Chương 25
John Hart
20/11/2016
Johnny đứng ở cánh
rừng phía sau lưng, trước mặt là một trảng cỏ được dọn sạch sẽ. Nó chỉ
là một vệt cào trong một biển cây rừng, một vệt lỗi; nhưng từ cái nơi
Johnny đứng, nó là tất cả, một thảm cỏ tranh xanh rờn uốn cong trong cơn gió nhẹ yên bình.
Alyssa đứng ở giữa trảng cỏ nhìn cậu. Cô giơ tay lên, và Johnny bước tới, cỏ mọc cao đến mắt cá chân, rồi đến đầu gối. Alyssa nhìn giống y chang lần sau cùng cậu gặp cô bé: quần ngắn vàng bạc màu, áo trắng. Tóc cô đen như mực xạ, làn da rám nắng. Cô giữ một tay sau lưng, và nghiêng đầu làm cho nhiều sợi tóc rơi xuống phủ lên hai mắt. Cô đứng trên một cái hộp ép xuống cỏ phẳng dưới đất. Johnny có thể ngửi thấy mùi cỏ bị dẫm nát, và cái chín tới của mùa hè.
Con rắn cuộn tròn dưới chân cô. Nó là con rắn hổ mang mà cậu giết được. Dài một mét rưỡi, trên người có những khoanh màu nâu và vàng, nó nằm yên lặng. Nó nếm hương vị không khí bằng lưỡi, và khi Johnny dừng lại, nó ngẩng cao đầu.
Johnny nhớ nó lao đến mổ cậu như thế nào cái ngày cậu giết nó. Cái chết cận kề như thế nào.
Vài phân.
Có thể ít hơn.
Alyssa cúi người bắt con rắn, và ngón tay của cô gần thân con rắn. Cái đuôi nó quấn quanh cổ tay cô bé. Đầu con rắn vươn cao hơn khi cô bé đứng thẳng người, và con rắn nhìn cô. Lưỡi của nó lè ra. “Đây không phải sức mạnh,” cô nói. Con rắn mổ mặt cô, và khi nó rút đầu về, hai lỗ xuất hiện, theo sau là những giọt máu nhìn giống như những trái táo nhỏ. Cô giơ con rắn lên cao hơn, bước một bước và chiếc hộp sắt chuyển dịch dưới chân cô. “Đây là sự yếu đuối.”
Con rắn mổ, cảnh mờ và chậm lại khi cặp răng nanh găm vào mặt cô. Cô chập choạng, và con rắn mổ cô lần nữa. Hai lần. Một lần trên chân mày, một lần ở môi dưới. Thêm lỗ. Thêm máu. Cô ngừng bước, và bất thình lình hai mắt cô rực sáng, màu nâu tối chuyển qua đen, cô đứng chết lặng mà như là trống vắng. Đó là con mắt của Johnny, đôi mắt của mẹ cô. Tay cô bé ghì chặt vào con rắn, và Johnny thấy cô không hề sợ hãi. Vẻ mặt của cô toát ra sự hung tợn và giận dữ. Hai môi cô nhợt đi và con rắn bắt đầu vùng vẫy. Cô bóp chặt tay và giọng nói của cô tăng thêm sinh lực.
“Sự yếu đuối,” cô nhắc lại, những ngón tay trắng bệch, con rắn vùng vẫy khi cô bóp chặt nó. Nó mổ tay cô, mặt cô. Nó ngoạm cổ và ghì chặt nanh, tiếp tục bơm nọc độc ngay cả khi nó đang quằn quại. Alyssa phớt lờ, di chuyển cánh tay còn lại từ phía sau lưng. Trong tay, cô cầm cây súng, đen tuyền và bóng nhẫy dưới ánh sáng nóng gắt.
“Quyền năng,” cô nói.
Và kéo văng con rắn ra khỏi cổ.
Johnny giật mình tỉnh giấc. Thuốc mất dần tác dụng, nhưng giấc mơ vẫn chưa buông tha: cô em gái mất tích, và cô cười khi Johnny đặt những ngón tay lên thứ kim loại ấm, sáng trong tay cô. Cậu sờ chỗ băng bó trên ngực, rồi thấy mẹ cậu. Bà ngồi một mình trong cái ghế cạnh tường. Vết chì kẻ mắt lem nhem ở vùng da dưới mắt. Đầu gối co giật.
“Mẹ.”
Bà quay đầu và giọng thảng thốt. “Johnny.” Bà lập tức đứng dậy, bước ngang căn phòng và đứng trước con trai. Bà chải tóc cho con, đoạn, bà ôm chầm lấy con. “Con yêu của mẹ.”
Thám tử Hunt vào phòng Johnny sau bữa điểm tâm hai giờ. Ông xuất hiện ở cánh cửa, cười mỉm với Johnny, sau đó khều tay bà Katherine và lùi vào trong hành lang.
Johnny nhìn họ qua tấm kính. Những gì thám tử Hunt nói, mẹ cậu không hài lòng. Họ cãi nhau kịch liệt. Bà lắc đầu, trừng mắt nhìn qua cửa kính hai lần, rồi sau đó gục cằm xuống. Hunt chạm vào vai bà một lần, nhưng bà lắc văng ra. Khi cánh cửa được mở ra, thám tử Hunt vào trước, mẹ Johnny theo vào sau ông. Bà cười nụ cười gượng gạo, sau đó ngồi ở mép chiếc ghế bọc nhựa, bóng nhẫy ở góc phòng. Nhìn bà như có vẻ sắp sửa nôn oẹ.
“Anh bạn Johnny.” Hunt kéo chiếc ghế lại gần giường. “Cháu cảm thấy trong người thế nào?”
Johnny nhìn mẹ rồi nhìn ra tia phản chiếu ánh sáng kim loại ngay dưới cánh tay thám tử Hunt, thép đen và chói sáng. “Tiffany không sao chứ?”
Hunt kéo áo khoác lại. “Chú nghĩ cô bé ấy sẽ không sao.”
Johnny nhắm mắt lại và thấy cô bé ngồi trên vũng máu của gã đàn ông đã chết; cậu cảm được làn da khô và nóng của tay cô khi cậu ra sức kéo cô vào trong ô tô. “Cô ấy không biết tôi là ai. Chúng tôi học cùng trường suốt bảy năm học.” Cậu lắc đầu. “Trên nửa đường đi đến bệnh viện, cuối cùng cô bé cũng nhận ra tôi. Cô ấy không buông tôi ra. Khóc. Gào.”
“Chú sẽ tìm hiểu tình trạng cô bé ấy thế nào. Trước tiên là vậy.” Thám tử Hunt ngừng, giọng nghiêm trang. “Cháu đã làm một việc thật can đảm.”
Johnny chớp mắt. “Tôi đâu có cứu được ai.”
“Có thật vậy không?”
“Đó là những điều họ nói ngoài kia, đúng không?”
“Một số người nói như vậy. Đúng thế.”
“Gã ta sẽ giết tôi. Tiffany là anh hùng. Họ không nên kể lại câu chuyện khác đi.”
“Người của truyền thông thôi, Johnny. Đừng quá quan tâm.”
Johnny nhìn bức tường trắng và một tay sờ vào những chỗ băng bó trên ngực.
“Gã ta sẽ giết tôi.”
Bà Katherine tạo tiếng ồn nghe như thổn thức, và Hunt xoay người trên ghế. “Bà không cần phải có mặt ở đây.”
Bà đứng bật dậy khỏi chiếc ghế. “Ông không thể bắt tôi đi ra.”
“Không có ai nói như vậy...”
“Tôi không đi đâu cả.” Giọng bà cao lên, hai tay run run.
Hunt quay trở lại với Johnny, và ông nở nụ cười dường như thành thật, nhưng phiền muộn. “Cháu có khoẻ để trả lời vài câu hỏi không?” Johnny gật đầu. “Chúng ta sẽ bắt đầu lúc khởi đầu. Tôi muốn cháu nhớ lại gã đàn ông cháu thấy trên cầu, cái gã lái chiếc ô tô tông vào chiếc xe gắn máy. Cháu hiểu chứ?”
“Dạ.”
“Bây giờ, hãy nhớ lại gã đàn ông hành hung cháu sau khi cháu chạy đi.”
“Gã không hành hung tôi. Gã chỉ vác bổng tôi lên, như là giữ tôi vậy.”
“Giữ cháu à?”
“Như gã ta đang chờ đợi một cái gì.”
“Có trường hợp nào cả hai là một người không? Gã đàn ông trên cầu. Gã nhấc bổng cháu lên.”
“Họ là hai người hoàn toàn khác.”
“Cháu lờ mờ thấy gã đàn ông trên cầu. Cháu nói gã ta là một cái bóng?”
“Khác hình dạng, khác kích cỡ. Họ khác nhau cả dặm, có thể hai dặm.”
Hunt giải thích điểm cong của con sông. “Có thể cùng là một người đàn ông.”
“Tôi hiểu dòng chảy của con sông, khoảnh đất ở giữa khúc cong đó là một đầm lầy. Nếu ông thử đi tắt ngang nó, ông sẽ sa lầy tận lưng quần. Con đường mòn uốn theo dòng sông là có lý do. Bọn họ là hai người khác nhau, hãy tin tôi. Gã đàn ông trên cầu không to lớn đủ để có thể vác kiện hàng đó.”
“Kiện hàng gì?”
“Như cái rương,” Johnny nói. “Bọc trong nhựa. Gã vác nó trên vai và trông nó rất nặng.”
“Cháu có thể miêu tả nó không?”
“Nhựa đen. Băng keo bạc. Dài. Dày. Như cái rương. Gã giữ tôi bằng một tay, tay kia giữ cái rương. Chỉ đứng đó, như tôi đã nói, và sau đó gã nói với tôi.”
“Cháu không hề nói với tôi điều này trước đây. Gã ta nói gì?”
“Chúa nói.”
“Điều đó có nghĩa gì?”
“Tôi không biết.”
Hunt đứng dậy và bước đến cửa sổ. Ông nhìn qua cửa kính mất cả phút. “Cái tên David Wilson có ý nghĩa gì với
cháu không?”
“Không.”
“Còn Levi Freemantle thì sao?”
“David Wilson là người đàn ông bị tông văng khỏi cầu. Levi Freemantle là gã đàn ông nhấc bổng tôi.”
“Cháu nói những cái tên đó không có ý nghĩa gì với cháu.”
Johnny xoay vai. “Không. Nhưng Freemantle là tên của người Mustee, do đó phải là gã to lớn. Điều đó cho thấy David Wilson là người bị giết.”
“Mustee?”
“Dạ.”
“Mustee là gì?”
“Dân Da đỏ lai với người Phi châu.” Thám tử Hunt nhìn trống rỗng. “Lumbee, Sapona, Cherokee, Catawba. Họ cũng là nô lệ Da đỏ. Ông biết điều đó không?”
Hunt thăm dò cậu con trai, không biết có nên tin hay không. “Làm sao cháu biết Freemantle là cái tên Mustee?”
“Người nô lệ đầu tiên được phóng thích ở quận hạt Raven là người Mustee có cái tên Isaac. Khi được trả tự do, ông ta chọn Freemantle làm họ của mình. Ánh sáng của sự tự do. Cái tên mang ý nghĩa như vậy.”
“Trước vụ án này, tôi chưa bao giờ nghe đến cái tên Freemantle ở quận hạt Raven.”
Johnny nhún vai. “Họ ở đây lâu đời rồi. Tại sao ông lại nghĩ Levi Freemantle lại là cùng một người với gã ở trên cầu?”
“Hãy nói về Burton Jarvis.”
“Không,” Johnny nói.
“Sao?”
“Ông trả lời câu hỏi của tôi đã. Thế mới công bằng.”
“Đây không phải sân chơi con nít, Johnny. Không phải là chuyện công bằng.”
“Thằng bé rất cứng đầu,” bà Katherine nói.
“Được,” Hunt nói. “Một câu hỏi. Một lần.”
Johnny hạ cằm xuống, mắt cậu không hề rời mặt Hunt. “Tại sao ông cho rằng Levi Freemantle với gã đàn ông trên cầu là một?”
“Freemantle để lại vân tay trên tử thi ông David Wilson. Nó khiến chúng tôi thắc mắc liệu có phải Freemantle là người lái ô tô tông ông ta văng khỏi cầu hay không. Nếu cháu có thể nói với chúng tôi cả hai là một người, Freemantle và người cháu thấy trên cầu, nó sẽ giúp giải toả điều này.” Hunt không hề nhắc đến hai thi thể tìm thấy ở nhà Freemantle, hình vẽ một kẻ cao lớn giữ đứa bé gái mặc chiếc áo đầm vàng và mồm đầy máu. Johnny ngồi dậy thẳng người lên, và một cái gì đó kéo lên ở dưới mảnh bông băng. “David Wilson vẫn còn sống khi Freemantle bắt ông ta?”
“Tôi không biết.”
“Nhưng có thể.”
Hunt mường tượng những vân tay đẫm máu trên mí mắt của tử thi. “Tôi nghi ngờ là vậy,” ông nói.
“Có thể ông ta nói cho Freemantle biết cô bé ở đâu.”
“Tôi không nghĩ như vậy, Johnny.”
“Chuyện gì xảy ra nếu ông ta nói về Alyssa. Có thể ông ta nói với Freemantle ông ta tìm thấy em gái tôi ở đâu.”
“Không.”
“Nhưng, có thể...”
“Khó mà tin ông ta nói về Alyssa, và cũng rất nghi ngờ việc ông ta còn sống khi Freemantle đến chỗ ông ta.” Hunt dòm chừng cậu trai trẻ, quan sát cậu đang tính toán. “Đừng bao giờ nghĩ như vậy,” ông nói.
“Nghĩ về chuyện gì?”
Mắt cậu to tròn và ngây thơ, bất cứ ông cớm nào cũng tin ngay. “Những ngày tháng chơi trò chơi giả cớm chấm dứt rồi Johnny. Không có bản đồ nữa. Không có thám hiểm nữa. Tôi nói như vậy rõ ràng không?”
Johnny quay đầu hướng khác. “Ông hỏi về Burton Jarvis. Ông muốn biết điều gì?”
“Bắt đầu từ đầu. Sao cậu tìm được nhà gã? Cậu đến đó với mục đích gì? Cậu thấy những gì? Chuyện gì đã xảy ra? Tất cả. Mọi thứ.”
Johnny hình dung lại những lần cậu đến căn nhà: bóng tối và cái chòi, căn nhà nhìn như thế nào qua lùm cây và tiếng động của những con vật trong rừng. Cậu nghĩ đến những móng tay dính đầy thạch cao và nhiều tháng vật vã trong ác mộng, gã bạn hãi hùng của Jar và chuyện họ nói với nhau về Út Vàng. Trận cười làm đôi chân Johnny rụng rời. Cậu không tài nào kìm được nỗi băn khoăn và mẹ cậu linh cảm được điều này. Bà đứng dậy và bước đi, lo lắng, và sự di chuyển làm Thám tử Hunt bực mình. “Bà có thể vui lòng ngồi xuống được không, Katherine?”
Bà làm ngơ ông.
“Katherine!”
“Làm sao tôi có thể cứ ngồi đó và xem mọi chuyện như vẫn bình thường?” Bà co giật và mắt sáng lên. “Sở Xã hội.” Bà cay cú nhìn Hunt. “Tôi sẽ không cho phép như vậy!”
Hunt hạ giọng. “Chúng ta đã đồng ý tạm thời trong lúc này không lôi Johnny vào chuyện này.”
“Tôi không thể chấp nhận chuyện đó.”
“Tôi đang làm tất cả những gì có thể, Katherine. Bà phải tin tôi.”
“Ông nói với tôi ông sẽ mang con bé Alyssa về nhà. Ông cũng đã nói tôi phải tin điều đó.”
Hunt tái mặt. “Điều này không giúp ích được gì.”
“Các người đang nói về vấn đề đó hả?” Johnny hướng về hành lang. “Sở Xã hội?”
“Sở Xã hội quan tâm về phúc lợi của cậu, Johnny. Qua những sự việc đã xảy ra, họ buộc phải thẩm tra toàn bộ. Điều đó có nghĩa họ sẽ phỏng vấn, thanh tra tư gia. Họ sẽ nói về học hành. Nhưng tất cả những chuyện đó sẽ phải mất một thời gian. Trong lúc này, họ muốn mang cậu ra khỏi quyền giám hộ của mẹ cậu. Tạm thời. Vì muốn bảo vệ cho cậu.”
“Bảo vệ?”
“Họ nghĩ cậu đang nguy hiểm.”
“Từ tôi,” bà Katherine nói.
“Không ai nói như vậy!” Hunt mất kiên nhẫn.
“Điều này không đúng,” Johnny nói.
“Bình tĩnh, con trai.” Hunt nhìn mẹ Johnny, bà gần như muốn khóc, sau đó tập trung vào cậu bé. “Tôi đang nói chuyện với chú Steve của cậu. Tôi nghĩ tôi có thể sắp xếp để cậu tạm trú với ông ta trong khi chuyện này được giải quyết.”
“Steve là gã đàn ông khiếm nhã.”
“Johnny!”
“À, ông ta là hạng người đó, mẹ ạ.”
Hunt cúi sát Johnny hơn. “Hoặc là ông Steve hoặc là người giám hộ được chỉ định bởi toà án. Với ông Steve, mẹ cậu có thể thăm cậu bất cứ lúc nào bà muốn. Cậu vẫn sống với người trong gia đình, ít nhất cũng phải đến khi có quyết định chung cuộc. Nếu chuyện này đến tay toà án, nó vượt ra khỏi tầm tay của tôi. Ông thẩm phán sẽ quyết định và cậu phải chấp nhận những gì phán quyết. Không phải lúc nào cũng tuyệt vời.”
Johnny nhìn mẹ, nhưng bà đang ôm mặt. “Mẹ?” Bà lắc đầu.
“Tôi xin lỗi,” Hunt nói. “Nhưng chuyện này là kết quả của một thời gian dài. Hy vọng sau này mọi chuyện sẽ tốt đẹp.”
“Chúng tôi cần tìm bố tôi,” Johnny nói.
Cậu không hề nghe thấy tiếng chân bước của mẹ cậu. Bất thình lình, bà có mặt ở đó, ngay cạnh giường. Mắt bà long lanh, mở lớn, thăm thẳm và buồn. “Không ai biết tìm bố con ở đâu cả, Johnny.”
“Nhưng mẹ nói bố đã viết thư về. Mẹ bảo bố ở Chicago, hay California mà?”
“Bố chưa bao giờ viết thư.”
“Nhưng... ”
“Mẹ nói dối.” Bà xoay một bàn tay, và nó trắng bệch. “Bố con chưa bao giờ viết thư về nhà.”
Cặp mắt Johnny mờ đi. “Con muốn về nhà,” cậu nói, nhưng Hunt không nhượng bộ.
“Sẽ không có chuyện đó đâu.”
Bà Katherine bước tới cạnh cậu. Bà ngẩng lên, và Hunt thấy sự bảo bọc, một sự hãnh diện mong manh. “Mẹ xin con,” bà nói, và nắm lấy tay cậu con trai.
“Con muốn về nhà,” Johnny nhắc lại.
Trong khoảnh khắc đó, Hunt lịch sự nhìn đi chỗ khác; nhưng đây là công việc. Ông ngưỡng mộ nhiều điều ở cậu trai trẻ, nhưng cái thế giới thần tiên mà cậu đang ngụp lặn, bây giờ là lúc cần phải chấm dứt, trước khi ai đó bị thiệt hại hay chính cậu bị thiệt mạng.
Hunt đi ngang qua phòng và cầm cái túi đựng lông chim, khúc đuôi rắn chuông, và chiếc đầu lâu rắn hổ mang của Johnny. Ông lôi ra sợi dây đeo cổ và xoay vòng nó ngay tầm mắt của cậu. “Cậu muốn nói gì với tôi về những thứ này?”
“Cái đó là gì vậy?” Bà Katherine hỏi.
“Johnny đeo những thứ đó khi cậu bé nhập viện. Cậu bé thoa đầy người bồ hóng và nước dâu, cởi trần, trong túi chứa đầy những thứ mà họ nói với tôi như đuôi của rắn chuông, hoặc cái gì đi chăng nữa. Sở Xã hội sẽ hỏi bà về cái này, về tất cả những thứ đó. Họ sẽ soi mói, rất kỹ, và tôi nghĩ có thể Johnny nên bắt đầu nói cho tôi biết.”
Johnny nhìn chằm chằm vào mớ lông chim, thấy Jar đã chém đứt gọn một cái lông ra làm đôi. Cậu cảm nhận không có gì thay đổi. Ông cớm vẫn là nỗi đe dọa, mẹ cậu vẫn yếu đuối. Không ai hiểu cả.
“Nó không bình thường,” Hunt nhấn mạnh.
“Tôi không muốn nói về chuyện đó.”
“Nói cho tôi biết về Burton Jarvis.”
“Không.”
“Làm sao cậu tìm được gã ta? Cậu đã đến đó bao nhiêu lần rồi?”
Johnny nhìn ra ngoài cửa sổ.
Hunt buông sợi dây xuống, gom lượm những trang giấy có ghi chú của Johnny.
“Những tờ ghi chú này có chính xác không? Cái này chứng tỏ cậu đã có hơn chục lần viếng thăm. Và những nơi khác cũng vậy. Không chỉ tại tư gia gã Jarvis.”
Johnny liếc qua những tờ ghi chú. “Những cái đó chỉ là giả định.”
“Sao?”
“Như một trò chơi.”
“Johnny... ” Sự thất vọng hiện lên rất rõ.
Johnny không hề chớp mắt. “Đêm hôm qua là lần đầu tiên.”
“Tôi hiểu tại sao cậu cần phải nói dối, con trai, nhưng tôi cần biết cậu thấy những gì. Cậu có năm cái tên ở đây, những kẻ mà chúng tôi biết, những kẻ có tiền án mà chúng tôi đang theo dõi. Rồi đến kẻ thứ sáu. Cái gã thường hay đến chơi nhà của Burton Jarvis.” Hunt nghiên cứu trang giấy. “Có nguyên trang ghi chú về gã đàn ông này. Cậu có ghi diện mạo tổng quát: chiều cao, cân nặng, màu tóc. Cậu có ghi hãng xe ô tô của gã và ba biển số khác nhau, tất cả những số này đã được báo mất cắp đâu đó trong năm vừa qua. Tôi muốn biết gã này là ai. Tôi nghĩ cậu có thể giúp tôi.”
“Không.”
“Út Vàng là ai? Nó có nghĩa gì?”
“Ông làm việc như những người ở Sở Xã hội.”
“Mẹ kiếp.” Lòng kiên nhẫn của Hunt bốc hơi, và bà Katherine bước vào giữa con trai bà và ông cớm. Bà doãi những ngón tay mảnh khảnh, và lời nói của bà biểu lộ sự tin tưởng một cách hiếm có.
“Đủ rồi,” bà nói.
“Một nửa những ghi chú không đọc được. Có những thông tin quan trọng mà Johnny chưa hoàn toàn hiểu. Cậu ta cần nói chuyện với tôi.”
Bà Katherine nhìn chữ viết của con trai. Bà quan sát những tờ giấy, rồi đọc nó cẩn thận hơn. Phải mất một thời gian, nhưng Hunt chờ đợi. Khi đọc xong, trông bà có vẻ sợ hãi. “Nếu nó trả lời những câu hỏi của ông, chuyện đó sẽ giúp chúng tôi thoát khỏi Sở Xã hội? Hay gây bất lợi cho chúng tôi?”
“Bà phải tin tưởng vào tôi.”
“Không có gì quan trọng hơn việc giữ con trai tôi,” bà nói.
“Không bằng mang Alyssa trở về sao?”
“Có phải ông muốn nói chuyện đó có thể xảy ra?”
“Con trai bà, tôi tin rằng, đã khám phá ra một kẻ ấu dâm chưa từng được biết hiện đang hoạt động trong vùng. Một kẻ gian ngoan. Một kẻ cẩn trọng. Có thể có một mối nối nào đó.”
“Chuyện đó có thực không?”
Sự nghi ngờ của Hunt biểu lộ trong lời nói. “Tôi không rõ.”
“Vậy tôi phải nghĩ đến đứa con tôi vẫn còn.”
“Tôi lo lắng về cậu con trai của bà.”
Bà nhìn chằm chằm vào ông, giọng bà sắc bén và dễ vỡ như tiếng vỡ của thủy tinh. “Ông muốn chúng tôi tin tưởng nơi ông?”
“Đúng.”
“Tin tưởng cảnh sát?”
“Đúng.”
Bà Katherine bước tới trước, đẩy xấp giấy vào Hunt. “Ông muốn nói về cái gã ấu dâm chưa rõ danh tánh này. Kẻ gian ngoan. Kẻ cẩn trọng. Kẻ đồng lõa với gã đàn ông mà chút xíu nữa đã thảm sát con trai tôi...”
Hunt nghiêng đầu, và bà dùng một ngón tay chỉ vào vệt mực mà chỉ có người mẹ mới có thể đọc. Mặt của bà nhợt nhạt, tái mét như cái mặt nạ bằng sứ che đậy sự giận dữ và sợ hãi. “Chữ đó,” bà nói, “không phải ‘ly’ hoặc ‘nắp’ hay bất cứ cái gì an toàn. Nó là ‘cớm’. Nó nói cái gã đàn ông giao du với Burton Jarvis là cớm.” Bà đẩy xấp giấy vào ngực Hunt và bước lại gần con trai hơn. “Cuộc phỏng vấn này xong rồi.”
Sau khi Hunt đi khỏi, bà Katherine đứng cạnh giường con trai. Bà nhìn cậu con trai thật lâu nhưng không hề hỏi về lông chim hoặc những tờ ghi chép hoặc những gì Hunt nói. Sắc diện rớt ra khỏi hai má, nhìn bà bình tâm. “Cầu nguyện với mẹ, Johnny.”
Cậu nhìn mẹ quỳ xuống, cảm thấy một chút bực tức khuấy động ở nơi sâu thẳm. Trong giây phút, trông bà cứng cỏi, và thêm một giây nữa, cậu hãnh diện về bà. “Cầu nguyện ạ?” Cậu hỏi.
“Đúng.”
“Bắt đầu từ khi nào ạ?”
Bà lau hai bàn tay vào quần jeans. “Mẹ nghĩ mẹ quên mất cảm giác nó tốt như thế nào rồi.”
Johnny nghe những chữ đó như thể từ một người xa lạ nói với cậu. Bà vốn dễ bỏ ngang, giơ hai tay đầu hàng và để cảm thấy dễ chịu hơn.
“Người không nghe chúng ta,” Johnny nói.
“Có lẽ chúng ta cần cho Người thêm một cơ hội nữa.”
Johnny nhìn bà chằm chằm, sự kinh thường và thất vọng không thể che giấu được nữa. Cậu nắm chặt thanh giường và cảm giác cậu có thể bẻ cong kim loại bằng những ngón tay. “Mẹ có biết con cầu nguyện chuyện gì không? Con đã làm thế hàng đêm cho đến khi con nhận ra rằng Chúa không đoái hoài! Rằng Ngài sẽ không bao giờ. Mẹ có biết không?”
Giọng của cậu hằn học, và bà lắc đầu, cả hai mắt buồn bã và kinh ngạc.
“Chỉ có ba điều,” Johnny nói. “Con cầu nguyện cho cả nhà mình được đoàn tụ. Con cầu nguyện mẹ sẽ ngừng uống thuốc.” Bà há hốc mồm, nhưng Johnny nói lấn át giọng bà. Lời lẽ đến mau chóng và lạnh lùng. “Con cầu nguyện cho gã Ken chết đi.”
“Johnny!”
“Hàng đêm, con cầu nguyện những điều ấy. Gia đình đoàn tụ. Chấm dứt thuốc sái. Gã Ken Holloway chết một cách chậm rãi và đau đớn.”
“Làm ơn, đừng nói những điều đó.”
“Phần nào? Cho gã Ken chết đi? Chậm rãi và đau đớn?”
“Đừng!”
“Con muốn gã ta chết trong sợ hãi như gã đang áp đặt lên chúng ta. Con muốn gã biết cái cảm giác không tự lo liệu và sợ hãi nó như thế nào, và sau đó con muốn gã ta đi một nơi nào khác mà gã không thể làm phiền chúng ta được nữa.” Ngón tay của bà lần trong tóc của cậu - đôi mắt buồn phiền đẫm lệ - và cậu đẩy bàn tay của bà ra chỗ khác. “Nhưng Chúa không phải là vậy, có đúng không?” Johnny ngồi cao hơn, cơn giận dữ trở thành phẫn nộ, sự phẫn nộ làm cậu mau chóng rớm nước mắt. “Lời cầu nguyện không giúp mang em Alyssa trở về nhà. Hay bố. Nó không thể sưởi ấm căn nhà hoặc ngăn chặn gã Ken hành hạ mẹ. Chúa đã quay lưng với mẹ con mình. Chính mẹ đã nói với con điều này. Mẹ nhớ không?”
Bà đã nói như vậy. Một đêm lạnh lẽo trên sàn nhà trong căn nhà khánh kiệt, máu tuôn ra từ hai hàm răng bà và âm thanh gã Ken rót rượu ở phòng bên cạnh. “Mẹ nghĩ có lẽ mẹ đã sai lầm.”
“Làm sao mẹ có thể nói vậy sau khi chúng ta đã mất tất cả?”
“Những gì Chúa ban cho chúng ta không thể tuyệt đối, Johnny. Người không thể ban cho chúng ta tất cả những gì ta muốn. Ngài không làm việc như vậy. Chuyện đó quá dễ dàng.”
“Không có cái gì đến dễ dàng cả!”
“Con không thấy sao?” Bà van xin bằng ánh mắt. “Nhiều lúc chúng ta luôn thiệt thòi hơn người khác.” Bà với tay ra cầm lấy tay con trai nhưng cậu giật phăng đi. Thay vào đó, bà nắm chặt thành giường bằng cả hai tay và ánh sáng lấp lánh trên mái tóc bà. “Cầu nguyện với mẹ, Johnny.”
“Cho cái gì?”
“Cho chuyện chúng ta sẽ chung sống cùng nhau. Cho quên đi muộn phiền.” Những ngón tay của bà cũng trở nên trắng bệch trên thành giường. “Cầu nguyện cho sự tha thứ.” Bà nhìn cậu con trai một lúc lâu, nhưng từ chối chờ đợi một câu trả lời. Đầu bà cúi xuống, lời cầu nguyện tuôn ra trong yên lặng. Không hề một lần bà nhìn xem Johnny có nhắm mắt không, và cậu có thực cùng bà cầu nguyện; và chuyện là như vậy.
Khuôn mặt của Johnny không có dấu hiệu của sự tha thứ.
Không có gì như là bỏ qua.
Alyssa đứng ở giữa trảng cỏ nhìn cậu. Cô giơ tay lên, và Johnny bước tới, cỏ mọc cao đến mắt cá chân, rồi đến đầu gối. Alyssa nhìn giống y chang lần sau cùng cậu gặp cô bé: quần ngắn vàng bạc màu, áo trắng. Tóc cô đen như mực xạ, làn da rám nắng. Cô giữ một tay sau lưng, và nghiêng đầu làm cho nhiều sợi tóc rơi xuống phủ lên hai mắt. Cô đứng trên một cái hộp ép xuống cỏ phẳng dưới đất. Johnny có thể ngửi thấy mùi cỏ bị dẫm nát, và cái chín tới của mùa hè.
Con rắn cuộn tròn dưới chân cô. Nó là con rắn hổ mang mà cậu giết được. Dài một mét rưỡi, trên người có những khoanh màu nâu và vàng, nó nằm yên lặng. Nó nếm hương vị không khí bằng lưỡi, và khi Johnny dừng lại, nó ngẩng cao đầu.
Johnny nhớ nó lao đến mổ cậu như thế nào cái ngày cậu giết nó. Cái chết cận kề như thế nào.
Vài phân.
Có thể ít hơn.
Alyssa cúi người bắt con rắn, và ngón tay của cô gần thân con rắn. Cái đuôi nó quấn quanh cổ tay cô bé. Đầu con rắn vươn cao hơn khi cô bé đứng thẳng người, và con rắn nhìn cô. Lưỡi của nó lè ra. “Đây không phải sức mạnh,” cô nói. Con rắn mổ mặt cô, và khi nó rút đầu về, hai lỗ xuất hiện, theo sau là những giọt máu nhìn giống như những trái táo nhỏ. Cô giơ con rắn lên cao hơn, bước một bước và chiếc hộp sắt chuyển dịch dưới chân cô. “Đây là sự yếu đuối.”
Con rắn mổ, cảnh mờ và chậm lại khi cặp răng nanh găm vào mặt cô. Cô chập choạng, và con rắn mổ cô lần nữa. Hai lần. Một lần trên chân mày, một lần ở môi dưới. Thêm lỗ. Thêm máu. Cô ngừng bước, và bất thình lình hai mắt cô rực sáng, màu nâu tối chuyển qua đen, cô đứng chết lặng mà như là trống vắng. Đó là con mắt của Johnny, đôi mắt của mẹ cô. Tay cô bé ghì chặt vào con rắn, và Johnny thấy cô không hề sợ hãi. Vẻ mặt của cô toát ra sự hung tợn và giận dữ. Hai môi cô nhợt đi và con rắn bắt đầu vùng vẫy. Cô bóp chặt tay và giọng nói của cô tăng thêm sinh lực.
“Sự yếu đuối,” cô nhắc lại, những ngón tay trắng bệch, con rắn vùng vẫy khi cô bóp chặt nó. Nó mổ tay cô, mặt cô. Nó ngoạm cổ và ghì chặt nanh, tiếp tục bơm nọc độc ngay cả khi nó đang quằn quại. Alyssa phớt lờ, di chuyển cánh tay còn lại từ phía sau lưng. Trong tay, cô cầm cây súng, đen tuyền và bóng nhẫy dưới ánh sáng nóng gắt.
“Quyền năng,” cô nói.
Và kéo văng con rắn ra khỏi cổ.
Johnny giật mình tỉnh giấc. Thuốc mất dần tác dụng, nhưng giấc mơ vẫn chưa buông tha: cô em gái mất tích, và cô cười khi Johnny đặt những ngón tay lên thứ kim loại ấm, sáng trong tay cô. Cậu sờ chỗ băng bó trên ngực, rồi thấy mẹ cậu. Bà ngồi một mình trong cái ghế cạnh tường. Vết chì kẻ mắt lem nhem ở vùng da dưới mắt. Đầu gối co giật.
“Mẹ.”
Bà quay đầu và giọng thảng thốt. “Johnny.” Bà lập tức đứng dậy, bước ngang căn phòng và đứng trước con trai. Bà chải tóc cho con, đoạn, bà ôm chầm lấy con. “Con yêu của mẹ.”
Thám tử Hunt vào phòng Johnny sau bữa điểm tâm hai giờ. Ông xuất hiện ở cánh cửa, cười mỉm với Johnny, sau đó khều tay bà Katherine và lùi vào trong hành lang.
Johnny nhìn họ qua tấm kính. Những gì thám tử Hunt nói, mẹ cậu không hài lòng. Họ cãi nhau kịch liệt. Bà lắc đầu, trừng mắt nhìn qua cửa kính hai lần, rồi sau đó gục cằm xuống. Hunt chạm vào vai bà một lần, nhưng bà lắc văng ra. Khi cánh cửa được mở ra, thám tử Hunt vào trước, mẹ Johnny theo vào sau ông. Bà cười nụ cười gượng gạo, sau đó ngồi ở mép chiếc ghế bọc nhựa, bóng nhẫy ở góc phòng. Nhìn bà như có vẻ sắp sửa nôn oẹ.
“Anh bạn Johnny.” Hunt kéo chiếc ghế lại gần giường. “Cháu cảm thấy trong người thế nào?”
Johnny nhìn mẹ rồi nhìn ra tia phản chiếu ánh sáng kim loại ngay dưới cánh tay thám tử Hunt, thép đen và chói sáng. “Tiffany không sao chứ?”
Hunt kéo áo khoác lại. “Chú nghĩ cô bé ấy sẽ không sao.”
Johnny nhắm mắt lại và thấy cô bé ngồi trên vũng máu của gã đàn ông đã chết; cậu cảm được làn da khô và nóng của tay cô khi cậu ra sức kéo cô vào trong ô tô. “Cô ấy không biết tôi là ai. Chúng tôi học cùng trường suốt bảy năm học.” Cậu lắc đầu. “Trên nửa đường đi đến bệnh viện, cuối cùng cô bé cũng nhận ra tôi. Cô ấy không buông tôi ra. Khóc. Gào.”
“Chú sẽ tìm hiểu tình trạng cô bé ấy thế nào. Trước tiên là vậy.” Thám tử Hunt ngừng, giọng nghiêm trang. “Cháu đã làm một việc thật can đảm.”
Johnny chớp mắt. “Tôi đâu có cứu được ai.”
“Có thật vậy không?”
“Đó là những điều họ nói ngoài kia, đúng không?”
“Một số người nói như vậy. Đúng thế.”
“Gã ta sẽ giết tôi. Tiffany là anh hùng. Họ không nên kể lại câu chuyện khác đi.”
“Người của truyền thông thôi, Johnny. Đừng quá quan tâm.”
Johnny nhìn bức tường trắng và một tay sờ vào những chỗ băng bó trên ngực.
“Gã ta sẽ giết tôi.”
Bà Katherine tạo tiếng ồn nghe như thổn thức, và Hunt xoay người trên ghế. “Bà không cần phải có mặt ở đây.”
Bà đứng bật dậy khỏi chiếc ghế. “Ông không thể bắt tôi đi ra.”
“Không có ai nói như vậy...”
“Tôi không đi đâu cả.” Giọng bà cao lên, hai tay run run.
Hunt quay trở lại với Johnny, và ông nở nụ cười dường như thành thật, nhưng phiền muộn. “Cháu có khoẻ để trả lời vài câu hỏi không?” Johnny gật đầu. “Chúng ta sẽ bắt đầu lúc khởi đầu. Tôi muốn cháu nhớ lại gã đàn ông cháu thấy trên cầu, cái gã lái chiếc ô tô tông vào chiếc xe gắn máy. Cháu hiểu chứ?”
“Dạ.”
“Bây giờ, hãy nhớ lại gã đàn ông hành hung cháu sau khi cháu chạy đi.”
“Gã không hành hung tôi. Gã chỉ vác bổng tôi lên, như là giữ tôi vậy.”
“Giữ cháu à?”
“Như gã ta đang chờ đợi một cái gì.”
“Có trường hợp nào cả hai là một người không? Gã đàn ông trên cầu. Gã nhấc bổng cháu lên.”
“Họ là hai người hoàn toàn khác.”
“Cháu lờ mờ thấy gã đàn ông trên cầu. Cháu nói gã ta là một cái bóng?”
“Khác hình dạng, khác kích cỡ. Họ khác nhau cả dặm, có thể hai dặm.”
Hunt giải thích điểm cong của con sông. “Có thể cùng là một người đàn ông.”
“Tôi hiểu dòng chảy của con sông, khoảnh đất ở giữa khúc cong đó là một đầm lầy. Nếu ông thử đi tắt ngang nó, ông sẽ sa lầy tận lưng quần. Con đường mòn uốn theo dòng sông là có lý do. Bọn họ là hai người khác nhau, hãy tin tôi. Gã đàn ông trên cầu không to lớn đủ để có thể vác kiện hàng đó.”
“Kiện hàng gì?”
“Như cái rương,” Johnny nói. “Bọc trong nhựa. Gã vác nó trên vai và trông nó rất nặng.”
“Cháu có thể miêu tả nó không?”
“Nhựa đen. Băng keo bạc. Dài. Dày. Như cái rương. Gã giữ tôi bằng một tay, tay kia giữ cái rương. Chỉ đứng đó, như tôi đã nói, và sau đó gã nói với tôi.”
“Cháu không hề nói với tôi điều này trước đây. Gã ta nói gì?”
“Chúa nói.”
“Điều đó có nghĩa gì?”
“Tôi không biết.”
Hunt đứng dậy và bước đến cửa sổ. Ông nhìn qua cửa kính mất cả phút. “Cái tên David Wilson có ý nghĩa gì với
cháu không?”
“Không.”
“Còn Levi Freemantle thì sao?”
“David Wilson là người đàn ông bị tông văng khỏi cầu. Levi Freemantle là gã đàn ông nhấc bổng tôi.”
“Cháu nói những cái tên đó không có ý nghĩa gì với cháu.”
Johnny xoay vai. “Không. Nhưng Freemantle là tên của người Mustee, do đó phải là gã to lớn. Điều đó cho thấy David Wilson là người bị giết.”
“Mustee?”
“Dạ.”
“Mustee là gì?”
“Dân Da đỏ lai với người Phi châu.” Thám tử Hunt nhìn trống rỗng. “Lumbee, Sapona, Cherokee, Catawba. Họ cũng là nô lệ Da đỏ. Ông biết điều đó không?”
Hunt thăm dò cậu con trai, không biết có nên tin hay không. “Làm sao cháu biết Freemantle là cái tên Mustee?”
“Người nô lệ đầu tiên được phóng thích ở quận hạt Raven là người Mustee có cái tên Isaac. Khi được trả tự do, ông ta chọn Freemantle làm họ của mình. Ánh sáng của sự tự do. Cái tên mang ý nghĩa như vậy.”
“Trước vụ án này, tôi chưa bao giờ nghe đến cái tên Freemantle ở quận hạt Raven.”
Johnny nhún vai. “Họ ở đây lâu đời rồi. Tại sao ông lại nghĩ Levi Freemantle lại là cùng một người với gã ở trên cầu?”
“Hãy nói về Burton Jarvis.”
“Không,” Johnny nói.
“Sao?”
“Ông trả lời câu hỏi của tôi đã. Thế mới công bằng.”
“Đây không phải sân chơi con nít, Johnny. Không phải là chuyện công bằng.”
“Thằng bé rất cứng đầu,” bà Katherine nói.
“Được,” Hunt nói. “Một câu hỏi. Một lần.”
Johnny hạ cằm xuống, mắt cậu không hề rời mặt Hunt. “Tại sao ông cho rằng Levi Freemantle với gã đàn ông trên cầu là một?”
“Freemantle để lại vân tay trên tử thi ông David Wilson. Nó khiến chúng tôi thắc mắc liệu có phải Freemantle là người lái ô tô tông ông ta văng khỏi cầu hay không. Nếu cháu có thể nói với chúng tôi cả hai là một người, Freemantle và người cháu thấy trên cầu, nó sẽ giúp giải toả điều này.” Hunt không hề nhắc đến hai thi thể tìm thấy ở nhà Freemantle, hình vẽ một kẻ cao lớn giữ đứa bé gái mặc chiếc áo đầm vàng và mồm đầy máu. Johnny ngồi dậy thẳng người lên, và một cái gì đó kéo lên ở dưới mảnh bông băng. “David Wilson vẫn còn sống khi Freemantle bắt ông ta?”
“Tôi không biết.”
“Nhưng có thể.”
Hunt mường tượng những vân tay đẫm máu trên mí mắt của tử thi. “Tôi nghi ngờ là vậy,” ông nói.
“Có thể ông ta nói cho Freemantle biết cô bé ở đâu.”
“Tôi không nghĩ như vậy, Johnny.”
“Chuyện gì xảy ra nếu ông ta nói về Alyssa. Có thể ông ta nói với Freemantle ông ta tìm thấy em gái tôi ở đâu.”
“Không.”
“Nhưng, có thể...”
“Khó mà tin ông ta nói về Alyssa, và cũng rất nghi ngờ việc ông ta còn sống khi Freemantle đến chỗ ông ta.” Hunt dòm chừng cậu trai trẻ, quan sát cậu đang tính toán. “Đừng bao giờ nghĩ như vậy,” ông nói.
“Nghĩ về chuyện gì?”
Mắt cậu to tròn và ngây thơ, bất cứ ông cớm nào cũng tin ngay. “Những ngày tháng chơi trò chơi giả cớm chấm dứt rồi Johnny. Không có bản đồ nữa. Không có thám hiểm nữa. Tôi nói như vậy rõ ràng không?”
Johnny quay đầu hướng khác. “Ông hỏi về Burton Jarvis. Ông muốn biết điều gì?”
“Bắt đầu từ đầu. Sao cậu tìm được nhà gã? Cậu đến đó với mục đích gì? Cậu thấy những gì? Chuyện gì đã xảy ra? Tất cả. Mọi thứ.”
Johnny hình dung lại những lần cậu đến căn nhà: bóng tối và cái chòi, căn nhà nhìn như thế nào qua lùm cây và tiếng động của những con vật trong rừng. Cậu nghĩ đến những móng tay dính đầy thạch cao và nhiều tháng vật vã trong ác mộng, gã bạn hãi hùng của Jar và chuyện họ nói với nhau về Út Vàng. Trận cười làm đôi chân Johnny rụng rời. Cậu không tài nào kìm được nỗi băn khoăn và mẹ cậu linh cảm được điều này. Bà đứng dậy và bước đi, lo lắng, và sự di chuyển làm Thám tử Hunt bực mình. “Bà có thể vui lòng ngồi xuống được không, Katherine?”
Bà làm ngơ ông.
“Katherine!”
“Làm sao tôi có thể cứ ngồi đó và xem mọi chuyện như vẫn bình thường?” Bà co giật và mắt sáng lên. “Sở Xã hội.” Bà cay cú nhìn Hunt. “Tôi sẽ không cho phép như vậy!”
Hunt hạ giọng. “Chúng ta đã đồng ý tạm thời trong lúc này không lôi Johnny vào chuyện này.”
“Tôi không thể chấp nhận chuyện đó.”
“Tôi đang làm tất cả những gì có thể, Katherine. Bà phải tin tôi.”
“Ông nói với tôi ông sẽ mang con bé Alyssa về nhà. Ông cũng đã nói tôi phải tin điều đó.”
Hunt tái mặt. “Điều này không giúp ích được gì.”
“Các người đang nói về vấn đề đó hả?” Johnny hướng về hành lang. “Sở Xã hội?”
“Sở Xã hội quan tâm về phúc lợi của cậu, Johnny. Qua những sự việc đã xảy ra, họ buộc phải thẩm tra toàn bộ. Điều đó có nghĩa họ sẽ phỏng vấn, thanh tra tư gia. Họ sẽ nói về học hành. Nhưng tất cả những chuyện đó sẽ phải mất một thời gian. Trong lúc này, họ muốn mang cậu ra khỏi quyền giám hộ của mẹ cậu. Tạm thời. Vì muốn bảo vệ cho cậu.”
“Bảo vệ?”
“Họ nghĩ cậu đang nguy hiểm.”
“Từ tôi,” bà Katherine nói.
“Không ai nói như vậy!” Hunt mất kiên nhẫn.
“Điều này không đúng,” Johnny nói.
“Bình tĩnh, con trai.” Hunt nhìn mẹ Johnny, bà gần như muốn khóc, sau đó tập trung vào cậu bé. “Tôi đang nói chuyện với chú Steve của cậu. Tôi nghĩ tôi có thể sắp xếp để cậu tạm trú với ông ta trong khi chuyện này được giải quyết.”
“Steve là gã đàn ông khiếm nhã.”
“Johnny!”
“À, ông ta là hạng người đó, mẹ ạ.”
Hunt cúi sát Johnny hơn. “Hoặc là ông Steve hoặc là người giám hộ được chỉ định bởi toà án. Với ông Steve, mẹ cậu có thể thăm cậu bất cứ lúc nào bà muốn. Cậu vẫn sống với người trong gia đình, ít nhất cũng phải đến khi có quyết định chung cuộc. Nếu chuyện này đến tay toà án, nó vượt ra khỏi tầm tay của tôi. Ông thẩm phán sẽ quyết định và cậu phải chấp nhận những gì phán quyết. Không phải lúc nào cũng tuyệt vời.”
Johnny nhìn mẹ, nhưng bà đang ôm mặt. “Mẹ?” Bà lắc đầu.
“Tôi xin lỗi,” Hunt nói. “Nhưng chuyện này là kết quả của một thời gian dài. Hy vọng sau này mọi chuyện sẽ tốt đẹp.”
“Chúng tôi cần tìm bố tôi,” Johnny nói.
Cậu không hề nghe thấy tiếng chân bước của mẹ cậu. Bất thình lình, bà có mặt ở đó, ngay cạnh giường. Mắt bà long lanh, mở lớn, thăm thẳm và buồn. “Không ai biết tìm bố con ở đâu cả, Johnny.”
“Nhưng mẹ nói bố đã viết thư về. Mẹ bảo bố ở Chicago, hay California mà?”
“Bố chưa bao giờ viết thư.”
“Nhưng... ”
“Mẹ nói dối.” Bà xoay một bàn tay, và nó trắng bệch. “Bố con chưa bao giờ viết thư về nhà.”
Cặp mắt Johnny mờ đi. “Con muốn về nhà,” cậu nói, nhưng Hunt không nhượng bộ.
“Sẽ không có chuyện đó đâu.”
Bà Katherine bước tới cạnh cậu. Bà ngẩng lên, và Hunt thấy sự bảo bọc, một sự hãnh diện mong manh. “Mẹ xin con,” bà nói, và nắm lấy tay cậu con trai.
“Con muốn về nhà,” Johnny nhắc lại.
Trong khoảnh khắc đó, Hunt lịch sự nhìn đi chỗ khác; nhưng đây là công việc. Ông ngưỡng mộ nhiều điều ở cậu trai trẻ, nhưng cái thế giới thần tiên mà cậu đang ngụp lặn, bây giờ là lúc cần phải chấm dứt, trước khi ai đó bị thiệt hại hay chính cậu bị thiệt mạng.
Hunt đi ngang qua phòng và cầm cái túi đựng lông chim, khúc đuôi rắn chuông, và chiếc đầu lâu rắn hổ mang của Johnny. Ông lôi ra sợi dây đeo cổ và xoay vòng nó ngay tầm mắt của cậu. “Cậu muốn nói gì với tôi về những thứ này?”
“Cái đó là gì vậy?” Bà Katherine hỏi.
“Johnny đeo những thứ đó khi cậu bé nhập viện. Cậu bé thoa đầy người bồ hóng và nước dâu, cởi trần, trong túi chứa đầy những thứ mà họ nói với tôi như đuôi của rắn chuông, hoặc cái gì đi chăng nữa. Sở Xã hội sẽ hỏi bà về cái này, về tất cả những thứ đó. Họ sẽ soi mói, rất kỹ, và tôi nghĩ có thể Johnny nên bắt đầu nói cho tôi biết.”
Johnny nhìn chằm chằm vào mớ lông chim, thấy Jar đã chém đứt gọn một cái lông ra làm đôi. Cậu cảm nhận không có gì thay đổi. Ông cớm vẫn là nỗi đe dọa, mẹ cậu vẫn yếu đuối. Không ai hiểu cả.
“Nó không bình thường,” Hunt nhấn mạnh.
“Tôi không muốn nói về chuyện đó.”
“Nói cho tôi biết về Burton Jarvis.”
“Không.”
“Làm sao cậu tìm được gã ta? Cậu đã đến đó bao nhiêu lần rồi?”
Johnny nhìn ra ngoài cửa sổ.
Hunt buông sợi dây xuống, gom lượm những trang giấy có ghi chú của Johnny.
“Những tờ ghi chú này có chính xác không? Cái này chứng tỏ cậu đã có hơn chục lần viếng thăm. Và những nơi khác cũng vậy. Không chỉ tại tư gia gã Jarvis.”
Johnny liếc qua những tờ ghi chú. “Những cái đó chỉ là giả định.”
“Sao?”
“Như một trò chơi.”
“Johnny... ” Sự thất vọng hiện lên rất rõ.
Johnny không hề chớp mắt. “Đêm hôm qua là lần đầu tiên.”
“Tôi hiểu tại sao cậu cần phải nói dối, con trai, nhưng tôi cần biết cậu thấy những gì. Cậu có năm cái tên ở đây, những kẻ mà chúng tôi biết, những kẻ có tiền án mà chúng tôi đang theo dõi. Rồi đến kẻ thứ sáu. Cái gã thường hay đến chơi nhà của Burton Jarvis.” Hunt nghiên cứu trang giấy. “Có nguyên trang ghi chú về gã đàn ông này. Cậu có ghi diện mạo tổng quát: chiều cao, cân nặng, màu tóc. Cậu có ghi hãng xe ô tô của gã và ba biển số khác nhau, tất cả những số này đã được báo mất cắp đâu đó trong năm vừa qua. Tôi muốn biết gã này là ai. Tôi nghĩ cậu có thể giúp tôi.”
“Không.”
“Út Vàng là ai? Nó có nghĩa gì?”
“Ông làm việc như những người ở Sở Xã hội.”
“Mẹ kiếp.” Lòng kiên nhẫn của Hunt bốc hơi, và bà Katherine bước vào giữa con trai bà và ông cớm. Bà doãi những ngón tay mảnh khảnh, và lời nói của bà biểu lộ sự tin tưởng một cách hiếm có.
“Đủ rồi,” bà nói.
“Một nửa những ghi chú không đọc được. Có những thông tin quan trọng mà Johnny chưa hoàn toàn hiểu. Cậu ta cần nói chuyện với tôi.”
Bà Katherine nhìn chữ viết của con trai. Bà quan sát những tờ giấy, rồi đọc nó cẩn thận hơn. Phải mất một thời gian, nhưng Hunt chờ đợi. Khi đọc xong, trông bà có vẻ sợ hãi. “Nếu nó trả lời những câu hỏi của ông, chuyện đó sẽ giúp chúng tôi thoát khỏi Sở Xã hội? Hay gây bất lợi cho chúng tôi?”
“Bà phải tin tưởng vào tôi.”
“Không có gì quan trọng hơn việc giữ con trai tôi,” bà nói.
“Không bằng mang Alyssa trở về sao?”
“Có phải ông muốn nói chuyện đó có thể xảy ra?”
“Con trai bà, tôi tin rằng, đã khám phá ra một kẻ ấu dâm chưa từng được biết hiện đang hoạt động trong vùng. Một kẻ gian ngoan. Một kẻ cẩn trọng. Có thể có một mối nối nào đó.”
“Chuyện đó có thực không?”
Sự nghi ngờ của Hunt biểu lộ trong lời nói. “Tôi không rõ.”
“Vậy tôi phải nghĩ đến đứa con tôi vẫn còn.”
“Tôi lo lắng về cậu con trai của bà.”
Bà nhìn chằm chằm vào ông, giọng bà sắc bén và dễ vỡ như tiếng vỡ của thủy tinh. “Ông muốn chúng tôi tin tưởng nơi ông?”
“Đúng.”
“Tin tưởng cảnh sát?”
“Đúng.”
Bà Katherine bước tới trước, đẩy xấp giấy vào Hunt. “Ông muốn nói về cái gã ấu dâm chưa rõ danh tánh này. Kẻ gian ngoan. Kẻ cẩn trọng. Kẻ đồng lõa với gã đàn ông mà chút xíu nữa đã thảm sát con trai tôi...”
Hunt nghiêng đầu, và bà dùng một ngón tay chỉ vào vệt mực mà chỉ có người mẹ mới có thể đọc. Mặt của bà nhợt nhạt, tái mét như cái mặt nạ bằng sứ che đậy sự giận dữ và sợ hãi. “Chữ đó,” bà nói, “không phải ‘ly’ hoặc ‘nắp’ hay bất cứ cái gì an toàn. Nó là ‘cớm’. Nó nói cái gã đàn ông giao du với Burton Jarvis là cớm.” Bà đẩy xấp giấy vào ngực Hunt và bước lại gần con trai hơn. “Cuộc phỏng vấn này xong rồi.”
Sau khi Hunt đi khỏi, bà Katherine đứng cạnh giường con trai. Bà nhìn cậu con trai thật lâu nhưng không hề hỏi về lông chim hoặc những tờ ghi chép hoặc những gì Hunt nói. Sắc diện rớt ra khỏi hai má, nhìn bà bình tâm. “Cầu nguyện với mẹ, Johnny.”
Cậu nhìn mẹ quỳ xuống, cảm thấy một chút bực tức khuấy động ở nơi sâu thẳm. Trong giây phút, trông bà cứng cỏi, và thêm một giây nữa, cậu hãnh diện về bà. “Cầu nguyện ạ?” Cậu hỏi.
“Đúng.”
“Bắt đầu từ khi nào ạ?”
Bà lau hai bàn tay vào quần jeans. “Mẹ nghĩ mẹ quên mất cảm giác nó tốt như thế nào rồi.”
Johnny nghe những chữ đó như thể từ một người xa lạ nói với cậu. Bà vốn dễ bỏ ngang, giơ hai tay đầu hàng và để cảm thấy dễ chịu hơn.
“Người không nghe chúng ta,” Johnny nói.
“Có lẽ chúng ta cần cho Người thêm một cơ hội nữa.”
Johnny nhìn bà chằm chằm, sự kinh thường và thất vọng không thể che giấu được nữa. Cậu nắm chặt thanh giường và cảm giác cậu có thể bẻ cong kim loại bằng những ngón tay. “Mẹ có biết con cầu nguyện chuyện gì không? Con đã làm thế hàng đêm cho đến khi con nhận ra rằng Chúa không đoái hoài! Rằng Ngài sẽ không bao giờ. Mẹ có biết không?”
Giọng của cậu hằn học, và bà lắc đầu, cả hai mắt buồn bã và kinh ngạc.
“Chỉ có ba điều,” Johnny nói. “Con cầu nguyện cho cả nhà mình được đoàn tụ. Con cầu nguyện mẹ sẽ ngừng uống thuốc.” Bà há hốc mồm, nhưng Johnny nói lấn át giọng bà. Lời lẽ đến mau chóng và lạnh lùng. “Con cầu nguyện cho gã Ken chết đi.”
“Johnny!”
“Hàng đêm, con cầu nguyện những điều ấy. Gia đình đoàn tụ. Chấm dứt thuốc sái. Gã Ken Holloway chết một cách chậm rãi và đau đớn.”
“Làm ơn, đừng nói những điều đó.”
“Phần nào? Cho gã Ken chết đi? Chậm rãi và đau đớn?”
“Đừng!”
“Con muốn gã ta chết trong sợ hãi như gã đang áp đặt lên chúng ta. Con muốn gã biết cái cảm giác không tự lo liệu và sợ hãi nó như thế nào, và sau đó con muốn gã ta đi một nơi nào khác mà gã không thể làm phiền chúng ta được nữa.” Ngón tay của bà lần trong tóc của cậu - đôi mắt buồn phiền đẫm lệ - và cậu đẩy bàn tay của bà ra chỗ khác. “Nhưng Chúa không phải là vậy, có đúng không?” Johnny ngồi cao hơn, cơn giận dữ trở thành phẫn nộ, sự phẫn nộ làm cậu mau chóng rớm nước mắt. “Lời cầu nguyện không giúp mang em Alyssa trở về nhà. Hay bố. Nó không thể sưởi ấm căn nhà hoặc ngăn chặn gã Ken hành hạ mẹ. Chúa đã quay lưng với mẹ con mình. Chính mẹ đã nói với con điều này. Mẹ nhớ không?”
Bà đã nói như vậy. Một đêm lạnh lẽo trên sàn nhà trong căn nhà khánh kiệt, máu tuôn ra từ hai hàm răng bà và âm thanh gã Ken rót rượu ở phòng bên cạnh. “Mẹ nghĩ có lẽ mẹ đã sai lầm.”
“Làm sao mẹ có thể nói vậy sau khi chúng ta đã mất tất cả?”
“Những gì Chúa ban cho chúng ta không thể tuyệt đối, Johnny. Người không thể ban cho chúng ta tất cả những gì ta muốn. Ngài không làm việc như vậy. Chuyện đó quá dễ dàng.”
“Không có cái gì đến dễ dàng cả!”
“Con không thấy sao?” Bà van xin bằng ánh mắt. “Nhiều lúc chúng ta luôn thiệt thòi hơn người khác.” Bà với tay ra cầm lấy tay con trai nhưng cậu giật phăng đi. Thay vào đó, bà nắm chặt thành giường bằng cả hai tay và ánh sáng lấp lánh trên mái tóc bà. “Cầu nguyện với mẹ, Johnny.”
“Cho cái gì?”
“Cho chuyện chúng ta sẽ chung sống cùng nhau. Cho quên đi muộn phiền.” Những ngón tay của bà cũng trở nên trắng bệch trên thành giường. “Cầu nguyện cho sự tha thứ.” Bà nhìn cậu con trai một lúc lâu, nhưng từ chối chờ đợi một câu trả lời. Đầu bà cúi xuống, lời cầu nguyện tuôn ra trong yên lặng. Không hề một lần bà nhìn xem Johnny có nhắm mắt không, và cậu có thực cùng bà cầu nguyện; và chuyện là như vậy.
Khuôn mặt của Johnny không có dấu hiệu của sự tha thứ.
Không có gì như là bỏ qua.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.