Chương 40
John Hart
22/11/2016
Hunt và Yoakum chờ ở
sảnh lầu một của một cao ốc lớn dưới phố. Văn phòng gã Ken Holloway nằm ở lầu năm, nhưng người tiếp tân, một phụ nữ có khuôn mặt sắt đá tuổi trên năm mươi, gây khó khăn. Bên ngoài, bầu trời càng ngày càng tối sầm đi.
Rác rưởi bị gió cuốn bay ngang sân xi măng, sau đó tốc lên và quay vòng
trong gió. “Chúng tôi không cần xin hẹn.” Thẻ hành sự của Hunt nằm gọn
trong lòng bàn tay. Người phụ nữ đứng đằng sau cái quầy gỗ tếch to lớn,
hệ thống điện thoại đặt ở một bên, những nút chớp đỏ và xanh. Công ty
của gã Holloway chiếm cứ toàn bộ cao ốc. Nhìn sơ qua danh bạ cũng thấy
phần nào tầm cỡ của nó. Môi giới Địa ốc, Phát triển, Xây dựng Thương
mãi, Tư vấn, Quản trị Địa ốc. Holloway làm chủ thương xá, vài cao ốc ở
phố trung tâm, ba rạp hát, hai sân gôn; và đó mới chỉ ở thành phố này.
Tài sản gã ta trải dài khắp nơi trong tiểu bang.
“Đây là vấn đề hình sự,” Hunt nói. “Tôi có thể trở lại trong vòng hai mươi phút với trát đòi và lệnh khám xét.”
Điện thoại của người phụ nữ reo vang và bà ta trả lời. Khi cúp máy, giọng bà ta lạnh lùng và cô đọng, khuôn mặt không hề nhượng bộ. “Ông Holloway là một trong những người tử tế nhất của thành phố này, và tất cả mọi người ở đây đều rõ chuyện ông gây xách nhiễu. Không thiếu người sẵn sàng làm nhân chứng khai trước toà chống lại ông nếu những trò đó vẫn tiếp diễn ở đây ngày hôm nay.”
Nét mặt bà ta thay đổi và bà mỉm cười. “Ông Holloway sẽ gặp ông bây giờ.” Bà trỏ một cánh tay. “Thang máy ở phía bên tay phải của ông.”
Họ đi ngang qua sàn nhà lát đá cẩm thạch và bước thẳng vào thang máy. Yoakum bấm nút và hai cánh cửa đóng khít lại. “Quá tuyệt,” ông nói.
“Bà tiếp tân à?”
“Một phụ nữ có duyên.”
Văn phòng Holloway chiếm dụng toàn bộ tầng lầu. Hunt thấy một phòng họp, vài văn phòng phụ trợ, toàn bộ còn lại là không gian mở. Holloway đứng đằng sau bàn làm việc. Đứng ngay bên phải là ông luật sư; đứng bên trái, một nhân viên bảo vệ mặc đồng phục, đeo súng. Ba bờ tường lát kính cho một cái nhìn bao quát gần hết dưới phố, cả nha cảnh sát thành phố, nhìn bé tẻo teo và dơ bẩn. Từ độ cao này có thể thấy cơn giông đang ầm ầm kéo đến với một bức tường màu tím thẫm và đen đúa.
“Thám tử,” Holloway nói.
Hunt bước vào tấm thảm Á Đông và đi quá chiếc bàn phòng họp mà giá trị của nó hơn cả chiếc ô tô của ông. Ông dừng lại trước bàn làm việc. Nụ cười của Holloway gượng gạo, những ngón tay của ông ta trắng dã trên mặt bàn nơi chúng chịu lực cơ thể của ông ta. “Ông chắc vẫn còn nhớ ông luật sư của tôi. Đây là ông Bruce.” Ông chỉ vào tay bảo vệ.
Hunt nhìn chằm chằm từ trên xuống dưới Bruce. Gã ta trạc bốn mươi, cao lớn và đen đủi trong bộ đồng phục xanh ủi hồ thẳng tắp với huy hiệu vàng đeo trên ngực áo và huy hiệu tương tự may trên vai áo. Nét mặt gã không hề biểu lộ sắc thái. Súng đeo loại bán tự động. “Ông có mang theo giấy phép giữ súng không, Bruce?”
“Ông ta có,” Holloway nói.
“Ông ta không tự trả lời được sao?”
“Không.”
“Ông ta là người trưởng thành rồi.”
“Ông ta đang làm việc cho tôi.”
Hunt nhướng mày nhìn Bruce, nghiêng đầu và nhún vai. “Chúng tôi đang điều tra về khả năng có sự liên đới giữa một vụ án hình sự với một trong các nhân viên của ông. Chúng tôi cần tên và hồ sơ nhân viên của tất cả các nhân viên bảo vệ, đặc biệt là những người làm việc tại thương xá.”
“Vụ án hình sự loại gì vậy?”
“Chúng tôi muốn lấy tên các nhân viên.”
Ông luật sư nghiêng người qua cái bàn. “Tôi đã cố vấn thân chủ của tôi trả lời ‘Không’ với tất cả các câu hỏi khi chưa có lệnh tòa án.”
Holloway giơ hai tay để chứng tỏ ông ta không có chọn lựa, và Hunt gặp đôi mắt dò xét của tay luật sư. “Đó có phải quyết định tối hậu không?”
“Đúng,” tay luật sư nói.
“Ông cũng đã cố vấn thân chủ của ông không được cản trở cuộc điều tra của chúng tôi?”
“Dĩ nhiên.”
“Ông ta sẽ không được báo động cho ai về cuộc thăm viếng này. Cuộc điều tra đang diễn tiến.”
Holloway nở một nụ cười giao tế. “Chúng ta không có gì để thảo luận bên ngoài toà án, Thám tử Hunt. Không về nhân viên của tôi, về cuộc điều tra của ông, hay sự lựa chọn sai trái khác thường. Không về bà Katherine Merrimon hay đứa con trai ngổ ngáo của bà ấy.”
Hunt nhìn đối mắt, sau đó quay gót.
“Ồ, nhưng trước tiên,” Holloway nói. “Tôi nghĩ ông nên biết rằng Katherine Merrimon đã từ chối không gặp tôi nữa. Thay đổi khoá cửa. Kích động. Chuyện bình thường.”
Hunt dừng bước, trở lại cái bàn. “Chuyện thật vậy sao?”
“Chúng tôi đã tống đạt đơn xin trục xuất khỏi gia cư sáng hôm nay. Bà ta sẽ phải dọn ra đường trong vòng ba mươi ngày.”
“Bà ta sẽ tự lo liệu được,” Hunt nói.
“Bà ta có làm được không?”
Tầm nhìn của Hunt bị thu hẹp lại cho đến khi ông thấy nụ cười trên cặp môi như bôi mỡ của gã Holloway. Ông cảm thấy áo jacket của ông bị giật và biết Yoakum gọi khéo. “Thôi đi, Clyde.”
Yoakum quay đi nhưng Hunt chưa chịu bỏ cuộc. Ông nhìn gã Bruce, rồi Holloway. “Có phải các nhân viên an ninh của ông đều mang vũ khí?” Ông hỏi.
“Tôi sẽ không trả lời câu hỏi của ông,” Holloway nói. “Tôi nghĩ tôi đã rõ ràng trong vấn đề này.” Hunt nhìn gã bảo vệ. “Hắn ta cũng sẽ không nói với ông bất cứ điều gì.”
Bruce giữ kín mồm miệng, đứng thẳng lưng; nhưng khi ông Holloway không nhìn gã nữa, gã đặt một ngón tay trên báng súng.
Ông luật sư nghiêng đầu. “Một ngày tốt lành, thám tử. Người tiếp tân sẽ vui vẻ xác nhận tích kê đậu xe của ông.”
Họ bước ngang căn phòng, tiếng giầy nhẹ nhàng trên sàn trải thảm, kêu to khi chúng chạm vào sàn gỗ. Cánh cửa thang máy mở, rồi đóng. “Văn phòng lịch sự nhỉ,” Yoakum nói. Hunt giữ yên lặng, những móng tay cấu vào lòng bàn tay. “Tầm nhìn tuyệt vời.”
Họ đi ngang qua người tiếp tân, bà ta liếc họ nhưng họ làm ngơ. Bên ngoài đường đi bộ, cao ốc vươn cao và tối đen bên trên hai người. Tĩnh điện đầy trong không khí, và giọng Hunt dường như chứa đầy mức năng lượng thô đó. “Ông thấy không?”
“Tôi thấy.”
“Nhân viên an ninh của gã ta mang súng.”
“Không phải tất cả như vậy.”
“Nhưng một người.”
“Đúng vậy.”
“Một người đeo súng.”
Họ bước ra xe và gió làm cho ống quần của họ quất phần phật. Đồng phục, huy hiệu, và cây súng. Một đứa trẻ mười ba tuổi có thể nhầm lẫn người đó là cớm.
Dễ dàng như bất cứ thứ gì.
Dễ như ăn kẹo.
Ở ngoài xe ô tô, Yoakum đặt hai tay lên mui xe. Hunt đứng ở phía bên kia xe, con đường lộ sau lưng họ vắng ngắt. “Tôi cần nói vài điều,” Yoakum nói. “Và tôi không muốn ông nhảy múa về chuyện này.”
“Chuyện gì đó?”
“Chúng ta không cần phải sưu tra hồ sơ nhân viên.”
“Chúng có thể có ích.”
“Nhưng chúng ta không cần chúng.”
Hunt nhún vai. “Tôi muốn gặp gã ta. Tôi muốn gã ta biết rằng tôi đang lùng sục.”
“Nhưng lý do đó chưa đủ.”
“Có lẽ ông đúng.”
“Vậy thì tại sao lại đến đây làm gì? Tại sao lại liên can Holloway nếu chuyện đó không cần thiết? Ông biết gã sẽ không trả lời câu hỏi của ông. Gã căm ghét ông.”
Hunt nhìn trả lại, hai mắt nhắm nghiền.
“Thôi chết rồi.”
“Vào xe,” Hunt nói.
Cả hai chui vào trong xe; tiếng ồn ào của gió biến mất. “Gã sẽ gọi điện cho người của gã,” Yoakum nói. “Thì gã trước giờ vẫn vậy.” Hunt đề máy xe. “Có lẽ giờ này gã đang nói chuyện trên điện thoại.”
“Có thể.” Hunt gài số xe, kiểm tra xe cộ trên đường lộ, và lao xe lướt đi khỏi lề đường.
“Ông đã giăng bẫy gã ta,” Yoakum tiếp tục. “Gã sẽ gọi điện cho người của gã và ông sẽ buộc gã tội cản trở điều tra.”
Hunt im lặng không nói gì.
Ông lái xe đến thương xá.
Thương xá là một tảng xi-măng nguyên khối và trát vữa, trông ảm đạm và vươn trên bầu trời tối sẫm. Cửa kính chớp chiếu từ màu xám qua tím khi người ta ra khỏi, tất tả về nhà trước khi cơn giông đến. Hunt luồn lách qua đám đông xe cộ. Ông rẽ góc và vài hạt mưa to rơi lộp độp trên kính trước. Họ đi qua những thùng rác, bệ lên xuống hàng hoá và những chiếc xe cũ kỹ.
Họ đang đi giữa đường xuống bức tường phía đằng sau thì thám tử Hunt thắng gấp. Cửa phía bên ông bung mở và ông ra khỏi xe trước khi Yoakum gọi. “Ông đang làm trò gì vậy?”
Nhưng Hunt đã lên đường. “Thưa bà?” Hunt gọi người phụ nữ đang đứng khom người chỗ ngoài cùng của một bệ lên xuống hàng hoá gần đấy nhất. “Thưa bà?” Người phụ nữ trạc tuổi sáu mươi, đẹp lão. Tóc bạc trắng bồng bềnh ở cổ, vận chiếc áo đầm sang trọng. Hunt cười nụ cười khả dĩ nhất. “Chào bà. Tôi là Thám tử Hunt.” Ông chìa thẻ hành sự. “Xin lỗi làm phiền bà.”
“Tôi giúp được ông điều gì?” Bà là người phụ nữ mảnh khảnh và thanh lịch. Hạt kim cương đen ở cổ phải vào khoảng hai cara và hàng thật.
Vài giọt mưa rơi xuống mặt đường trải đá dăm. “Tôi không tài nào không để ý đến...” Hunt trỏ vào cái mà bà đang cầm ở tay.
“Cá ngừ.” Bà nghiêng cái lon, ngượng ngập. Nắp hộp đã khui, cá ngừ bốc mùi thiu. Bà trỏ vào góc của bệ lên xuống hàng hoá, nơi bà vừa đặt một hộp cá tươi mới khui. “Con mèo khôn ngoan. Tôi không tài nào có thể ngồi nhìn nó quanh quẩn kiếm ăn ở thùng rác.”
“Con mèo mệt mỏi chán cá ngừ rồi hả bà?” Ông nghiêng đầu và nhìn vào lon cá.
“Tôi không thấy nó đã mấy hôm rồi.”
“Con mèo hình dáng như thế nào?” Sự bối rối của bà hiện rõ trên khuôn mặt, do vậy Hunt nở nụ cười khả dĩ nhất. “Nếu bà không ngại, tôi cũng là người yêu quý mèo.”
Bà tươi cười, bước lại gần hơn. “Con mèo nâu với đôi mắt vàng và hai chân trắng.”
Bà giơ cao cả hai tay, cười rạng rỡ. “Nó khôn lắm!”
Hunt bước lên vào cái bệ lên xuống hàng hoá. “Chúng tôi được phép vào cửa hiệu của bà không?”
“Tôi không biết...”
“Tôi phải yêu cầu như vậy.”
Cửa hiệu bán quần áo. Hunt và Yoakum đi vào qua nhà kho, sau đó qua phòng thử quần áo. Các bà nhìn lên, kinh ngạc, nhưng Hunt làm ngơ họ, tiến thẳng đến thang máy. “Clyde. Chậm lại một chút.”
Vẫn còn nhiều người ở đó, mặc dầu trời đang giông gió. Gia đình, con nít - tràn ngập màu sắc và tiếng ồn ào.
“Clyde!”
Hunt vượt nhanh qua đám đông, Yoakum theo sát phía đằng sau. “Đúng là gã này.”
“Gã này là gã nào? Ông đang nói chuyện gì vậy?”
“Cùng là con mèo vứt ở nhà Johnny. Mèo nâu với hai chân trắng. Gã này là người chúng ta đang lùng.”
“Ai?”
“Gã nhân viên an ninh nào đó đeo súng.”
“Gã cớm của Johnny.”
Hunt bước vào thang máy và bấm thang máy chạy lên trên đó. Ông xuất hiện ở khu vực bán hàng ăn, vượt qua một nhóm người mua sắm và tiến đến cánh cửa đánh dấu AN NINH. Cửa đóng. Hunt bấm chuông.
“Bộ phận an ninh đây.”
Hunt nhận giọng nói. “Ông Steve. Tôi là Thám tử Hunt. Mở cửa ngay.”
“Có vấn đề gì không?”
Hunt đập tay trên tấm kim loại lạnh tanh. “Bấm mở cánh cửa này ngay lập tức.”
Cánh cửa mở và Hunt nhảy hai bậc cầu thang lao lên phía bên trên. Yoakum chạy theo huỳnh huỵch phía sau. Cả hai phóng lên bệ đỡ cầu thang, vũ khí rút ra cầm tay. Ông Steve gặp họ ở trên đầu cầu thang, cánh cửa mở ngay đằng sau ông ta. “Bước qua một bên, ông Steve.”
“Ui trời. Ê.” Hai tay ông Steve giơ lên khi ông trông thấy súng.
Trong văn phòng an ninh, gã nhân viên an ninh béo ngồi nhìn màn ảnh vô tuyến, một người khác đứng ngay trước cửa sổ bằng kính nhìn xuống khu vực bán đồ ăn. Cả hai kinh ngạc, sợ hãi. Không ai trong họ mang vũ khí. “Văn phòng,” Hunt nói, sau đó nhìn cánh cửa đóng, cửa sổ có rèm che kín. “Ông.” Ông trỏ một tay vào người nhân viên an ninh đang đứng. “Ngồi xuống.”
Gã nhân viên an ninh chạy vội đến chiếc ghế gần nhất. Hunt di chuyển đến cánh cửa văn phòng và Yoakum kèm chặt một bên. Steve nhìn sững sờ.
“Có ai trong đó không?” Hunt hỏi.
“Ông Meechum? Ông ta đi rồi.”
“Meechum là ai?”
“Ông sếp.”
Hunt ra hiệu cho Steve tránh xa cửa, sau đó nhìn Yoakum và đếm ngược từ ba. Cánh cửa mở dễ dàng, và họ tràn vào, bên trong văn phòng trống rỗng.
“Tôi đã nói...” Steve đứng che lấp cánh cửa mở. “Ông Meechum vừa rời khỏi.”
“Khi nào?”
“Năm phút, có lẽ.”
“Miêu tả ông ta xem,” Hunt nói.
“Tôi không biết. Sáu mươi lăm tuổi. Ốm nhách nhưng khoẻ mạnh. Tóc mỏng, mũi gãy. Tính tình khó ưa.”
“Y có đeo súng không?” Hunt hỏi. “Y mặc đồng phục?”
“Thường ông ta mặc quần jeans, áo sơ mi kaki. Nhưng ông ta đeo súng ở thắt lưng. Ông ta là người duy nhất được phép đeo súng.”
“Loại gì?”
“Hả?”
“Cây súng. Kích cỡ nào?”
“Bốn lăm, tôi nghĩ vậy.”
Hunt chạm mắt Yoakum, và cả hai đều hiểu. Cùng kích vỡ với vỏ đạn tìm thấy ở trong xe của David Wilson.
“Y có mang còng không?” Yoakum hỏi.
“Tất cả chúng tôi đều mang.”
“John.” Hunt trỏ vào cái bàn trong văn phòng. Nó cũ kỹ và nhiều dấu vết, không có gì đặc biệt. Một hàng đầu máy vô tuyến đặt trên mặt bàn, đấu dây vào hệ thống theo dõi của thương xá. Ba đầu máy vô tuyến đấu vào camera thu hình ảnh khu vực bán đồ ăn. Mỗi cái hiện cùng một cảnh: một cái bàn toàn con gái trẻ, có thể tuổi mười bốn, có thể trẻ hơn. Hình ảnh được thu vào. Hunt có thể thấy niềng răng, mụn trên mặt, nụ cười, tóc chải. “Gã này là người chúng ta tìm.”
Yoakum nghiêng người vào. “Đồ chó má.”
“Tại sao Meechum đi khỏi đây?” Hunt hỏi, và có một điều gì đó rất chắc chắn gã này chính là người họ đang truy tìm. Steve không ngần ngại. “Ông ta nhận một cú điện thoại gọi từ ông Holloway. Tôi không biết họ nói với nhau chuyện gì, nhưng chính tôi chuyển cú điện thoại ấy.”
“Khi nào?”
“Vừa mới đây. Ngay trước khi các ông đến đây.”
“Steve,” Hunt nói. “Chúng tôi cần địa chỉ nhà của gã Meechum.”
“Tôi không biết địa chỉ nhà gã, nhưng ông có thể đi bộ đến nhà gã trong vòng hai phút.”
“Đi bằng cách nào?” Hunt hỏi.
“Y sống ngay đằng sau thương xá. Qua vài bụi cỏ dại, một hoặc hai cái mương, là ông đến ngay sau cửa nhà gã.”
“Chỉ cho tôi,” Hunt nói.
“Ngay bây giờ?”
“Ngay giây phút này.”
Steve liếm môi, sợ hãi nhìn xung quanh căn phòng. “Thật vậy sao?”
“Thật.” Tay Hunt đập mạnh trên vai ông ta. “Thật vậy.”
Mưa lạnh hắt mạnh vào mặt Hunt khi ông mở cánh cửa phía đằng sau thương xá; mưa quất xuống các góc, vỡ tan thành màn che mờ trên nóc xe màu đen. Tầm nhìn xa gần như không, như thể ánh sáng bị hút mất khỏi không khí. Một cái xe phóng vèo qua, kính trước xe mờ mịt, gạt nước hất văng nước theo hình vòng cung. “Ở đâu?” Hunt lên cao giọng.
Steve trỏ tay. Cánh cửa nặng đóng sầm đằng sau ông ta. “Đằng kia. Giữa những cái cây.” Hunt thấy những cái cây, hai bụi tuyết tùng vươn cao từ bờ viền của con mương vắt ngang bãi đậu xe. “Có con đường mòn. Không dài lắm đâu.”
“Tôi muốn ông chỉ cho tôi.”
“Ôi trời.” Steve nhìn lên trời mưa. “Ông sẽ làm tôi ướt sũng và bị đuổi việc đấy.”
Không ai cười.
“Ngay bây giờ,” Hunt nói.
Họ lao nhanh ngang qua mặt đường ngập nước, len lỏi giữa một chiếc Suburban đang đậu và chiếc Ford cũ rích với băng keo dán che kín một bên cửa sổ. Đằng sau những chiếc xe, con mương đã bắt đầu ngập nước. Nước đen ngòm cuốn theo giấy gói đồ ăn nhanh, túi nhựa, những loại hộp thuốc lá xuống chỗ thấp. Con đường mòn bắt đầu chỗ hàng cây, chật hẹp và thẳng tắp qua những bụi cỏ dại mọc cao và những lô đất còn trống. Tay Yoakum rơi trúng vào vai Hunt. “Có cần tiếp viện không?” Ông đưa máy liên lạc lên.
“Chúng ta không chờ đợi.”
“Tốt.” Yoakum nhét máy liên lạc vào trong túi và lên đạn cây súng. “Tôi ghét chờ đợi.”
“Căn nhà nào?”
Steve nghiêng về phía trái để nhìn giữa hai cây tuyết tùng. Một dãy nhà bé nhỏ ở phía đằng sau những lùm cỏ dại. Hunt thấy những hàng hiên chật hẹp và lò nướng thịt vỡ bể, một vài chiếc xe đạp. Steve chỉ một lần nữa. “Thấy căn nhà màu xám có chiếc xe đạp đỏ trong hàng hiên sau nhà không?”
“Thấy.”
“Căn nhà thứ ba phía bên trái của căn nhà đấy.”
Hunt đếm về phía trái, thấy một căn nhà thấp với những vết sơn loang lổ và một bụi cây nhựa ruồi chết khô ở một góc. Không đèn điện. Không có sự chuyển dịch. Ông chỉ cho Yoakum.
“Ông ta sống một mình?” Hunt hỏi.
“Tôi nghĩ vậy.”
“Ông ở ngay tại đây.” Hunt dò chừng Yoakum. “Ông sẵn sàng chưa?”
“Không chê vào chỗ nào!”
Họ nhảy qua con mương và chui vào những bụi cỏ, cong gập người, súng ngắn rút ra nòng hạ xuống. Cỏ dại mọc cao ngất ngưởng và thò những cành lá dài ẩm ướt đụng vào họ khi họ di chuyển. Sấm chớp ầm ĩ. Con đường mòn ướt đẫm và trơn trượt.
Họ dừng ở một mái che nhỏ trước cái sân trơn bao quanh nhà gã Meechum. Một mùi gì đó vương trong không khí, mùi nồng nặc hoá chất không rõ xuất xứ từ đâu.
Họ lao nhanh một đoạn ngắn chừng bảy mét cuối cùng, tựa lưng vào bức tường dưới cái cửa sổ to nhất. Nước ào thoát xuống từ những máng xối bị nghẽn. Mùi hóa chất nồng nặc, cái gì đó đang cháy. Hunt thò đầu ngó vào trong cửa sổ. Rèm cửa kéo đóng kín nhưng có một khoảng hở ở giữa. Đó là phòng khách, một khoảng không gian tăm tối với bàn ghế cũ kỹ và trần nhà thấp lè tè. Thảm màu vàng cam, tường ốp gỗ thông rẻ tiền. Meechum hệt như Steve diễn tả. Mình dây và khòm khòm, y ngồi cong người trước máy tính, áo sơ mi ướt đẫm mồ hôi. Trong lò sưởi, nhiều đĩa máy tính xếp thành chồng và đang bốc cháy. “Gã ta đốt huỷ tang chứng,” Hunt nói, khom người xuống, lao nhanh ra cửa sau. “Anh ra cửa trước. Chúng ta sẽ xông vào trong sáu mươi giây.”
Yoakum di chuyển ra phía đằng trước, để Hunt một mình trong trời mưa. Ông mạo hiểm nhìn một lần nữa xuyên qua cửa sổ. Tóc tai dựng đứng hoang dại trên đầu Meechum. Y đập tan bàn phím, rồi đập mạnh vào thành máy tính, đập một lần nữa. Hunt không thấy cây rìu cho đến khi Meechum với lấy nó. Nó dựa vào bàn, cán gỗ mại châu và lưỡi rìu rỉ sét đen ngòm ngoại trừ dọc phần lưỡi sáng lấp lánh. Cây rìu được giơ lên và mặt Meechum đanh lại, môi trề ra, hai mắt nhắm nghiền; sau đó cái rìu rơi xuống cái rầm, nhựa vỡ, và kính bay tung toé.
Máy tính.
Tổ cha.
Hunt tụt xuống khỏi cửa sổ, lao nhanh đến cửa ra vào. Ông thử núm vặn cửa. Khóa cứng. Ông kê vai vào gỗ, cảm thấy nó mỏng mảnh và rẻ tiền. Khung cửa bật tung dằm đâm tua tủa dưới sức nặng của ông, và ông lao vào trong nhà bếp, sàn nhựa trơn trượt dưới đôi chân đầy bùn của ông. Một dấu hiệu chuyển động qua cánh cửa vào phòng khách và súng của Hunt đưa lên khi ông lao vào phòng. “Cảnh sát! Cảnh sát đây. Mẹ kiếp!”
Máy tính bị chọc thủng trên đỉnh, Meechum đứng trên nó, rìu vung lên và đông cứng người khi y nhìn chòng chọc vào cái nòng súng đang chĩa về hướng mình. Ông thấy sự thất kinh trong đôi mắt của y. “Đứng im!” Hunt bước sâu vào bên trong căn phòng, đường bắn vuông góc với đối tượng. Căn phòng hôi nồng nặc mùi nhựa cháy. Meechum lắc đầu, lưỡi thò ra như lưỡi kỳ nhông.
“Hãy buông cây rìu xuống.” Hunt tìm kiếm Yoakum, sau đó nghe tiếng kính vỡ ở ngoài cửa trước.
“Hãy buông cây rìu xuống,” Hunt nói.
Khuôn mặt gã đàn ông co giật. Lồng ngực y phập phồng khi khói đen ngòm bốc lên từ ống khói. Hunt nhìn thấy sự quả quyết hằn rõ trên khuôn mặt của Meechum, ngay cả khi đằng sau cánh cửa y đứng phát ra tiếng lục đục. Hunt thấy ánh lên sắc kim loại, và Yoakum với khẩu súng giữ trên cao lao vào trong căn phòng.
Cái đầu rìu nâng lên khi xương sống của Meechum cong gập.
“Đừng,” Hunt hét lên, nhưng lúc đó đã quá trễ.
Meechum vung cái rìu, và Yoakum bắn gã xuyên thấu tim. Thi thể rớt mặt úp xuống, một cái giật nhẹ ở hai ngón tay cong. Hunt bước ngang phòng đến lò sưởi và đá những cái đĩa nhựa văng ra xa khỏi ngọn lửa. Chụp cái cây khều lửa, ông đào bới sâu hơn, xổ tung mớ nhựa đang cháy dở dang và cố gắng cứu vãn được cái nào có thể. Cuối cùng, Yoakum giúp ông ta. Năm đĩa không bị thiệt hại gì, một chục cái khác bị cháy xém. Mười cái đĩa bị cháy toàn bộ không còn cơ hội cứu vãn.
Hunt lùi bước. Giầy của ông đen ngòm, cổ họng đắng khét. Ông nhìn Yoakum, khuôn mặt ông ấy điềm tĩnh. “Ông có cần thiết phải giết gã không?” Hunt hỏi. Yoakum nhìn thi thể. “Gã định bửa ông bằng cây rìu.”
“Gã định bửa cái máy tính.”
Khuôn mặt Yoakum không hề có biểu hiện hối hận hoặc nhận lỗi. “Góc nhìn quá tệ. Tôi không nhìn thấy ông. Tôi không thể thấy ông rút súng ra đưa lên hay không. Khi tôi vừa vào phòng thì lưỡi rìu vung xuống. Tôi nghĩ gã ta bửa ông.”
“Tôi ước gì ông không giết gã.”
“Phát đạn bắn đúng lẽ.”
Hunt ngừng, rất yên lặng. “Tôi chưa bao giờ nói nó không hợp lý.”
“Nó là phát đạn đúng lẽ.” Mùi máu bốc lên trong căn phòng. Yoakum tra súng trở vào bao, hai mắt đen và bóng loáng như kính. “Hết chạy,” ông nói, và quay đi.
Năm phút sau, tiếp viện đổ đến, đi chung trong đám họ có ông Cảnh sát trưởng, và những câu hỏi, không câu nào dễ dàng. Cớm tràn ngập căn nhà. Cơn giông vẫn nặng hạt. Khi mặt trời lặn, thi thể đã được chuyển đi, những cái đĩa nhựa được gói chặt và chuyển giao cho chuyên viên kỹ thuật máy tính thượng thặng thuộc nha cảnh sát. Cảnh sát trưởng gọi thám tử Hunt và Yoakum vào trong nhà bếp. “Một lần chót. Cho tôi biết đây có phải là hắn không?”
“Chúng tôi nghĩ hắn ta có liên can với Burton Jarvis.”
“Tại sao?”
“Biển số ăn cắp. Mèo chết từ thương xá. Tờ ghi chú của Johnny Merrimon...”
“Đừng nói với tôi về tờ ghi chú của anh nhóc đó.”
“Những điểm nhận diện của gã trùng hợp,” Hunt cả quyết. “Tuổi tác, chiều cao, màu tóc. Chúng ta đã từng trải qua chuyện này ba lần.”
“Nói lại một lần nữa.”
Và Hunt giải thích mọi chuyện. Cảnh sát trưởng không hề ngắt lời. Ông ta hiếm khi chớp mắt.
“Chúng tôi thu giữ được vài cái đĩa,” Hunt kết luận. “Ổ cứng nhìn còn nguyên. Nó sẽ cho chúng ta biết nhiều hơn.”
Ông Cảnh sát trưởng nhìn từ người này đến người kia. “Tôi muốn hai ông trở về sở cảnh sát,” ông nói. “Tôi muốn cả hai ông viết báo cáo. Ngoài chuyện đó, tôi không muốn bất cứ ai trong hai ông nói một lời nào cho bất cứ ai về chuyện này, cả giữa hai ông, cả bạn gái các ông hoặc những cảnh sát khác - cho đến khi nào tôi có trong tay bản báo cáo của hai ông. Chúng ta rõ ràng rồi chứ?”
“Nghe rõ.”
Cảnh sát trưởng chỉ cái cửa. “Báo cáo. Ngay bây giờ.”
“Tôi đang muốn đi uống bia,” Yoakum đáp lời. “Chúng tôi làm báo cáo ngày mai được chứ?”
Cảnh sát trưởng không hề thích thú. “Báo cáo,” ông nói. “Từ cả hai ông. Riêng biệt. Sau đó tôi muốn hai ông về nhà và ngủ vài tiếng. Ngày mai tôi cần phải nghĩ đến chuyện làm sao giải quyết cái đống xà bần này.”
“Đống xà bần,” Yoakum nhắc lại, giọng không bằng lòng.
“Vậy theo ông phải gọi là gì?” Cảnh sát trưởng không hề lùi bước.
“Phát súng chính đáng.”
Cảnh sát trưởng chống nạnh hai tay, hếch cái cằm nhẵn thín, cong môi. “Một gã đàn ông bị bắn gục ở ngay phòng khách nhà ông ta. Nó thực sự chính đáng hơn cả lý và lẽ.”
Hunt lái xe riêng của ông nhưng Yoakum bị buộc phải đi cùng với một cảnh sát trên xe tuần tiễu. “Tôi không thích cái cảm giác này chút nào,” Yoakum nói và cả hai ông đều hiểu. Cảnh sát trưởng không muốn họ bàn bạc về bản báo cáo khi họ lái xe. Ông ta muốn họ bất ngờ và không chuẩn bị tinh thần. Hunt không thấy Yoakum khi ông đến. Ông được đón ngay tại cổng bởi một sĩ quan an ninh nội vụ tên là Matthews. Ông ta là người mới được chuyển đổi phụ trách khu vực, do vậy Hunt chỉ biết ông ta qua hình dáng và danh tiếng. Ông ta hẳn là người thông minh, tử tế. Ông ta có đôi mắt mệt mỏi và cái mồm phản đối; chân đi hơi cà nhắc khi ông ta dắt thám tử Hunt vào một căn phòng họp khác thường. Trước tiên là những câu hỏi bình thường, loại câu hỏi đặt ra sau một lần liên quan đến súng nổ, và nếu nó dài hơn bình thường, chi tiết hơn, là vì hành động nổ súng gây tử vong. Hunt tiếp nhận câu hỏi dễ dàng. Ông đã từng qua cửa ải này trước đây.
Những câu hỏi bất thình lình khác thường sau ba mươi phút.
“Ông và Thám tử Yoakum là bạn, điều đó đúng không?”
“Chúng tôi là cộng sự.”
“Câu trả lời không đáp ứng, Thám tử.”
“John Yoakum là bạn tôi.”
“Ông có bao giờ thấy Thám tử Yoakum rút súng bắn trong cơn bực tức không?”
“Không. Dĩ nhiên là không.”
“Ông ta có bao giờ dùng vũ lực quá mức không?”
“Vũ lực áp dụng như thế nào là chuyện giải pháp tình huống. Thám tử Yoakum là người luôn cẩn thận phán đoán không chê trách vào đâu được.”
“Theo nhận định của ông?”
“Đúng.”
“Như là bạn ông ta.”
“Là thám tử chỉ huy trong những vụ án lớn.” Hunt cảm thấy sức nóng dưới lớp áo. “Là một sĩ quan với mười bảy năm kinh nghiệm. Chúng ta xong chưa?”
“Thêm vài câu hỏi nữa.”
“Bắt đầu đi.”
Matthews gõ nhịp đầu bút chì xuống bàn và bật ngửa người trên ghế.
“Thám tử Yoakum có mặt ở văn phòng ông hồi sớm hôm nay?”
“Đúng.”
“Các ông thảo luận chuyện gì?”
Sự kiên nhẫn của Hunt bốc hơi. “Gần đây chúng tôi có hơn một vài thứ để thảo luận.”
Đôi môi Matthews mấp máy, nhưng nụ cười không đồng bộ với ánh mắt. “Dĩ nhiên.” Cây bút chì gõ nhịp. “Tiffany Shore. Những đứa trẻ bị thảm sát.” Ông có thể nói về một gã đầu nậu xì ke hoặc cái bẫy tốc độ bắt người.
“Tôi sẽ cho ông đúng một phút,” Hunt nói. “Sau đó tôi sẽ bước ra khỏi đây.”
Matthews nghiêng người về phía trước. “Trong khi ở văn phòng của ông ngày hôm nay, Thám tử Yoakum có nói ai đó phải đền mạng cho những gì đã xảy ra với những đứa trẻ không?”
Hunt không hề nói gì.
“Ông ta có nói như vậy không?”
“Tôi nghĩ chúng ta xong rồi.” Hunt đứng dậy.
“Ông chưa trả lời câu hỏi của tôi.”
Hunt gằn giọng. “Những gì đã nói hoặc không nói ở văn phòng tôi không liên can gì đến chuyện xảy ra ngày hôm nay. Meechum cầm cây rìu. Yoakum đã làm những gì ông ta nghĩ ông ta phải làm.”
“Ông có chắc về điều đó không, Thám tử?” Matthews ngả cái ghế ra đằng sau tựa vào tường, và Hunt không thấy điều gì vui vẻ trên khuôn mặt của gã đàn ông. “Hãy nghĩ về điều đó.”
Hunt không nói chuyện với ai khi ông rời văn phòng nha cảnh sát. Đồng hồ của ông chỉ bảy giờ khi ông bước ra ngoài văn phòng và đụng phải một cơn giông nặng hạt. Ông bước bộ, không cảm giác gì, đến xe ô tô của ông. Bên trong, không khí ẩm ướt, ngột ngạt, hai tay tìm vô-lăng, ổ khóa. Ông nhìn quanh tìm các nhóm phóng viên săn tin tức nhưng không gặp ai. Có lẽ vì thời tiết.
Ai đó đã nghe được.
Mặc dầu ông đóng cửa, nhưng ai đó đã nghe những gì Yoakum nói.
Hunt ôm chặt vô-lăng và nhớ lại cú bắn xuyên tim của Yoakum. Cây rìu vung cao, Yoakum lăn xả vào căn phòng khi lưỡi rìu vung xuống. Nhìn thì giống nhau, nhưng cảm giác thì khác biệt.
Hay cảm giác cũng giống nhau?
Sau một phút, Hunt gọi anh con trai ở nhà. Bảy tiếng chuông reo, sau đó tiếng nhạc cất lên. Hunt cố gắng che giấu sự mệt mỏi cùng tính bồn chồn tự nhiên của ông. “Này, Allen.”
“Chuyện gì đó?”
“Con ăn cơm tối chưa?”
“Con đang hút thuốc và xem phim trần truồng. Bố quan tâm gì ba chuyện này?”
Hunt cắn răng che giấu cảm xúc. “Bố sẽ về nhà trong chốc lát. Muốn bố mua gì mang về không?”
Bên ngoài, Yoakum xuất hiện sau cánh cửa trước nha cảnh sát. Ông nhìn Hunt một lần, rồi giơ một tay và làm ám hiệu cây súng bằng hai ngón tay. Hunt chớp đèn. Yoakum kéo cò súng, rồi bước về xe riêng của ông, không thèm để ý đến trời đang mưa như Hunt.
“Đồ Tàu,” Allen nói, “nhưng một giờ nữa bố hãy về nhà.”
Yoakum mở cửa xe, chui vào, đóng cửa. Cả hai ở hai đầu bãi đậu xe. Đối nghịch nhau.
“Tại sao lại một giờ nữa?”
“Bởi vì con đang bận làm việc.”
Hunt mệt mỏi bởi bức tường giữa họ, sự vững chắc của nó, cái kiểu nó mọc cao hơn mỗi ngày.
Yoakum chui vào trong xe và Hunt cảm nhận được lúc động cơ khởi động. “Bố con mình xem phim sau khi ăn nhé? Như chúng ta vẫn thường làm ấy.”
“Con không nghĩ vậy.”
“Vậy đó hả?”
“Dạ. Thì như vậy đó.”
Yoakum lái xe rời khỏi bãi đậu cùng lúc anh nhóc cúp máy. Hunt cúp điện thoại và nhìn Yoakum lao đi. Họ cần nói chuyện, nhưng Hunt không sẵn sàng. Chưa. Cũng chẳng cần gấp. Ông có một giờ. Katherine chỉ ở cách đây mười phút lái xe. Ông nghĩ về chuyện này, rồi đề máy xe. Ông lái năm dặm dưới vận tốc quy định, chiếc ô tô bám chắc mặt đường trơn bóng như kính, nhưng khi đến gần vùng ven thị xã, ông phóng xe nhanh hơn. Ông muốn tìm gặp bà, ông nhận ra như vậy. Trong giờ phút đó, mưa rơi xuống mặt đường và hắt lên như một dòng sông nước đen ngòm, ông muốn gặp bà hơn bất kì điều gì khác.
Ô tô của ông leo lên ngọn đồi sau đó tụt dốc, đèn xe chiếu xuống, những ngôi nhà nhỏ bé hiện ra ở phía dưới. Khoảng cách giữa chúng được chia đều, ánh đèn đường hắt ra và sắc màu buồn tẻ cuộn vào trong những hàng cây; nhưng căn nhà của Katherine lại khác hẳn. Hunt cho xe chậm lại và hụp đầu xuống nhìn qua kính trước bị hơi nước phủ một lớp màng nhẹ. Đường dẫn vào nhà bà trống rỗng, xe của bà vẫn còn đang bị tạm giam, nhưng những xe tải săn tin tức đậu đầy hai bên đường. Chín chiếc. Chục chiếc.
Hunt quay đầu khi ông lái xe ngang họ. CNN. FOX. WRAL. Cả đống khác. Ông rẽ xe vào đường dẫn, vượt qua sát một chiếc xe tải gần nhất, và cửa mở tung khi một đám đông phóng viên túa ra đường trong cơn giông. Họ dầy dạn kinh nghiệm không tràn vào trong sân nhà bà Katherine, nhưng hò hét đặt câu hỏi trên đường phố ngay sau khi Hunt bước xuống giữa cơn mưa.
Ông tìm được Johnny chưa?
Sự thật có phải cậu ấy dẫn dắt ông tìm được kẻ sát nhân hàng loạt những đứa trẻ?
Những máy thu hình đã chuẩn bị hoạt động trong thời tiết xấu. Giới truyền thông thượng thặng mặc áo mưa nhưng nhanh chóng bị ẩm ướt và dơ bẩn. Những câu hỏi tiếp tục. Không thứ tự. Không rườm rà nghi thức. Họ chờ đợi từ lâu trong cơn mưa, và Hunt sẵn sàng đi vào căn nhà.
Thám tử, sự thật có phải con số tử thi bây giờ là bảy mạng không?
Đó là Băng tần số chín. Hunt biết gã ấy.
Cô bé Alyssa Merrimon có mặt trong con số tử thi không?
Tiếng nói lớn hơn.
Thám tử? Thám tử?
Những câu hỏi đến nhanh hơn, hét vang xuyên qua trời mưa tầm tã. Hunt quay lưng. Katherine mở cửa ở tiếng gõ cửa lần thứ hai, bé nhỏ, xanh xao và xinh đẹp.
Bà Merrimon...
Náo động. Hunt đứng giữa bà và những máy camera ghi hình. Nụ cười của bà không gượng ép như Hunt lo ngại nó sẽ thế. “Tôi được phép vào chứ?” Ông hỏi.
Bà để ông vào nhà, đóng cửa. “Johnny sao rồi?”
“Chưa.”
Bà bước qua một bên và Hunt trút bỏ chiếc áo khoác ướt đẫm. Chỉ một ngọn đèn cháy sáng trong căn nhà. Bà hé tấm rèm cửa và nhìn ra ngoài. Một tách cà phê nguội lạnh trên cái bàn cạnh ghế sofa. “Điều đó có thật không?” Bà nhìn ông bằng một con mắt đen thẫm, sau đó nhìn ra bên ngoài. “Họ nói những gì?”
“Họ nói những gì?”
“Rằng ông tìm được một hố chôn tập thể. Mà nó không thể nào phát hiện được nếu không nhờ Johnny.”
“Điều đó đúng.”
“Tôi không thể nào hỏi câu ấy.”
“Chúng tôi không có lý do nào tin rằng thi thể của Alyssa nằm ở đấy. Nhưng...”
“Nhưng sao?” Bà xoay người khỏi cửa sổ, đôi mắt mong manh, cằm nghiêng.
“Chúng tôi chưa hoàn tất tìm kiếm tất cả các thi thể. Cơn giông buộc chúng tôi phải ngưng tạm thời.”
“Vậy thì ngày mai?”
“Ngày mai, chúng tôi sẽ xem sao.”
Bà khoanh tay ôm lấy cơ thể. “Tôi lấy cho ông tách cà phê nhé? Hay trà? Tôi không có món gì nặng hơn.”
“Cà phê thì rất tuyệt vời.” Giọng bà thiểu não, Hunt nghĩ, nhưng bà cố gắng giữ vững mọi chuyện tươm tất hơn ông hy vọng bà có thể. “Tôi chỉ được phép có vài phút.”
“Cà phê.” Bà xoay người.
“Cảm ơn, Katherine.”
Bà rót cà phê vào tách và trao cho ông. “Vậy thì không có gì cả? Không một lời nào cả?”
Bà hỏi về Johnny. “Không,” ông nói. “Tôi xin lỗi.” Bà nhìn ra cửa sổ và cơn giông tít đằng xa, rồi sau đó ngồi xuống ghế sofa và Hunt ngồi cạnh bên. “Cậu bé là đứa trẻ cứng cỏi,” Hunt nói. “Chúng tôi đang tìm kiếm.”
“Ông có thể làm gì hơn được không? Bất cứ điều gì? Lệnh báo động chẳng hạn?”
“Những cái đó không bao giờ áp dụng ngoại trừ có chứng cớ rõ ràng là một vụ bắt cóc, và chúng tôi không tin cậu bé bị bắt cóc. Tất cả những chứng cớ cho thấy cậu bé tự ý bỏ đi. Ở một nơi nào đó. Căn cứ trên những gì đã từng làm trong quá khứ...”
Bà nhắm mắt, vỗ tay trên đùi. “Johnny...” Bà lắc đầu. “Tổ cha, Johnny. Giờ này con ở đâu?”
“Cậu bé là đứa trẻ thông minh, Katherine. Cậu bé sẽ không sao. Chúng tôi sẽ tìm được cậu bé.”
Khi bà mở mắt, mặt bà bóng như gương soi, và Hunt thấy rằng bà sẵn sàng chuyển hướng câu chuyện sang đề tài mới. “Gã Ken đến đây ba lần trong hôm nay.”
Hunt giấu sự lo lắng bất thình lình. “Tôi lại nghĩ gã ta bỏ qua rồi. Gã nói như vậy mà.”
“Đó không phải là chuyện Ken Holloway làm. Nếu gã nói với ông như vậy, gã nói láo.”
“Có đe dọa gì không?” Hunt hỏi.
“Gã đập cửa, thều thào nói những lời xấu xa.”
“Gã có nói bất cứ lời đe dọa nào không?” Hunt gặng hỏi. Ông có thể truy tố Holloway về chuyện buông lời hăm dọa. Nó sẽ rất hợp với việc truy tố về cản trở công lý. Chúng chỉ là những truy tố quá tầm thường đối với người như gã Holloway, nhưng sẽ khiến gã bị tống giam ngay dù chỉ là một thời gian ngắn. Chúng sẽ giúp cách ly gã khỏi Katherine.
“Chúng ta có thể ngồi không?” Bà hỏi. “Chúng ta có thể chỉ ngồi trong yên lặng được không?”
Hunt bỏ qua sự bực tức và lo lắng. “Được,” ông nói, và họ ngồi trong khi tách cà phê của ông nguội dần, và nhóm phóng viên săn tin tức buông tay và trèo trở vào trong xe. Sau một lúc, Hunt để ý bà ta ôm chặt cái gì ở giữa hai tay, ép hai bàn tay vào với nhau và nhét vào giữa cặp đùi.
“Tôi ở trong phòng Johnny hồi sớm ngày hôm nay. Ông biết...”
Bà bỏ lửng và Hunt có thể thấy bà vào trong ấy, sờ mó đồ vật của con trai, khó khăn vất vả dìm nén nỗi sợ hãi và nghi ngờ.
“Tôi tìm thấy những cái này.” Bà mở lòng bàn tay và Hunt thấy một xấp danh thiếp. Chúng nhăn nhúm và ẩm ướt. Bà nhìn lên, chạm ánh nhìn của ông. “Cả thảy mười chín cái.”
Một cú sốc rõ ràng hiện trên khuôn mặt bà và Hunt cảm thấy một sự ngượng ngùng bất thình lình và lạ kỳ. “Tôi muốn Johnny biết có ai đó để gọi điện thoại,” Hunt nói. “Nếu chuyện trở nên tồi tệ.”
Bà gật đầu, không ngạc nhiên. “Sau khi tìm được chúng, tôi tìm quanh nhà và tìm tất cả danh thiếp ông đã đưa cho tôi. Tôi đã vứt đi khá nhiều, tôi biết điều đó, nhưng tôi vẫn tìm thấy cả chục cái.”
“Đó là công việc của tôi,” Hunt nói.
Sự rõ ràng không hề do dự. “Thật vậy sao?” Hunt nhìn đi chỗ khác. “Ông lúc nào cũng có mặt bên cạnh chúng tôi.”
“Bất cứ người cảnh sát tử tế nào cũng làm tương tự như vậy.”
“Tôi không nghĩ như vậy.” Một lần, vai của bà chạm vào người Hunt, và ông cảm được một luồng xung điện, một luồng lửa xanh thẫm phập mạnh và đau. “Cảm ơn,” bà nói, và họ ngồi trong yên lặng, hai người, cạnh bên nhau. Bà kéo chân mình lên, đặt hai tay vào trong đùi và tựa đầu bà vào bờ vai của ông. Hunt cảm nhận được cánh tay nhỏ bé của bà ép mạnh vào ông, hơi ấm làn da của bà khi mưa lạnh đang rơi vần vũ ngoài cửa sổ. “Cảm ơn,” bà nói một lần nữa.
Và Hunt ngồi lặng lẽ như tượng đá.
“Đây là vấn đề hình sự,” Hunt nói. “Tôi có thể trở lại trong vòng hai mươi phút với trát đòi và lệnh khám xét.”
Điện thoại của người phụ nữ reo vang và bà ta trả lời. Khi cúp máy, giọng bà ta lạnh lùng và cô đọng, khuôn mặt không hề nhượng bộ. “Ông Holloway là một trong những người tử tế nhất của thành phố này, và tất cả mọi người ở đây đều rõ chuyện ông gây xách nhiễu. Không thiếu người sẵn sàng làm nhân chứng khai trước toà chống lại ông nếu những trò đó vẫn tiếp diễn ở đây ngày hôm nay.”
Nét mặt bà ta thay đổi và bà mỉm cười. “Ông Holloway sẽ gặp ông bây giờ.” Bà trỏ một cánh tay. “Thang máy ở phía bên tay phải của ông.”
Họ đi ngang qua sàn nhà lát đá cẩm thạch và bước thẳng vào thang máy. Yoakum bấm nút và hai cánh cửa đóng khít lại. “Quá tuyệt,” ông nói.
“Bà tiếp tân à?”
“Một phụ nữ có duyên.”
Văn phòng Holloway chiếm dụng toàn bộ tầng lầu. Hunt thấy một phòng họp, vài văn phòng phụ trợ, toàn bộ còn lại là không gian mở. Holloway đứng đằng sau bàn làm việc. Đứng ngay bên phải là ông luật sư; đứng bên trái, một nhân viên bảo vệ mặc đồng phục, đeo súng. Ba bờ tường lát kính cho một cái nhìn bao quát gần hết dưới phố, cả nha cảnh sát thành phố, nhìn bé tẻo teo và dơ bẩn. Từ độ cao này có thể thấy cơn giông đang ầm ầm kéo đến với một bức tường màu tím thẫm và đen đúa.
“Thám tử,” Holloway nói.
Hunt bước vào tấm thảm Á Đông và đi quá chiếc bàn phòng họp mà giá trị của nó hơn cả chiếc ô tô của ông. Ông dừng lại trước bàn làm việc. Nụ cười của Holloway gượng gạo, những ngón tay của ông ta trắng dã trên mặt bàn nơi chúng chịu lực cơ thể của ông ta. “Ông chắc vẫn còn nhớ ông luật sư của tôi. Đây là ông Bruce.” Ông chỉ vào tay bảo vệ.
Hunt nhìn chằm chằm từ trên xuống dưới Bruce. Gã ta trạc bốn mươi, cao lớn và đen đủi trong bộ đồng phục xanh ủi hồ thẳng tắp với huy hiệu vàng đeo trên ngực áo và huy hiệu tương tự may trên vai áo. Nét mặt gã không hề biểu lộ sắc thái. Súng đeo loại bán tự động. “Ông có mang theo giấy phép giữ súng không, Bruce?”
“Ông ta có,” Holloway nói.
“Ông ta không tự trả lời được sao?”
“Không.”
“Ông ta là người trưởng thành rồi.”
“Ông ta đang làm việc cho tôi.”
Hunt nhướng mày nhìn Bruce, nghiêng đầu và nhún vai. “Chúng tôi đang điều tra về khả năng có sự liên đới giữa một vụ án hình sự với một trong các nhân viên của ông. Chúng tôi cần tên và hồ sơ nhân viên của tất cả các nhân viên bảo vệ, đặc biệt là những người làm việc tại thương xá.”
“Vụ án hình sự loại gì vậy?”
“Chúng tôi muốn lấy tên các nhân viên.”
Ông luật sư nghiêng người qua cái bàn. “Tôi đã cố vấn thân chủ của tôi trả lời ‘Không’ với tất cả các câu hỏi khi chưa có lệnh tòa án.”
Holloway giơ hai tay để chứng tỏ ông ta không có chọn lựa, và Hunt gặp đôi mắt dò xét của tay luật sư. “Đó có phải quyết định tối hậu không?”
“Đúng,” tay luật sư nói.
“Ông cũng đã cố vấn thân chủ của ông không được cản trở cuộc điều tra của chúng tôi?”
“Dĩ nhiên.”
“Ông ta sẽ không được báo động cho ai về cuộc thăm viếng này. Cuộc điều tra đang diễn tiến.”
Holloway nở một nụ cười giao tế. “Chúng ta không có gì để thảo luận bên ngoài toà án, Thám tử Hunt. Không về nhân viên của tôi, về cuộc điều tra của ông, hay sự lựa chọn sai trái khác thường. Không về bà Katherine Merrimon hay đứa con trai ngổ ngáo của bà ấy.”
Hunt nhìn đối mắt, sau đó quay gót.
“Ồ, nhưng trước tiên,” Holloway nói. “Tôi nghĩ ông nên biết rằng Katherine Merrimon đã từ chối không gặp tôi nữa. Thay đổi khoá cửa. Kích động. Chuyện bình thường.”
Hunt dừng bước, trở lại cái bàn. “Chuyện thật vậy sao?”
“Chúng tôi đã tống đạt đơn xin trục xuất khỏi gia cư sáng hôm nay. Bà ta sẽ phải dọn ra đường trong vòng ba mươi ngày.”
“Bà ta sẽ tự lo liệu được,” Hunt nói.
“Bà ta có làm được không?”
Tầm nhìn của Hunt bị thu hẹp lại cho đến khi ông thấy nụ cười trên cặp môi như bôi mỡ của gã Holloway. Ông cảm thấy áo jacket của ông bị giật và biết Yoakum gọi khéo. “Thôi đi, Clyde.”
Yoakum quay đi nhưng Hunt chưa chịu bỏ cuộc. Ông nhìn gã Bruce, rồi Holloway. “Có phải các nhân viên an ninh của ông đều mang vũ khí?” Ông hỏi.
“Tôi sẽ không trả lời câu hỏi của ông,” Holloway nói. “Tôi nghĩ tôi đã rõ ràng trong vấn đề này.” Hunt nhìn gã bảo vệ. “Hắn ta cũng sẽ không nói với ông bất cứ điều gì.”
Bruce giữ kín mồm miệng, đứng thẳng lưng; nhưng khi ông Holloway không nhìn gã nữa, gã đặt một ngón tay trên báng súng.
Ông luật sư nghiêng đầu. “Một ngày tốt lành, thám tử. Người tiếp tân sẽ vui vẻ xác nhận tích kê đậu xe của ông.”
Họ bước ngang căn phòng, tiếng giầy nhẹ nhàng trên sàn trải thảm, kêu to khi chúng chạm vào sàn gỗ. Cánh cửa thang máy mở, rồi đóng. “Văn phòng lịch sự nhỉ,” Yoakum nói. Hunt giữ yên lặng, những móng tay cấu vào lòng bàn tay. “Tầm nhìn tuyệt vời.”
Họ đi ngang qua người tiếp tân, bà ta liếc họ nhưng họ làm ngơ. Bên ngoài đường đi bộ, cao ốc vươn cao và tối đen bên trên hai người. Tĩnh điện đầy trong không khí, và giọng Hunt dường như chứa đầy mức năng lượng thô đó. “Ông thấy không?”
“Tôi thấy.”
“Nhân viên an ninh của gã ta mang súng.”
“Không phải tất cả như vậy.”
“Nhưng một người.”
“Đúng vậy.”
“Một người đeo súng.”
Họ bước ra xe và gió làm cho ống quần của họ quất phần phật. Đồng phục, huy hiệu, và cây súng. Một đứa trẻ mười ba tuổi có thể nhầm lẫn người đó là cớm.
Dễ dàng như bất cứ thứ gì.
Dễ như ăn kẹo.
Ở ngoài xe ô tô, Yoakum đặt hai tay lên mui xe. Hunt đứng ở phía bên kia xe, con đường lộ sau lưng họ vắng ngắt. “Tôi cần nói vài điều,” Yoakum nói. “Và tôi không muốn ông nhảy múa về chuyện này.”
“Chuyện gì đó?”
“Chúng ta không cần phải sưu tra hồ sơ nhân viên.”
“Chúng có thể có ích.”
“Nhưng chúng ta không cần chúng.”
Hunt nhún vai. “Tôi muốn gặp gã ta. Tôi muốn gã ta biết rằng tôi đang lùng sục.”
“Nhưng lý do đó chưa đủ.”
“Có lẽ ông đúng.”
“Vậy thì tại sao lại đến đây làm gì? Tại sao lại liên can Holloway nếu chuyện đó không cần thiết? Ông biết gã sẽ không trả lời câu hỏi của ông. Gã căm ghét ông.”
Hunt nhìn trả lại, hai mắt nhắm nghiền.
“Thôi chết rồi.”
“Vào xe,” Hunt nói.
Cả hai chui vào trong xe; tiếng ồn ào của gió biến mất. “Gã sẽ gọi điện cho người của gã,” Yoakum nói. “Thì gã trước giờ vẫn vậy.” Hunt đề máy xe. “Có lẽ giờ này gã đang nói chuyện trên điện thoại.”
“Có thể.” Hunt gài số xe, kiểm tra xe cộ trên đường lộ, và lao xe lướt đi khỏi lề đường.
“Ông đã giăng bẫy gã ta,” Yoakum tiếp tục. “Gã sẽ gọi điện cho người của gã và ông sẽ buộc gã tội cản trở điều tra.”
Hunt im lặng không nói gì.
Ông lái xe đến thương xá.
Thương xá là một tảng xi-măng nguyên khối và trát vữa, trông ảm đạm và vươn trên bầu trời tối sẫm. Cửa kính chớp chiếu từ màu xám qua tím khi người ta ra khỏi, tất tả về nhà trước khi cơn giông đến. Hunt luồn lách qua đám đông xe cộ. Ông rẽ góc và vài hạt mưa to rơi lộp độp trên kính trước. Họ đi qua những thùng rác, bệ lên xuống hàng hoá và những chiếc xe cũ kỹ.
Họ đang đi giữa đường xuống bức tường phía đằng sau thì thám tử Hunt thắng gấp. Cửa phía bên ông bung mở và ông ra khỏi xe trước khi Yoakum gọi. “Ông đang làm trò gì vậy?”
Nhưng Hunt đã lên đường. “Thưa bà?” Hunt gọi người phụ nữ đang đứng khom người chỗ ngoài cùng của một bệ lên xuống hàng hoá gần đấy nhất. “Thưa bà?” Người phụ nữ trạc tuổi sáu mươi, đẹp lão. Tóc bạc trắng bồng bềnh ở cổ, vận chiếc áo đầm sang trọng. Hunt cười nụ cười khả dĩ nhất. “Chào bà. Tôi là Thám tử Hunt.” Ông chìa thẻ hành sự. “Xin lỗi làm phiền bà.”
“Tôi giúp được ông điều gì?” Bà là người phụ nữ mảnh khảnh và thanh lịch. Hạt kim cương đen ở cổ phải vào khoảng hai cara và hàng thật.
Vài giọt mưa rơi xuống mặt đường trải đá dăm. “Tôi không tài nào không để ý đến...” Hunt trỏ vào cái mà bà đang cầm ở tay.
“Cá ngừ.” Bà nghiêng cái lon, ngượng ngập. Nắp hộp đã khui, cá ngừ bốc mùi thiu. Bà trỏ vào góc của bệ lên xuống hàng hoá, nơi bà vừa đặt một hộp cá tươi mới khui. “Con mèo khôn ngoan. Tôi không tài nào có thể ngồi nhìn nó quanh quẩn kiếm ăn ở thùng rác.”
“Con mèo mệt mỏi chán cá ngừ rồi hả bà?” Ông nghiêng đầu và nhìn vào lon cá.
“Tôi không thấy nó đã mấy hôm rồi.”
“Con mèo hình dáng như thế nào?” Sự bối rối của bà hiện rõ trên khuôn mặt, do vậy Hunt nở nụ cười khả dĩ nhất. “Nếu bà không ngại, tôi cũng là người yêu quý mèo.”
Bà tươi cười, bước lại gần hơn. “Con mèo nâu với đôi mắt vàng và hai chân trắng.”
Bà giơ cao cả hai tay, cười rạng rỡ. “Nó khôn lắm!”
Hunt bước lên vào cái bệ lên xuống hàng hoá. “Chúng tôi được phép vào cửa hiệu của bà không?”
“Tôi không biết...”
“Tôi phải yêu cầu như vậy.”
Cửa hiệu bán quần áo. Hunt và Yoakum đi vào qua nhà kho, sau đó qua phòng thử quần áo. Các bà nhìn lên, kinh ngạc, nhưng Hunt làm ngơ họ, tiến thẳng đến thang máy. “Clyde. Chậm lại một chút.”
Vẫn còn nhiều người ở đó, mặc dầu trời đang giông gió. Gia đình, con nít - tràn ngập màu sắc và tiếng ồn ào.
“Clyde!”
Hunt vượt nhanh qua đám đông, Yoakum theo sát phía đằng sau. “Đúng là gã này.”
“Gã này là gã nào? Ông đang nói chuyện gì vậy?”
“Cùng là con mèo vứt ở nhà Johnny. Mèo nâu với hai chân trắng. Gã này là người chúng ta đang lùng.”
“Ai?”
“Gã nhân viên an ninh nào đó đeo súng.”
“Gã cớm của Johnny.”
Hunt bước vào thang máy và bấm thang máy chạy lên trên đó. Ông xuất hiện ở khu vực bán hàng ăn, vượt qua một nhóm người mua sắm và tiến đến cánh cửa đánh dấu AN NINH. Cửa đóng. Hunt bấm chuông.
“Bộ phận an ninh đây.”
Hunt nhận giọng nói. “Ông Steve. Tôi là Thám tử Hunt. Mở cửa ngay.”
“Có vấn đề gì không?”
Hunt đập tay trên tấm kim loại lạnh tanh. “Bấm mở cánh cửa này ngay lập tức.”
Cánh cửa mở và Hunt nhảy hai bậc cầu thang lao lên phía bên trên. Yoakum chạy theo huỳnh huỵch phía sau. Cả hai phóng lên bệ đỡ cầu thang, vũ khí rút ra cầm tay. Ông Steve gặp họ ở trên đầu cầu thang, cánh cửa mở ngay đằng sau ông ta. “Bước qua một bên, ông Steve.”
“Ui trời. Ê.” Hai tay ông Steve giơ lên khi ông trông thấy súng.
Trong văn phòng an ninh, gã nhân viên an ninh béo ngồi nhìn màn ảnh vô tuyến, một người khác đứng ngay trước cửa sổ bằng kính nhìn xuống khu vực bán đồ ăn. Cả hai kinh ngạc, sợ hãi. Không ai trong họ mang vũ khí. “Văn phòng,” Hunt nói, sau đó nhìn cánh cửa đóng, cửa sổ có rèm che kín. “Ông.” Ông trỏ một tay vào người nhân viên an ninh đang đứng. “Ngồi xuống.”
Gã nhân viên an ninh chạy vội đến chiếc ghế gần nhất. Hunt di chuyển đến cánh cửa văn phòng và Yoakum kèm chặt một bên. Steve nhìn sững sờ.
“Có ai trong đó không?” Hunt hỏi.
“Ông Meechum? Ông ta đi rồi.”
“Meechum là ai?”
“Ông sếp.”
Hunt ra hiệu cho Steve tránh xa cửa, sau đó nhìn Yoakum và đếm ngược từ ba. Cánh cửa mở dễ dàng, và họ tràn vào, bên trong văn phòng trống rỗng.
“Tôi đã nói...” Steve đứng che lấp cánh cửa mở. “Ông Meechum vừa rời khỏi.”
“Khi nào?”
“Năm phút, có lẽ.”
“Miêu tả ông ta xem,” Hunt nói.
“Tôi không biết. Sáu mươi lăm tuổi. Ốm nhách nhưng khoẻ mạnh. Tóc mỏng, mũi gãy. Tính tình khó ưa.”
“Y có đeo súng không?” Hunt hỏi. “Y mặc đồng phục?”
“Thường ông ta mặc quần jeans, áo sơ mi kaki. Nhưng ông ta đeo súng ở thắt lưng. Ông ta là người duy nhất được phép đeo súng.”
“Loại gì?”
“Hả?”
“Cây súng. Kích cỡ nào?”
“Bốn lăm, tôi nghĩ vậy.”
Hunt chạm mắt Yoakum, và cả hai đều hiểu. Cùng kích vỡ với vỏ đạn tìm thấy ở trong xe của David Wilson.
“Y có mang còng không?” Yoakum hỏi.
“Tất cả chúng tôi đều mang.”
“John.” Hunt trỏ vào cái bàn trong văn phòng. Nó cũ kỹ và nhiều dấu vết, không có gì đặc biệt. Một hàng đầu máy vô tuyến đặt trên mặt bàn, đấu dây vào hệ thống theo dõi của thương xá. Ba đầu máy vô tuyến đấu vào camera thu hình ảnh khu vực bán đồ ăn. Mỗi cái hiện cùng một cảnh: một cái bàn toàn con gái trẻ, có thể tuổi mười bốn, có thể trẻ hơn. Hình ảnh được thu vào. Hunt có thể thấy niềng răng, mụn trên mặt, nụ cười, tóc chải. “Gã này là người chúng ta tìm.”
Yoakum nghiêng người vào. “Đồ chó má.”
“Tại sao Meechum đi khỏi đây?” Hunt hỏi, và có một điều gì đó rất chắc chắn gã này chính là người họ đang truy tìm. Steve không ngần ngại. “Ông ta nhận một cú điện thoại gọi từ ông Holloway. Tôi không biết họ nói với nhau chuyện gì, nhưng chính tôi chuyển cú điện thoại ấy.”
“Khi nào?”
“Vừa mới đây. Ngay trước khi các ông đến đây.”
“Steve,” Hunt nói. “Chúng tôi cần địa chỉ nhà của gã Meechum.”
“Tôi không biết địa chỉ nhà gã, nhưng ông có thể đi bộ đến nhà gã trong vòng hai phút.”
“Đi bằng cách nào?” Hunt hỏi.
“Y sống ngay đằng sau thương xá. Qua vài bụi cỏ dại, một hoặc hai cái mương, là ông đến ngay sau cửa nhà gã.”
“Chỉ cho tôi,” Hunt nói.
“Ngay bây giờ?”
“Ngay giây phút này.”
Steve liếm môi, sợ hãi nhìn xung quanh căn phòng. “Thật vậy sao?”
“Thật.” Tay Hunt đập mạnh trên vai ông ta. “Thật vậy.”
Mưa lạnh hắt mạnh vào mặt Hunt khi ông mở cánh cửa phía đằng sau thương xá; mưa quất xuống các góc, vỡ tan thành màn che mờ trên nóc xe màu đen. Tầm nhìn xa gần như không, như thể ánh sáng bị hút mất khỏi không khí. Một cái xe phóng vèo qua, kính trước xe mờ mịt, gạt nước hất văng nước theo hình vòng cung. “Ở đâu?” Hunt lên cao giọng.
Steve trỏ tay. Cánh cửa nặng đóng sầm đằng sau ông ta. “Đằng kia. Giữa những cái cây.” Hunt thấy những cái cây, hai bụi tuyết tùng vươn cao từ bờ viền của con mương vắt ngang bãi đậu xe. “Có con đường mòn. Không dài lắm đâu.”
“Tôi muốn ông chỉ cho tôi.”
“Ôi trời.” Steve nhìn lên trời mưa. “Ông sẽ làm tôi ướt sũng và bị đuổi việc đấy.”
Không ai cười.
“Ngay bây giờ,” Hunt nói.
Họ lao nhanh ngang qua mặt đường ngập nước, len lỏi giữa một chiếc Suburban đang đậu và chiếc Ford cũ rích với băng keo dán che kín một bên cửa sổ. Đằng sau những chiếc xe, con mương đã bắt đầu ngập nước. Nước đen ngòm cuốn theo giấy gói đồ ăn nhanh, túi nhựa, những loại hộp thuốc lá xuống chỗ thấp. Con đường mòn bắt đầu chỗ hàng cây, chật hẹp và thẳng tắp qua những bụi cỏ dại mọc cao và những lô đất còn trống. Tay Yoakum rơi trúng vào vai Hunt. “Có cần tiếp viện không?” Ông đưa máy liên lạc lên.
“Chúng ta không chờ đợi.”
“Tốt.” Yoakum nhét máy liên lạc vào trong túi và lên đạn cây súng. “Tôi ghét chờ đợi.”
“Căn nhà nào?”
Steve nghiêng về phía trái để nhìn giữa hai cây tuyết tùng. Một dãy nhà bé nhỏ ở phía đằng sau những lùm cỏ dại. Hunt thấy những hàng hiên chật hẹp và lò nướng thịt vỡ bể, một vài chiếc xe đạp. Steve chỉ một lần nữa. “Thấy căn nhà màu xám có chiếc xe đạp đỏ trong hàng hiên sau nhà không?”
“Thấy.”
“Căn nhà thứ ba phía bên trái của căn nhà đấy.”
Hunt đếm về phía trái, thấy một căn nhà thấp với những vết sơn loang lổ và một bụi cây nhựa ruồi chết khô ở một góc. Không đèn điện. Không có sự chuyển dịch. Ông chỉ cho Yoakum.
“Ông ta sống một mình?” Hunt hỏi.
“Tôi nghĩ vậy.”
“Ông ở ngay tại đây.” Hunt dò chừng Yoakum. “Ông sẵn sàng chưa?”
“Không chê vào chỗ nào!”
Họ nhảy qua con mương và chui vào những bụi cỏ, cong gập người, súng ngắn rút ra nòng hạ xuống. Cỏ dại mọc cao ngất ngưởng và thò những cành lá dài ẩm ướt đụng vào họ khi họ di chuyển. Sấm chớp ầm ĩ. Con đường mòn ướt đẫm và trơn trượt.
Họ dừng ở một mái che nhỏ trước cái sân trơn bao quanh nhà gã Meechum. Một mùi gì đó vương trong không khí, mùi nồng nặc hoá chất không rõ xuất xứ từ đâu.
Họ lao nhanh một đoạn ngắn chừng bảy mét cuối cùng, tựa lưng vào bức tường dưới cái cửa sổ to nhất. Nước ào thoát xuống từ những máng xối bị nghẽn. Mùi hóa chất nồng nặc, cái gì đó đang cháy. Hunt thò đầu ngó vào trong cửa sổ. Rèm cửa kéo đóng kín nhưng có một khoảng hở ở giữa. Đó là phòng khách, một khoảng không gian tăm tối với bàn ghế cũ kỹ và trần nhà thấp lè tè. Thảm màu vàng cam, tường ốp gỗ thông rẻ tiền. Meechum hệt như Steve diễn tả. Mình dây và khòm khòm, y ngồi cong người trước máy tính, áo sơ mi ướt đẫm mồ hôi. Trong lò sưởi, nhiều đĩa máy tính xếp thành chồng và đang bốc cháy. “Gã ta đốt huỷ tang chứng,” Hunt nói, khom người xuống, lao nhanh ra cửa sau. “Anh ra cửa trước. Chúng ta sẽ xông vào trong sáu mươi giây.”
Yoakum di chuyển ra phía đằng trước, để Hunt một mình trong trời mưa. Ông mạo hiểm nhìn một lần nữa xuyên qua cửa sổ. Tóc tai dựng đứng hoang dại trên đầu Meechum. Y đập tan bàn phím, rồi đập mạnh vào thành máy tính, đập một lần nữa. Hunt không thấy cây rìu cho đến khi Meechum với lấy nó. Nó dựa vào bàn, cán gỗ mại châu và lưỡi rìu rỉ sét đen ngòm ngoại trừ dọc phần lưỡi sáng lấp lánh. Cây rìu được giơ lên và mặt Meechum đanh lại, môi trề ra, hai mắt nhắm nghiền; sau đó cái rìu rơi xuống cái rầm, nhựa vỡ, và kính bay tung toé.
Máy tính.
Tổ cha.
Hunt tụt xuống khỏi cửa sổ, lao nhanh đến cửa ra vào. Ông thử núm vặn cửa. Khóa cứng. Ông kê vai vào gỗ, cảm thấy nó mỏng mảnh và rẻ tiền. Khung cửa bật tung dằm đâm tua tủa dưới sức nặng của ông, và ông lao vào trong nhà bếp, sàn nhựa trơn trượt dưới đôi chân đầy bùn của ông. Một dấu hiệu chuyển động qua cánh cửa vào phòng khách và súng của Hunt đưa lên khi ông lao vào phòng. “Cảnh sát! Cảnh sát đây. Mẹ kiếp!”
Máy tính bị chọc thủng trên đỉnh, Meechum đứng trên nó, rìu vung lên và đông cứng người khi y nhìn chòng chọc vào cái nòng súng đang chĩa về hướng mình. Ông thấy sự thất kinh trong đôi mắt của y. “Đứng im!” Hunt bước sâu vào bên trong căn phòng, đường bắn vuông góc với đối tượng. Căn phòng hôi nồng nặc mùi nhựa cháy. Meechum lắc đầu, lưỡi thò ra như lưỡi kỳ nhông.
“Hãy buông cây rìu xuống.” Hunt tìm kiếm Yoakum, sau đó nghe tiếng kính vỡ ở ngoài cửa trước.
“Hãy buông cây rìu xuống,” Hunt nói.
Khuôn mặt gã đàn ông co giật. Lồng ngực y phập phồng khi khói đen ngòm bốc lên từ ống khói. Hunt nhìn thấy sự quả quyết hằn rõ trên khuôn mặt của Meechum, ngay cả khi đằng sau cánh cửa y đứng phát ra tiếng lục đục. Hunt thấy ánh lên sắc kim loại, và Yoakum với khẩu súng giữ trên cao lao vào trong căn phòng.
Cái đầu rìu nâng lên khi xương sống của Meechum cong gập.
“Đừng,” Hunt hét lên, nhưng lúc đó đã quá trễ.
Meechum vung cái rìu, và Yoakum bắn gã xuyên thấu tim. Thi thể rớt mặt úp xuống, một cái giật nhẹ ở hai ngón tay cong. Hunt bước ngang phòng đến lò sưởi và đá những cái đĩa nhựa văng ra xa khỏi ngọn lửa. Chụp cái cây khều lửa, ông đào bới sâu hơn, xổ tung mớ nhựa đang cháy dở dang và cố gắng cứu vãn được cái nào có thể. Cuối cùng, Yoakum giúp ông ta. Năm đĩa không bị thiệt hại gì, một chục cái khác bị cháy xém. Mười cái đĩa bị cháy toàn bộ không còn cơ hội cứu vãn.
Hunt lùi bước. Giầy của ông đen ngòm, cổ họng đắng khét. Ông nhìn Yoakum, khuôn mặt ông ấy điềm tĩnh. “Ông có cần thiết phải giết gã không?” Hunt hỏi. Yoakum nhìn thi thể. “Gã định bửa ông bằng cây rìu.”
“Gã định bửa cái máy tính.”
Khuôn mặt Yoakum không hề có biểu hiện hối hận hoặc nhận lỗi. “Góc nhìn quá tệ. Tôi không nhìn thấy ông. Tôi không thể thấy ông rút súng ra đưa lên hay không. Khi tôi vừa vào phòng thì lưỡi rìu vung xuống. Tôi nghĩ gã ta bửa ông.”
“Tôi ước gì ông không giết gã.”
“Phát đạn bắn đúng lẽ.”
Hunt ngừng, rất yên lặng. “Tôi chưa bao giờ nói nó không hợp lý.”
“Nó là phát đạn đúng lẽ.” Mùi máu bốc lên trong căn phòng. Yoakum tra súng trở vào bao, hai mắt đen và bóng loáng như kính. “Hết chạy,” ông nói, và quay đi.
Năm phút sau, tiếp viện đổ đến, đi chung trong đám họ có ông Cảnh sát trưởng, và những câu hỏi, không câu nào dễ dàng. Cớm tràn ngập căn nhà. Cơn giông vẫn nặng hạt. Khi mặt trời lặn, thi thể đã được chuyển đi, những cái đĩa nhựa được gói chặt và chuyển giao cho chuyên viên kỹ thuật máy tính thượng thặng thuộc nha cảnh sát. Cảnh sát trưởng gọi thám tử Hunt và Yoakum vào trong nhà bếp. “Một lần chót. Cho tôi biết đây có phải là hắn không?”
“Chúng tôi nghĩ hắn ta có liên can với Burton Jarvis.”
“Tại sao?”
“Biển số ăn cắp. Mèo chết từ thương xá. Tờ ghi chú của Johnny Merrimon...”
“Đừng nói với tôi về tờ ghi chú của anh nhóc đó.”
“Những điểm nhận diện của gã trùng hợp,” Hunt cả quyết. “Tuổi tác, chiều cao, màu tóc. Chúng ta đã từng trải qua chuyện này ba lần.”
“Nói lại một lần nữa.”
Và Hunt giải thích mọi chuyện. Cảnh sát trưởng không hề ngắt lời. Ông ta hiếm khi chớp mắt.
“Chúng tôi thu giữ được vài cái đĩa,” Hunt kết luận. “Ổ cứng nhìn còn nguyên. Nó sẽ cho chúng ta biết nhiều hơn.”
Ông Cảnh sát trưởng nhìn từ người này đến người kia. “Tôi muốn hai ông trở về sở cảnh sát,” ông nói. “Tôi muốn cả hai ông viết báo cáo. Ngoài chuyện đó, tôi không muốn bất cứ ai trong hai ông nói một lời nào cho bất cứ ai về chuyện này, cả giữa hai ông, cả bạn gái các ông hoặc những cảnh sát khác - cho đến khi nào tôi có trong tay bản báo cáo của hai ông. Chúng ta rõ ràng rồi chứ?”
“Nghe rõ.”
Cảnh sát trưởng chỉ cái cửa. “Báo cáo. Ngay bây giờ.”
“Tôi đang muốn đi uống bia,” Yoakum đáp lời. “Chúng tôi làm báo cáo ngày mai được chứ?”
Cảnh sát trưởng không hề thích thú. “Báo cáo,” ông nói. “Từ cả hai ông. Riêng biệt. Sau đó tôi muốn hai ông về nhà và ngủ vài tiếng. Ngày mai tôi cần phải nghĩ đến chuyện làm sao giải quyết cái đống xà bần này.”
“Đống xà bần,” Yoakum nhắc lại, giọng không bằng lòng.
“Vậy theo ông phải gọi là gì?” Cảnh sát trưởng không hề lùi bước.
“Phát súng chính đáng.”
Cảnh sát trưởng chống nạnh hai tay, hếch cái cằm nhẵn thín, cong môi. “Một gã đàn ông bị bắn gục ở ngay phòng khách nhà ông ta. Nó thực sự chính đáng hơn cả lý và lẽ.”
Hunt lái xe riêng của ông nhưng Yoakum bị buộc phải đi cùng với một cảnh sát trên xe tuần tiễu. “Tôi không thích cái cảm giác này chút nào,” Yoakum nói và cả hai ông đều hiểu. Cảnh sát trưởng không muốn họ bàn bạc về bản báo cáo khi họ lái xe. Ông ta muốn họ bất ngờ và không chuẩn bị tinh thần. Hunt không thấy Yoakum khi ông đến. Ông được đón ngay tại cổng bởi một sĩ quan an ninh nội vụ tên là Matthews. Ông ta là người mới được chuyển đổi phụ trách khu vực, do vậy Hunt chỉ biết ông ta qua hình dáng và danh tiếng. Ông ta hẳn là người thông minh, tử tế. Ông ta có đôi mắt mệt mỏi và cái mồm phản đối; chân đi hơi cà nhắc khi ông ta dắt thám tử Hunt vào một căn phòng họp khác thường. Trước tiên là những câu hỏi bình thường, loại câu hỏi đặt ra sau một lần liên quan đến súng nổ, và nếu nó dài hơn bình thường, chi tiết hơn, là vì hành động nổ súng gây tử vong. Hunt tiếp nhận câu hỏi dễ dàng. Ông đã từng qua cửa ải này trước đây.
Những câu hỏi bất thình lình khác thường sau ba mươi phút.
“Ông và Thám tử Yoakum là bạn, điều đó đúng không?”
“Chúng tôi là cộng sự.”
“Câu trả lời không đáp ứng, Thám tử.”
“John Yoakum là bạn tôi.”
“Ông có bao giờ thấy Thám tử Yoakum rút súng bắn trong cơn bực tức không?”
“Không. Dĩ nhiên là không.”
“Ông ta có bao giờ dùng vũ lực quá mức không?”
“Vũ lực áp dụng như thế nào là chuyện giải pháp tình huống. Thám tử Yoakum là người luôn cẩn thận phán đoán không chê trách vào đâu được.”
“Theo nhận định của ông?”
“Đúng.”
“Như là bạn ông ta.”
“Là thám tử chỉ huy trong những vụ án lớn.” Hunt cảm thấy sức nóng dưới lớp áo. “Là một sĩ quan với mười bảy năm kinh nghiệm. Chúng ta xong chưa?”
“Thêm vài câu hỏi nữa.”
“Bắt đầu đi.”
Matthews gõ nhịp đầu bút chì xuống bàn và bật ngửa người trên ghế.
“Thám tử Yoakum có mặt ở văn phòng ông hồi sớm hôm nay?”
“Đúng.”
“Các ông thảo luận chuyện gì?”
Sự kiên nhẫn của Hunt bốc hơi. “Gần đây chúng tôi có hơn một vài thứ để thảo luận.”
Đôi môi Matthews mấp máy, nhưng nụ cười không đồng bộ với ánh mắt. “Dĩ nhiên.” Cây bút chì gõ nhịp. “Tiffany Shore. Những đứa trẻ bị thảm sát.” Ông có thể nói về một gã đầu nậu xì ke hoặc cái bẫy tốc độ bắt người.
“Tôi sẽ cho ông đúng một phút,” Hunt nói. “Sau đó tôi sẽ bước ra khỏi đây.”
Matthews nghiêng người về phía trước. “Trong khi ở văn phòng của ông ngày hôm nay, Thám tử Yoakum có nói ai đó phải đền mạng cho những gì đã xảy ra với những đứa trẻ không?”
Hunt không hề nói gì.
“Ông ta có nói như vậy không?”
“Tôi nghĩ chúng ta xong rồi.” Hunt đứng dậy.
“Ông chưa trả lời câu hỏi của tôi.”
Hunt gằn giọng. “Những gì đã nói hoặc không nói ở văn phòng tôi không liên can gì đến chuyện xảy ra ngày hôm nay. Meechum cầm cây rìu. Yoakum đã làm những gì ông ta nghĩ ông ta phải làm.”
“Ông có chắc về điều đó không, Thám tử?” Matthews ngả cái ghế ra đằng sau tựa vào tường, và Hunt không thấy điều gì vui vẻ trên khuôn mặt của gã đàn ông. “Hãy nghĩ về điều đó.”
Hunt không nói chuyện với ai khi ông rời văn phòng nha cảnh sát. Đồng hồ của ông chỉ bảy giờ khi ông bước ra ngoài văn phòng và đụng phải một cơn giông nặng hạt. Ông bước bộ, không cảm giác gì, đến xe ô tô của ông. Bên trong, không khí ẩm ướt, ngột ngạt, hai tay tìm vô-lăng, ổ khóa. Ông nhìn quanh tìm các nhóm phóng viên săn tin tức nhưng không gặp ai. Có lẽ vì thời tiết.
Ai đó đã nghe được.
Mặc dầu ông đóng cửa, nhưng ai đó đã nghe những gì Yoakum nói.
Hunt ôm chặt vô-lăng và nhớ lại cú bắn xuyên tim của Yoakum. Cây rìu vung cao, Yoakum lăn xả vào căn phòng khi lưỡi rìu vung xuống. Nhìn thì giống nhau, nhưng cảm giác thì khác biệt.
Hay cảm giác cũng giống nhau?
Sau một phút, Hunt gọi anh con trai ở nhà. Bảy tiếng chuông reo, sau đó tiếng nhạc cất lên. Hunt cố gắng che giấu sự mệt mỏi cùng tính bồn chồn tự nhiên của ông. “Này, Allen.”
“Chuyện gì đó?”
“Con ăn cơm tối chưa?”
“Con đang hút thuốc và xem phim trần truồng. Bố quan tâm gì ba chuyện này?”
Hunt cắn răng che giấu cảm xúc. “Bố sẽ về nhà trong chốc lát. Muốn bố mua gì mang về không?”
Bên ngoài, Yoakum xuất hiện sau cánh cửa trước nha cảnh sát. Ông nhìn Hunt một lần, rồi giơ một tay và làm ám hiệu cây súng bằng hai ngón tay. Hunt chớp đèn. Yoakum kéo cò súng, rồi bước về xe riêng của ông, không thèm để ý đến trời đang mưa như Hunt.
“Đồ Tàu,” Allen nói, “nhưng một giờ nữa bố hãy về nhà.”
Yoakum mở cửa xe, chui vào, đóng cửa. Cả hai ở hai đầu bãi đậu xe. Đối nghịch nhau.
“Tại sao lại một giờ nữa?”
“Bởi vì con đang bận làm việc.”
Hunt mệt mỏi bởi bức tường giữa họ, sự vững chắc của nó, cái kiểu nó mọc cao hơn mỗi ngày.
Yoakum chui vào trong xe và Hunt cảm nhận được lúc động cơ khởi động. “Bố con mình xem phim sau khi ăn nhé? Như chúng ta vẫn thường làm ấy.”
“Con không nghĩ vậy.”
“Vậy đó hả?”
“Dạ. Thì như vậy đó.”
Yoakum lái xe rời khỏi bãi đậu cùng lúc anh nhóc cúp máy. Hunt cúp điện thoại và nhìn Yoakum lao đi. Họ cần nói chuyện, nhưng Hunt không sẵn sàng. Chưa. Cũng chẳng cần gấp. Ông có một giờ. Katherine chỉ ở cách đây mười phút lái xe. Ông nghĩ về chuyện này, rồi đề máy xe. Ông lái năm dặm dưới vận tốc quy định, chiếc ô tô bám chắc mặt đường trơn bóng như kính, nhưng khi đến gần vùng ven thị xã, ông phóng xe nhanh hơn. Ông muốn tìm gặp bà, ông nhận ra như vậy. Trong giờ phút đó, mưa rơi xuống mặt đường và hắt lên như một dòng sông nước đen ngòm, ông muốn gặp bà hơn bất kì điều gì khác.
Ô tô của ông leo lên ngọn đồi sau đó tụt dốc, đèn xe chiếu xuống, những ngôi nhà nhỏ bé hiện ra ở phía dưới. Khoảng cách giữa chúng được chia đều, ánh đèn đường hắt ra và sắc màu buồn tẻ cuộn vào trong những hàng cây; nhưng căn nhà của Katherine lại khác hẳn. Hunt cho xe chậm lại và hụp đầu xuống nhìn qua kính trước bị hơi nước phủ một lớp màng nhẹ. Đường dẫn vào nhà bà trống rỗng, xe của bà vẫn còn đang bị tạm giam, nhưng những xe tải săn tin tức đậu đầy hai bên đường. Chín chiếc. Chục chiếc.
Hunt quay đầu khi ông lái xe ngang họ. CNN. FOX. WRAL. Cả đống khác. Ông rẽ xe vào đường dẫn, vượt qua sát một chiếc xe tải gần nhất, và cửa mở tung khi một đám đông phóng viên túa ra đường trong cơn giông. Họ dầy dạn kinh nghiệm không tràn vào trong sân nhà bà Katherine, nhưng hò hét đặt câu hỏi trên đường phố ngay sau khi Hunt bước xuống giữa cơn mưa.
Ông tìm được Johnny chưa?
Sự thật có phải cậu ấy dẫn dắt ông tìm được kẻ sát nhân hàng loạt những đứa trẻ?
Những máy thu hình đã chuẩn bị hoạt động trong thời tiết xấu. Giới truyền thông thượng thặng mặc áo mưa nhưng nhanh chóng bị ẩm ướt và dơ bẩn. Những câu hỏi tiếp tục. Không thứ tự. Không rườm rà nghi thức. Họ chờ đợi từ lâu trong cơn mưa, và Hunt sẵn sàng đi vào căn nhà.
Thám tử, sự thật có phải con số tử thi bây giờ là bảy mạng không?
Đó là Băng tần số chín. Hunt biết gã ấy.
Cô bé Alyssa Merrimon có mặt trong con số tử thi không?
Tiếng nói lớn hơn.
Thám tử? Thám tử?
Những câu hỏi đến nhanh hơn, hét vang xuyên qua trời mưa tầm tã. Hunt quay lưng. Katherine mở cửa ở tiếng gõ cửa lần thứ hai, bé nhỏ, xanh xao và xinh đẹp.
Bà Merrimon...
Náo động. Hunt đứng giữa bà và những máy camera ghi hình. Nụ cười của bà không gượng ép như Hunt lo ngại nó sẽ thế. “Tôi được phép vào chứ?” Ông hỏi.
Bà để ông vào nhà, đóng cửa. “Johnny sao rồi?”
“Chưa.”
Bà bước qua một bên và Hunt trút bỏ chiếc áo khoác ướt đẫm. Chỉ một ngọn đèn cháy sáng trong căn nhà. Bà hé tấm rèm cửa và nhìn ra ngoài. Một tách cà phê nguội lạnh trên cái bàn cạnh ghế sofa. “Điều đó có thật không?” Bà nhìn ông bằng một con mắt đen thẫm, sau đó nhìn ra bên ngoài. “Họ nói những gì?”
“Họ nói những gì?”
“Rằng ông tìm được một hố chôn tập thể. Mà nó không thể nào phát hiện được nếu không nhờ Johnny.”
“Điều đó đúng.”
“Tôi không thể nào hỏi câu ấy.”
“Chúng tôi không có lý do nào tin rằng thi thể của Alyssa nằm ở đấy. Nhưng...”
“Nhưng sao?” Bà xoay người khỏi cửa sổ, đôi mắt mong manh, cằm nghiêng.
“Chúng tôi chưa hoàn tất tìm kiếm tất cả các thi thể. Cơn giông buộc chúng tôi phải ngưng tạm thời.”
“Vậy thì ngày mai?”
“Ngày mai, chúng tôi sẽ xem sao.”
Bà khoanh tay ôm lấy cơ thể. “Tôi lấy cho ông tách cà phê nhé? Hay trà? Tôi không có món gì nặng hơn.”
“Cà phê thì rất tuyệt vời.” Giọng bà thiểu não, Hunt nghĩ, nhưng bà cố gắng giữ vững mọi chuyện tươm tất hơn ông hy vọng bà có thể. “Tôi chỉ được phép có vài phút.”
“Cà phê.” Bà xoay người.
“Cảm ơn, Katherine.”
Bà rót cà phê vào tách và trao cho ông. “Vậy thì không có gì cả? Không một lời nào cả?”
Bà hỏi về Johnny. “Không,” ông nói. “Tôi xin lỗi.” Bà nhìn ra cửa sổ và cơn giông tít đằng xa, rồi sau đó ngồi xuống ghế sofa và Hunt ngồi cạnh bên. “Cậu bé là đứa trẻ cứng cỏi,” Hunt nói. “Chúng tôi đang tìm kiếm.”
“Ông có thể làm gì hơn được không? Bất cứ điều gì? Lệnh báo động chẳng hạn?”
“Những cái đó không bao giờ áp dụng ngoại trừ có chứng cớ rõ ràng là một vụ bắt cóc, và chúng tôi không tin cậu bé bị bắt cóc. Tất cả những chứng cớ cho thấy cậu bé tự ý bỏ đi. Ở một nơi nào đó. Căn cứ trên những gì đã từng làm trong quá khứ...”
Bà nhắm mắt, vỗ tay trên đùi. “Johnny...” Bà lắc đầu. “Tổ cha, Johnny. Giờ này con ở đâu?”
“Cậu bé là đứa trẻ thông minh, Katherine. Cậu bé sẽ không sao. Chúng tôi sẽ tìm được cậu bé.”
Khi bà mở mắt, mặt bà bóng như gương soi, và Hunt thấy rằng bà sẵn sàng chuyển hướng câu chuyện sang đề tài mới. “Gã Ken đến đây ba lần trong hôm nay.”
Hunt giấu sự lo lắng bất thình lình. “Tôi lại nghĩ gã ta bỏ qua rồi. Gã nói như vậy mà.”
“Đó không phải là chuyện Ken Holloway làm. Nếu gã nói với ông như vậy, gã nói láo.”
“Có đe dọa gì không?” Hunt hỏi.
“Gã đập cửa, thều thào nói những lời xấu xa.”
“Gã có nói bất cứ lời đe dọa nào không?” Hunt gặng hỏi. Ông có thể truy tố Holloway về chuyện buông lời hăm dọa. Nó sẽ rất hợp với việc truy tố về cản trở công lý. Chúng chỉ là những truy tố quá tầm thường đối với người như gã Holloway, nhưng sẽ khiến gã bị tống giam ngay dù chỉ là một thời gian ngắn. Chúng sẽ giúp cách ly gã khỏi Katherine.
“Chúng ta có thể ngồi không?” Bà hỏi. “Chúng ta có thể chỉ ngồi trong yên lặng được không?”
Hunt bỏ qua sự bực tức và lo lắng. “Được,” ông nói, và họ ngồi trong khi tách cà phê của ông nguội dần, và nhóm phóng viên săn tin tức buông tay và trèo trở vào trong xe. Sau một lúc, Hunt để ý bà ta ôm chặt cái gì ở giữa hai tay, ép hai bàn tay vào với nhau và nhét vào giữa cặp đùi.
“Tôi ở trong phòng Johnny hồi sớm ngày hôm nay. Ông biết...”
Bà bỏ lửng và Hunt có thể thấy bà vào trong ấy, sờ mó đồ vật của con trai, khó khăn vất vả dìm nén nỗi sợ hãi và nghi ngờ.
“Tôi tìm thấy những cái này.” Bà mở lòng bàn tay và Hunt thấy một xấp danh thiếp. Chúng nhăn nhúm và ẩm ướt. Bà nhìn lên, chạm ánh nhìn của ông. “Cả thảy mười chín cái.”
Một cú sốc rõ ràng hiện trên khuôn mặt bà và Hunt cảm thấy một sự ngượng ngùng bất thình lình và lạ kỳ. “Tôi muốn Johnny biết có ai đó để gọi điện thoại,” Hunt nói. “Nếu chuyện trở nên tồi tệ.”
Bà gật đầu, không ngạc nhiên. “Sau khi tìm được chúng, tôi tìm quanh nhà và tìm tất cả danh thiếp ông đã đưa cho tôi. Tôi đã vứt đi khá nhiều, tôi biết điều đó, nhưng tôi vẫn tìm thấy cả chục cái.”
“Đó là công việc của tôi,” Hunt nói.
Sự rõ ràng không hề do dự. “Thật vậy sao?” Hunt nhìn đi chỗ khác. “Ông lúc nào cũng có mặt bên cạnh chúng tôi.”
“Bất cứ người cảnh sát tử tế nào cũng làm tương tự như vậy.”
“Tôi không nghĩ như vậy.” Một lần, vai của bà chạm vào người Hunt, và ông cảm được một luồng xung điện, một luồng lửa xanh thẫm phập mạnh và đau. “Cảm ơn,” bà nói, và họ ngồi trong yên lặng, hai người, cạnh bên nhau. Bà kéo chân mình lên, đặt hai tay vào trong đùi và tựa đầu bà vào bờ vai của ông. Hunt cảm nhận được cánh tay nhỏ bé của bà ép mạnh vào ông, hơi ấm làn da của bà khi mưa lạnh đang rơi vần vũ ngoài cửa sổ. “Cảm ơn,” bà nói một lần nữa.
Và Hunt ngồi lặng lẽ như tượng đá.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.