Chương 53
Tuần Thảo
09/10/2015
Edit: Mộc
Hạ Lệnh Thù nói với Phượng Lê: “Bãi giá cung Phượng Huyền.”
Dứt lời, ôm tiểu công chúa lên, nói với Triệu vương: “Vương gia và vương phi cũng ở lại ăn bữa cơm đi! Triệu vương cũng tiện thể kiểm tra những gì hai vị hoàng tử mới học, nhìn xem ai có thể đảm đương nghiệp lớn, chúng ta cũng nên chuẩn bị sẵn sàng.”
Triệu vương liếc nhìn thái tử, sắc mặt cậu đã xám trắng, khom người nói: “Tuân chỉ.”
Một chuỗi tiếng vang choang choang, hai chậu cây cảnh ở cửa đại điện đã bị đập nát, san hô đỏ, sứ bạch ngọc, bùn xanh văng ra ngoài, từng tiếng vang lên giống như tiếng khóc nức nở của đứa trẻ, lại như tiếng chuông cảnh báo trong lòng.
Nước mắt thái tử rơi xuống, trước khi chạy chỉ để lại một câu: “Con hận người!”
Ba chữ ngắn ngủn phiêu đáng trong cung điện, rất lâu vẫn không tiêu tan. Không có ai nói chuyện, cũng không có ai cử động, các cung nhân càng không dám ngẩng đầu nhìn vẻ mặt hoàng hậu, không khí nặng nề đầy áp lực.
Triệu vương phi lo lắng đỡ tay Hạ Lệnh Thù: “Muội cần gì phải khổ như vậy.”
Hạ Lệnh Thù cười buồn bã: “Tỷ tỷ, năm đó tỷ cần gì phải để con trai trưởng mới vừa một tuổi lại, một mình mang theo tiểu quận chúa vượt ngàn dặm trở về hoàng thành, chia lìa với tỷ phu, đó là vì cái gì?”
Năm ấy, hoàng đế chèn ép Triệu vương, Hạ gia không thể không tuân theo, đành bảo Triệu vương phi trở về, ở trong hoàng thành làm con tin với Triệu vương. Khi đó Triệu vương phi phải bãn lĩnh tới mức nào, khí độ tới mức nào mới có thể không hề nề hà, cùng muội muội kéo gần khoảng cách giữa hoàng tộc và thế gia, tránh cho quân thần hiềm nghi.
“Nói đến cùng, cũng là vì bình an của người nhà.”
“Ta cũng vậy.” Hạ Lệnh Thù nói, “Cho nên thay vì chờ người khác cho nó hưởng đau khổ nhân gian, không bằng ta tự tay đẩy nó xuống vách núi, để nó học được cách tự sinh tồn. Thoát khỏi sự bảo vệ của cha mẹ, nó sẽ càng hiểu được lòng người xung quanh.”
Triệu vương phi nói: “Chỉ sợ khéo quá hóa hỏng.”
Triệu vương tiến lên một bước, hừ lạnh: “Nam tử hán đại trượng phu, phải nếm trải đau khổ mới trưởng thành được. Các người đúng là toàn lòng dạ đàn bà.”
Mấy người lớn vừa đi vừa nói chuyện, ăn trưa tại cung Phượng Huyền. Hai vị hoàng tử đều đã hơn mười tuổi, có người của mình ở tại thư viện Bạch Lộ. Bề ngoài thì nhị hoàng tử có vể trầm tĩnh, đại hoàng tử lại mạnh mẽ, đại công chúa mảnh mai có thừa nhưng kiên định không đủ, người lớn lên trong hoàng cung đều hiểu được phải nhìn mặt mà đoán lòng, trước khi đến đã được mẫu phi nhắc nhở, nay nhìn thấy Hạ Lệnh Thù lại càng thêm cẩn thận.
Triệu vương im lặng quan sát hai vị hoàng tử, Triệu vương phi tự mình gắp thức ăn cho mọi người, Hạ Lệnh Thù ngẫu nhiên hỏi việc học tập của đại công chúa, một bữa cơm này cũng coi như hòa thuận vui vẻ.
Sau khi ăn xong, ba vị công chúa lúc trước Triệu vương phái người đi mời đã vào cung. Hoàng đế bệnh nặng, Triệu vương phụ trách việc triều chính, Định Đường vương nắm binh quyền, lại có thế lực của quyền thần cưỡng chế khắp nơi, tạm thời có thể giữ cho Đại Nhạn yên ổn.
Cả buổi chiều, Triệu vương và các đại thần xử lý tấu chương, Triệu vương phi không thể để mặc Hạ Lệnh Thù một mình, ở lại trò chuyện với nàng.
Tiểu công chúa vẫn ngủ bên cạnh Cố Song Huyền, hoàn toàn di truyền tật xấu trước kia của tiểu thái tử, ăn no liền đái dầm. Đứa bé nho nhỏ lập tức tạo thành hồ nước trên quần áo hoàng đế, chỉ một lúc đã bị nhiệt độ cơ thể hắn hong khô. Người hầu ngửi tới ngửi lui vẫn không biết sao lại có mùi lạ, cuối cùng đành phải lâu người cho hoàng thượng và công chúa một lần, lại đổi chăn đệm…, tới khi ngay cả mông của công chúa cũng thơm tho mới chịu dừng tay.
Trong lúc đó, Hạ Lệnh Thù đã đi cùng Triệu vương phi tới Dịch đình.
Ban ngày, tuyết lớn vẫn không ngừng rơi, phủ kín khắp đất đai, dưới ánh trăng trong trẻo nhưng lạnh lùng, hiện lên ánh sáng trắng trong như ngọc.
Trong Dịch đình có phòng giam dành riêng cho cung nữ và phi tần, trong ngoài đều bọc sắt, giữa khe hở còn chất đầy cát và đá, mùa hè nóng bức, mùa đông lạnh giá. Lâu ngày, trên tường sắt đầy những vết máu ướt rồi lại khô, mỗi khi ẩm ướt, mùi máu tanh lan tràn tới từng ngõ ngách trong phòng, ngay cả than củi đang cháy hừng hực trong lò cũng giống như máu thịt của con người.
Quảng Tiệp dư còn chưa bị định tội, thị vệ giải nàng đến đây đã biết đối phương không còn đường sống nên cũng không để nàng ta trong phòng giam mà trực tiếp đẩy vào phòng tra tấn. Ngọn lửa chiếu sáng trên vách tường, tiếng khóa sắt lại vang lên giống như sự thật và dối trá luân phiên giãy dụa, giới hạn cũng không rõ ràng.
Người tra tấn là một phụ nữ béo lùn khỏe mạnh, mặt mũi hiền lành tròn trịa, khi cười lên, ánh mắt bà ta híp lại thành một đường nhỏ, miệng rất lớn, tiếng nói ồm ồm: “Hồi bẩm nương nương, nàng ta không chịu nhận tội. Luôn nói là mình bị người khác hãm hại, nhưng khi hỏi người đứng sau là ai thì nàng ta lại lắc đầu, hỏi gì cũng không biết.”
Nữ nhi Hạ gia không phải nữ tử tầm thường, trong gia tộc có hình phòng, đương nhiên là đã nhìn thấy kiểu tra tấn như thế này rồi nên không hề sợ hãi, chỉ bảo: “Các ngươi cứ tiếp tục đi.”
Có lời này, người phụ nữ to béo dường như được tiếp sức, rút roi ở bên hông ra, “Vụt” một tiếng lên người Quảng Tiệp dư. Dáng vẻ xinh đẹp lập tức tuôn đầy máu thịt dưới tiếng roi. Quảng Tiệp dư cũng là người kiên cường, chỉ rơi lệ kêu rên nhưng không hề mở miệng xin tha, bởi vì nàng ta biết cầu xin cũng vô dụng. Chỉ không ngừng hỏi: “Hoàng thượng sao rồi?”
Hạ Lệnh Thù hỏi: “Thuốc tới từ đây?”
Nàng ta im lặng.
Tiếng roi quất lại vang lên, giữa hai chân đã thành máu thịt mơ hồ, không thể tìm được chỗ nào lành lặn. Quảng Tiệp dư rơi nước mắt: “Trước đây Hoàng thượng cho ta uống thuốc bổ, nói có thể kéo dài tuổi thọ. Ta nghĩ hoàng thượng bị bệnh, không bằng cho thuốc này vào canh, mỗi ngày để hoàng thượng uống một chút, sớm muộn gì cũng bình phục. Nào biết đâu rằng… Hoàng thượng bây giờ thế nào rồi?”
Hạ Lệnh Thù nói: “Thái y còn đang chữa trị.”
Quảng Tiệp dư lại hỏi: “Người sẽ tỉnh lại đúng không?”
Hạ Lệnh Thù tiến lên ép hỏi: “Làm sao ngươi giấu diếm được y nữ thử độc? Nếu là thuốc bổ thì vì sao ngươi không dám công khai lấy ra dùng, để Thái y kiểm chứng xong mới cho hoàng thượng uống, sao phải lén lút? Ngươi đã biết trước là Hoàng thượng uống canh bổ xong thì bệnh tình sẽ nặng hơn đúng không?”
“Không phải, không đúng!” Quảng Tiệp dư lớn tiếng phản bác, “Ta không biết.”
“Ngươi oán hận Hoàng thượng hay là oán hận ta? Hay là người câu kết với người ngoài hợp mưu giết hoàng thượng bằng thuốc độc, như thế thì ngươi được lợi gì? Làm người đứng đầu hậu cung sao? Mẫu nghi thiên hạ sao? Lúc ấy thì ai tới làm hoàng đế hả?”
“Không, ta không hề nghĩ như thế!”
“Ngươi chỉ không nghĩ thuốc người khác đưa cho ngươi là kịch độc mà thôi, đó vốn không phải là thuốc bổ, là thuốc độc. Ngươi muốn độc chết hoàng thượng!”
“Không phải!” Quảng Tiệp dư hét ầm lên, “Ta yêu người, ta không hề nghĩ tới việc hại người, người đó nói đấy là thuốc bổ, là thuốc bổ.”
Hạ Lệnh Thù hừ lạnh: “Người đó? Là ai?” Nàng vốn dĩ không cho Quảng Tiệp dư cơ hội tỉnh táo lại, lập tức rút cây trâm gài tóc trên đầu mình ra, chĩa mũi nhọn vào mắt Quảng Tiệp dư, từ trên cao nhìn xuống nàng ta: “Là người trong hoàng thất, hay là thế gia, hay là đại thận, hoặc là… Tạ…”
“Không phải, đều không phải, ta không biết gì hết!” Quảng Tiệp dư kêu to, sợ hãi vì bị bức ép đến phát điên, càng hét càng to hơn, vô cùng thê lương.
Edit: Mộc
Triệu vương và Định Đường vương đánh nhau một trận chẳng đâu vào đâu, lúc tách ra, trên mặt hai người vẫn hoàn hảo không có vấn đề gì, nhưng dưới xiêm y thì không biết bao nhiêu vết thâm tím.
Định Đường vương về phủ, lửa giận bốc cao đến mười trượng, Triệu vương được Triệu vương phi đỡ tới thiên điện, Hạ Lệnh Thù đợi các Thái y xác định phương thuốc, trước khi Cố Song Huyền dùng thuốc, nàng không hề rời đi.
Nàng sợ mình chỉ không cẩn thận một chút thì sẽ không thấy hắn mở mắt ra nữa.
Độc tố tích suốt hai mươi mấy năm thì không phải là ít, trải qua quá trình lão thái y từ từ điều trị, hoàng đế mới có thể cố gắng xử lý triều chính, nay lại họa vô đơn chí, là phúc hay họa ngay cả Hạ Lệnh Thù cũng không biết. Nàng chỉ có thể lặng lẽ dùng ngón tay mình cọ lên lòng bàn tay hắn, khi nhiệt độ quá cao, nàng thở dài một hơi; khi lạnh như băng, hô hấp của nàng cũng như ngừng lại. Cứ lặp đi lặp lại như thế, trời tối lúc nào cũng không biết.
Tiểu công chúa được người hầu dỗ ngủ trưa, nằm trên giường rồng níu chặt chăn của phụ hoàng, đôi mắt mở to, tò mò nhìn trái nhìn phải, lúc nhìn thấy mẫu hậu liền cười ha ha, nước miếng nhỏ tí tách trên đệm. Hạ Lệnh Thù đặt cô bé lên bả vai Cố Song Huyền, nước miếng của tiểu công chúa đều nhỏ lên xiêm y của hắn, vừa cười vừa chuyển động đầu, cố gắng muốn xoay người lên trên phụ hoàng.
Khi Triệu vương và Triệu vương phi đi vào thì đúng lúc nhìn thấy khung cảnh gia đình đầm ấm. Nếu không phải Cố Song Huyền đang hôn mê thì không khí sẽ tươi vui vô cùng, càng có nhiều tiếng cười hơn.
“Bản vương đã cho người đi mời Cung phu nhân rồi, tin là không tới vài ngày nữa, bệnh tình của hoàng thượng sẽ có chuyển biến tốt đẹp. Hoàng hậu nương nương tạm thời an tâm, cố gắng chăm sóc cho thái tử và công chúa điện hạ.”
Hạ Lệnh Thù nghiêng người, cười khổ với Triệu vương: “Đã để tỷ phu lo lắng rồi.” Nàng cân nhắc một chút, nói tiếp: “Vừa rồi sao tỷ phu và Định Đường vương lại mâu thuẫn vậy?”
“Hắn không chịu xuất binh đi Nam Hải.”
Hạ Lệnh Thù cả kinh, muốn đứng lên: “Hắn muốn kháng chỉ sao?”
Triệu vương cười lạnh: “Lúc tiếp thánh chỉ đã có vẻ kì quái, nói không chừng trong lòng hắn luôn không muốn đi. Hiện giờ đúng là thời cơ đã chín muồi, chuyện hắn cự tuyệt cũng nằm trong dự đoán rồi.”
Hạ Lệnh Thù hỏi: “Vậy binh phù đâu?”
Triệu vương nghiêng người, không lâu sau thái tử được người hầu đưa vào, trên đầu toàn bông tuyết, trong tay còn cầm theo lồng vàng, trong lồng là một đôi chim tước kêu ríu rít không ngừng, đôi giày đầy bùn lầy để lại dấu chân trên thảm. Đây đâu phải là thái tử tôn quý mà là một tiểu tử hoang dã bướng bỉnh. Lòng Hạ Lệnh Thù bốc cháy, sắc mặt rất khó nhìn: “Thái tử điện hạ thật cao giá, bản cung sai người đi thúc ba giục bốn cũng không mời được thái tử đích thân tới, lúc này lại nhớ ra hồi cung sao.”
Thái tử chơi đến điên đảo đầu óc, làm sao còn nhớ được là giờ nào, lập tức hỏi lại: “Mẫu hậu gọi nhi thần khi nào? Nhi thần hoàn toàn không biết.”
Hạ Lệnh Thù tức điên cả người, tức không thể nói hoàng đế bệnh nặng, cũng không thể nói triều cục có biến, cố đè cơn giận xuống, chỉ nói: “Nếu ngươi không biết thì chỉ có thể do người hầu bên cạnh ngươi cố ý kháng chỉ!” Gương mặt nàng lạnh lùng, quát hỏi: “Ai là người tùy thị bên cạnh thái tử, mang xuống đánh một trăm trượng.”
Thái tử hoảng sợ, không biết vì sao mẫu hậu lại nổi giận, cho dù ngày trước cậu trêu đùa em gái, nàng cũng không hề giận cá chém thớt lên người hầu, nay dường như biến thành mẹ kế, cậu sợ tới mức không biết nên phản ứng thế nào.
Từ sau khi Hạ Lệnh Thù hồi cung, ngày tháng tiêu dao của Thái tử đã hết. Hạ Lệnh Thù luôn nhắc nhở cậu phải tỉnh ngộ, giữ mình trong sạch, hiểu được thân phận và gánh vác trách nhiệm của mình. Số canh giờ đọc sách không đủ, vui chơi thành hy vọng xa vời. Hạ Lệnh Thù trông mong con mình thành rồng, muốn kiến thức bốn năm học mà nàng không ở cạnh thái tử phải bổ sung về, nhưng thái tử đã đến tuổi chống đối, ngươi nói một, nó càng đòi hai, sau khi đối đầu gay gắt lại luôn luôn bại trận, suốt ngày cậu lộ ra vẻ mặt như quả mướp đắng đi đọc sách, học võ, khổ không thể tả. Khó khăn lắm mới tới năm mới, thái tử được Hạ Lệnh Thù thả ra liền cố hết sức chơi đùa, người hầu bên cạnh cũng đem tất cả vốn liếng ra dỗ thái tử vui vẻ. Người Hạ Lệnh Thù phái đi truyền ý chỉ không thể nói Hoàng đế không ổn, cũng không thể nói địa vị của hoàng hậu đang bấp bênh, lại không thể nói thái tử gặp tai vạ đến nơi rồi, chỉ lắp bắp sai người nhanh chóng dẫn thái tử về. Đang dịp đầu năm, lòng người trong cung đều không ở đây, làm sao nguyện ý đi để ý đôi vợ chồng kia, đương nhiên là dỗ thái tử chơi nhiều hơn một lúc, không ai ngờ tới sau khi trở về là tai họa ngập đầu.
Một trăm trượng đánh xuống thì đừng nói là các tiểu thái giám với cung nữ, cho dù là thị vệ có thân thể cường tráng cũng phải mất nửa cái mạng, những người khác thì lập tức đi gặp Diêm vương.
Xưa nay Hạ Lệnh Thù vốn lạnh lùng, các cung nhân đều từng nhìn thấy thủ đoạn tàn nhẫn của nàng cho nên không ai dám khóc to, có người tự mình cầu xin tha thứ, có người vừa khóc vừa dập đầu, thái tử bị biến cố lần này cả kinh, cãi lại: “Là nhi thần muốn chơi đùa, không phải lỗi của bọn họ! Mẫu hậu tức giận thì trút lên đầu nhi thần là được, cần gì phải giết gà dọa khỉ, không duyên cớ trút lên đám người dưới làm gì.”
Hạ Lệnh Thù tức giận đến run rẩy, Triệu vương và Triệu vương phi đều lạnh mặt đứng một bên không nói một tiếng.
“Được được được, ta không nên giận cá chém thớt. Người đâu, đưa thái tử về Đông cung, úp mặt vào tường sám hối, trong vòng một tháng không cần đến thỉnh an.”
Thái tử lớn tiếng nói: “Không có những người này hầu hạ, con sẽ không tới đây.”
Hạ Lệnh Thù cười xùy một tiếng, ngồi ngay ngắn lên giường rồng, nhìn cung nhân quỳ phía sau tấm màn, rất lâu không lên tiếng.
“Thái tử điện hạ muốn vì đám cung nhân này mà cãi lại ý chỉ của bản cung sao?”
Thái tử thẳng lưng: “Phải!”
Hạ Lệnh Thù hỏi lại: “Thái tử điện hạ cho rằng bọn họ không sai, ngươi cũng không sai phải không?”
Thái tử hếch chằm lên: “Bọn họ không sai, đều là lỗi của nhi thần.”
“Tốt lắm.” Hạ Lệnh Thù gật đầu, lạnh lùng ra lệnh cho Tiểu Quái Tử: “Nhốt thái tử vào trong Đông cung, không có thánh chỉ của Hoàng thượng, bất kể ai cũng không thể xuất nhập, ai vi phạm liền chém. Nếu thái tử có gì sơ xẩy, mọi người trong Đông cung sẽ bị tru di cửu tộc.”
“Vâng!” Tiếng hét lớn đồng loạt vang lên, hai gã thị vệ nhanh chóng đến cạnh thái tử, cung kính mời cậu ra ngoài. Thái tử thật sự không ngờ chỉ một chút việc nhỏ này lại biến thành như vậy, ấp úng một lúc lâu không nói, không hề để ý đến biểu cảm của mọi người trong cung. Đi tới cửa, thái tử quay đầu hỏi: “Đến cùng thì người có phải mẫu hậu thân sinh của con không? Người có phải mẫu hậu mà con đã chờ bốn năm không?”
Hạ Lệnh Thù quay đầu đi, chậm rãi kéo lại áo lông cho tiểu công chúa: “Bản cung là mẫu nghi thiên hạ, là mẫu hậu của hoàng đế tương lai, không phải mẫu thân của một mình ngươi.” Nàng ôm tiểu công chúa đặt lên gối, hôn lên gương mặt cô bé, tiểu công chúa cười khanh khách hai tiếng, ngây thơ hồn nhiên.
Hạ Lệnh Thù nói tiếp: “Truyền bữa tối, thuận đường mời đại hoàng tử, nhị hoàng tử và đại công chúa đến dùng bữa luôn.”
Thái tử chỉ cảm thấy như có sét đánh, thân thể run rẩy một chút, giọng nói ẩn chứa tiếng khóc : “Người không cần con sao?”
Hạ Lệnh Thù không đáp, cũng không nhìn cậu.
Thái tử cố chấp đứng bên cửa điện, một chân ở ngoài, một chân còn dừng trong điện, cậu lớn tiếng nói: “Người còn cần con hay không?”
Hạ Lệnh Thù nói với Phượng Lê: “Bãi giá cung Phượng Huyền.”
Dứt lời, ôm tiểu công chúa lên, nói với Triệu vương: “Vương gia và vương phi cũng ở lại ăn bữa cơm đi! Triệu vương cũng tiện thể kiểm tra những gì hai vị hoàng tử mới học, nhìn xem ai có thể đảm đương nghiệp lớn, chúng ta cũng nên chuẩn bị sẵn sàng.”
Triệu vương liếc nhìn thái tử, sắc mặt cậu đã xám trắng, khom người nói: “Tuân chỉ.”
Một chuỗi tiếng vang choang choang, hai chậu cây cảnh ở cửa đại điện đã bị đập nát, san hô đỏ, sứ bạch ngọc, bùn xanh văng ra ngoài, từng tiếng vang lên giống như tiếng khóc nức nở của đứa trẻ, lại như tiếng chuông cảnh báo trong lòng.
Nước mắt thái tử rơi xuống, trước khi chạy chỉ để lại một câu: “Con hận người!”
Ba chữ ngắn ngủn phiêu đáng trong cung điện, rất lâu vẫn không tiêu tan. Không có ai nói chuyện, cũng không có ai cử động, các cung nhân càng không dám ngẩng đầu nhìn vẻ mặt hoàng hậu, không khí nặng nề đầy áp lực.
Triệu vương phi lo lắng đỡ tay Hạ Lệnh Thù: “Muội cần gì phải khổ như vậy.”
Hạ Lệnh Thù cười buồn bã: “Tỷ tỷ, năm đó tỷ cần gì phải để con trai trưởng mới vừa một tuổi lại, một mình mang theo tiểu quận chúa vượt ngàn dặm trở về hoàng thành, chia lìa với tỷ phu, đó là vì cái gì?”
Năm ấy, hoàng đế chèn ép Triệu vương, Hạ gia không thể không tuân theo, đành bảo Triệu vương phi trở về, ở trong hoàng thành làm con tin với Triệu vương. Khi đó Triệu vương phi phải bãn lĩnh tới mức nào, khí độ tới mức nào mới có thể không hề nề hà, cùng muội muội kéo gần khoảng cách giữa hoàng tộc và thế gia, tránh cho quân thần hiềm nghi.
“Nói đến cùng, cũng là vì bình an của người nhà.”
“Ta cũng vậy.” Hạ Lệnh Thù nói, “Cho nên thay vì chờ người khác cho nó hưởng đau khổ nhân gian, không bằng ta tự tay đẩy nó xuống vách núi, để nó học được cách tự sinh tồn. Thoát khỏi sự bảo vệ của cha mẹ, nó sẽ càng hiểu được lòng người xung quanh.”
Triệu vương phi nói: “Chỉ sợ khéo quá hóa hỏng.”
Triệu vương tiến lên một bước, hừ lạnh: “Nam tử hán đại trượng phu, phải nếm trải đau khổ mới trưởng thành được. Các người đúng là toàn lòng dạ đàn bà.”
Mấy người lớn vừa đi vừa nói chuyện, ăn trưa tại cung Phượng Huyền. Hai vị hoàng tử đều đã hơn mười tuổi, có người của mình ở tại thư viện Bạch Lộ. Bề ngoài thì nhị hoàng tử có vể trầm tĩnh, đại hoàng tử lại mạnh mẽ, đại công chúa mảnh mai có thừa nhưng kiên định không đủ, người lớn lên trong hoàng cung đều hiểu được phải nhìn mặt mà đoán lòng, trước khi đến đã được mẫu phi nhắc nhở, nay nhìn thấy Hạ Lệnh Thù lại càng thêm cẩn thận.
Triệu vương im lặng quan sát hai vị hoàng tử, Triệu vương phi tự mình gắp thức ăn cho mọi người, Hạ Lệnh Thù ngẫu nhiên hỏi việc học tập của đại công chúa, một bữa cơm này cũng coi như hòa thuận vui vẻ.
Sau khi ăn xong, ba vị công chúa lúc trước Triệu vương phái người đi mời đã vào cung. Hoàng đế bệnh nặng, Triệu vương phụ trách việc triều chính, Định Đường vương nắm binh quyền, lại có thế lực của quyền thần cưỡng chế khắp nơi, tạm thời có thể giữ cho Đại Nhạn yên ổn.
Cả buổi chiều, Triệu vương và các đại thần xử lý tấu chương, Triệu vương phi không thể để mặc Hạ Lệnh Thù một mình, ở lại trò chuyện với nàng.
Tiểu công chúa vẫn ngủ bên cạnh Cố Song Huyền, hoàn toàn di truyền tật xấu trước kia của tiểu thái tử, ăn no liền đái dầm. Đứa bé nho nhỏ lập tức tạo thành hồ nước trên quần áo hoàng đế, chỉ một lúc đã bị nhiệt độ cơ thể hắn hong khô. Người hầu ngửi tới ngửi lui vẫn không biết sao lại có mùi lạ, cuối cùng đành phải lâu người cho hoàng thượng và công chúa một lần, lại đổi chăn đệm…, tới khi ngay cả mông của công chúa cũng thơm tho mới chịu dừng tay.
Trong lúc đó, Hạ Lệnh Thù đã đi cùng Triệu vương phi tới Dịch đình.
Ban ngày, tuyết lớn vẫn không ngừng rơi, phủ kín khắp đất đai, dưới ánh trăng trong trẻo nhưng lạnh lùng, hiện lên ánh sáng trắng trong như ngọc.
Trong Dịch đình có phòng giam dành riêng cho cung nữ và phi tần, trong ngoài đều bọc sắt, giữa khe hở còn chất đầy cát và đá, mùa hè nóng bức, mùa đông lạnh giá. Lâu ngày, trên tường sắt đầy những vết máu ướt rồi lại khô, mỗi khi ẩm ướt, mùi máu tanh lan tràn tới từng ngõ ngách trong phòng, ngay cả than củi đang cháy hừng hực trong lò cũng giống như máu thịt của con người.
Quảng Tiệp dư còn chưa bị định tội, thị vệ giải nàng đến đây đã biết đối phương không còn đường sống nên cũng không để nàng ta trong phòng giam mà trực tiếp đẩy vào phòng tra tấn. Ngọn lửa chiếu sáng trên vách tường, tiếng khóa sắt lại vang lên giống như sự thật và dối trá luân phiên giãy dụa, giới hạn cũng không rõ ràng.
Người tra tấn là một phụ nữ béo lùn khỏe mạnh, mặt mũi hiền lành tròn trịa, khi cười lên, ánh mắt bà ta híp lại thành một đường nhỏ, miệng rất lớn, tiếng nói ồm ồm: “Hồi bẩm nương nương, nàng ta không chịu nhận tội. Luôn nói là mình bị người khác hãm hại, nhưng khi hỏi người đứng sau là ai thì nàng ta lại lắc đầu, hỏi gì cũng không biết.”
Nữ nhi Hạ gia không phải nữ tử tầm thường, trong gia tộc có hình phòng, đương nhiên là đã nhìn thấy kiểu tra tấn như thế này rồi nên không hề sợ hãi, chỉ bảo: “Các ngươi cứ tiếp tục đi.”
Có lời này, người phụ nữ to béo dường như được tiếp sức, rút roi ở bên hông ra, “Vụt” một tiếng lên người Quảng Tiệp dư. Dáng vẻ xinh đẹp lập tức tuôn đầy máu thịt dưới tiếng roi. Quảng Tiệp dư cũng là người kiên cường, chỉ rơi lệ kêu rên nhưng không hề mở miệng xin tha, bởi vì nàng ta biết cầu xin cũng vô dụng. Chỉ không ngừng hỏi: “Hoàng thượng sao rồi?”
Hạ Lệnh Thù hỏi: “Thuốc tới từ đây?”
Nàng ta im lặng.
Tiếng roi quất lại vang lên, giữa hai chân đã thành máu thịt mơ hồ, không thể tìm được chỗ nào lành lặn. Quảng Tiệp dư rơi nước mắt: “Trước đây Hoàng thượng cho ta uống thuốc bổ, nói có thể kéo dài tuổi thọ. Ta nghĩ hoàng thượng bị bệnh, không bằng cho thuốc này vào canh, mỗi ngày để hoàng thượng uống một chút, sớm muộn gì cũng bình phục. Nào biết đâu rằng… Hoàng thượng bây giờ thế nào rồi?”
Hạ Lệnh Thù nói: “Thái y còn đang chữa trị.”
Quảng Tiệp dư lại hỏi: “Người sẽ tỉnh lại đúng không?”
Hạ Lệnh Thù tiến lên ép hỏi: “Làm sao ngươi giấu diếm được y nữ thử độc? Nếu là thuốc bổ thì vì sao ngươi không dám công khai lấy ra dùng, để Thái y kiểm chứng xong mới cho hoàng thượng uống, sao phải lén lút? Ngươi đã biết trước là Hoàng thượng uống canh bổ xong thì bệnh tình sẽ nặng hơn đúng không?”
“Không phải, không đúng!” Quảng Tiệp dư lớn tiếng phản bác, “Ta không biết.”
“Ngươi oán hận Hoàng thượng hay là oán hận ta? Hay là người câu kết với người ngoài hợp mưu giết hoàng thượng bằng thuốc độc, như thế thì ngươi được lợi gì? Làm người đứng đầu hậu cung sao? Mẫu nghi thiên hạ sao? Lúc ấy thì ai tới làm hoàng đế hả?”
“Không, ta không hề nghĩ như thế!”
“Ngươi chỉ không nghĩ thuốc người khác đưa cho ngươi là kịch độc mà thôi, đó vốn không phải là thuốc bổ, là thuốc độc. Ngươi muốn độc chết hoàng thượng!”
“Không phải!” Quảng Tiệp dư hét ầm lên, “Ta yêu người, ta không hề nghĩ tới việc hại người, người đó nói đấy là thuốc bổ, là thuốc bổ.”
Hạ Lệnh Thù hừ lạnh: “Người đó? Là ai?” Nàng vốn dĩ không cho Quảng Tiệp dư cơ hội tỉnh táo lại, lập tức rút cây trâm gài tóc trên đầu mình ra, chĩa mũi nhọn vào mắt Quảng Tiệp dư, từ trên cao nhìn xuống nàng ta: “Là người trong hoàng thất, hay là thế gia, hay là đại thận, hoặc là… Tạ…”
“Không phải, đều không phải, ta không biết gì hết!” Quảng Tiệp dư kêu to, sợ hãi vì bị bức ép đến phát điên, càng hét càng to hơn, vô cùng thê lương.
Hạ Lệnh Thù nói với Phượng Lê: “Bãi giá cung Phượng Huyền.”
Dứt lời, ôm tiểu công chúa lên, nói với Triệu vương: “Vương gia và vương phi cũng ở lại ăn bữa cơm đi! Triệu vương cũng tiện thể kiểm tra những gì hai vị hoàng tử mới học, nhìn xem ai có thể đảm đương nghiệp lớn, chúng ta cũng nên chuẩn bị sẵn sàng.”
Triệu vương liếc nhìn thái tử, sắc mặt cậu đã xám trắng, khom người nói: “Tuân chỉ.”
Một chuỗi tiếng vang choang choang, hai chậu cây cảnh ở cửa đại điện đã bị đập nát, san hô đỏ, sứ bạch ngọc, bùn xanh văng ra ngoài, từng tiếng vang lên giống như tiếng khóc nức nở của đứa trẻ, lại như tiếng chuông cảnh báo trong lòng.
Nước mắt thái tử rơi xuống, trước khi chạy chỉ để lại một câu: “Con hận người!”
Ba chữ ngắn ngủn phiêu đáng trong cung điện, rất lâu vẫn không tiêu tan. Không có ai nói chuyện, cũng không có ai cử động, các cung nhân càng không dám ngẩng đầu nhìn vẻ mặt hoàng hậu, không khí nặng nề đầy áp lực.
Triệu vương phi lo lắng đỡ tay Hạ Lệnh Thù: “Muội cần gì phải khổ như vậy.”
Hạ Lệnh Thù cười buồn bã: “Tỷ tỷ, năm đó tỷ cần gì phải để con trai trưởng mới vừa một tuổi lại, một mình mang theo tiểu quận chúa vượt ngàn dặm trở về hoàng thành, chia lìa với tỷ phu, đó là vì cái gì?”
Năm ấy, hoàng đế chèn ép Triệu vương, Hạ gia không thể không tuân theo, đành bảo Triệu vương phi trở về, ở trong hoàng thành làm con tin với Triệu vương. Khi đó Triệu vương phi phải bãn lĩnh tới mức nào, khí độ tới mức nào mới có thể không hề nề hà, cùng muội muội kéo gần khoảng cách giữa hoàng tộc và thế gia, tránh cho quân thần hiềm nghi.
“Nói đến cùng, cũng là vì bình an của người nhà.”
“Ta cũng vậy.” Hạ Lệnh Thù nói, “Cho nên thay vì chờ người khác cho nó hưởng đau khổ nhân gian, không bằng ta tự tay đẩy nó xuống vách núi, để nó học được cách tự sinh tồn. Thoát khỏi sự bảo vệ của cha mẹ, nó sẽ càng hiểu được lòng người xung quanh.”
Triệu vương phi nói: “Chỉ sợ khéo quá hóa hỏng.”
Triệu vương tiến lên một bước, hừ lạnh: “Nam tử hán đại trượng phu, phải nếm trải đau khổ mới trưởng thành được. Các người đúng là toàn lòng dạ đàn bà.”
Mấy người lớn vừa đi vừa nói chuyện, ăn trưa tại cung Phượng Huyền. Hai vị hoàng tử đều đã hơn mười tuổi, có người của mình ở tại thư viện Bạch Lộ. Bề ngoài thì nhị hoàng tử có vể trầm tĩnh, đại hoàng tử lại mạnh mẽ, đại công chúa mảnh mai có thừa nhưng kiên định không đủ, người lớn lên trong hoàng cung đều hiểu được phải nhìn mặt mà đoán lòng, trước khi đến đã được mẫu phi nhắc nhở, nay nhìn thấy Hạ Lệnh Thù lại càng thêm cẩn thận.
Triệu vương im lặng quan sát hai vị hoàng tử, Triệu vương phi tự mình gắp thức ăn cho mọi người, Hạ Lệnh Thù ngẫu nhiên hỏi việc học tập của đại công chúa, một bữa cơm này cũng coi như hòa thuận vui vẻ.
Sau khi ăn xong, ba vị công chúa lúc trước Triệu vương phái người đi mời đã vào cung. Hoàng đế bệnh nặng, Triệu vương phụ trách việc triều chính, Định Đường vương nắm binh quyền, lại có thế lực của quyền thần cưỡng chế khắp nơi, tạm thời có thể giữ cho Đại Nhạn yên ổn.
Cả buổi chiều, Triệu vương và các đại thần xử lý tấu chương, Triệu vương phi không thể để mặc Hạ Lệnh Thù một mình, ở lại trò chuyện với nàng.
Tiểu công chúa vẫn ngủ bên cạnh Cố Song Huyền, hoàn toàn di truyền tật xấu trước kia của tiểu thái tử, ăn no liền đái dầm. Đứa bé nho nhỏ lập tức tạo thành hồ nước trên quần áo hoàng đế, chỉ một lúc đã bị nhiệt độ cơ thể hắn hong khô. Người hầu ngửi tới ngửi lui vẫn không biết sao lại có mùi lạ, cuối cùng đành phải lâu người cho hoàng thượng và công chúa một lần, lại đổi chăn đệm…, tới khi ngay cả mông của công chúa cũng thơm tho mới chịu dừng tay.
Trong lúc đó, Hạ Lệnh Thù đã đi cùng Triệu vương phi tới Dịch đình.
Ban ngày, tuyết lớn vẫn không ngừng rơi, phủ kín khắp đất đai, dưới ánh trăng trong trẻo nhưng lạnh lùng, hiện lên ánh sáng trắng trong như ngọc.
Trong Dịch đình có phòng giam dành riêng cho cung nữ và phi tần, trong ngoài đều bọc sắt, giữa khe hở còn chất đầy cát và đá, mùa hè nóng bức, mùa đông lạnh giá. Lâu ngày, trên tường sắt đầy những vết máu ướt rồi lại khô, mỗi khi ẩm ướt, mùi máu tanh lan tràn tới từng ngõ ngách trong phòng, ngay cả than củi đang cháy hừng hực trong lò cũng giống như máu thịt của con người.
Quảng Tiệp dư còn chưa bị định tội, thị vệ giải nàng đến đây đã biết đối phương không còn đường sống nên cũng không để nàng ta trong phòng giam mà trực tiếp đẩy vào phòng tra tấn. Ngọn lửa chiếu sáng trên vách tường, tiếng khóa sắt lại vang lên giống như sự thật và dối trá luân phiên giãy dụa, giới hạn cũng không rõ ràng.
Người tra tấn là một phụ nữ béo lùn khỏe mạnh, mặt mũi hiền lành tròn trịa, khi cười lên, ánh mắt bà ta híp lại thành một đường nhỏ, miệng rất lớn, tiếng nói ồm ồm: “Hồi bẩm nương nương, nàng ta không chịu nhận tội. Luôn nói là mình bị người khác hãm hại, nhưng khi hỏi người đứng sau là ai thì nàng ta lại lắc đầu, hỏi gì cũng không biết.”
Nữ nhi Hạ gia không phải nữ tử tầm thường, trong gia tộc có hình phòng, đương nhiên là đã nhìn thấy kiểu tra tấn như thế này rồi nên không hề sợ hãi, chỉ bảo: “Các ngươi cứ tiếp tục đi.”
Có lời này, người phụ nữ to béo dường như được tiếp sức, rút roi ở bên hông ra, “Vụt” một tiếng lên người Quảng Tiệp dư. Dáng vẻ xinh đẹp lập tức tuôn đầy máu thịt dưới tiếng roi. Quảng Tiệp dư cũng là người kiên cường, chỉ rơi lệ kêu rên nhưng không hề mở miệng xin tha, bởi vì nàng ta biết cầu xin cũng vô dụng. Chỉ không ngừng hỏi: “Hoàng thượng sao rồi?”
Hạ Lệnh Thù hỏi: “Thuốc tới từ đây?”
Nàng ta im lặng.
Tiếng roi quất lại vang lên, giữa hai chân đã thành máu thịt mơ hồ, không thể tìm được chỗ nào lành lặn. Quảng Tiệp dư rơi nước mắt: “Trước đây Hoàng thượng cho ta uống thuốc bổ, nói có thể kéo dài tuổi thọ. Ta nghĩ hoàng thượng bị bệnh, không bằng cho thuốc này vào canh, mỗi ngày để hoàng thượng uống một chút, sớm muộn gì cũng bình phục. Nào biết đâu rằng… Hoàng thượng bây giờ thế nào rồi?”
Hạ Lệnh Thù nói: “Thái y còn đang chữa trị.”
Quảng Tiệp dư lại hỏi: “Người sẽ tỉnh lại đúng không?”
Hạ Lệnh Thù tiến lên ép hỏi: “Làm sao ngươi giấu diếm được y nữ thử độc? Nếu là thuốc bổ thì vì sao ngươi không dám công khai lấy ra dùng, để Thái y kiểm chứng xong mới cho hoàng thượng uống, sao phải lén lút? Ngươi đã biết trước là Hoàng thượng uống canh bổ xong thì bệnh tình sẽ nặng hơn đúng không?”
“Không phải, không đúng!” Quảng Tiệp dư lớn tiếng phản bác, “Ta không biết.”
“Ngươi oán hận Hoàng thượng hay là oán hận ta? Hay là người câu kết với người ngoài hợp mưu giết hoàng thượng bằng thuốc độc, như thế thì ngươi được lợi gì? Làm người đứng đầu hậu cung sao? Mẫu nghi thiên hạ sao? Lúc ấy thì ai tới làm hoàng đế hả?”
“Không, ta không hề nghĩ như thế!”
“Ngươi chỉ không nghĩ thuốc người khác đưa cho ngươi là kịch độc mà thôi, đó vốn không phải là thuốc bổ, là thuốc độc. Ngươi muốn độc chết hoàng thượng!”
“Không phải!” Quảng Tiệp dư hét ầm lên, “Ta yêu người, ta không hề nghĩ tới việc hại người, người đó nói đấy là thuốc bổ, là thuốc bổ.”
Hạ Lệnh Thù hừ lạnh: “Người đó? Là ai?” Nàng vốn dĩ không cho Quảng Tiệp dư cơ hội tỉnh táo lại, lập tức rút cây trâm gài tóc trên đầu mình ra, chĩa mũi nhọn vào mắt Quảng Tiệp dư, từ trên cao nhìn xuống nàng ta: “Là người trong hoàng thất, hay là thế gia, hay là đại thận, hoặc là… Tạ…”
“Không phải, đều không phải, ta không biết gì hết!” Quảng Tiệp dư kêu to, sợ hãi vì bị bức ép đến phát điên, càng hét càng to hơn, vô cùng thê lương.
Edit: Mộc
Triệu vương và Định Đường vương đánh nhau một trận chẳng đâu vào đâu, lúc tách ra, trên mặt hai người vẫn hoàn hảo không có vấn đề gì, nhưng dưới xiêm y thì không biết bao nhiêu vết thâm tím.
Định Đường vương về phủ, lửa giận bốc cao đến mười trượng, Triệu vương được Triệu vương phi đỡ tới thiên điện, Hạ Lệnh Thù đợi các Thái y xác định phương thuốc, trước khi Cố Song Huyền dùng thuốc, nàng không hề rời đi.
Nàng sợ mình chỉ không cẩn thận một chút thì sẽ không thấy hắn mở mắt ra nữa.
Độc tố tích suốt hai mươi mấy năm thì không phải là ít, trải qua quá trình lão thái y từ từ điều trị, hoàng đế mới có thể cố gắng xử lý triều chính, nay lại họa vô đơn chí, là phúc hay họa ngay cả Hạ Lệnh Thù cũng không biết. Nàng chỉ có thể lặng lẽ dùng ngón tay mình cọ lên lòng bàn tay hắn, khi nhiệt độ quá cao, nàng thở dài một hơi; khi lạnh như băng, hô hấp của nàng cũng như ngừng lại. Cứ lặp đi lặp lại như thế, trời tối lúc nào cũng không biết.
Tiểu công chúa được người hầu dỗ ngủ trưa, nằm trên giường rồng níu chặt chăn của phụ hoàng, đôi mắt mở to, tò mò nhìn trái nhìn phải, lúc nhìn thấy mẫu hậu liền cười ha ha, nước miếng nhỏ tí tách trên đệm. Hạ Lệnh Thù đặt cô bé lên bả vai Cố Song Huyền, nước miếng của tiểu công chúa đều nhỏ lên xiêm y của hắn, vừa cười vừa chuyển động đầu, cố gắng muốn xoay người lên trên phụ hoàng.
Khi Triệu vương và Triệu vương phi đi vào thì đúng lúc nhìn thấy khung cảnh gia đình đầm ấm. Nếu không phải Cố Song Huyền đang hôn mê thì không khí sẽ tươi vui vô cùng, càng có nhiều tiếng cười hơn.
“Bản vương đã cho người đi mời Cung phu nhân rồi, tin là không tới vài ngày nữa, bệnh tình của hoàng thượng sẽ có chuyển biến tốt đẹp. Hoàng hậu nương nương tạm thời an tâm, cố gắng chăm sóc cho thái tử và công chúa điện hạ.”
Hạ Lệnh Thù nghiêng người, cười khổ với Triệu vương: “Đã để tỷ phu lo lắng rồi.” Nàng cân nhắc một chút, nói tiếp: “Vừa rồi sao tỷ phu và Định Đường vương lại mâu thuẫn vậy?”
“Hắn không chịu xuất binh đi Nam Hải.”
Hạ Lệnh Thù cả kinh, muốn đứng lên: “Hắn muốn kháng chỉ sao?”
Triệu vương cười lạnh: “Lúc tiếp thánh chỉ đã có vẻ kì quái, nói không chừng trong lòng hắn luôn không muốn đi. Hiện giờ đúng là thời cơ đã chín muồi, chuyện hắn cự tuyệt cũng nằm trong dự đoán rồi.”
Hạ Lệnh Thù hỏi: “Vậy binh phù đâu?”
Triệu vương nghiêng người, không lâu sau thái tử được người hầu đưa vào, trên đầu toàn bông tuyết, trong tay còn cầm theo lồng vàng, trong lồng là một đôi chim tước kêu ríu rít không ngừng, đôi giày đầy bùn lầy để lại dấu chân trên thảm. Đây đâu phải là thái tử tôn quý mà là một tiểu tử hoang dã bướng bỉnh. Lòng Hạ Lệnh Thù bốc cháy, sắc mặt rất khó nhìn: “Thái tử điện hạ thật cao giá, bản cung sai người đi thúc ba giục bốn cũng không mời được thái tử đích thân tới, lúc này lại nhớ ra hồi cung sao.”
Thái tử chơi đến điên đảo đầu óc, làm sao còn nhớ được là giờ nào, lập tức hỏi lại: “Mẫu hậu gọi nhi thần khi nào? Nhi thần hoàn toàn không biết.”
Hạ Lệnh Thù tức điên cả người, tức không thể nói hoàng đế bệnh nặng, cũng không thể nói triều cục có biến, cố đè cơn giận xuống, chỉ nói: “Nếu ngươi không biết thì chỉ có thể do người hầu bên cạnh ngươi cố ý kháng chỉ!” Gương mặt nàng lạnh lùng, quát hỏi: “Ai là người tùy thị bên cạnh thái tử, mang xuống đánh một trăm trượng.”
Thái tử hoảng sợ, không biết vì sao mẫu hậu lại nổi giận, cho dù ngày trước cậu trêu đùa em gái, nàng cũng không hề giận cá chém thớt lên người hầu, nay dường như biến thành mẹ kế, cậu sợ tới mức không biết nên phản ứng thế nào.
Từ sau khi Hạ Lệnh Thù hồi cung, ngày tháng tiêu dao của Thái tử đã hết. Hạ Lệnh Thù luôn nhắc nhở cậu phải tỉnh ngộ, giữ mình trong sạch, hiểu được thân phận và gánh vác trách nhiệm của mình. Số canh giờ đọc sách không đủ, vui chơi thành hy vọng xa vời. Hạ Lệnh Thù trông mong con mình thành rồng, muốn kiến thức bốn năm học mà nàng không ở cạnh thái tử phải bổ sung về, nhưng thái tử đã đến tuổi chống đối, ngươi nói một, nó càng đòi hai, sau khi đối đầu gay gắt lại luôn luôn bại trận, suốt ngày cậu lộ ra vẻ mặt như quả mướp đắng đi đọc sách, học võ, khổ không thể tả. Khó khăn lắm mới tới năm mới, thái tử được Hạ Lệnh Thù thả ra liền cố hết sức chơi đùa, người hầu bên cạnh cũng đem tất cả vốn liếng ra dỗ thái tử vui vẻ. Người Hạ Lệnh Thù phái đi truyền ý chỉ không thể nói Hoàng đế không ổn, cũng không thể nói địa vị của hoàng hậu đang bấp bênh, lại không thể nói thái tử gặp tai vạ đến nơi rồi, chỉ lắp bắp sai người nhanh chóng dẫn thái tử về. Đang dịp đầu năm, lòng người trong cung đều không ở đây, làm sao nguyện ý đi để ý đôi vợ chồng kia, đương nhiên là dỗ thái tử chơi nhiều hơn một lúc, không ai ngờ tới sau khi trở về là tai họa ngập đầu.
Một trăm trượng đánh xuống thì đừng nói là các tiểu thái giám với cung nữ, cho dù là thị vệ có thân thể cường tráng cũng phải mất nửa cái mạng, những người khác thì lập tức đi gặp Diêm vương.
Xưa nay Hạ Lệnh Thù vốn lạnh lùng, các cung nhân đều từng nhìn thấy thủ đoạn tàn nhẫn của nàng cho nên không ai dám khóc to, có người tự mình cầu xin tha thứ, có người vừa khóc vừa dập đầu, thái tử bị biến cố lần này cả kinh, cãi lại: “Là nhi thần muốn chơi đùa, không phải lỗi của bọn họ! Mẫu hậu tức giận thì trút lên đầu nhi thần là được, cần gì phải giết gà dọa khỉ, không duyên cớ trút lên đám người dưới làm gì.”
Hạ Lệnh Thù tức giận đến run rẩy, Triệu vương và Triệu vương phi đều lạnh mặt đứng một bên không nói một tiếng.
“Được được được, ta không nên giận cá chém thớt. Người đâu, đưa thái tử về Đông cung, úp mặt vào tường sám hối, trong vòng một tháng không cần đến thỉnh an.”
Thái tử lớn tiếng nói: “Không có những người này hầu hạ, con sẽ không tới đây.”
Hạ Lệnh Thù cười xùy một tiếng, ngồi ngay ngắn lên giường rồng, nhìn cung nhân quỳ phía sau tấm màn, rất lâu không lên tiếng.
“Thái tử điện hạ muốn vì đám cung nhân này mà cãi lại ý chỉ của bản cung sao?”
Thái tử thẳng lưng: “Phải!”
Hạ Lệnh Thù hỏi lại: “Thái tử điện hạ cho rằng bọn họ không sai, ngươi cũng không sai phải không?”
Thái tử hếch chằm lên: “Bọn họ không sai, đều là lỗi của nhi thần.”
“Tốt lắm.” Hạ Lệnh Thù gật đầu, lạnh lùng ra lệnh cho Tiểu Quái Tử: “Nhốt thái tử vào trong Đông cung, không có thánh chỉ của Hoàng thượng, bất kể ai cũng không thể xuất nhập, ai vi phạm liền chém. Nếu thái tử có gì sơ xẩy, mọi người trong Đông cung sẽ bị tru di cửu tộc.”
“Vâng!” Tiếng hét lớn đồng loạt vang lên, hai gã thị vệ nhanh chóng đến cạnh thái tử, cung kính mời cậu ra ngoài. Thái tử thật sự không ngờ chỉ một chút việc nhỏ này lại biến thành như vậy, ấp úng một lúc lâu không nói, không hề để ý đến biểu cảm của mọi người trong cung. Đi tới cửa, thái tử quay đầu hỏi: “Đến cùng thì người có phải mẫu hậu thân sinh của con không? Người có phải mẫu hậu mà con đã chờ bốn năm không?”
Hạ Lệnh Thù quay đầu đi, chậm rãi kéo lại áo lông cho tiểu công chúa: “Bản cung là mẫu nghi thiên hạ, là mẫu hậu của hoàng đế tương lai, không phải mẫu thân của một mình ngươi.” Nàng ôm tiểu công chúa đặt lên gối, hôn lên gương mặt cô bé, tiểu công chúa cười khanh khách hai tiếng, ngây thơ hồn nhiên.
Hạ Lệnh Thù nói tiếp: “Truyền bữa tối, thuận đường mời đại hoàng tử, nhị hoàng tử và đại công chúa đến dùng bữa luôn.”
Thái tử chỉ cảm thấy như có sét đánh, thân thể run rẩy một chút, giọng nói ẩn chứa tiếng khóc : “Người không cần con sao?”
Hạ Lệnh Thù không đáp, cũng không nhìn cậu.
Thái tử cố chấp đứng bên cửa điện, một chân ở ngoài, một chân còn dừng trong điện, cậu lớn tiếng nói: “Người còn cần con hay không?”
Hạ Lệnh Thù nói với Phượng Lê: “Bãi giá cung Phượng Huyền.”
Dứt lời, ôm tiểu công chúa lên, nói với Triệu vương: “Vương gia và vương phi cũng ở lại ăn bữa cơm đi! Triệu vương cũng tiện thể kiểm tra những gì hai vị hoàng tử mới học, nhìn xem ai có thể đảm đương nghiệp lớn, chúng ta cũng nên chuẩn bị sẵn sàng.”
Triệu vương liếc nhìn thái tử, sắc mặt cậu đã xám trắng, khom người nói: “Tuân chỉ.”
Một chuỗi tiếng vang choang choang, hai chậu cây cảnh ở cửa đại điện đã bị đập nát, san hô đỏ, sứ bạch ngọc, bùn xanh văng ra ngoài, từng tiếng vang lên giống như tiếng khóc nức nở của đứa trẻ, lại như tiếng chuông cảnh báo trong lòng.
Nước mắt thái tử rơi xuống, trước khi chạy chỉ để lại một câu: “Con hận người!”
Ba chữ ngắn ngủn phiêu đáng trong cung điện, rất lâu vẫn không tiêu tan. Không có ai nói chuyện, cũng không có ai cử động, các cung nhân càng không dám ngẩng đầu nhìn vẻ mặt hoàng hậu, không khí nặng nề đầy áp lực.
Triệu vương phi lo lắng đỡ tay Hạ Lệnh Thù: “Muội cần gì phải khổ như vậy.”
Hạ Lệnh Thù cười buồn bã: “Tỷ tỷ, năm đó tỷ cần gì phải để con trai trưởng mới vừa một tuổi lại, một mình mang theo tiểu quận chúa vượt ngàn dặm trở về hoàng thành, chia lìa với tỷ phu, đó là vì cái gì?”
Năm ấy, hoàng đế chèn ép Triệu vương, Hạ gia không thể không tuân theo, đành bảo Triệu vương phi trở về, ở trong hoàng thành làm con tin với Triệu vương. Khi đó Triệu vương phi phải bãn lĩnh tới mức nào, khí độ tới mức nào mới có thể không hề nề hà, cùng muội muội kéo gần khoảng cách giữa hoàng tộc và thế gia, tránh cho quân thần hiềm nghi.
“Nói đến cùng, cũng là vì bình an của người nhà.”
“Ta cũng vậy.” Hạ Lệnh Thù nói, “Cho nên thay vì chờ người khác cho nó hưởng đau khổ nhân gian, không bằng ta tự tay đẩy nó xuống vách núi, để nó học được cách tự sinh tồn. Thoát khỏi sự bảo vệ của cha mẹ, nó sẽ càng hiểu được lòng người xung quanh.”
Triệu vương phi nói: “Chỉ sợ khéo quá hóa hỏng.”
Triệu vương tiến lên một bước, hừ lạnh: “Nam tử hán đại trượng phu, phải nếm trải đau khổ mới trưởng thành được. Các người đúng là toàn lòng dạ đàn bà.”
Mấy người lớn vừa đi vừa nói chuyện, ăn trưa tại cung Phượng Huyền. Hai vị hoàng tử đều đã hơn mười tuổi, có người của mình ở tại thư viện Bạch Lộ. Bề ngoài thì nhị hoàng tử có vể trầm tĩnh, đại hoàng tử lại mạnh mẽ, đại công chúa mảnh mai có thừa nhưng kiên định không đủ, người lớn lên trong hoàng cung đều hiểu được phải nhìn mặt mà đoán lòng, trước khi đến đã được mẫu phi nhắc nhở, nay nhìn thấy Hạ Lệnh Thù lại càng thêm cẩn thận.
Triệu vương im lặng quan sát hai vị hoàng tử, Triệu vương phi tự mình gắp thức ăn cho mọi người, Hạ Lệnh Thù ngẫu nhiên hỏi việc học tập của đại công chúa, một bữa cơm này cũng coi như hòa thuận vui vẻ.
Sau khi ăn xong, ba vị công chúa lúc trước Triệu vương phái người đi mời đã vào cung. Hoàng đế bệnh nặng, Triệu vương phụ trách việc triều chính, Định Đường vương nắm binh quyền, lại có thế lực của quyền thần cưỡng chế khắp nơi, tạm thời có thể giữ cho Đại Nhạn yên ổn.
Cả buổi chiều, Triệu vương và các đại thần xử lý tấu chương, Triệu vương phi không thể để mặc Hạ Lệnh Thù một mình, ở lại trò chuyện với nàng.
Tiểu công chúa vẫn ngủ bên cạnh Cố Song Huyền, hoàn toàn di truyền tật xấu trước kia của tiểu thái tử, ăn no liền đái dầm. Đứa bé nho nhỏ lập tức tạo thành hồ nước trên quần áo hoàng đế, chỉ một lúc đã bị nhiệt độ cơ thể hắn hong khô. Người hầu ngửi tới ngửi lui vẫn không biết sao lại có mùi lạ, cuối cùng đành phải lâu người cho hoàng thượng và công chúa một lần, lại đổi chăn đệm…, tới khi ngay cả mông của công chúa cũng thơm tho mới chịu dừng tay.
Trong lúc đó, Hạ Lệnh Thù đã đi cùng Triệu vương phi tới Dịch đình.
Ban ngày, tuyết lớn vẫn không ngừng rơi, phủ kín khắp đất đai, dưới ánh trăng trong trẻo nhưng lạnh lùng, hiện lên ánh sáng trắng trong như ngọc.
Trong Dịch đình có phòng giam dành riêng cho cung nữ và phi tần, trong ngoài đều bọc sắt, giữa khe hở còn chất đầy cát và đá, mùa hè nóng bức, mùa đông lạnh giá. Lâu ngày, trên tường sắt đầy những vết máu ướt rồi lại khô, mỗi khi ẩm ướt, mùi máu tanh lan tràn tới từng ngõ ngách trong phòng, ngay cả than củi đang cháy hừng hực trong lò cũng giống như máu thịt của con người.
Quảng Tiệp dư còn chưa bị định tội, thị vệ giải nàng đến đây đã biết đối phương không còn đường sống nên cũng không để nàng ta trong phòng giam mà trực tiếp đẩy vào phòng tra tấn. Ngọn lửa chiếu sáng trên vách tường, tiếng khóa sắt lại vang lên giống như sự thật và dối trá luân phiên giãy dụa, giới hạn cũng không rõ ràng.
Người tra tấn là một phụ nữ béo lùn khỏe mạnh, mặt mũi hiền lành tròn trịa, khi cười lên, ánh mắt bà ta híp lại thành một đường nhỏ, miệng rất lớn, tiếng nói ồm ồm: “Hồi bẩm nương nương, nàng ta không chịu nhận tội. Luôn nói là mình bị người khác hãm hại, nhưng khi hỏi người đứng sau là ai thì nàng ta lại lắc đầu, hỏi gì cũng không biết.”
Nữ nhi Hạ gia không phải nữ tử tầm thường, trong gia tộc có hình phòng, đương nhiên là đã nhìn thấy kiểu tra tấn như thế này rồi nên không hề sợ hãi, chỉ bảo: “Các ngươi cứ tiếp tục đi.”
Có lời này, người phụ nữ to béo dường như được tiếp sức, rút roi ở bên hông ra, “Vụt” một tiếng lên người Quảng Tiệp dư. Dáng vẻ xinh đẹp lập tức tuôn đầy máu thịt dưới tiếng roi. Quảng Tiệp dư cũng là người kiên cường, chỉ rơi lệ kêu rên nhưng không hề mở miệng xin tha, bởi vì nàng ta biết cầu xin cũng vô dụng. Chỉ không ngừng hỏi: “Hoàng thượng sao rồi?”
Hạ Lệnh Thù hỏi: “Thuốc tới từ đây?”
Nàng ta im lặng.
Tiếng roi quất lại vang lên, giữa hai chân đã thành máu thịt mơ hồ, không thể tìm được chỗ nào lành lặn. Quảng Tiệp dư rơi nước mắt: “Trước đây Hoàng thượng cho ta uống thuốc bổ, nói có thể kéo dài tuổi thọ. Ta nghĩ hoàng thượng bị bệnh, không bằng cho thuốc này vào canh, mỗi ngày để hoàng thượng uống một chút, sớm muộn gì cũng bình phục. Nào biết đâu rằng… Hoàng thượng bây giờ thế nào rồi?”
Hạ Lệnh Thù nói: “Thái y còn đang chữa trị.”
Quảng Tiệp dư lại hỏi: “Người sẽ tỉnh lại đúng không?”
Hạ Lệnh Thù tiến lên ép hỏi: “Làm sao ngươi giấu diếm được y nữ thử độc? Nếu là thuốc bổ thì vì sao ngươi không dám công khai lấy ra dùng, để Thái y kiểm chứng xong mới cho hoàng thượng uống, sao phải lén lút? Ngươi đã biết trước là Hoàng thượng uống canh bổ xong thì bệnh tình sẽ nặng hơn đúng không?”
“Không phải, không đúng!” Quảng Tiệp dư lớn tiếng phản bác, “Ta không biết.”
“Ngươi oán hận Hoàng thượng hay là oán hận ta? Hay là người câu kết với người ngoài hợp mưu giết hoàng thượng bằng thuốc độc, như thế thì ngươi được lợi gì? Làm người đứng đầu hậu cung sao? Mẫu nghi thiên hạ sao? Lúc ấy thì ai tới làm hoàng đế hả?”
“Không, ta không hề nghĩ như thế!”
“Ngươi chỉ không nghĩ thuốc người khác đưa cho ngươi là kịch độc mà thôi, đó vốn không phải là thuốc bổ, là thuốc độc. Ngươi muốn độc chết hoàng thượng!”
“Không phải!” Quảng Tiệp dư hét ầm lên, “Ta yêu người, ta không hề nghĩ tới việc hại người, người đó nói đấy là thuốc bổ, là thuốc bổ.”
Hạ Lệnh Thù hừ lạnh: “Người đó? Là ai?” Nàng vốn dĩ không cho Quảng Tiệp dư cơ hội tỉnh táo lại, lập tức rút cây trâm gài tóc trên đầu mình ra, chĩa mũi nhọn vào mắt Quảng Tiệp dư, từ trên cao nhìn xuống nàng ta: “Là người trong hoàng thất, hay là thế gia, hay là đại thận, hoặc là… Tạ…”
“Không phải, đều không phải, ta không biết gì hết!” Quảng Tiệp dư kêu to, sợ hãi vì bị bức ép đến phát điên, càng hét càng to hơn, vô cùng thê lương.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.