Chương 508: Quyển 507 Xi. Phẩm Tán Thán Thanh Tịnh 02
Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
14/08/2021
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v… an trụ Đại thừa, nếu không dùng phương tiện thiện xảo đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa khởi tưởng Bát-nhã ba-la-mật-đa thì các thiện nam, thiện nữ v.v… này dùng có sở đắc làm phương tiện, xả bỏ xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Lành thay! Lành thay! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Các thiện nam, thiện nữ v.v… kia vì đắm trước danh, đắm trước tướng, nên đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này xả bỏ xa lìa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Vì sao các thiện nam, thiện nữ v.v… kia đắm trước danh, đắm trước tướng?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ v.v… kia đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm chấp danh, chấp lấy tướng. Đã chấp lấy danh, tướng rồi, nên bị chìm đắm nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà sanh kiêu mạn, không thể chứng đắc thật tướng Bát-nhã. Cho nên những hạng người đó đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm xả bỏ xa lìa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ v.v… an trụ Đại thừa, nếu có dùng phương tiện thiện xảo đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, không khởi vọng tưởng Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, không chấp lấy danh, tướng, không vọng tưởng chìm đắm, không sanh kiêu mạn, liền có thể chứng đắc thật tướng Bát-nhã. Nên biết, những vị này đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, không xả bỏ, cũng không xa lìa.
Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Ngài khéo vì chúng Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà khai thị, phân biệt tướng nhiễm trước, không nhiễm trước.
Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
– Vì sao Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, khởi tướng nhiễm trước, không nhiễm trước?
Thiện Hiện đáp:
– Các thiện nam, thiện nữ v.v… an trụ Đại thừa, nếu không dùng phương tiện thiện xảo, khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, đối với sắc cho là Không, phát sanh sự chấp trước tưởng Không; đối với thọ, tưởng, hành, thức cho là Không, phát sanh sự chấp trước tưởng Không. Như vậy cho đến đối với trí nhất thiết cho là Không, phát sanh sự chấp trước tưởng Không; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cho là Không, phát sanh sự chấp trước tưởng Không.
Lại nữa, Xá-lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ v.v… an trụ Đại thừa, nếu không dùng phương tiện thiện xảo, khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với sắc cho là sắc, phát sanh sự chấp trước tưởng sắc. Cho đến đối với trí nhất thiết tướng cho là trí nhất thiết tướng, phát sanh sự chấp trước tưởng trí nhất thiết tướng. Đối với pháp quá khứ cho là pháp quá khứ, phát sanh sự chấp trước tưởng pháp quá khứ. Đối với pháp vị lai cho là pháp vị lai, phát sanh sự chấp trước tưởng pháp vị lai. Đối với pháp hiện tại cho là pháp hiện tại, phát sanh sự chấp trước tưởng pháp hiện tại.
Lại nữa, Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát dùng có sở đắc làm phương tiện, từ lúc mới phát tâm đối với bố thí Ba-la-mật-đa cho đến trí nhất thiết tướng, khởi tưởng thực hành nhiễm trước. Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, nếu không dùng phương tiện thiện xảo mà dùng có sở đắc làm phương tiện, khởi các tưởng nhiễm trước như vậy thì gọi là tướng nhiễm trước.
Lại nữa, Xá-lợi Tử! Về câu hỏi trước của ông, làm sao Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không nhiễm trước nơi tướng. Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, có dùng phương tiện thiện xảo, đối với sắc chẳng khởi tưởng Không, bất Không; đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng khởi tưởng Không, bất Không. Cho đến đối với trí nhất thiết chẳng khởi tưởng Không, bất Không; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng khởi tưởng Không, bất Không. Đối với pháp quá khứ chẳng khởi tưởng Không, bất Không. Đối với pháp vị lai, hiện tại chẳng khởi tưởng Không, bất Không.
Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, có dùng phương tiện thiện xảo, không có ý nghĩa như vầy:
Ta có thể thực hành bố thí, sự thực hành bố thí như vậy là hành bố thí.
Ta có thể trì giới, đây là sự trì giới, như vậy là trì giới.
Ta có thể tu nhẫn nhục, đây là sự tu nhẫn nhục, như vậy là tu nhẫn nhục.
Ta có thể tinh tấn, đây là sự tinh tấn, như vậy là tinh tấn.
Ta có thể tu thiền định, đây là sự tu thiền định, như vậy là tu thiền định.
Ta có thể tu tuệ, đây là sự tu tuệ, như vậy là tu tuệ.
Ta có thể gieo trồng phước đức, đây là chỗ gieo trồng phước đức, như vậy là sự gieo trồng phước đức.
Ta có thể nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát.
Ta có thể trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật.
Ta có thể thành thục hữu tình.
Ta có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, có dùng phương tiện thiện xảo. Tất cả như vậy không phân biệt. Do thông đạt pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không.
Xá-lợi Tử! Đây gọi là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, không chấp trước tướng.
Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:
– Các thiện nam, thiện nữ v.v… an trụ Đại thừa, khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, làm sao biết được sự phát sanh chấp trước tướng kia?
Thiện Hiện đáp:
– Các thiện nam, thiện nữ v.v… an trụ Đại thừa, khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, nếu không dùng phương tiện thiện xảo, lấy có sở đắc làm phương tiện, tự tâm khởi tưởng, khởi tưởng bố thí, cho đến khởi tưởng trí nhất thiết trí, khởi tưởng chư Phật, đối với chư Phật khởi tưởng gieo trồng thiện căn, dùng các thiện căn đã gieo trồng tập hợp đem cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Kiều-thi-ca! Do đây nên biết các thiện nam, thiện nữ v.v… an trụ Đại thừa, khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm có khởi tưởng chấp trước.
Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… do chấp trước tướng nên không thể tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa vô trước, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì chẳng phải bản tánh sắc có thể hồi hướng, cho đến chẳng phải bản tánh trí nhất thiết tướng có thể hồi hướng.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát muốn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà thị hiện khuyên bảo, hướng dẫn khen ngợi, hoan hỷ cho các hữu tình khác, thì nên quán sát thật tướng bình đẳng của các pháp. Tùy theo đây mà tác ý, thị hiện, khuyên bảo, hướng dẫn, khen ngợi, hoan hỉ các hữu tình khác. Nghĩa là nói như vầy: Các thiện nam tử! Khi hành bố thí, không nên phân biệt ta có thể hành bố thí. Cho đến khi hành trí nhất thiết tướng, không nên phân biệt ta có thể hành trí nhất thiết tướng. Khi tu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, không nên phân biệt ta có thể tu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.
Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà thị hiện, khuyên bảo, hướng dẫn, khen ngợi, hoan hỉ các hữu tình khác nên thị hiện, khuyên bảo, hướng dẫn, khen ngợi, hoan hỉ các hữu tình khác như thế. Nếu làm được như vậy, thì đối với mình không bị tổn giảm, với người cũng không bị tổn giảm. Cũng như chư Như Lai đã thị hiện, khuyên bảo, hướng dẫn, khen ngợi, hoan hỉ các hữu tình.
Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v… an trụ Đại thừa, nếu có thể thị hiện, khuyên bảo, hướng dẫn, khen ngợi, hoan hỉ các hữu tình như vậy thì có thể xa lìa tất cả chấp trước.
Bấy giờ, Thế Tôn khen ngợi Thiện Hiện:
– Lành thay! Lành thay! Ông nay khéo vì các Đại Bồ-tát mà thuyết tướng chấp trước. Lại còn có sự chấp trước vi tế khác nữa. Ta sẽ vì ông mà thuyết, ông nên lắng nghe khéo suy nghĩ.
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn thuyết giảng, chúng con rất muốn nghe.
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Các thiện nam tử v.v… an trụ Đại thừa, muốn đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nếu đối với Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà chấp tướng nhớ nghĩ, đều là chấp trước. Nếu đối với chư Phật Thế Tôn ba đời, từ lúc mới phát tâm cho đến Chánh pháp cửu trụ, có bao nhiêu thiện căn đều chấp tướng, nhớ nghĩ, tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đều là chấp trước. Nếu đối với sự tu hành thiện căn của các đệ tử Như Lai mà chấp tướng, nhớ nghĩ, tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đều là chấp trước. Vì sao? Vì công đức thiện căn của chư Như Lai và các đệ tử không nên chấp tướng, nhớ nghĩ, phân biệt. Ai chấp tướng đều là hư vọng.
Thiện Hiện liền bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, thật là sâu xa?
Phật dạy:
– Đúng vậy! Vì tất cả pháp, bản tánh vốn xa lìa.
Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đều nên lễ kính?
Phật dạy:
– Đúng vậy! Tuy được nhiều công đức nhưng Bát-nhã ba-la-mật-đa này không tạo, không tác, không chứng.
Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Vì tánh tất cả pháp không thể chứng ngộ.
Phật dạy:
– Đúng vậy! Vì tất cả pháp nhất tánh chẳng phải hai. Thiện Hiện nên biết! Các pháp nhất tánh tức là vô tánh.
Các pháp vô tánh tức là nhất tánh.
Các pháp nhất tánh, vô tánh như vậy vốn là thật tánh. Vốn thật tánh này không tạo, không tác. Nếu Đại Bồ-tát như thật biết nhất tánh, vô tánh, không tạo, không tác, tức là xa lìa tất cả chấp trước.
Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế khó có thể hiểu nổi?
Phật dạy:
– Đúng vậy! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không thể thấy, nghe hiểu biết được.
Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế bất khả tư nghì?
Phật dạy:
– Đúng vậy! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không thể dùng tâm chấp, hay xa lìa tướng tâm; không thể dùng sắc chấp, hay xa lìa tướng sắc. Cho đến không thể dùng trí nhất thiết tướng chấp, hay xa lìa tướng trí nhất thiết tướng. Không thể dùng tất cả pháp chấp, hay xa lìa tướng tất cả pháp.
Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế không chỗ tạo tác sao?
Phật dạy:
– Đúng vậy! Vì các tác giả bất khả đắc. Thiện Hiện nên biết! Sắc bất khả đắc nên tác giả bất khả đắc; thọ, tưởng, hành, thức bất khả đắc nên tác giả bất khả đắc. Cho đến trí nhất thiết tướng bất khả đắc nên tác giả bất khả đắc. Tất cả pháp bất khả đắc nên tác giả bất khả đắc. Do các tác giả và sắc v.v… là pháp bất khả đắc, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không tạo, không tác.
Bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nào?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát không hành nơi sắc là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; không hành thọ, tưởng, hành, thức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cho đến không hành trí nhất thiết là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; không hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát không hành sắc hoặc thường, hoặc vô thường, hoặc vui, hoặc khổ, hoặc ngã, hoặc vô ngã, hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly, hoặc tịch tĩnh, hoặc bất tịch tĩnh là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cho đến không hành trí nhất thiết tướng hoặc thường, hoặc vô thường, hoặc vui, hoặc khổ, hoặc ngã, hoặc vô ngã, hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly, hoặc tịch tĩnh, hoặc bất tịch tĩnh là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì sắc cho đến trí nhất thiết tướng vô sở hữu, huống chi có thường, vô thường cho đến tịch tĩnh, bất tịch tĩnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát không hành sắc viên mãn là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Không hành sắc bất viên mãn là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cho đến không hành trí nhất thiết tướng viên mãn là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Không hành trí nhất thiết tướng bất viên mãn là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì nếu sắc viên mãn và bất viên mãn đều không gọi là sắc, cũng không hành như thế là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cho đến nếu trí nhất thiết tướng viên mãn và bất viên mãn đều không gọi là trí nhất thiết tướng, cũng không hành như thế là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Kỳ lạ thay! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo vì Bồ-tát tuyên thuyết các tướng chấp trước, không chấp trước.
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo vì Bồ-tát tuyên thuyết các tướng chấp trước, không chấp trước, làm cho việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa mau chóng đạt đến cứu cánh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, nếu không hành tướng sắc chấp trước, không chấp trước là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Không hành tướng thọ, tưởng, hành, thức chấp trước, không chấp trước là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cho đến nếu không hành tướng tất cả hạnh Đại Bồ-tát chấp trước, không chấp trước là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Không hành tướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật chấp trước, không chấp trước là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ! Pháp tánh sâu xa rất là hi hữu, nếu thuyết, không thuyết đều không tăng giảm?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Pháp tánh sâu xa rất là hi hữu, nếu thuyết, không thuyết đều không tăng giảm. Ví như hư không, giả sử trọn đời hoặc khen, hoặc chê chư Phật nhưng hư không kia không tăng, không giảm. Pháp tánh sâu xa cũng lại như vậy, nếu thuyết, không thuyết đều không tăng giảm. Lại như người huyễn đối với việc khen chê không vui, không buồn, không tăng, không giảm. Pháp tánh sâu xa cũng lại như vậy, nếu thuyết, không thuyết cũng vậy không khác.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thật là việc rất khó. Nghĩa là Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, tu hay không tu cũng không tăng, không giảm, không buồn, không vui, không phải, không trái, mà siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thường không thối chuyển. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như tu hư không, hoàn toàn vô sở hữu. Như trong hư không, không sắc có thể rõ, cũng không thọ, tưởng, hành, thức có thể rõ. Cho đến không hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát có thể rõ, cũng không đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có thể rõ. Chỗ tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng lại như vậy. Nghĩa là trong pháp sâu xa Bát-nhã ba-la-mật-đa này không sắc có thể đắc. Cho đến không quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có thể đắc. Trong đây các pháp tuy không có thể đắc, nhưng các Đại Bồ-tát có thể siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thường không thối chuyển. Cho nên con nói các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thật là việc khó.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát mặc áo giáp đại công đức như thế, hữu tình chúng con đều nên kính lễ. Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì các hữu tình thành thục giải thoát nên tinh tấn mặc áo giáp công đức. Cũng như vì hư không thành thục giải thoát nên tinh tấn mặc áo giáp công đức. Nếu Đại Bồ-tát vì tất cả pháp, siêng năng tinh tấn mặc áo giáp công đức. Cũng như vì hư không phát tâm siêng năng tinh tấn mặc áo giáp công đức. Nếu Đại Bồ-tát vì cứu vớt hữu tình ra khỏi biển khổ sanh tử, nên siêng năng tinh tấn mặc áo giáp công đức. Cũng như vì muốn đem hư không để chỗ cao hơn, nên siêng năng tinh tấn mặc áo giáp công đức.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát được đại tinh tấn Ba-la-mật-đa, vì các loài hữu tình như hư không được lợi ích an lạc lớn, nên phát tâm đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát được thần lực vô đẳng bất tư nghì, vì biển pháp tánh như hư không nên mặc áo giáp công đức, phát tâm đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát rất là dõng mãnh, vì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật như hư không, nên siêng năng tinh tấn mặc áo giáp công đức.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát vì các loài hữu tình như hư không nên siêng năng tu hành khổ hạnh, muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thật là hi hữu. Vì sao? Vì giả sử Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở khắp ba ngàn đại thiên thế giới như rừng trúc, mè, tre, lau, mía v.v… sống ở đời một kiếp hoặc hơn một kiếp, vì các hữu tình thường thuyết Chánh pháp, độ thoát vô lượng, vô số hữu tình, làm cho họ nhập Niết-bàn cứu cánh an lạc, nhưng cõi hữu tình không tăng, không giảm. Vì sao? Vì các hữu tình đều vô sở hữu, tự tánh xa lìa.
Bạch Thế Tôn! Giả sử Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khắp mười phương tất cả thế giới như rừng, tre, mè, lau, mía v.v… sống ở đời một kiếp hoặc hơn một kiếp, vì các hữu tình thường thuyết Chánh pháp, độ thoát vô lượng, vô số hữu tình làm cho nhập Niết-bàn cứu cánh an lạc, nhưng cõi hữu tình không tăng, không giảm. Vì sao? Vì các loài hữu tình đều vô sở hữu, tự tánh viễn ly.
Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên này nên con nói: Các Đại Bồ-tát vì các hữu tình như hư không mà siêng năng tu hành khổ hạnh, muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thật là hi hữu.
Lúc bấy giờ, trong chúng có một Bí-sô nghĩ như vầy: Ta nên kính lễ Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm. Trong đây, các pháp tuy không sanh diệt, không có thiết lập giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn có thể đắc. Cũng thiết lập quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, tất cả Đại Bồ-tát hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có thể đắc. Cũng thiết lập Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình có thể đắc.
Phật biết ý nghĩ của Bí-sô kia, liền bảo:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ý ông nghĩ. Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm vi diệu khó lường. Trong đây, các pháp tuy không có thể đắc, nhưng cũng chẳng phải không.
Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:
– Nếu Đại Bồ-tát muốn học Bát-nhã ba-la-mật-đa nên học như thế nào?
Thiện Hiện đáp:
– Nên tinh cần tu học như hư không.
Trời Đế Thích lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, viết chép, giảng giải tuyên thuyết, lưu truyền rộng rãi, con phải hộ trì như thế nào?
Cụ thọ Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:
– Ông thấy có pháp có thể hộ trì không?
Trời Đế Thích thưa:
– Thưa Đại đức! Con không thấy pháp gì có thể hộ trì.
Thiện Hiện bảo:
– Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… đúng như lời Phật thuyết, an trụ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là hộ trì. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa thường không xa lìa. Nên biết tất cả người chẳng phải người v.v… rình tìm chỗ dở của vị ấy làm tổn hại nhưng không thể được.
Kiều-thi-ca! Nếu muốn hộ trì các Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không khác người siêng năng tinh tấn hộ trì hư không. Nếu muốn hộ trì các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm chỉ luống uổng nhọc nhằn, hoàn toàn không có ích lợi.
Kiều-thi-ca! Ý ông thế nào? Có ai hộ trì huyễn, mộng, tiếng vang, ảnh trong gương, sóng nắng, thành Tầm hương (ảnh ảo), việc biến hóa không?
Trời Đế Thích thưa:
– Thưa Đại đức! Không có.
Thiện Hiện dạy:
– Kiều-thi-ca! Nếu muốn hộ trì các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cũng lại như vậy, chỉ luống uổng nhọc nhằn, hoàn toàn không có ích lợi.
Kiều-thi-ca! Ý ông thế nào? Có ai hộ trì việc huyễn hóa của Phật và Như Lai không?
Trời Đế Thích thưa:
– Thưa Đại đức! Không có.
Thiện Hiện dạy:
– Kiều-thi-ca! Nếu muốn hộ trì các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng lại như vậy, chỉ luống uổng nhọc nhằn, hoàn toàn không có lợi ích.
Kiều-thi-ca! Ý ông thế nào? Có người hộ trì pháp giới, chơn như cho đến cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì không?
Trời Đế Thích thưa:
– Thưa Đại đức! Không có.
Thiện Hiện dạy:
– Kiều-thi-ca! Nếu muốn hộ trì các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng lại như vậy, chỉ luống uổng nhọc nhằn, hoàn toàn không có lợi ích.
Khi ấy, trời Đế Thích lại hỏi Thiện Hiện:
– Vì sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, tuy đạt các pháp như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như hình tượng, như ảnh trong gương, như sóng nắng, như thành Tầm hương, như việc biến hóa mà Đại Bồ-tát này không chấp trước là huyễn cho đến việc biến hóa này; không chấp bởi huyễn cho đến việc biến hóa, không chấp thuộc huyễn cho đến thuộc việc biến hóa; không chấp nương tựa huyễn cho đến nương tựa việc biến hóa?
Thiện Hiện đáp:
– Nếu khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, không chấp là sắc cho đến trí nhất thiết tướng. Không chấp bởi sắc cho đến trí nhất thiết tướng, không chấp thuộc sắc cho đến trí nhất thiết tướng, không chấp nương tựa sắc cho đến trí nhất thiết tướng. Đại Bồ-tát này khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, tuy đạt các pháp như huyễn cho đến như việc biến hóa, nhưng không chấp là huyễn cho đến là việc biến hóa. Cũng lại không chấp bởi huyễn cho đến bởi việc biến hóa. Cũng lại không chấp thuộc huyễn cho đến thuộc việc biến hóa. Cũng lại không chấp nương tựa huyễn cho đến nương tựa việc biến hóa. Cho đến không chấp là tướng, bởi do tướng, thuộc tướng, nương tựa tướng.
Lúc bấy giờ, nhờ thần lực của Thế Tôn khiến cho tất cả chư Thiên từ trời Tứ đại thiên vương, cho đến trời Sắc cứu cánh ở ba ngàn đại thiên thế giới đều đem hương bột chiên-đàn ở cõi trời rải lên Thế Tôn, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi đứng một bên. Nhờ thần lực của Phật, khi ấy chư Thiên đều thấy ở mười phương có ngàn đức Phật tuyên thuyết danh tự phẩm nghĩa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều giống như ở tại đây. Đứng đầu trong chúng Bí-sô thỉnh thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là Thiện Hiện. Đứng đầu trong chúng chư Thiên thưa hỏi Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là Đế Thích.
Khi ấy, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:
– Khi Bồ-tát Từ Thị chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa ở chỗ này. Chư Phật tương lai trong Hiền kiếp này cũng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa ở đây.
Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:
– Khi Bồ-tát Từ Thị chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, dùng các pháp hành, tướng trạng gì để tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Khi Bồ-tát Từ Thị chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sẽ dùng sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng ngã, chẳng vô ngã, chẳng tịnh, chẳng bất tịnh, chẳng viễn ly, chẳng bất viễn ly, chẳng tịch tĩnh, chẳng bất tịch tĩnh, chẳng buộc, chẳng mở, chẳng có, chẳng không, chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại mà tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cho đến sẽ lấy trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng ngã, chẳng vô ngã, chẳng tịnh, chẳng bất tịnh, chẳng viễn ly, chẳng bất viễn ly, chẳng tịch tĩnh, chẳng bất tịch tĩnh, chẳng buộc, chẳng mở, chẳng có, chẳng không, chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại mà tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Khi Bồ-tát Từ Thị chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, Ngài chứng những pháp gì và thuyết những pháp gì?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Khi Bồ-tát Từ Thị chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chứng đắc sắc hoàn toàn thanh tịnh, thuyết sắc hoàn toàn thanh tịnh. Cho đến chứng trí nhất thiết tướng hoàn toàn thanh tịnh, thuyết trí nhất thiết tướng hoàn toàn thanh tịnh.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh như thế nào?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Sắc thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh. Cho đến trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:
– Vì sao sắc thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh, cho đến vì sao trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Sắc vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh nên thanh tịnh. Vì sắc thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh. Cho đến trí nhất thiết tướng vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh nên thanh tịnh. Vì trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Vì sao hư không thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Hư không vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh nên thanh tịnh. Vì hư không thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh. Cho đến trí nhất thiết tướng không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
– Bạch Thế Tôn! Vì sao sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh? Cho đến trí nhất thiết tướng không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh?
– Thiện Hiện! Vì sắc không thể chấp lấy nên không nhiễm ô. Sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh. Cho đến trí nhất thiết tướng không thể chấp lấy nên không nhiễm ô. Trí nhất thiết tướng không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
– Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh?
– Thiện Hiện! Hư không không thể chấp lấy nên không nhiễm ô. Hư không không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không chỉ là giả thuyết nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.
– Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không chỉ là giả thuyết nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh?
– Thiện Hiện! Cũng như nhờ hư không hai tiếng vang xuất hiện, chỉ có giả thuyết. Vì chỉ là giả thuyết nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không bất khả thuyết nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
– Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không bất khả thuyết nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh?
– Thiện Hiện! Việc hư không không thể nói nên bất khả thuyết. Vì bất khả thuyết nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không bất khả đắc nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
– Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không bất khả đắc nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh?
– Thiện Hiện! Việc hư không không thể đắc nên bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả pháp vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.
– Bạch Thế Tôn! Vì sao tất cả pháp vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh?
– Thiện Hiện! Vì tất cả pháp hoàn toàn thanh tịnh nên vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh. Vì vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
XII. PHẨM TÁN THÁN CÔNG ĐỨC
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, viết chép, giảng giải tuyên thuyết, lưu truyền rộng rãi, thì các thiện nam, thiện nữ v.v… này các căn không bệnh, thân thể đầy đủ, không bị già yếu, cũng không bị chết ngang trái, thường được vô lượng trăm ngàn thiên thần cung kính nhiễu quanh, thường theo hộ trì các thiện nam, thiện nữ v.v… này. Đối với những ngày mùng tám, mười bốn, mười lăm trong nửa tháng có trăng, và nửa tháng không trăng mà đọc tụng, tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, là khi đó, trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Sắc cứu cánh đều đến vân tập ở chỗ Pháp sư này để lắng nghe, thọ trì pháp nghĩa Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Do nhân duyên này, các thiện nam, thiện nữ v.v… này liền được vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì công đức hi hữu.
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thậm là đại bảo tạng, nên vô lượng, vô số, vô biên hữu tình giải thoát khỏi địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ và các khổ nghèo nàn bệnh hoạn trong cõi trời, người. Cũng có thể đem sự phú quí an lạc cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đại tộc Sát-đế-lợi cho đến đại tộc Cư sĩ. Cũng đem sự phú quí an lạc cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Cũng đem sự tự tại an lạc cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, Vô thượng Bồ-đề. Vì sao? Vì trong đại bảo tạng của Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, thuyết rộng, khai thị mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, như vậy cho đến trí nhất thiết tướng. Vô lượng, vô số, vô biên hữu tình tu học trong đó, nên được sanh trong đại tộc Sát-đế-lợi cho đến đại tộc Cư sĩ. Hoặc sanh nơi trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Hoặc đắc quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề. Hoặc nhập vào Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, tu tập các bậc của Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do nhân duyên này nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm gọi là đại bảo tạng. Công đức trân bảo ở thế gian và xuất thế gian đều y vào đây mà xuất hiện.
Thiện Hiện nên biết! Trong đại bảo tạng Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không có một chút pháp gì thuyết có sanh, có diệt, có nhiễm, có tịnh, có lấy, có bỏ. Vì sao? Vì trong đây không có pháp có thể sanh, có thể diệt, có thể nhiễm, có thể tịnh, có thể lấy, có thể bỏ.
Thiện Hiện nên biết! Trong đại bảo tạng Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không thuyết có pháp là thiện, là chẳng thiện, là hữu lậu, là vô lậu, là có tội, là vô tội, là tạp nhiễm, là thanh tịnh, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi. Do nhân duyên này nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm gọi là đại pháp bảo tạng vô sở đắc.
Thiện Hiện nên biết! Trong đại bảo tạng Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không có một chút pháp gì thuyết là có thể nhiễm ô, có thể thanh tịnh. Vì sao? Vì trong đây không có pháp nào có thể nhiễm ô, thanh tịnh. Do nhân duyên này nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm gọi là đại pháp bảo tạng vô nhiễm tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu khi Đại Bồ-tát nào hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không tưởng như vậy, phân biệt như vậy, có đắc như vậy, hý luận như vậy, ta có thể tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là Đại Bồ-tát như thật tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, cũng thân cận, phụng sự chư Phật. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Du hành các cõi Phật, khéo lấy tướng kia để thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, tu các hạnh Đại Bồ-tát, mau chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm đối với tất cả pháp không phải, không trái, không dẫn, không khiến, không lấy, không bỏ, không sanh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm. Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại, không vượt Dục giới, không trụ Dục giới, không vượt Sắc giới, không trụ Sắc giới, không vượt Vô sắc giới, không trụ Vô sắc giới. Đối với bố thí Ba-la-mật-đa không cho, không bỏ, cho đến đối với trí nhất thiết tướng không cho, không bỏ. Đối với quả Dự lưu không cho, không bỏ, cho đến đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật không cho, không bỏ. Không cho các Thánh pháp, không bỏ pháp dị sanh; không cho các Phật pháp, không bỏ pháp Nhị thừa; không cho cảnh giới vô vi, không bỏ cảnh giới hữu vi. Vì sao? Vì Như Lai xuất hiện ở đời hoặc không xuất hiện ở đời, các pháp vẫn như vậy thường không biến đổi, an trụ nơi pháp giới. Tất cả Như Lai hiện giác, hiện quán. Đã tự hiện giác, tự hiện quán rồi, thì vì các hữu tình tuyên thuyết, khai thị, phân biệt rõ ràng, làm cho tất cả cùng giác ngộ, xa lìa các vọng tưởng phân biệt điên đảo.
Lúc bấy giờ, vô lượng trăm ngàn Thiên tử ở trong hư không đều vui mừng hớn hở, cầm hoa sen xanh, hoa sen trắng, hoa sen đỏ, hoa sen vàng, hương thơm nhiệm mầu và các hương bột rải lên đức Phật; Ai ai cũng hân hoan giống nhau, đồng thanh bạch Phật:
– Hiện nay, chúng con ở châu Thiệm-bộ, thấy Phật chuyển pháp luân lần thứ hai. Trong pháp hội ấy có vô lượng trăm ngàn Thiên tử, nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa đều đồng chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn.
Khi ấy, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:
– Pháp luân như vậy, chẳng phải chuyển lần thứ nhất, cũng chẳng phải chuyển lần thứ hai. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm đối với tất cả pháp, không vì lưu chuyển, không vì hoàn diệt mà chỉ vì pháp vô tính tự tính Không nên xuất hiện ở thế gian.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Sao lại vì pháp vô tính tự tính Không mà Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm đối với tất cả pháp không vì lưu chuyển, không vì hoàn diệt nên xuất hiện ở thế gian?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cho đến bố thí Ba-la-mật-đa, tự tánh Không của Bát-nhã sâu xa cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Cho đến vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, tự tánh Không của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì quả Dự lưu, tự tánh Không của quả Dự lưu. Cho đến vì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, tự tánh Không của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.
Thiện Hiện nên biết! Vì pháp vô tính tự tính Không của các pháp như vậy, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm đối với tất cả pháp không vì lưu chuyển, không vì hoàn diệt mà xuất hiện ở thế gian.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là Ba-la-mật-đa rộng lớn, đạt được tự tánh Không của tất cả pháp. Tuy đạt được tự tánh Không của tất cả các pháp nhưng tự tánh của các pháp đều là Không. Các Đại Bồ-tát chỉ nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình. Tuy chứng quả giác ngộ nhưng không chứng. Pháp chứng hay không chứng bất khả đắc. Tuy chuyển pháp luân mà không có sự chuyển. Pháp chuyển, pháp hoàn đều bất khả đắc. Tuy độ thoát các hữu tình nhưng không có sự độ thoát, và pháp thấy, không thấy đều bất khả đắc.
Bạch Thế Tôn! Trong đại Bát-nhã ba-la-mật-đa này, việc chuyển pháp luân hoàn toàn bất khả đắc, vì tất cả pháp vĩnh viễn không sanh, nên sự lưu chuyển, chỗ chuyển đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong pháp chẳng có không, vô tướng, vô nguyện, có thể lưu chuyển và có thể hoàn diệt. Vì pháp tánh lưu chuyển, hoàn diệt bất khả đắc.
Bạch Thế Tôn! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, nếu tuyên thuyết khai thị, phân biệt rõ ràng như vậy, làm cho người khác ngộ nhập dễ dàng thì gọi là thanh tịnh tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa. Trong đây hoàn toàn không có người thuyết, người thọ trì, pháp để thuyết và thọ. Đã không người thuyết, người thọ và pháp thuyết, người chứng cũng bất khả đắc; không người chứng nên cũng không có người đắc Niết-bàn. Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm trong pháp khéo thuyết cũng không phước điền. Người cho, người nhận, vật cho đều tánh Không. Phước điền không nên tánh phước cũng Không, biểu thị danh tự, lời nói đều bất khả đắc. Cho nên gọi là Ba-la-mật-đa rộng lớn.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là vô biên Ba-la-mật-đa hay sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Như khoảng hư không vô biên.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là bình đẳng Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp tánh bình đẳng.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là viễn ly Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Hoàn toàn Không.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là khó khuất phục Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không dấu chân Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không tên gọi, thể tánh.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là hư không Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì hơi thở vào, hơi thở ra bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là bất khả thuyết Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì trong đây không tầm cũng không tứ.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là vô danh Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì thọ, tưởng, hành v.v… bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là vô chuyển Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không đến và đi.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không thể dẫn Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không thể nắm giữ.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là cùng tận Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp hoàn toàn cùng tận.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là vô sanh, vô diệt Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không sanh diệt.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là vô tác Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì các tác giả bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là vô tri Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì những người biết bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không chuyển động Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì việc sanh tử bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không điều phục Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp có thể điều phục, tánh bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là như mộng, như tiếng vang, như hình tượng, như huyễn hóa, như ảnh trong gương, như sóng nắng, như thành Tầm hương, như việc biến hóa Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì chỗ thấy tất cả pháp như mộng cho đến như việc biến hóa, bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không nhiễm tịnh Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì nhân nhiễm tịnh bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không bôi nhơ Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì nơi để pháp kia nương tựa, bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không hý luận Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì các việc hý luận diệt trừ vĩnh viễn.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không chấp trước kiêu mạn Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì phá hoại tất cả việc chấp trước kiêu mạn.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không động chuyển Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì pháp giới an trụ.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là xa lìa nhiễm trước Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì ngộ tất cả pháp chẳng hư vọng.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không phát sanh đồng loại Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì không phân biệt với tất cả pháp.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là tịch tĩnh Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì vô sở đắc đối với các pháp tướng.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không tham, sân, si Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả tam độc đều diệt trừ.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không phiền não Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì xa lìa sự phân biệt.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là xa lìa hữu tình Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì thấu đạt các hữu tình là vô sở hữu.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không đoạn hoại Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp này phát khởi bình đẳng.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không nhị biên Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì xa lìa nhị biên.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không tạp hoại Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không tạp hoại.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không chấp trước Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không phân biệt Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả sự phân biệt, bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không phân lường Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì sự phân hạn các pháp bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là như hư không Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đối với tất cả pháp không trở ngại.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là vô thường, khổ, vô ngã Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp hoại diệt bức bách, không chấp trước.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không, vô tướng, vô nguyện Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì các pháp đạt được hoàn toàn vô sở hữu, xa lìa các tướng không thể nguyện.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì pháp chỗ biết Không, bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì biết thân, thọ, tâm, pháp đều bất khả đắc, rộng nói cho đến vượt các pháp Thanh văn, Độc giác.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là Như Lai Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Có thể như thật thuyết tất cả pháp.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là tự nhiên Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đối với tất cả pháp chuyển động tự tại.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là Chánh đẳng giác Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đối với tất cả pháp có thể tất cả tướng Chánh đẳng giác.
– Bạch Thế Tôn! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v… an trụ Đại thừa, nếu không dùng phương tiện thiện xảo đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa khởi tưởng Bát-nhã ba-la-mật-đa thì các thiện nam, thiện nữ v.v… này dùng có sở đắc làm phương tiện, xả bỏ xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Lành thay! Lành thay! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Các thiện nam, thiện nữ v.v… kia vì đắm trước danh, đắm trước tướng, nên đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này xả bỏ xa lìa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Vì sao các thiện nam, thiện nữ v.v… kia đắm trước danh, đắm trước tướng?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ v.v… kia đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm chấp danh, chấp lấy tướng. Đã chấp lấy danh, tướng rồi, nên bị chìm đắm nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà sanh kiêu mạn, không thể chứng đắc thật tướng Bát-nhã. Cho nên những hạng người đó đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm xả bỏ xa lìa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ v.v… an trụ Đại thừa, nếu có dùng phương tiện thiện xảo đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, không khởi vọng tưởng Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, không chấp lấy danh, tướng, không vọng tưởng chìm đắm, không sanh kiêu mạn, liền có thể chứng đắc thật tướng Bát-nhã. Nên biết, những vị này đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, không xả bỏ, cũng không xa lìa.
Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Ngài khéo vì chúng Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà khai thị, phân biệt tướng nhiễm trước, không nhiễm trước.
Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
– Vì sao Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, khởi tướng nhiễm trước, không nhiễm trước?
Thiện Hiện đáp:
– Các thiện nam, thiện nữ v.v… an trụ Đại thừa, nếu không dùng phương tiện thiện xảo, khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, đối với sắc cho là Không, phát sanh sự chấp trước tưởng Không; đối với thọ, tưởng, hành, thức cho là Không, phát sanh sự chấp trước tưởng Không. Như vậy cho đến đối với trí nhất thiết cho là Không, phát sanh sự chấp trước tưởng Không; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cho là Không, phát sanh sự chấp trước tưởng Không.
Lại nữa, Xá-lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ v.v… an trụ Đại thừa, nếu không dùng phương tiện thiện xảo, khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với sắc cho là sắc, phát sanh sự chấp trước tưởng sắc. Cho đến đối với trí nhất thiết tướng cho là trí nhất thiết tướng, phát sanh sự chấp trước tưởng trí nhất thiết tướng. Đối với pháp quá khứ cho là pháp quá khứ, phát sanh sự chấp trước tưởng pháp quá khứ. Đối với pháp vị lai cho là pháp vị lai, phát sanh sự chấp trước tưởng pháp vị lai. Đối với pháp hiện tại cho là pháp hiện tại, phát sanh sự chấp trước tưởng pháp hiện tại.
Lại nữa, Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát dùng có sở đắc làm phương tiện, từ lúc mới phát tâm đối với bố thí Ba-la-mật-đa cho đến trí nhất thiết tướng, khởi tưởng thực hành nhiễm trước. Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, nếu không dùng phương tiện thiện xảo mà dùng có sở đắc làm phương tiện, khởi các tưởng nhiễm trước như vậy thì gọi là tướng nhiễm trước.
Lại nữa, Xá-lợi Tử! Về câu hỏi trước của ông, làm sao Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không nhiễm trước nơi tướng. Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, có dùng phương tiện thiện xảo, đối với sắc chẳng khởi tưởng Không, bất Không; đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng khởi tưởng Không, bất Không. Cho đến đối với trí nhất thiết chẳng khởi tưởng Không, bất Không; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng khởi tưởng Không, bất Không. Đối với pháp quá khứ chẳng khởi tưởng Không, bất Không. Đối với pháp vị lai, hiện tại chẳng khởi tưởng Không, bất Không.
Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, có dùng phương tiện thiện xảo, không có ý nghĩa như vầy:
Ta có thể thực hành bố thí, sự thực hành bố thí như vậy là hành bố thí.
Ta có thể trì giới, đây là sự trì giới, như vậy là trì giới.
Ta có thể tu nhẫn nhục, đây là sự tu nhẫn nhục, như vậy là tu nhẫn nhục.
Ta có thể tinh tấn, đây là sự tinh tấn, như vậy là tinh tấn.
Ta có thể tu thiền định, đây là sự tu thiền định, như vậy là tu thiền định.
Ta có thể tu tuệ, đây là sự tu tuệ, như vậy là tu tuệ.
Ta có thể gieo trồng phước đức, đây là chỗ gieo trồng phước đức, như vậy là sự gieo trồng phước đức.
Ta có thể nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát.
Ta có thể trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật.
Ta có thể thành thục hữu tình.
Ta có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, có dùng phương tiện thiện xảo. Tất cả như vậy không phân biệt. Do thông đạt pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không.
Xá-lợi Tử! Đây gọi là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, không chấp trước tướng.
Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:
– Các thiện nam, thiện nữ v.v… an trụ Đại thừa, khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, làm sao biết được sự phát sanh chấp trước tướng kia?
Thiện Hiện đáp:
– Các thiện nam, thiện nữ v.v… an trụ Đại thừa, khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, nếu không dùng phương tiện thiện xảo, lấy có sở đắc làm phương tiện, tự tâm khởi tưởng, khởi tưởng bố thí, cho đến khởi tưởng trí nhất thiết trí, khởi tưởng chư Phật, đối với chư Phật khởi tưởng gieo trồng thiện căn, dùng các thiện căn đã gieo trồng tập hợp đem cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Kiều-thi-ca! Do đây nên biết các thiện nam, thiện nữ v.v… an trụ Đại thừa, khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm có khởi tưởng chấp trước.
Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… do chấp trước tướng nên không thể tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa vô trước, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì chẳng phải bản tánh sắc có thể hồi hướng, cho đến chẳng phải bản tánh trí nhất thiết tướng có thể hồi hướng.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát muốn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà thị hiện khuyên bảo, hướng dẫn khen ngợi, hoan hỷ cho các hữu tình khác, thì nên quán sát thật tướng bình đẳng của các pháp. Tùy theo đây mà tác ý, thị hiện, khuyên bảo, hướng dẫn, khen ngợi, hoan hỉ các hữu tình khác. Nghĩa là nói như vầy: Các thiện nam tử! Khi hành bố thí, không nên phân biệt ta có thể hành bố thí. Cho đến khi hành trí nhất thiết tướng, không nên phân biệt ta có thể hành trí nhất thiết tướng. Khi tu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, không nên phân biệt ta có thể tu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.
Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà thị hiện, khuyên bảo, hướng dẫn, khen ngợi, hoan hỉ các hữu tình khác nên thị hiện, khuyên bảo, hướng dẫn, khen ngợi, hoan hỉ các hữu tình khác như thế. Nếu làm được như vậy, thì đối với mình không bị tổn giảm, với người cũng không bị tổn giảm. Cũng như chư Như Lai đã thị hiện, khuyên bảo, hướng dẫn, khen ngợi, hoan hỉ các hữu tình.
Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v… an trụ Đại thừa, nếu có thể thị hiện, khuyên bảo, hướng dẫn, khen ngợi, hoan hỉ các hữu tình như vậy thì có thể xa lìa tất cả chấp trước.
Bấy giờ, Thế Tôn khen ngợi Thiện Hiện:
– Lành thay! Lành thay! Ông nay khéo vì các Đại Bồ-tát mà thuyết tướng chấp trước. Lại còn có sự chấp trước vi tế khác nữa. Ta sẽ vì ông mà thuyết, ông nên lắng nghe khéo suy nghĩ.
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn thuyết giảng, chúng con rất muốn nghe.
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Các thiện nam tử v.v… an trụ Đại thừa, muốn đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nếu đối với Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà chấp tướng nhớ nghĩ, đều là chấp trước. Nếu đối với chư Phật Thế Tôn ba đời, từ lúc mới phát tâm cho đến Chánh pháp cửu trụ, có bao nhiêu thiện căn đều chấp tướng, nhớ nghĩ, tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đều là chấp trước. Nếu đối với sự tu hành thiện căn của các đệ tử Như Lai mà chấp tướng, nhớ nghĩ, tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đều là chấp trước. Vì sao? Vì công đức thiện căn của chư Như Lai và các đệ tử không nên chấp tướng, nhớ nghĩ, phân biệt. Ai chấp tướng đều là hư vọng.
Thiện Hiện liền bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, thật là sâu xa?
Phật dạy:
– Đúng vậy! Vì tất cả pháp, bản tánh vốn xa lìa.
Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đều nên lễ kính?
Phật dạy:
– Đúng vậy! Tuy được nhiều công đức nhưng Bát-nhã ba-la-mật-đa này không tạo, không tác, không chứng.
Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Vì tánh tất cả pháp không thể chứng ngộ.
Phật dạy:
– Đúng vậy! Vì tất cả pháp nhất tánh chẳng phải hai. Thiện Hiện nên biết! Các pháp nhất tánh tức là vô tánh.
Các pháp vô tánh tức là nhất tánh.
Các pháp nhất tánh, vô tánh như vậy vốn là thật tánh. Vốn thật tánh này không tạo, không tác. Nếu Đại Bồ-tát như thật biết nhất tánh, vô tánh, không tạo, không tác, tức là xa lìa tất cả chấp trước.
Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế khó có thể hiểu nổi?
Phật dạy:
– Đúng vậy! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không thể thấy, nghe hiểu biết được.
Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế bất khả tư nghì?
Phật dạy:
– Đúng vậy! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không thể dùng tâm chấp, hay xa lìa tướng tâm; không thể dùng sắc chấp, hay xa lìa tướng sắc. Cho đến không thể dùng trí nhất thiết tướng chấp, hay xa lìa tướng trí nhất thiết tướng. Không thể dùng tất cả pháp chấp, hay xa lìa tướng tất cả pháp.
Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế không chỗ tạo tác sao?
Phật dạy:
– Đúng vậy! Vì các tác giả bất khả đắc. Thiện Hiện nên biết! Sắc bất khả đắc nên tác giả bất khả đắc; thọ, tưởng, hành, thức bất khả đắc nên tác giả bất khả đắc. Cho đến trí nhất thiết tướng bất khả đắc nên tác giả bất khả đắc. Tất cả pháp bất khả đắc nên tác giả bất khả đắc. Do các tác giả và sắc v.v… là pháp bất khả đắc, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không tạo, không tác.
Bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nào?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát không hành nơi sắc là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; không hành thọ, tưởng, hành, thức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cho đến không hành trí nhất thiết là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; không hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát không hành sắc hoặc thường, hoặc vô thường, hoặc vui, hoặc khổ, hoặc ngã, hoặc vô ngã, hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly, hoặc tịch tĩnh, hoặc bất tịch tĩnh là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cho đến không hành trí nhất thiết tướng hoặc thường, hoặc vô thường, hoặc vui, hoặc khổ, hoặc ngã, hoặc vô ngã, hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly, hoặc tịch tĩnh, hoặc bất tịch tĩnh là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì sắc cho đến trí nhất thiết tướng vô sở hữu, huống chi có thường, vô thường cho đến tịch tĩnh, bất tịch tĩnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát không hành sắc viên mãn là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Không hành sắc bất viên mãn là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cho đến không hành trí nhất thiết tướng viên mãn là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Không hành trí nhất thiết tướng bất viên mãn là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì nếu sắc viên mãn và bất viên mãn đều không gọi là sắc, cũng không hành như thế là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cho đến nếu trí nhất thiết tướng viên mãn và bất viên mãn đều không gọi là trí nhất thiết tướng, cũng không hành như thế là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Kỳ lạ thay! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo vì Bồ-tát tuyên thuyết các tướng chấp trước, không chấp trước.
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo vì Bồ-tát tuyên thuyết các tướng chấp trước, không chấp trước, làm cho việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa mau chóng đạt đến cứu cánh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, nếu không hành tướng sắc chấp trước, không chấp trước là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Không hành tướng thọ, tưởng, hành, thức chấp trước, không chấp trước là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cho đến nếu không hành tướng tất cả hạnh Đại Bồ-tát chấp trước, không chấp trước là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Không hành tướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật chấp trước, không chấp trước là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ! Pháp tánh sâu xa rất là hi hữu, nếu thuyết, không thuyết đều không tăng giảm?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Pháp tánh sâu xa rất là hi hữu, nếu thuyết, không thuyết đều không tăng giảm. Ví như hư không, giả sử trọn đời hoặc khen, hoặc chê chư Phật nhưng hư không kia không tăng, không giảm. Pháp tánh sâu xa cũng lại như vậy, nếu thuyết, không thuyết đều không tăng giảm. Lại như người huyễn đối với việc khen chê không vui, không buồn, không tăng, không giảm. Pháp tánh sâu xa cũng lại như vậy, nếu thuyết, không thuyết cũng vậy không khác.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thật là việc rất khó. Nghĩa là Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, tu hay không tu cũng không tăng, không giảm, không buồn, không vui, không phải, không trái, mà siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thường không thối chuyển. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như tu hư không, hoàn toàn vô sở hữu. Như trong hư không, không sắc có thể rõ, cũng không thọ, tưởng, hành, thức có thể rõ. Cho đến không hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát có thể rõ, cũng không đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có thể rõ. Chỗ tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng lại như vậy. Nghĩa là trong pháp sâu xa Bát-nhã ba-la-mật-đa này không sắc có thể đắc. Cho đến không quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có thể đắc. Trong đây các pháp tuy không có thể đắc, nhưng các Đại Bồ-tát có thể siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thường không thối chuyển. Cho nên con nói các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thật là việc khó.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát mặc áo giáp đại công đức như thế, hữu tình chúng con đều nên kính lễ. Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì các hữu tình thành thục giải thoát nên tinh tấn mặc áo giáp công đức. Cũng như vì hư không thành thục giải thoát nên tinh tấn mặc áo giáp công đức. Nếu Đại Bồ-tát vì tất cả pháp, siêng năng tinh tấn mặc áo giáp công đức. Cũng như vì hư không phát tâm siêng năng tinh tấn mặc áo giáp công đức. Nếu Đại Bồ-tát vì cứu vớt hữu tình ra khỏi biển khổ sanh tử, nên siêng năng tinh tấn mặc áo giáp công đức. Cũng như vì muốn đem hư không để chỗ cao hơn, nên siêng năng tinh tấn mặc áo giáp công đức.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát được đại tinh tấn Ba-la-mật-đa, vì các loài hữu tình như hư không được lợi ích an lạc lớn, nên phát tâm đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát được thần lực vô đẳng bất tư nghì, vì biển pháp tánh như hư không nên mặc áo giáp công đức, phát tâm đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát rất là dõng mãnh, vì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật như hư không, nên siêng năng tinh tấn mặc áo giáp công đức.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát vì các loài hữu tình như hư không nên siêng năng tu hành khổ hạnh, muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thật là hi hữu. Vì sao? Vì giả sử Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở khắp ba ngàn đại thiên thế giới như rừng trúc, mè, tre, lau, mía v.v… sống ở đời một kiếp hoặc hơn một kiếp, vì các hữu tình thường thuyết Chánh pháp, độ thoát vô lượng, vô số hữu tình, làm cho họ nhập Niết-bàn cứu cánh an lạc, nhưng cõi hữu tình không tăng, không giảm. Vì sao? Vì các hữu tình đều vô sở hữu, tự tánh xa lìa.
Bạch Thế Tôn! Giả sử Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khắp mười phương tất cả thế giới như rừng, tre, mè, lau, mía v.v… sống ở đời một kiếp hoặc hơn một kiếp, vì các hữu tình thường thuyết Chánh pháp, độ thoát vô lượng, vô số hữu tình làm cho nhập Niết-bàn cứu cánh an lạc, nhưng cõi hữu tình không tăng, không giảm. Vì sao? Vì các loài hữu tình đều vô sở hữu, tự tánh viễn ly.
Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên này nên con nói: Các Đại Bồ-tát vì các hữu tình như hư không mà siêng năng tu hành khổ hạnh, muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thật là hi hữu.
Lúc bấy giờ, trong chúng có một Bí-sô nghĩ như vầy: Ta nên kính lễ Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm. Trong đây, các pháp tuy không sanh diệt, không có thiết lập giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn có thể đắc. Cũng thiết lập quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, tất cả Đại Bồ-tát hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có thể đắc. Cũng thiết lập Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình có thể đắc.
Phật biết ý nghĩ của Bí-sô kia, liền bảo:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ý ông nghĩ. Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm vi diệu khó lường. Trong đây, các pháp tuy không có thể đắc, nhưng cũng chẳng phải không.
Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:
– Nếu Đại Bồ-tát muốn học Bát-nhã ba-la-mật-đa nên học như thế nào?
Thiện Hiện đáp:
– Nên tinh cần tu học như hư không.
Trời Đế Thích lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, viết chép, giảng giải tuyên thuyết, lưu truyền rộng rãi, con phải hộ trì như thế nào?
Cụ thọ Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:
– Ông thấy có pháp có thể hộ trì không?
Trời Đế Thích thưa:
– Thưa Đại đức! Con không thấy pháp gì có thể hộ trì.
Thiện Hiện bảo:
– Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… đúng như lời Phật thuyết, an trụ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là hộ trì. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa thường không xa lìa. Nên biết tất cả người chẳng phải người v.v… rình tìm chỗ dở của vị ấy làm tổn hại nhưng không thể được.
Kiều-thi-ca! Nếu muốn hộ trì các Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không khác người siêng năng tinh tấn hộ trì hư không. Nếu muốn hộ trì các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm chỉ luống uổng nhọc nhằn, hoàn toàn không có ích lợi.
Kiều-thi-ca! Ý ông thế nào? Có ai hộ trì huyễn, mộng, tiếng vang, ảnh trong gương, sóng nắng, thành Tầm hương (ảnh ảo), việc biến hóa không?
Trời Đế Thích thưa:
– Thưa Đại đức! Không có.
Thiện Hiện dạy:
– Kiều-thi-ca! Nếu muốn hộ trì các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cũng lại như vậy, chỉ luống uổng nhọc nhằn, hoàn toàn không có ích lợi.
Kiều-thi-ca! Ý ông thế nào? Có ai hộ trì việc huyễn hóa của Phật và Như Lai không?
Trời Đế Thích thưa:
– Thưa Đại đức! Không có.
Thiện Hiện dạy:
– Kiều-thi-ca! Nếu muốn hộ trì các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng lại như vậy, chỉ luống uổng nhọc nhằn, hoàn toàn không có lợi ích.
Kiều-thi-ca! Ý ông thế nào? Có người hộ trì pháp giới, chơn như cho đến cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì không?
Trời Đế Thích thưa:
– Thưa Đại đức! Không có.
Thiện Hiện dạy:
– Kiều-thi-ca! Nếu muốn hộ trì các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng lại như vậy, chỉ luống uổng nhọc nhằn, hoàn toàn không có lợi ích.
Khi ấy, trời Đế Thích lại hỏi Thiện Hiện:
– Vì sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, tuy đạt các pháp như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như hình tượng, như ảnh trong gương, như sóng nắng, như thành Tầm hương, như việc biến hóa mà Đại Bồ-tát này không chấp trước là huyễn cho đến việc biến hóa này; không chấp bởi huyễn cho đến việc biến hóa, không chấp thuộc huyễn cho đến thuộc việc biến hóa; không chấp nương tựa huyễn cho đến nương tựa việc biến hóa?
Thiện Hiện đáp:
– Nếu khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, không chấp là sắc cho đến trí nhất thiết tướng. Không chấp bởi sắc cho đến trí nhất thiết tướng, không chấp thuộc sắc cho đến trí nhất thiết tướng, không chấp nương tựa sắc cho đến trí nhất thiết tướng. Đại Bồ-tát này khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, tuy đạt các pháp như huyễn cho đến như việc biến hóa, nhưng không chấp là huyễn cho đến là việc biến hóa. Cũng lại không chấp bởi huyễn cho đến bởi việc biến hóa. Cũng lại không chấp thuộc huyễn cho đến thuộc việc biến hóa. Cũng lại không chấp nương tựa huyễn cho đến nương tựa việc biến hóa. Cho đến không chấp là tướng, bởi do tướng, thuộc tướng, nương tựa tướng.
Lúc bấy giờ, nhờ thần lực của Thế Tôn khiến cho tất cả chư Thiên từ trời Tứ đại thiên vương, cho đến trời Sắc cứu cánh ở ba ngàn đại thiên thế giới đều đem hương bột chiên-đàn ở cõi trời rải lên Thế Tôn, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi đứng một bên. Nhờ thần lực của Phật, khi ấy chư Thiên đều thấy ở mười phương có ngàn đức Phật tuyên thuyết danh tự phẩm nghĩa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều giống như ở tại đây. Đứng đầu trong chúng Bí-sô thỉnh thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là Thiện Hiện. Đứng đầu trong chúng chư Thiên thưa hỏi Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là Đế Thích.
Khi ấy, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:
– Khi Bồ-tát Từ Thị chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa ở chỗ này. Chư Phật tương lai trong Hiền kiếp này cũng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa ở đây.
Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:
– Khi Bồ-tát Từ Thị chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, dùng các pháp hành, tướng trạng gì để tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Khi Bồ-tát Từ Thị chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sẽ dùng sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng ngã, chẳng vô ngã, chẳng tịnh, chẳng bất tịnh, chẳng viễn ly, chẳng bất viễn ly, chẳng tịch tĩnh, chẳng bất tịch tĩnh, chẳng buộc, chẳng mở, chẳng có, chẳng không, chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại mà tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cho đến sẽ lấy trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng ngã, chẳng vô ngã, chẳng tịnh, chẳng bất tịnh, chẳng viễn ly, chẳng bất viễn ly, chẳng tịch tĩnh, chẳng bất tịch tĩnh, chẳng buộc, chẳng mở, chẳng có, chẳng không, chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại mà tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Khi Bồ-tát Từ Thị chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, Ngài chứng những pháp gì và thuyết những pháp gì?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Khi Bồ-tát Từ Thị chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chứng đắc sắc hoàn toàn thanh tịnh, thuyết sắc hoàn toàn thanh tịnh. Cho đến chứng trí nhất thiết tướng hoàn toàn thanh tịnh, thuyết trí nhất thiết tướng hoàn toàn thanh tịnh.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh như thế nào?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Sắc thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh. Cho đến trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:
– Vì sao sắc thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh, cho đến vì sao trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Sắc vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh nên thanh tịnh. Vì sắc thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh. Cho đến trí nhất thiết tướng vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh nên thanh tịnh. Vì trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Vì sao hư không thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Hư không vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh nên thanh tịnh. Vì hư không thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh. Cho đến trí nhất thiết tướng không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
– Bạch Thế Tôn! Vì sao sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh? Cho đến trí nhất thiết tướng không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh?
– Thiện Hiện! Vì sắc không thể chấp lấy nên không nhiễm ô. Sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh. Cho đến trí nhất thiết tướng không thể chấp lấy nên không nhiễm ô. Trí nhất thiết tướng không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
– Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh?
– Thiện Hiện! Hư không không thể chấp lấy nên không nhiễm ô. Hư không không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không chỉ là giả thuyết nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.
– Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không chỉ là giả thuyết nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh?
– Thiện Hiện! Cũng như nhờ hư không hai tiếng vang xuất hiện, chỉ có giả thuyết. Vì chỉ là giả thuyết nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không bất khả thuyết nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
– Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không bất khả thuyết nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh?
– Thiện Hiện! Việc hư không không thể nói nên bất khả thuyết. Vì bất khả thuyết nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không bất khả đắc nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
– Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không bất khả đắc nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh?
– Thiện Hiện! Việc hư không không thể đắc nên bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả pháp vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.
– Bạch Thế Tôn! Vì sao tất cả pháp vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh?
– Thiện Hiện! Vì tất cả pháp hoàn toàn thanh tịnh nên vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh. Vì vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thanh tịnh.
XII. PHẨM TÁN THÁN CÔNG ĐỨC
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, viết chép, giảng giải tuyên thuyết, lưu truyền rộng rãi, thì các thiện nam, thiện nữ v.v… này các căn không bệnh, thân thể đầy đủ, không bị già yếu, cũng không bị chết ngang trái, thường được vô lượng trăm ngàn thiên thần cung kính nhiễu quanh, thường theo hộ trì các thiện nam, thiện nữ v.v… này. Đối với những ngày mùng tám, mười bốn, mười lăm trong nửa tháng có trăng, và nửa tháng không trăng mà đọc tụng, tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, là khi đó, trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Sắc cứu cánh đều đến vân tập ở chỗ Pháp sư này để lắng nghe, thọ trì pháp nghĩa Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Do nhân duyên này, các thiện nam, thiện nữ v.v… này liền được vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì công đức hi hữu.
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thậm là đại bảo tạng, nên vô lượng, vô số, vô biên hữu tình giải thoát khỏi địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ và các khổ nghèo nàn bệnh hoạn trong cõi trời, người. Cũng có thể đem sự phú quí an lạc cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đại tộc Sát-đế-lợi cho đến đại tộc Cư sĩ. Cũng đem sự phú quí an lạc cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Cũng đem sự tự tại an lạc cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, Vô thượng Bồ-đề. Vì sao? Vì trong đại bảo tạng của Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, thuyết rộng, khai thị mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, như vậy cho đến trí nhất thiết tướng. Vô lượng, vô số, vô biên hữu tình tu học trong đó, nên được sanh trong đại tộc Sát-đế-lợi cho đến đại tộc Cư sĩ. Hoặc sanh nơi trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Hoặc đắc quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề. Hoặc nhập vào Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, tu tập các bậc của Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do nhân duyên này nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm gọi là đại bảo tạng. Công đức trân bảo ở thế gian và xuất thế gian đều y vào đây mà xuất hiện.
Thiện Hiện nên biết! Trong đại bảo tạng Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không có một chút pháp gì thuyết có sanh, có diệt, có nhiễm, có tịnh, có lấy, có bỏ. Vì sao? Vì trong đây không có pháp có thể sanh, có thể diệt, có thể nhiễm, có thể tịnh, có thể lấy, có thể bỏ.
Thiện Hiện nên biết! Trong đại bảo tạng Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không thuyết có pháp là thiện, là chẳng thiện, là hữu lậu, là vô lậu, là có tội, là vô tội, là tạp nhiễm, là thanh tịnh, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi. Do nhân duyên này nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm gọi là đại pháp bảo tạng vô sở đắc.
Thiện Hiện nên biết! Trong đại bảo tạng Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không có một chút pháp gì thuyết là có thể nhiễm ô, có thể thanh tịnh. Vì sao? Vì trong đây không có pháp nào có thể nhiễm ô, thanh tịnh. Do nhân duyên này nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm gọi là đại pháp bảo tạng vô nhiễm tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu khi Đại Bồ-tát nào hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không tưởng như vậy, phân biệt như vậy, có đắc như vậy, hý luận như vậy, ta có thể tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là Đại Bồ-tát như thật tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, cũng thân cận, phụng sự chư Phật. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Du hành các cõi Phật, khéo lấy tướng kia để thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, tu các hạnh Đại Bồ-tát, mau chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm đối với tất cả pháp không phải, không trái, không dẫn, không khiến, không lấy, không bỏ, không sanh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm. Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại, không vượt Dục giới, không trụ Dục giới, không vượt Sắc giới, không trụ Sắc giới, không vượt Vô sắc giới, không trụ Vô sắc giới. Đối với bố thí Ba-la-mật-đa không cho, không bỏ, cho đến đối với trí nhất thiết tướng không cho, không bỏ. Đối với quả Dự lưu không cho, không bỏ, cho đến đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật không cho, không bỏ. Không cho các Thánh pháp, không bỏ pháp dị sanh; không cho các Phật pháp, không bỏ pháp Nhị thừa; không cho cảnh giới vô vi, không bỏ cảnh giới hữu vi. Vì sao? Vì Như Lai xuất hiện ở đời hoặc không xuất hiện ở đời, các pháp vẫn như vậy thường không biến đổi, an trụ nơi pháp giới. Tất cả Như Lai hiện giác, hiện quán. Đã tự hiện giác, tự hiện quán rồi, thì vì các hữu tình tuyên thuyết, khai thị, phân biệt rõ ràng, làm cho tất cả cùng giác ngộ, xa lìa các vọng tưởng phân biệt điên đảo.
Lúc bấy giờ, vô lượng trăm ngàn Thiên tử ở trong hư không đều vui mừng hớn hở, cầm hoa sen xanh, hoa sen trắng, hoa sen đỏ, hoa sen vàng, hương thơm nhiệm mầu và các hương bột rải lên đức Phật; Ai ai cũng hân hoan giống nhau, đồng thanh bạch Phật:
– Hiện nay, chúng con ở châu Thiệm-bộ, thấy Phật chuyển pháp luân lần thứ hai. Trong pháp hội ấy có vô lượng trăm ngàn Thiên tử, nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa đều đồng chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn.
Khi ấy, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:
– Pháp luân như vậy, chẳng phải chuyển lần thứ nhất, cũng chẳng phải chuyển lần thứ hai. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm đối với tất cả pháp, không vì lưu chuyển, không vì hoàn diệt mà chỉ vì pháp vô tính tự tính Không nên xuất hiện ở thế gian.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Sao lại vì pháp vô tính tự tính Không mà Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm đối với tất cả pháp không vì lưu chuyển, không vì hoàn diệt nên xuất hiện ở thế gian?
Phật dạy:
– Thiện Hiện! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cho đến bố thí Ba-la-mật-đa, tự tánh Không của Bát-nhã sâu xa cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Cho đến vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, tự tánh Không của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì quả Dự lưu, tự tánh Không của quả Dự lưu. Cho đến vì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, tự tánh Không của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.
Thiện Hiện nên biết! Vì pháp vô tính tự tính Không của các pháp như vậy, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm đối với tất cả pháp không vì lưu chuyển, không vì hoàn diệt mà xuất hiện ở thế gian.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là Ba-la-mật-đa rộng lớn, đạt được tự tánh Không của tất cả pháp. Tuy đạt được tự tánh Không của tất cả các pháp nhưng tự tánh của các pháp đều là Không. Các Đại Bồ-tát chỉ nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình. Tuy chứng quả giác ngộ nhưng không chứng. Pháp chứng hay không chứng bất khả đắc. Tuy chuyển pháp luân mà không có sự chuyển. Pháp chuyển, pháp hoàn đều bất khả đắc. Tuy độ thoát các hữu tình nhưng không có sự độ thoát, và pháp thấy, không thấy đều bất khả đắc.
Bạch Thế Tôn! Trong đại Bát-nhã ba-la-mật-đa này, việc chuyển pháp luân hoàn toàn bất khả đắc, vì tất cả pháp vĩnh viễn không sanh, nên sự lưu chuyển, chỗ chuyển đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong pháp chẳng có không, vô tướng, vô nguyện, có thể lưu chuyển và có thể hoàn diệt. Vì pháp tánh lưu chuyển, hoàn diệt bất khả đắc.
Bạch Thế Tôn! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, nếu tuyên thuyết khai thị, phân biệt rõ ràng như vậy, làm cho người khác ngộ nhập dễ dàng thì gọi là thanh tịnh tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa. Trong đây hoàn toàn không có người thuyết, người thọ trì, pháp để thuyết và thọ. Đã không người thuyết, người thọ và pháp thuyết, người chứng cũng bất khả đắc; không người chứng nên cũng không có người đắc Niết-bàn. Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm trong pháp khéo thuyết cũng không phước điền. Người cho, người nhận, vật cho đều tánh Không. Phước điền không nên tánh phước cũng Không, biểu thị danh tự, lời nói đều bất khả đắc. Cho nên gọi là Ba-la-mật-đa rộng lớn.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là vô biên Ba-la-mật-đa hay sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Như khoảng hư không vô biên.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là bình đẳng Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp tánh bình đẳng.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là viễn ly Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Hoàn toàn Không.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là khó khuất phục Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không dấu chân Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không tên gọi, thể tánh.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là hư không Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì hơi thở vào, hơi thở ra bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là bất khả thuyết Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì trong đây không tầm cũng không tứ.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là vô danh Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì thọ, tưởng, hành v.v… bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là vô chuyển Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không đến và đi.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không thể dẫn Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không thể nắm giữ.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là cùng tận Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp hoàn toàn cùng tận.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là vô sanh, vô diệt Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không sanh diệt.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là vô tác Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì các tác giả bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là vô tri Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì những người biết bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không chuyển động Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì việc sanh tử bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không điều phục Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp có thể điều phục, tánh bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là như mộng, như tiếng vang, như hình tượng, như huyễn hóa, như ảnh trong gương, như sóng nắng, như thành Tầm hương, như việc biến hóa Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì chỗ thấy tất cả pháp như mộng cho đến như việc biến hóa, bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không nhiễm tịnh Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì nhân nhiễm tịnh bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không bôi nhơ Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì nơi để pháp kia nương tựa, bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không hý luận Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì các việc hý luận diệt trừ vĩnh viễn.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không chấp trước kiêu mạn Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì phá hoại tất cả việc chấp trước kiêu mạn.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không động chuyển Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì pháp giới an trụ.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là xa lìa nhiễm trước Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì ngộ tất cả pháp chẳng hư vọng.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không phát sanh đồng loại Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì không phân biệt với tất cả pháp.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là tịch tĩnh Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì vô sở đắc đối với các pháp tướng.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không tham, sân, si Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả tam độc đều diệt trừ.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không phiền não Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì xa lìa sự phân biệt.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là xa lìa hữu tình Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì thấu đạt các hữu tình là vô sở hữu.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không đoạn hoại Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp này phát khởi bình đẳng.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không nhị biên Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì xa lìa nhị biên.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không tạp hoại Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không tạp hoại.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không chấp trước Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không phân biệt Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả sự phân biệt, bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không phân lường Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì sự phân hạn các pháp bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là như hư không Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đối với tất cả pháp không trở ngại.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là vô thường, khổ, vô ngã Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp hoại diệt bức bách, không chấp trước.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là không, vô tướng, vô nguyện Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì các pháp đạt được hoàn toàn vô sở hữu, xa lìa các tướng không thể nguyện.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì pháp chỗ biết Không, bất khả đắc.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì biết thân, thọ, tâm, pháp đều bất khả đắc, rộng nói cho đến vượt các pháp Thanh văn, Độc giác.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là Như Lai Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Có thể như thật thuyết tất cả pháp.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là tự nhiên Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đối với tất cả pháp chuyển động tự tại.
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là Chánh đẳng giác Ba-la-mật-đa sao?
– Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đối với tất cả pháp có thể tất cả tướng Chánh đẳng giác.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.