngước mắt, vẻ ngạc nhiên, nhưng chỉ thoáng qua, rồi giơ tay phẩy chiếc lá vàng rơi trên mũ của cô.

Dung Viên ngạc nhiên là có nguyên do, bởi vì Bích Phù lầu mặc dù nghe tên rất phong nhã, giống như nơi bán hoa sen, nhưng thực tế là sòng bạc nổi tiếng ở thành Tứ Phương.

Thường xuyên có khách lân quốc vượt ngàn dặm đến đây đánh bạc, chuyện này vốn là phi pháp, nhưng khách láng giềng nhàn rỗi đến chơi, vô tình thúc đẩy du lịch địa phương phát triển, đây quả là vấn đề gay cấn.

Tông pháp tổ tiên vốn quý, nhưng nếu cản trở kiếm tiền thì cũng nên bỏ. Triều đình suy tính sao cho vẹn toàn cả hai, vậy là quyết định đưa đánh bạc trở thành một nghề. Các sòng bạc lớn nhỏ được chính quyền cổ vũ ra sức cạnh tranh tàn sát, ba năm sau chỉ còn lại Bích Phù lầu lớn nhất, ông chủ sòng những tưởng một mình làm vua một cõi, ai ngờ bị cưỡng chế bán cho nhà nước với giá gốc.

Có lẽ tôi hiểu tại sao Oanh Ca muốn đến Bích Phù lầu, khi còn là sát thủ của Dung gia, Dung Tầm chủ trương các sát thủ phải tu thân dưỡng tính, không kiêu ngạo, không nóng nảy, không mù quáng tham lam, đánh bạc là tham lam, hơn nữa đối tượng ám sát không ai mê cờ bạc, khiến Oanh Ca hai mươi năm sống trong chốn bụi hồng, chưa bao giờ bước chân đến sòng bạc, nơi hội tụ những người giàu tham vọng của thế gian.

Nhìn thân hình ung dung chậm bước phía trước, tôi nén không nổi hỏi Mộ Ngôn: “Dung Viên cũng biết Oanh Ca đã khỏe hẳn, mà vẫn cho cô ta mặc nhiều như vậy, bó chặt như cái bánh chưng, nếu có thích khách, làm sao ra tay? Hay là muốn cô ta lăn một vòng đè chết thích khách?”.

Mộ Ngôn dừng bước, nhưng không phản bác như mọi lần, trái lại có vẻ suy nghĩ nghiêm túc: “Đàn ông đa phần như vậy, người con gái mình yêu dù mạnh mẽ đến mấy cũng vẫn là nhi nữ, không muốn để nàng chịu khổ hay lâm vào cảnh đáng sợ, phải tận mắt nhìn thấy nàng sống sung sướng đủ đầy mới yên tâm”.

Trong ngực có gì nảy lên, tôi nhìn sang bên: “Huynh nghĩ như vậy, cô gái nào sau này lấy được huynh thật có phúc”. Nhưng số tôi không có phúc đó.

Nhưng chàng lại nghiêm trang gật đầu, ánh mắt hướng về tôi, như cười như không nhìn tôi: “Đúng, lấy tôi rất hời”.

Lòng càng buồn thêm, tôi không thể trở thành cô gái của chàng, cũng không hy vọng trở thành cô gái của bất kỳ ai. Chợt lại nảy sinh ý nghĩ ác độc, chàng đã không thể yêu tôi, vậy nhất định không để chàng yêu cô gái khác, hoặc dứt khoát để chàng đi yêu đàn ông.

Bích Phù lầu trên đường Huyền Vũ, hiên cong mái lượn, tráng lệ lộng lẫy, kiến tạo mô phỏng dinh thự làm việc của quan lại trong triều, đối lập với tửu lầu bên trái và thanh lâu lớn nhất thành Tứ Phương bên phải.

Đi vào trong, chọi gà đấu chó, mạt chược, cờ vây, xúc xắc, rất nhiều trò chơi, cơ hồ mọi trò cờ bạc của thiên hạ ở đây đều có, chẳng trách những kẻ ham cờ bạc nhưng không có tiền chơi cũng đến xem cho thỏa.

Nhưng nghe đồn, Bích Phù lầu này không có con bạc, chỉ có khách đánh bạc.

Khách đánh bạc của Bích Phù lầu đều là những người giàu, một lần vung tay cả ngàn lạng, thắng thua đều tính bằng ngàn lạng, tôi thầm nghĩ hôm nay Oanh Ca đến đây là có ý đồ khác, không phải muốn đánh bạc, không ai mang theo ngân phiếu ngàn lượng đi dạo phố. Khách vây quanh bàn xúc xắc đông nhất, Oanh Ca bước đến bên bàn, Dung Viên đi sau.

Tiểu nhị thoáng nhìn đã biết chàng công tử áo trắng đi sau Oanh Ca rõ ràng ngời ngời phú quý, bèn tiến lại gạ gẫm nói, vị công tử áo gấm ngồi ở bàn kia là một cao thủ lục bác kỳ(*), cao thủ cao thủ đại cao thủ, chơi ở sòng bạc này đã ba năm chưa bao giờ thua, nếu Dung Viên có hứng, xin hãy thử so tài với anh ta một phen.

Nói mãi Dung Viên vẫn không động đậy, tiểu nhị chưa hiểu thế nào, lại tiếp tục tán dương công tử áo gấm, nào là người đó rất bí hiểm, rằng không ai biết tên anh ta, càng không biết thân thế anh ta, chỉ biết đâu như là người Tân Lương nước Lầu, do mấy năm nay chỉ chơi lục bác kỳ, cho nên mọi người ở đây gọi anh ta là Tân Lương bác khách, một cách gọi vừa thân thiết lại không thất lễ.

Tiểu nhị nói một hồi, Dung Viên vẫn không động lòng, nhưng lại làm động lòng Oanh Ca đứng bên, đôi mắt đen liếc chàng: “Thật thú vị, bệ... à, phu quân chơi lục bác kỳ rất giỏi, sao không thử một ván, biết đâu có thể thắng anh ta?”.

Dung Viên nhìn cô: “Có thể ư?”, dừng một lát, “… Không mang tiền”.

Tiểu nhị: “…”.

Tân Lương bác khách đã ăn đứt của đối phương ba quân đen, thắng bại đã rõ ràng, khách đứng xem trầm trồ xuýt xoa. Dung Viên vừa mới nói không mang tiền, lại ngồi ngay vào ghế của người bị thua vừa đứng lên. Tân Lương bác khách ngồi đối diện ngẩn người, nói giọng lễ phép: “Hôm nay ngày mười lăm, số mười lăm tại hạ chỉ có thể chơi ba ván, ba ván đã mãn, thứ lỗi cho tại hạ không thể hầu các hạ”.

Dung Viên tung con bài trắng trong tay, dung sắc thản nhiên: “Nghe nói ba năm nay anh chưa từng thua. Ta nói có thể thắng anh, phu nhân ta không tin, hôm nay muốn thử một ván, anh muốn đánh bao nhiêu không thành vấn đề”.

Chàng trai trẻ được gọi là Tân Lương bác khách lộ vẻ kinh ngạc, ánh mắt dừng lại sau lưng Dung Viên, cất tiếng cười giòn tan: “Khẩu khí của các hạ thật lớn, đã vậy tại hạ sẽ phá lệ, hôm nay sẽ đánh thêm ván này, tại hạ xin đưa vợ mình ra cược, các hạ đưa vị phu nhân đứng sau các hạ ra cược, thế nào?”.

Khuôn mặt Oanh Ca vốn đỏ hồng bỗng trắng nhợt. Tôi biết là vì sao.

Bầu không khí im lặng bắt đầu từ bàn cờ lan ra, toàn nội đường im phăng phắc, quân cờ trắng trong tay Dung Viên “cạnh” một tiếng đập lên mặt bàn gỗ hoa, giọng dửng dưng: “Thay vật cược”.

Tân Lương bác khách lộ vẻ hứng thú: “Chẳng phải vừa rồi các hạ nói như đinh đóng cột ván này nhất định thắng tại hạ? Đã vậy tạm thời để quý phu nhân chịu tủi một chút, được không?”.

Quân cờ bằng ngà trong tay Dung Viên bị bẻ làm bốn miếng không một tiếng động, chàng mặt không biểu cảm xòe bàn tay, hai vết đứt như bị dao cắt: “Một khắc trước ta còn muốn trân trọng nó, một khắc sau lại muốn bóp nát nó, có thể thấy trên đời không có gì là tuyệt đối. Mạo hiểm người mình yêu như thế...”. Chàng dừng lại “... thì quả là khinh suất”.

Oanh Ca còn đang chưa kịp định thần, ngẩng phắt đầu, tay đón cây trường đao Dung Viên ném cho, miếng ngọc thạch màu lam khảm trên chuôi cây đao lóe ra ánh sáng chói mắt, không biết phải phá bao nhiêu ngọn núi mới thu được một mẩu ngọc thạch quý đó, ánh mắt hai người thoáng gặp nhau, chàng quay người lại: “Hãy đưa thanh đao này cho ông chủ, bảo ông ta đổi mười vạn ngân bạc”.

Hai câu trước là nói với Oanh Ca, hai câu sau là nói với chàng trai trước mặt, “Nếu anh còn muốn đưa vợ ra đặt cược, tùy anh, nhưng cũng không để anh chịu thiệt, ván này ta đặt mười vạn thù vàng”.

Lời Dung Viên vừa dứt, Bích Phù lầu lập tức náo loạn, khách đổ dồn đến, không ai muốn bỏ qua canh bạc lớn chưa từng có kể từ khi khai trương Bích Phù lầu.

Chiếc bàn của Dung Viên và bác khách huynh đệ trong nháy mắt đã bị vây kín vòng trong vòng ngoài, trong khi khách chơi ở dưới lầu nghe tin vẫn đang ùn ùn kéo tới.

Không có vật gì bảo vệ che chắn tốt hơn đám đông, tôi nghĩ đây chính là thời cơ bỏ trốn tốt nhất, có lẽ Dung Viên cố tình cho Oanh Ca một cơ hội bỏ trốn, nhất định là thế. Bởi vì chàng vốn có thể trực tiếp đưa thanh đao quý đặt cược với phu nhân của bác khách, nhưng lại bảo Oanh Ca đem đi đổi, nếu không phải lý do đó, quả rất khó tìm ra lý do nào khác.

Bất luận thế nào Oanh Ca cũng nắm lấy cơ hội này. Cần phải tìm cho mình một người đồng hành tâm đầu ý hợp trong cuộc đời hỗn loạn này, có lẽ cuối cùng Dung Viên cũng nhận ra Oanh Ca không phải là người đó, cô đã chán cuộc sống tù túng trong cung, luôn muốn bỏ trốn, luôn luôn muốn.

Lầu hai rộng rãi, Mộ Ngôn tìm được một vị trí có thể quan sát ván bài của Dung Viên. Lát sau ông chủ Bích Phù lầu cầm túi bạc run run rẽ đám người đến bên bàn, cúi gập người nâng túi bạc như nâng thánh vật dâng trước mặt Dung Viên.

Bàn tay Dung Viên cầm quân bài bằng ngà dừng lại trên không: “Phu nhân ta đâu?”. Ông chủ Bích Phù lầu lau mồ hôi hột trên trán không biết nói sao. Lúc sau, Dung Viên bất ngờ đặt quân bài xuống bàn: “Ta thua rồi”. Trên ván cờ hai bên đen trắng rõ ràng đang triển khai hết sức gay cấn, huynh đệ bác khách đối diện kinh ngạc tròn mắt, hồi lâu sau, nghiến răng: “Các hạ thế này... là ý gì?”.

Ông chủ sòng đứng bên hoảng hốt giật mình, vội đi đến bên bàn: “Vị công tử này không muốn chơi nữa thì thôi, anh được không mười vạn đồng, anh cũng là khách quen của chúng tôi, đều là chỗ thân tình, đừng làm khó lão hủ này”.

Tôi nghĩ điều Dung Viên muốn nói không chỉ là ván cờ, chàng cho Oanh Ca cơ hội, nhưng không muốn cô bỏ đi thật, giống như tôi biết rõ đi theo Mộ Ngôn thế này chỉ ngày càng quyến luyến chàng, một vong hồn lại dung thứ bản thân ngày càng lưu luyến thế gian, nỗi đau thế nào khi phải chia ly chỉ một mình mình biết, giống như ván cờ vô vọng kia, giống như tâm trạng Dung Viên lúc này.

Khách xem tản dần, có vẻ tiếc rẻ, thông thường họ có thể nài chơi tiếp, nhưng có lẽ đoán Dung Viên là một quan lớn nào đó đành thôi, vốn tưởng được chứng kiến một ván bài nảy lửa xứng với mười vạn thù vàng đặt cược, không ngờ lại kết thúc như vậy.

Vị quân vương trẻ tuổi trầm ngâm ngồi bên bàn tròn, quân cờ trắng trong tay đột nhiên bị bóp vụn, bụi trắng lọt qua ngón tay rơi xuống mặt bàn, một lúc lâu sau chàng đứng lên, thần sắc lại bình thường như chưa xảy ra chuyện gì, dường như hôm nay từ đầu đến cuối chỉ có một mình chàng bỗng dưng nổi hứng đến chỗ này, bỗng dưng nổi hứng tham gia một canh bạc, canh bạc chưa tàn vẫn mãn nguyện một mình hồi cung. Cảnh đường phố trước Bích Phù lầu vẫn sầm uất náo nhiệt, chàng đứng ngây ở bậc thềm rất lâu, dáng cô đơn, dường như trước giờ vẫn cô đơn như vậy, giữa cảnh phồn hoa trông không hề lạc lõng.

Một cậu bé rao bán kẹo hồ lô đi qua, chàng gọi lại, bạc đã móc ra, đột nhiên sực nhớ điều gì, lại thôi: “Không mua nữa”.

Sau lưng vang lên một giọng nữ dịu dàng: “Sao lại không mua? Thiếp muốn ăn”.

Dung Viên cứng người, vẫn giữ tư thế nhét tiền vào ống tay áo, mãi vẫn chưa hiểu ra, tôi cũng mãi chưa hiểu ra. Mộ Ngôn gập cái quạt, nhìn tôi, nói vẻ đắn đo: “Dung Viên hồn xiêu phách lạc, không phát hiện Oanh Ca cô nương vẫn đứng ở lầu hai đã đành, nhưng đừng nói với tôi cô cũng không phát hiện ra. Cô ấy thậm chí… đứng ngay cạnh cô”.

Tôi quả thực không phát hiện ra.

Mộ Ngôn lại xòe cái quạt, mủm mỉm nói nhỏ: “Quả nhiên”.

Tôi tức điên vì nụ cười giễu cợt của chàng: “Tôi, tôi cũng hồn xiêu phách lạc”.

Mộ Ngôn: “…”.

Tôi nói thật, nhưng chàng không tin, tưởng là tôi biện hộ, nhìn Dung Viên dường như tôi nhìn thấy bản thân mình, nhưng Mộ Ngôn vĩnh viễn không biết, thực ra cũng không cần chàng biết. Tôi tự an ủi mình, A Trăn, đừng buồn, chàng không biết là tốt, ở đời có quy tắc vuông tròn không thể phế bỏ, người sống có thế giới của người sống, người chết có thế giới của người chết, chỉ cần được nhìn thấy chàng là tốt rồi, tham lam quá cũng không hay.

Oanh Ca mình khoác áo gió màu tím đứng sau Dung Viên năm bước, vừa thoáng ngoái nhìn, chàng lại đắn đo không ngoái hẳn, tựa hồ như trên đường phố sầm uất đột nhiên hiện ra một khoảng trống, trong đó chỉ có hai người, khách qua đường là ngoại cảnh, thời gian ngừng lại. Cuối cùng là cậu bé bán hồ lô phá vỡ bầu không khí yên lặng, nhìn Oanh Ca lại nhìn Dung Viên: “Công tử có mua không?”.

Oanh Ca bước đến chọn hai chiếc to nhất: “Mua chứ, sao lại không mua”. Cậu bé lắc đầu: “Vậy ai trả tiền?”.

Đôi mắt đen lúng liếng nhìn Dung Viên đứng bên: “Sao còn đứng ngây ra thế, trả tiền đi”. Ánh mắt cô chứa muôn ngàn tia sáng, như thuở mười lăm đẹp nhất, bàn tay còn chưa dính máu, là một giai nhân tuyệt mỹ, nhất là đôi mắt, hơi cười là sóng sánh xuân tình.

Cậu bé được tiền thưởng sung sướng chạy biến, gió bắc lớn dần, Dung Viên cuối cùng ngoái đầu lại, khuôn mặt anh tú vẫn lạnh lùng, giơ tay gạt những sợi tóc mai xõa xuống mặt cô, cử chỉ vô cùng cẩn trọng, nhưng giọng nói vẫn không chút xao động: “Đi đâu vậy?”. Tôi nghĩ vị quân vương trẻ tuổi này quả rất giỏi kiềm chế.

Mắt Oanh Ca như cười: “Người đông, ngại chen vào, xem ở lầu trên. Tại sao giữa chừng đã nhận thua, lại thua nhiều như vậy, tiền đó thà thưởng cho thiếp”.

Tai Dung Viên hơi đỏ, nhưng mặt vẫn lạnh: “Không muốn chơi thì không chơi nữa, mà nàng cần nhiều tiền thế làm gì, tiền tiêu hàng tháng trong cung vẫn chưa đủ sao?”.

Cô nhìn chàng, hai người rẽ vào ngõ bên phải vắng người, nói giọng khổ não: “Thì ra bệ hạ cũng biết món tiền thua hôm nay rất lớn, trong các gia đình bình thường, người chồng thua bạc, vợ càu nhàu vài câu là chuyện thường”. Đoạn quay đầu lườm chàng: “Huống hồ chàng thua nhiều như vậy”.

Tai Dung Viên càng đỏ, mặt cũng càng lạnh: “Vậy nàng muốn ta thắng, dẫn vợ người ta vào cung xưng hô tỷ muội với nàng?”.

Tôi giơ tay ôm trán, cảm thấy rất thú vị, quân vương trẻ này còn biết khiêu khích nữa, rõ ràng đã xúc động đỏ cả tai, nhưng câu nói khiêu khích đó đã đánh trúng tâm lý Oanh Ca.

Oanh Ca quả nhiên lạnh mặt, nói dỗi: “Nếu bệ hạ có ý đó, là phúc của cô ta…”.

Lời chưa hết đã bị Dung Viên ép vào góc tường. Ánh nắng rọi xuống, bị gió thổi tan ra, chàng cau mày nâng mặt cô lên: “Vậy còn nàng, ở bên ta nàng có cảm thấy đó là phúc phận?”.

Cô nhìn chàng, dường như muốn nặn ra nụ cười ở khóe mắt, như cô vẫn làm thế, nửa thật nửa giả, dường như không gì có thể làm cô tức giận. Môi chàng đã bất ngờ áp vào đôi mắt ấy: “Nàng có biết, tình yêu của quân vương là thế nào không?”.

Cô nói ngay: “Ân trạch ban khắp muôn dân”.

Môi chàng rời mắt cô, nhìn hai má cô dù cố trấn tĩnh vẫn ửng hồng, bàn tay lại vuốt tóc cô: “Ta không giống họ”.

Tôi không biết Oanh Ca có yêu Dung Viên, chỉ biết cơ hội chạy trốn hiếm có gần như được Dung Viên ngầm cho phép, cô đã bỏ qua.

Gió mùa đông thổi gấp, thành Tứ Phương như một con thú khổng lồ phủ phục ở nơi màu mỡ nhất Trịnh quốc.

Mấy ngày tốt cuối năm có liền mấy đám cưới, lão thừa tướng gả con gái, Hổ Phần tướng quân tục huyền, thiếu phủ Khanh nạp người thiếp thứ chín. Mấy việc tốt liền nhau, ngay đình úy đại nhân cũng cưới vợ, chuyện này không có gì lạ, Dung Tầm cưới vợ đương nhiên sẽ cưới Cẩm Tước, mỹ nhân chàng đã bỏ bao công sức giữ lại.

Đương nhiên Cẩm Tước lúc này không phải là Cẩm Tước mà là Oanh Ca, Thập Tam Nguyệt, vốn thân phận không xứng làm chính thất, nhưng trong triều đều biết Thập Tam Nguyệt có một cô em gái, mấy tháng trước đã vào cung được phong Như phu nhân.

Toàn thành Tứ Phương tưng bừng hỉ khí, trong thời đại cười người nghèo không ai cười kẻ xướng ca, chỉ cần thân phận tương xứng mọi chuyện khác đều không thành vấn đề, ít nhất ngoài tôi, chưa thấy ai bận tâm chuyện Dung Viên và Dung Tầm là chú cháu, Oanh Ca và Cẩm Tước là chị em ruột, sau này gặp nhau mọi người sẽ xưng hô thế nào.

Em gái xuất giá, mặc dù chỉ từ Thanh Trì cư của đình úy phủ gả đến Thanh Ảnh cư của đình úy phủ, chị gái cũng nên đến dự. Do quan hệ nội tộc, không chỉ Oanh Ca đi dự, Dung Viên cũng đi.

Sảnh đường cao rộng, khắp nơi treo những chữ hỉ đỏ to tướng, Dung Tầm toàn thân hỉ bào đỏ chói, mắt sáng mày thanh, thân hình tựa chi lan ngọc bội đứng một bên kính cẩn nghênh đón Dung Viên.

Triều thần quỳ phục hai bên sảnh đường, Dung Viên mình vận triều phục, màu ngọc thạch, đai ngọc lóng lánh, ánh mắt thoáng dừng trên mặt Dung Tầm, rồi dắt Oanh Ca ngồi lên vị trí tôn quý dành sẵn cho mình, vừa yên vị đã khoan thai lên tiếng: “Sau khi thành hôn cũng nên để Thập Tam Nguyệt vào cung chơi với Cẩm Tước, một mình nàng trong cung cũng rất buồn”.

Dung Tầm ngẩng đầu, ánh mắt chạm vào dung nhan trang điểm đoan nghiêm của Oanh Ca, chàng sững người. Không biết lúc này lòng chàng thế nào, có lẽ hoàn toàn không có cảm giác gì, giống như gặp lại một con mèo, con chó đã vứt đi, đây là lần đầu tiên hai người gặp lại sau khi Oanh Ca vào cung, nhưng lại ở một nơi như vậy, trong hoàn cảnh như vậy.

Mười ngón tay thon thả của cô đón cốc trà từ tay hầu nữ, lòng bàn tay hơi ngửa, không hề tìm thấy dấu vết một thời cầm đao, cô cúi đầu thổi trà trong cốc, giọng dịu dàng. “Đã có Hy Hòa suốt ngày ríu rít, thiếp đâu có buồn”.

Dung Viên hơi nghé mắt: “Nàng chỉ nói vậy thôi”.

Hai gò má mịn như ngọc ửng hồng vẻ giận dỗi nhưng bị cốc trà che khuất, cô âu yếm lườm chàng.

Dung Tầm đứng cách hai bước, đôi mắt dài hẹp thoáng lộ vẻ băn khoăn, nhưng quan khách không ai để ý, họ đâu có như tôi lúc nào cũng chăm chú quan sát biểu hiện của Dung Tầm, có lẽ các thiếu nữ cũng muốn vậy, nhưng mấy ai dám làm như thế. Dung Tầm dường như bẩm sinh thích màu tím, thực ra chàng càng hợp màu đỏ thẫm hơn máu.

Khi chàng ngẩng đầu nhìn cô lần nữa, thần sắc lại bình thường như không, xem ra có vẻ chăm chú, nhưng ít nhiều lạnh lùng xa cách. Chàng nhìn cô, chậm rãi nói: “Mấy ngày trước Nguyệt nương bị ốm, nên vẫn chưa vào cung thăm phu nhân, chưa đến giờ cát tường, nếu phu nhân không bận gì, có thể đến Thanh Trì cư chuyện trò với Nguyệt nương”.

Cô khoan thai đặt cốc trà xuống bàn, ánh mắt lướt qua hỉ bào đỏ chói của chàng, mỉm cười, giờ cô đã không còn là con người luôn dằn vặt đau đớn chỉ vì một câu nói của chàng ngày trước: “Bệ hạ mấy hôm nay bị thương hàn, kẻ dưới không hiểu biết, ta phải hầu bên người mới yên tâm, mấy ngày nữa nhân đại tiệc đêm trù tịch tỷ muội hàn huyên cũng được”.

Mắt Dung Tầm lóe ra tia lạnh, môi lại cười vẻ chân thành: “Cũng được”.

Dung Viên ngồi bên hơi cau mày, đưa cốc trà cho Oanh Ca: “Trà nóng quá, ta đã bảo bọn họ thay cốc khác”.

Làm hoàng đế cũng khó, khó ở chỗ phải cư xử sao cho vẫn giữ được chủ ý của mình lại không làm mất lòng quần thần, ngoài ra còn phải chịu đựng mọi con mắt săm soi, đánh giá của thuộc hạ, ngay đến tối nay ngủ với mỹ nhân nào trong hậu cung cũng bị thuộc hạ và thuộc hạ của thuộc hạ bàn luận suy đoán mãi, có khi ân sủng đã ban xong cho mỹ nhân, kẻ dưới vẫn chưa bàn luận xong.

Như đã nói, hôn lễ của Dung Tầm là một ngày đại cát, đó cũng là ngày Hổ Phần tướng quân tục huyền, thiếu phủ Khanh nạp thiếp, để không làm mất lòng đại thần, Dung Viên đã đến hôn lễ của Dung Tầm thì không thể không đến mừng hôn lễ của Hổ Phần tướng quân và thiếu phủ Khanh. Oanh Ca lại không cần đi, được Dung Viên giao cho lưu lại đình úy phủ chủ trì hôn lễ, cho dù muốn rút lui sớm cũng không thể, để tránh bị quan khách chú ý, đành nhẫn nhịn tuân thủ.

Giống như tôi năm mười sáu tuổi được Đường quốc công tử đến cầu hôn, không ngờ lại là một đứa trẻ miệng còn hơi sữa, nhìn tiểu công tử ôm khư khư bức chân dung của tôi, tôi chỉ muốn đá cho cậu ta một nhát, nhưng nghĩ đến tình bang giao giữa hai nước nên đành nhẫn nhịn.

Theo tính cách dễ xúc động của Cẩm Tước, vốn tưởng giữa chừng sẽ xảy ra chuyện khó xử, đại loại đột nhiên hất bỏ khăn trùm đầu ôm lấy chân Oanh Ca khóc lóc, nhưng may không xảy ra chuyện gì.

Nhờ phúc của ngày tốt, mọi việc đều thuận lợi, tân lang phong lưu tuấn tú, tân nương xinh đẹp dịu hiền, cặp đôi tân nhân nắm chặt tay nhau trước mặt Oanh Ca, thực hiện mọi nghi thức, nhất bái thiên địa, nhị bái cao đường, phu thê tương bái, trong tiếng hô dõng dạc của chủ hôn.

Trịnh hầu vương phu nhân ngồi trên chiếc kỷ trang trọng cạnh chiếc kỷ bỏ trống của Dung Viên, trong tiếng chúc mừng của quan khách, nụ cười trong mắt như một đóa hướng dương mùa đông có đủ ánh mặt trời, không thể đoán lúc nào nở thật, lúc nào không, giống như cô sau năm mười một tuổi, trong ánh dao và sắc máu đã dần dần học được cách hành xử nửa thật lòng nửa giả dối. Ánh mắt Dung Tầm ngưng lại trên gương mặt kiều diễm đoan nghiêm của cô, dường như muốn tìm biết điều gì, tôi nhìn theo ánh mắt chàng ta, nhưng cũng chẳng biết gì hơn.

Trong yến tiệc đông vui náo nhiệt, chớp nhoáng gặp riêng cũng không khó lắm. Trên bầu trời, những bông hoa tuyết bay tơi tả trong gió lạnh ù ù, đậu kín cành cây trụi lá, trong rừng mai phía xa nở rộ hoa trắng, chi chít trên cành, run rẩy trong gió lạnh.

Oanh Ca toàn thân áo tím, đứng dưới tán mai trắng, mái tóc đen dài chấm gót, vầng trán trắng ngần vương hoa tuyết trông như tuyết rơi trên bạch ngọc, môi hơi mím, cô ngoái đầu, ngay tôi đã quen nhìn mỹ nhân cũng không khỏi sững sờ, vội vàng nhìn sang Mộ Ngôn đang uống trà bên cạnh, sắc mặt chàng vẫn bình thường, không thấy tỏ ra xúc động. Có tiếng chân bước đến gần, trong rừng mai vắng, giọng Oanh Ca chầm chậm vang lên: “Đại nhân mời Cẩm Tước ra đây không biết vì nguyên cớ gì?”.



Tiếng bước chân dừng lại, người đàn ông vận đại hỉ bào tay cầm chiếc ô màu nhạt, đứng yên trong khoảng trống đầy hoa tuyết: “Oanh Ca…”.

Khuôn mặt thanh thú của mỹ nhân áo tím lộ vẻ băn khoăn: “Đại nhân… đại nhân nhận nhầm người rồi!”.

Môi ép ra nụ cười: “Cẩm Tước, Cẩm là cẩm tú lương duyên, Tước là dương tước cầu hoàn, phu nhân thứ chín của Trịnh hầu vương. Oanh Ca mà đại nhân vừa nói đã chết từ bốn tháng trước, tôi không phải là Oanh Ca, người đại nhân cưới hôm nay mới là Oanh Ca”.

Dãy núi phía xa uy nghi tĩnh mịch, tuyết lẫn trong gió, Dung Tầm đứng trước cô, cách năm bước, môi động đậy, nhưng không thành lời, lát sau, rút trong người ra một cái cốc gốm hình thù kỳ quái, thành sáng bóng nhưng đầy vết rạn, có vẻ như đã được ghép lại từ những mảnh vỡ.

Chàng nhìn cô, ánh mắt thâm sâu đặc như mực: “Ta thấy vật này ở Thanh Trì cư, nghe nói đó là món quà em định tặng ta?”. Cô giơ tay đón chiếc cốc, “Thế ư? Để tôi xem”. Cô buông tay, chiếc cốc rơi đúng vào hòn đá dưới chân, vỡ vụn.

Chàng nhìn cô, trầm ngâm: “Em hận ta?”.

Bất chấp uy nghi của phu nhân quân vương, cô ngồi xuống, cúi nhìn những mảnh gốm vỡ, lát sau đột nhiên bật cười: “Chiếc cốc này tôi từ nước Triệu phi ngựa trăm dặm hộc tốc mang về, định tặng chàng, chỉ sợ không kịp sinh nhật chàng, tay bị thương, lẽ ra phải đợi chữa trị xong quay về cũng không muộn, sao có thể muộn, lúc đó tôi quá ngốc, đã nghĩ là cả năm chàng chỉ có một ngày sinh, không ngờ tôi về sớm mà vẫn muộn, tôi đã đưa chàng lên quá cao, đến mức nhất định phải trân trọng, phải đối xử tinh tế chu toàn, kỳ thực chàng hoàn toàn không cần sự trân trọng và tinh tế chu toàn của tôi, trong mắt chàng tôi chỉ là một công cụ”.

Cô đưa tay vuốt món tóc mai ướt tuyết, môi vẫn cười, “Tôi giữ lời, giúp chàng nốt việc cuối cùng để hôm nay chàng có thể cưới Cẩm Tước như ý nguyện, tôi không nợ chàng nữa. Nhớ quá sâu sẽ bị tổn thương. Chàng thấy có phải không?”.

Chiếc ô màu nhạt hơi rung rung, rừng mai tĩnh mịch, chỉ có tiếng lạo xạo tuyết rơi, giống như ai đi chân trần trên lá khô mùa thu. Chàng giơ tay định kéo cô lên, nhưng cô đã tự đứng dậy.

Giọng chàng khe khẽ dưới tán ô: “Ta đã phụ em”.

Cô gật đầu: “Chàng đã phụ tôi. Chàng và Cẩm Tước, hai người đã phụ tôi”.

Chiếc ô rơi xuống đất, chàng không cúi nhặt, ánh mắt trở nên âu yếm dịu hiền, tôi nghĩ tôi không nhìn nhầm, nhưng tôi mong là tôi nhìn nhầm, thần sắc đó giống như cái buổi sáng lúc cô mười lăm tuổi, trong rừng trúc chàng luyện đao cho cô, lúc đó cô vẫn là đứa trẻ, sợ sấm sét, nhìn thấy máu là choáng, chàng thường cười cô, nét mặt cũng như bây giờ thật âu yếm thật dịu hiền.

“Ta đã phụ em, hận ta đi, như thế cũng tốt”.

Có những phụ nữ hâm mộ kẻ giết người, có vẻ vô lý, thực ra xuất phát từ ý nghĩ lãng mạn, cho rằng sát thủ rất mạnh mẽ yêng hùng, khi gắn bó với anh ta mới biết thật thảm khốc.

Giết chết một sát thủ không khó, làm sát thủ động lòng mới khó, cuộc đời của họ giống như đi trên dây giữa hai bờ vực thẳm, chỉ có nguy hiểm, với xã hội họ luôn có thái độ thù địch chống đối.

Có một cách khiến sát thủ động lòng, chính là giao tính mệnh của mình cho họ. Điều này có cơ sở logic vững chắc, thử nghĩ, những người đó luôn phải đối mặt với hiểm nguy sinh tử, hiểu rõ nhất sự yếu đuối rất nhân tính trước cái chết, chỉ cần giữ được tính mạng, mọi thứ khác đều không quan trọng, dẫu là kẻ keo kiệt nhất hạng, khi kề dao vào cổ hỏi cần tiền hay cần mạng, nhất định kẻ đó cũng không nói tôi cần tiền, hãy giết tôi đi.

Nếu có thể trao tính mạng cho người khác, không nói một sát thủ, một thích khách, cho dù một phàm nhân cũng khiến họ cảm động đến có thể xả thân tương cứu. Tôi không biết Dung Viên có hiểu, nhưng bất luận có hiểu hay không, trong đêm trừ tịch ở vương cung, khi một con báo gấm to đã trưởng thành điên cuồng lao vào Oanh Ca, phản ứng đầu tiên của chàng không phải là trốn vào một góc mà là kéo Oanh Ca về phía sau.

Dung Viên là Trịnh quốc đệ nhất đao thủ, người trong thiên hạ hình dung đao thuật Trịnh hầu vương nhanh như chớp giật, hoàn toàn không thể nhìn ra chiêu thức, ánh dao vừa lóe, đao đã thu về cắm vào bao, người bị chém thậm chí chưa kịp nhận ra, người ra tay đã đi xa. Theo lý, đao pháp như vậy, chém hai con báo là chuyện có thể, cái khó ở chỗ, trong bữa tiệc đêm trừ tịch đó Dung Viên lại không mang đao theo người, phản ứng của cơ thể nhanh đến mấy, trong tay ôm một người, né tránh cũng khó khăn.

Còn con báo gấm vồ mồi vốn rất nhanh, khi thịnh nộ càng khủng khiếp.

Bộ vuốt sắc bất ngờ chồm lên vai trái Dung Viên, bảy vị phu nhân xung quanh đồng thanh thét lên, cùng lúc các thị vệ lao đến, một người kịp thời đâm kiếm trúng ngực con báo, con vật trúng thương gầm lên, lao đến ngoặm đứt nửa cánh tay thị vệ đó. Cả toán thị vệ lập tức quây vòng tròn quanh con thú, bảo vệ Dung Viên phía sau. Nhưng con báo trúng thương điên cuồng lồng lộn còn lao đến cắn xé làm mấy thị vệ bị thương nặng.

Oanh Ca mặt tái nhợt, tay giằng đao của thị vệ đứng gần, Dung Viên cau mày, nghiêng người khéo léo cướp thanh đao trong tay cô, trở tay đẩy cô vào lòng Dung Tầm lúc này vừa xông ra cứu.

Đèn lồng trong cung sáng suốt mười dặm trong màn đêm bảng lảng sương khói, hoa tươi khắp nơi, một cảnh đêm đông huy hoàng hiếm có, phút chốc ánh nến hồng đã loang loáng ánh đao, nhuộm sắc máu, Trịnh hầu vương trẻ tuổi ung dung thể hiện đao pháp nhanh như ánh sao băng, chỗ ánh đao lướt qua chùm tia máu vọt lên không trung tản mạn sương khói, con báo giãy giụa gục xuống, đầu lăn lông lốc mấy vòng như một quả cầu.

Trong hoa đình bất chợt im phăng phắc, môi Oanh Ca run run, một tay đẩy Dung Tầm ra, lê váy dài loạng choạng chạy về bên Dung Viên đang cầm trường đao, giơ tay vuốt bờ vai bị thương của chàng, chợt tròn mắt thất kinh, máu đen đang thấm qua thường phục màu bạc, thần sắc chàng vẫn không thay đổi, hơi nhíu mày nhìn cô, vẻ không vui: “Cướp đao nhanh như thế để làm gì?”. Ngừng lại rồi tiếp, “Những lúc như thế này chỉ cần đứng sau ta là được”.

Cô không thể nói nên lời, mặt càng tái nhợt, môi run run, ôm chặt cánh tay chàng, dường như mọi nỗ lực của chàng đều là gắng gượng, quả nhiên chàng gục xuống ngay sau đó.

“Độc, vuốt con báo đó có độc”.

Sự thật là Dung Viên đã quá gắng sức, khi ngự y hốt hoảng đi đến, chàng vừa ngã ra, trường đao rơi xuống, Oanh Ca cố đỡ chàng, nhưng cả hai đều ngã ra đất. Cô nhổm dậy, quỳ trên nền tuyết nhuốm máu đỏ ôm lấy chàng, hoang mang nhìn vết thương vẫn đang tuôn máu trên vai chàng, nhìn đôi mắt nhắm nghiền và khuôn mặt đã trắng bợt của chàng, đôi môi tím ngắt ghé sát vành tai cứ xúc động là đỏ ửng của chàng, cô khẽ nói: “Nếu chàng chết, em sẽ đi theo chàng”.

Dung Tầm bên cạnh nghe vậy ngẩng phắt đầu, nhìn thẳng vào Oanh Ca đang ôm Dung Viên, nhìn sâu vào đôi mắt đen như nhân hạnh đào của cô, lúc này dù ánh trăng chiếu vào cũng không thấy ánh sáng.

Dung Viên đúng là bị trúng độc, mặc dù tôi tin là có nhiều người mong chàng ta chết, nhưng chung quy không phải là kịch độc có thể nôn ra máu chết ngay, cho dù cách thức đầu độc cao tay hơn nhiều so với dùng thuốc chuột.

Oanh Ca túc trực ở điện Thanh Lương suốt ba ngày đêm không ngủ, Dung Viên cuối cùng tỉnh lại, mặc dù vẫn suy yếu xanh xao, đôi mắt đen lại tràn đầy sinh khí khác thường. Chàng khoác áo choàng mỏng ngồi dựa đầu giường chăm chú nhìn Oanh Ca bê bát thuốc đi đến: “Lúc đó nàng đã nói gì?”.

Cô cúi đầu, múc một thìa thuốc đưa lên miệng thổi, đưa sát miệng chàng, “Uống thuốc đi đã, hết nóng rồi”.

Chàng cụp mi mắt: “Không uống”.

Mặt cô lộ vẻ bất bình, đổ thìa thuốc vào bát, lặng lẽ nhìn chàng, từ từ lấy ra trong ống tay áo một con xúc xắc: “Vậy, cái này tặng chàng”.

Chàng nhìn cô, cầm xúc xắc nhìn kỹ dưới đèn, miệng lẩm nhẩm: “Xúc xắc gắn đậu tương tư...”. Lát sau, cầm xúc xắc trong tay, ánh mắt như cười: “Tại sao tặng ta quân xúc xắc này?”.

Cô ngẩng đầu lườm chàng, “Chàng không biết ư?”.

Dung Viên lắc đầu: “Ta không biết”.

Cô nhao đến hai tay ôm mặt chàng, dụi mũi vào mũi chàng: “Chàng không biết thật ư?”.

Chàng nắm tay cô, ngẩng nhìn cô: “Không ai dám đối với ta như vậy, như thế là khi quân, đợi ta bình phục...”.

Cô nghiêng đầu nhìn chàng, má ửng đỏ như hoa mùa xuân lại nở sau tiết đông hàn. “Đợi chàng bình phục thì sao?”.

Chàng không nói, lặng lẽ nhìn cô.

Cô trượt xuống, gục trên đầu gối chàng, nói như tự an ủi: “Thiếp đợi chàng bình phục, nhanh bình phục nhé”.

Xúc xắc gắn đậu tương tư, thiếp tương tư chàng, chàng hỡi có hay.

Sau đó, mọi chuyện như Mộ Ngôn nói, Oanh Ca và Dung Tầm chung sống ba năm, được sủng ái nhất Trịnh cung, mùa xuân năm sau được phong đệ nhất phu nhân. Tôi không biết trên đời liệu có tình yêu vĩnh hằng, hoặc như Mộ Ngôn nói, một cuộc tình dang dở giữa lúc đẹp nhất mới có thể vĩnh hằng, như Thẩm Ngạn và Tống Ngưng ngày nào.

Sử Trịnh không thấy ghi chép chuyện này, đó là bí mật cung thất được giấu kín. Dung Viên bố cáo thiên hạ Tử Nguyệt phu nhân lâm bệnh qua đời, từ khi biết thân phận Oanh Ca chúng tôi đã biết nhất định có sự cố, nhưng không nghĩ sự cố chỉ là sự tự tôn của bậc quân vương. Năm Cảnh hầu thứ mười, chuyện Oanh Ca tráo đổi thân phận vào cung bị bại lộ. Dung Viên nổi giận. Oanh Ca bị phạt giam mười năm trong núi Đình Hoa để sám hối, mười năm không được xuống núi.

Núi Đình Hoa ở ngay sát biên giới Trịnh - Triệu, đó là ngọn núi thiêng của nước Trịnh, tương truyền là nơi hóa thân của một nữ thần được vương thất sùng bái, đàn ông không được đến, đàn bà nếu không được vương thất cho phép, cũng không được lui tới, ai trái lệnh sẽ bị chu di.

Năm đó Oanh Ca hai mươi ba tuổi, lừa dối Dung Viên ba năm, chàng chôn vùi mười năm tuổi xuân của cô ở nơi núi sâu cách biệt thế gian. Thị vệ trói cô áp giải khỏi Dung Nguyệt cung, cô muốn gặp chàng lần cuối cũng không được.

Hai tháng đầu bị nhốt ở núi Đình Hoa, ngày đêm cô suy tính tìm cách phá trận pháp trong núi trốn ra, cuối cùng mình đầy thương tích, cô cũng thoát ra được, đi suốt ngày đêm trở về vương cung ở kinh thành, dọc đường nghe tin triều đình ra bố cáo mình bị bệnh qua đời, và vị phu nhân thứ sáu của Dung Viên, Như phu nhân Hồng Châu đã hoài thai cốt nhục của chàng.

Do mình đầy vết thương, cô đi rất chậm, mới đến nửa đường đã bị thị vệ truy đuổi bắt được. Đường trường hoang vắng, trên trời một mảnh trăng lưỡi liềm cùng mấy đốm sao tàn, Dung Viên tưởng là đang ở kinh thành xa ngàn dặm bỗng vén rèm kiệu, dưới ánh trăng nghiêng, hiện ra khuôn mặt ẩn phong sương.

Mũi đao dài kéo lê trên đất, cô khó nhọc lết từng bước đến trước mặt chàng, như một đóa hoa rơi, để lại vệt máu dài sau lưng. Cô ngẩng đầu nhìn chàng, mắt ngấn lệ long lanh, giọng nghẹn ngào: “Lúc đó chàng đã nói với thiếp, chàng không như họ, chàng quên rồi ư?”.

Cô nắm ống tay áo chàng: “Xúc xắc thiếp tặng, chẳng phải ngày đêm chàng vẫn mang bên người đó sao, chàng...”.

Dung Viên ngắt lời cô, rút trong ống tay ra con xúc xắc, khẽ bóp, lớp bột trắng rơi xuống như cát: “Cô nói vật này?”.

Cô kinh ngạc nhìn chàng, ánh nước trong mắt càng dâng, nhưng trước khi tụ thành giọt đã bị ép tan đi, môi run run rất lâu, mới phát ra tiếng: “Kỳ thực chàng đã sớm biết thiếp không phải là Cẩm Tước đúng không? Cố tìm lý do để giam cầm thiếp”. Đột nhiên cô bật cười, “Chàng đã chán thiếp rồi chăng?”.

Cô giơ tay bịt mắt mình, giọng thấm buồn như nói với mình, hai má lại ngấn nước: “Sao thiếp có thể tin chàng như vậy, những người trong vương thất đâu có hiểu sự quý giá của nhân tâm”.

Xung quanh tĩnh lặng, cô từ từ buông tay, khóe mắt vẫn còn ánh nước, hai mắt lại mở to kiên cường, “Nghe nói Hồng Châu phu nhân đã hoài thai, chúc mừng chàng”. Những mạt bụi từ mảnh ngà bị bóp vụn bay theo gió, trong bóng đêm như dệt ra một dải sa mỏng, tay Dung Viên chợt cứng đờ, ngẩng đầu nhìn cô, đôi mắt sâu hoang vắng, xa xăm như ánh sao cuối trời ngày xuân.

Ngày xưa khi tình vẫn nồng, Dung Viên thường dạy đao pháp cho Oanh Ca, chị đã từng là hộ vệ của Dung Tầm, em biết đao thuật cũng chẳng có gì lạ, nhưng dạy thì dạy, chưa bao giờ thực sự đấu với cô một lần. Trận duy nhất này lại là đêm nay sau khi đã chia lìa. Ngàn vạn đóa anh đào tan tác dưới ánh đao như bóng chớp của chàng, theo gió bay xa, chàng chộp tay cô giao cho thị vệ: “Không đưa được phu nhân về núi, hãy mang đầu đến gặp quả nhân”.

Đó là lần cuối cùng họ gặp nhau.

Núi Đình Hoa quanh năm hưu quạnh, mặc dù nhân gian khắp nơi khói tỏa, duy chỉ nơi này bị lãng quên, xuân về oanh ca lảnh lót, hạ đến cây xanh ngút ngàn, thu sang lá đỏ xao xác, đông tới tuyết trắng mênh mang. Oanh Ca không nhắc tới Dung Viên nữa, cũng không tìm cách trốn khỏi núi Đình Hoa. Trong ba năm Trịnh quốc đã xảy ra bao biến cố, nhưng không một tin tức nào lọt tới núi này.

Ba năm sau, vú già được lệnh chăm sóc Oanh Ca ốm nặng, lúc lâm chung bà nắm chặt tay cô, đôi mắt đục rơi lệ: “Bệ hạ lệnh cho lão nô hầu hạ phu nhân mười năm, hôm nay lão nô đành phụ ủy thác của bệ hạ, phu nhân oán giận bệ hạ, nhưng hai năm trước bệ hạ đã lâm bệnh quy thiên, người đã chết, mọi oán hận cũng nên hóa thành cát bụi, bệ hạ mong phu nhân được sống bình yên, câu này lẽ ra mười năm sau mới được nói với phu nhân, nhưng lão nô mệnh bạc, không được hầu hạ phu nhân thêm nữa, phu nhân đã suy ngẫm tội lỗi ba năm, thực ra chẳng có lỗi gì, nhưng ba năm, ba ngàn ngày, thế gian dâu bể, có lẽ phu nhân đã nghĩ thông rồi?”.

Gió thổi qua cửa làm tắt ngọn nến, một lúc sau giọng Oanh Ca vang vọng, tan trong gió: “Vừa rồi vú nói gì? Dung Viên, chàng, chàng làm sao?”.

Sự thực cho thấy Oanh Ca vẫn chưa nghĩ thông, nếu nghĩ thông thì đã suốt đời làm bạn với ngọn đèn xanh trong núi, chứ không bôn ba vượt núi truy tìm kết cục năm xưa. Có thể thấy vú già không hiểu cô, cả đời cô luôn sống rất tỉnh táo, đã quen như vậy, không biết rằng hồ đồ một chút chính là phúc, người ta không nên làm khó chính mình.

Nhưng xuống núi cũng không có tiền, chưa bao giờ nghe có chuyện người bị giam lỏng còn mang một đống tài sản vàng bạc, cho dù xiêm y lụa là ngọc bội kim thoa do Dung Viên tặng cũng không thể tùy tiện đem cầm, đành quay lại nghề cũ, vừa giết người kiếm tiền vừa đi tìm Dung Viên.

Trên thế gian có bao nhiêu kẻ muốn giết người nhưng không có bản lĩnh ra tay, may họ có nhiều tiền, lần đầu tiên gặp Oanh Ca, cô nói cô không tin Dung Viên đã chết, xem ra cô không tin thật.

Đó chính là giấc mơ của cô, mơ đến chỗ này lại ngoảnh đầu, nghiền ngẫm lại những hồi ức đẹp đẽ của quá khứ, chìm đắm trong đó không thể thoát ra. Cuối cùng tôi đã hiểu cô muốn gì, cô muốn Dung Viên, cho dù Dung Viên đã nhốt cô trong núi, cô vẫn muốn chàng ta.

Nếu Dung Viên chưa chết, đối với cô chàng chỉ là người phụ bạc, ba năm, năm năm, bảy năm, nhất định có ngày cô sẽ quên, nhưng mọi người đều nói chàng đã chết, để lại bao mối hoài nghi, mà khi người đã chết, sự chia ly cuối cùng lại biến thành hoài niệm, ngay cả những lời độc ác ngày xưa cố tình nói ra để làm đau lòng cả hai dường như cũng không làm người ta đau lòng nữa, giống như hồi ức về một cây xanh bị chặt, người ta chỉ còn nhớ hình ảnh huy hoàng cành lá sum suê, mà quên đi vẻ khô héo điêu tàn của nó khi đông về.

Nhưng càng sợ hãi càng không thể sợ hãi, bởi vì không có ai ở bên mình, cô nói không tin Dung Viên đã chết, nói chắc như đinh đóng cột nhưng trong lòng lại vô cùng sợ hãi, vậy là ngày nghĩ đêm mơ. Giấc mơ phản ánh mong muốn trong lòng, người ta trong lúc yếu đuối điều khó nhất là chống lại dục vọng trong lòng, Oanh Ca mãi không tỉnh lại, bởi vì bản thân cô không muốn.

Mộ Ngôn đập cái quạt: “Làm thế nào đưa cô ta ra, đã nghĩ ra cách chưa?”.

Chàng hỏi rất đúng lúc, tôi đang định nói ra ý nghĩ đó, không trung đột nhiên bùng nổ những tiếng sấm ầm ầm, giống như sông ngân hà trên trời nổi sóng, chớp mắt đã mưa như trút nước, nước mưa theo tiếng sấm xé tầng mây dày xối xả trút xuống, màn mưa chọc thủng bầu trời lớp lớp bao vây thành Tứ Phương trong đêm.

Từ xa một âm thanh kinh hoàng truyền đến, cổng thành đóng chặt đột nhiên bật tung, một con sóng khổng lồ cao mấy trượng ồ ạt tràn vào thành, như con mãnh thú tham lam há mồm đầy máu. Đã tưởng giấc mơ này tương đối bình yên, không ngờ nguy hiểm ập tới trong chớp mắt. Nước lụt không ảnh hưởng đến tôi, tôi không cần hít thở, chỉ cần viên giao châu không bị tổn hại là không sao. Mộ Ngôn lại khác, chàng là người sống. Đầu tôi đột nhiên trống rỗng, tại sao tôi lại đưa chàng vào giấc mơ của Oanh Ca, để chàng gặp nguy hiểm. Nước lũ đục ngầu chớp mắt đã dâng lên tới cổ, viên giao châu trong ngực đập thình thình, như một trái tim thực sự, một trái tim sống, tôi nghĩ nhất định là do Mộ Ngôn, không còn khả năng nào khác, giơ tay túm lấy Mộ Ngôn, tay vừa giơ lại bị chàng túm lấy, má chạm vật gì ấm áp, giơ cánh tay còn lại sờ soạng xung quanh, sờ đúng gò mũi thẳng và đôi môi mềm mềm âm ấm của chàng. Đúng là Mộ Ngôn, chàng đang ở bên tôi.

Mộ Ngôn biết bơi, cho dù phải kéo tôi cũng bơi rất tốt, nhưng sóng từng trận lớn ập tới, dù bơi giỏi đến mấy cũng khó khăn.

Trong thế giới câm lặng trùng trùng sóng nước, mắt dần thích nghi ánh sáng, nhưng không có phản ứng gì nhất định sẽ khiến Mộ Ngôn lo lắng, tôi liền giơ tay ôm mặt chàng, cách làn nước cũng có thể nhìn thấy vẻ mặt ngạc nhiên của chàng, đây là ánh mắt tôi luôn muốn nhìn, là đôi môi tôi luôn muốn hôn.

Khi tôi hôn Mộ Ngôn, không biết vẻ mặt chàng thế nào, khoảng cách quá gần đương nhiên không thể nhìn thấy. Tôi đang tiếp khí cho chàng trong nước, nhưng không biết làm thế nào để mở hàm răng, chuyện này sư phụ đã dạy tôi, Quân Vỹ cũng từng viết trong tiểu thuyết, dụng cụ cần sử dụng chỉ có thể là đầu lưỡi, nhưng phải vừa dán môi vào môi chàng để nước khỏi tràn vào, vừa phải dùng đầu lưỡi cậy răng chàng nên hơi khó khăn.

Chúng tôi duy trì tư thế môi dán môi, sóng nước cuộn dềnh rùng lắc từng cơn, một tay Mộ Ngôn quắp eo tôi, cơ thể càng ép sát, tôi nắm chắc vai Mộ Ngôn, dán môi càng chặt, đẩy khí trong ngực vào miệng chàng. Hai mắt Mộ Ngôn bất chợt mở to, không khí nhiều như vậy, thực ra đã đủ, nhưng tôi vẫn không muốn rời môi khỏi môi chàng, sau này có lẽ không còn cơ hội như thế nữa.

Trong nước thực ra cũng có cái hay, ai cũng nín thở, hôn nhau trong khoảng cách gần như vậy, Mộ Ngôn cũng sẽ không phát hiện ra tôi không có hơi thở. Mặc dù cơ bản không giống nụ hôn, nhưng tôi có thể giả vờ coi là thế.

Con người mà tôi yêu này thực sự rất mạnh mẽ, nhưng trong thời khắc này cũng cần tôi bảo vệ, tôi sẽ bảo vệ chàng thật tốt, không để chàng bị một vết thương nào, mặc dù nguy hiểm chàng lâm vào là do tôi gây ra...

Khi thế nước nhỏ dần, chúng tôi tóm được một khúc gỗ, Mộ Ngôn bế tôi lên đó, phóng mắt nhìn quanh, đúng là một vùng quê trong mơ, nhưng không nhìn thấy Oanh Ca ở đâu, cho dù muốn đưa cô ra khỏi giấc mơ cũng không biết làm sao.

Nhưng lại nghĩ, đây là giấc mơ của Oanh Ca, mộng cảnh đều do tiềm ý thức của cô tạo ra, cô là tất cả trong giấc mơ đó, giống như Hoa Tư mộng tôi dệt cho khách, mặc dù không nhìn thấy họ, nhưng đâu đâu cũng có ý thức của họ...

Tôi thầm nghĩ, cuối cùng hiểu, cúi đầu nhìn dòng nước lũ cuồn cuộn bên dưới khúc gỗ, tôi nói ra một câu lẽ ra nên nói sớm hơn: “Dung Viên chưa chết, chàng đang đợi cô, tôi biết chàng ở đâu, cô có muốn đi cùng tôi?”.

Cơn lũ đột nhiên dừng lại. Tôi chỉ tia sáng phía trước, chính là mộng kiều để ra khỏi giấc mơ, nói tiếp: “Đi ra từ chỗ kia, cô sẽ tìm thấy chàng”.

Trong y quán, Oanh Ca cuối cùng mơ màng tỉnh lại, mắt mơ hồ nhìn chúng tôi, không nói một câu. Trong mơ cô sẽ chỉ nghe thấy tiếng tôi mà không nhìn thấy tôi. Do toàn thân ướt sũng tôi và Mộ Ngôn phải về phòng thay quần áo, đành gọi lão đại phu dậy chăm sóc Oanh Ca. Vầng đông đã hơi rạng, qua hàng giậu thấp bao quanh đình viện, có thể nhìn thấy cánh đồng lúa bát ngát phía xa. Mộ Ngôn cười: “Đi ra từ chỗ kia cô sẽ tìm thấy chàng là thế nào? Tôi cứ tưởng cô chưa bao giờ nói dối, chưa bao giờ đánh lừa người khác”.

Tôi khẽ thanh minh: “Không phải là đánh lừa, nếu trong mộng, suốt đời cô ấy cũng không thể tìm thấy Dung Viên, trong hiện thực, bất luận Dung Viên sống hay chết, nhất định có ngày cô ấy có thể tìm ra sự thật. Oanh Ca đầu óc luôn tỉnh táo, không tự dối mình, cũng không muốn dùng thứ khác đánh lừa bản thân, cho dù trong mơ”.

Chàng ngắt lời tôi: “Thế còn cô?”.

Tôi lắc đầu đi nhanh về phía trước: “Tôi chưa bao giờ nằm mơ”. Người chết không nằm mơ, ngủ tôi còn không cần, huống hồ là mơ.

Chàng dừng lại, thay đổi chủ đề khác hóc búa hơn: “Vậy vừa rồi trong nước lũ, cô làm gì vậy?”.

Tôi choáng váng, quay đầu giả bộ trấn tĩnh nhìn chàng: “Tôi tiếp khí cho huynh, huynh xem, mặc dù tôi biết Hoa Tư dẫn, nhưng vẫn cần có một số dị năng khác”.

Chàng mỉm cười nhìn tôi, nhưng không nói gì chỉ gật đầu: “Đi thay quần áo thôi”.

Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net

truyện trọng sinh
truyện sắc

Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.

ngôn tình sắc

Nhận xét của độc giả về truyện Hoa Tư Dẫn

Số ký tự: 0

    Bình luận Facebook