Quyển 2 - Chương 8: Tinh Ẩn Chân Nhân
Phượng ca
01/11/2015
Hai từ "Vân Hư" hệt như một gáo nước lạnh dội thẳng xuống đầu Nhạc Chi Dương, gã sợ hãi giật lùi lại, ngay cả thở mạnh cũng không dám, thầm nghĩ chả trách giọng nói lại quen tai đến như vậy, hóa ra là Vân đảo vương. Hành động của Vân Hư quả là kỳ lạ, nửa đêm canh ba không ngủ, lại chạy đến nơi này hành hạ một tên tù nhân.
Đang ngẫm nghĩ, người tù lại thét lên mấy tiếng, tiếng sau yếu hơn tiếng trước tựa như sắp lìa đời. Qua một lúc sau, Vân Hư lạnh lùng bảo:
- Thôi bỏ đi, chúng ta cứ phí thời gian như vậy, để ta xem ông có thể cầm cự được đến năm nào tháng nào!
Người tù cười khà khà:
- Năm khỉ tháng ngựa, ngài thấy sao?
Vân Hư xùy một tiếng, người tù lại bật cười:
- Thứ cho không tiễn.
Bóng đen trong hang chớp động, một người luồn thân lướt ra, tay xách đèn lồng. Dưới ánh sáng đèn soi tỏ, gương mặt gầy gò của Vân Hư hiện ra hằm hằm sắc giận, ông đứng nán lại cửa hang thoáng chốc rồi phất tay áo, xoay người bỏ đi.
Nhạc Chi Dương nằm rạp một bên không dám thở, đợi đến khi Vân Hư đi thật xa mới dám mò đến trước miệng hang, nương theo một sợi dây leo tuột xuống, thấp giọng gọi:
- Lão tiên sinh, lão tiên sinh...
Trong hang lặng im hồi lâu, người tù nhân nọ lạnh lùng hỏi:
- Nhóc con, ngươi đến đây làm chi?
Nghe thấy giọng nói vẫn còn yếu ớt, Nhạc Chi Dương cười đáp:
- Không phải tiền bối bảo ta đến hay sao?
Người nọ hỏi:
- Ta bảo ngươi đến hồi nào?
Nhạc Chi Dương mỉm cười, ngân giọng ngâm:
Ngửi mùi hoa quế độ ba thu
Cho buổi xa nhau chớm mịt mù
Rồi dưới Suối Vàng mai sau gặp
Lại nghe sáo ngọc réo vi vu
- Một bài thơ thì tính làm gì?
- Đây là một bài thơ chứa ẩn ý, bốn từ đầu tiên của bốn câu khi ghép lại với nhau, chẳng phải là "Canh ba đến gặp" hay sao?(*)
(ND chú: nguyên văn bài thơ: “Tam thu văn quế tử, canh hữu li biệt kì, lai nhật tuyền hạ phùng, hội hữu thính ngọc địch” khi ghép các từ đầu tiên lại được “Tam canh lai hội” có nghĩa là “Canh ba đến gặp”)
Người nọ trầm ngâm giây lát rồi chợt cất tiếng cười khà khà, bảo:
- Thằng nhóc con này, đến giờ ngươi mới phát hiện điều bí mật ấy ư? Tuy biết hơi chậm nhưng còn hơn là vô tri vô giác, đủ thấy tâm tư nhà ngươi cũng mẫn tiệp đủ để thảo luận với lão phu một phen.
Nói xong đèn lửa chợt hắt ra sáng rỡ từ một mảng song sắt, Nhạc Chi Dương tiến về phía trước, chỉ thấy sau song sắt là một đôi mắt tựa như hai vì sao lạnh in soi đáy giếng đang lặng lẽ quan sát gã. Gã lập tức chấp tay cười chào:
- Tiểu tử Nhạc Chi Dương, dám hỏi đại danh của lão tiên sinh?
- Ta là đạo sĩ. - Người nọ đáp: - Họ tục gia là Tịch, đạo hiệu Ứng Chân.
Nhạc Chi Dương mỉm cười:
- Hóa ra là một vị đạo trưởng. Thất kính, thất kính!
Trong lòng gã lại nghĩ thầm: "Ba chữ "Tịch Ứng Chân" có vẻ quen quen, hình như đã từng nghe qua ở đâu đó thì phải!"
Tịch Ứng Chân nhìn thấy sắc mặt của gã thì có chút ngạc nhiên, nghĩ bụng đa số đệ tử Đông Đảo đều biết rõ mồn một danh hiệu của mình, nhưng nom vẻ mặt của Nhạc Chi Dương thì hình như chả biết ất giáp gì cả, ông bèn hỏi:
- Thằng nhóc, ngươi không phải đệ tử Đông Đảo hả?
Nhạc Chi Dương đáp:
- Không phải.
Tịch Ứng Chân lại hỏi:
- Ngươi là con nuôi của Nhạc Thiều Phượng, cớ sao lại đến Đông Đảo?
Nhạc Chi Dương bèn vắt tắt thuật lại câu chuyện, Tịch Ứng Chân cười lạnh bảo:
- Tên tiểu tử Vân Hư, lừa gạt người ta thì không tính đi, lại còn vùi dập nhân tài như thế đúng là có mắt không tròng mà.
Nhạc Chi Dương không nhịn được hỏi:
- Tịch đạo trưởng, sao Vân Hư lại hành hạ ông như vậy?
- Kể ra thì dài lắm! - Tịch Ứng Chân cười khà khà: - Nhóc con, ngươi có biết Thái Hạo Cốc không?
Rồi không đợi cho Nhạc Chi Dương kịp trả lời, ông lại cười rằng:
- Ta hồ đồ rồi, ngươi không phải là người trong giang hồ thì làm sao mà biết các môn phái này chứ.
Lão đạo sĩ ngừng một lúc, lại tiếp lời:
- Thái Hạo Cốc của ta ngụ ở phương Bắc, vốn được vị cao nhân tiền triều là Liễu Tình sáng lập, về sau nhờ tổ sư Bách Ách phát dương quang đại, hai vị trên đều là những kỳ nữ trong giới Huyền Môn. Tổ sư Bách Ách vốn không định thu nhận nam đồ, mãi đến cuối đời chán nản, mới phá lệ thu nhận thầy của ta là Thiên Dịch chân nhân làm học trò, đến thời của ta đã truyền được bốn đời. Nhưng kể ra về gốc gác thì Thái Hạo Cốc và Đông Đảo cùng xuất phát từ một mạch, "Dịch Tinh Kiếm" của bổn cốc và "Phi Ảnh Thần Kiếm" của Đông Đảo đều có nguồn gốc từ "Quy Tàng Kiếm" của đại kiếm khách tiền triều Công Dương Vũ, tổ sư của hai phái lại càng có nhiều quan hệ dây mơ rễ má phức tạp với nhau.
Nhạc Chi Dương cười hỏi:
- Vậy trong hai loại kiếm pháp ấy, thứ nào lợi hại hơn?
Tịch Ứng Chân cười khà khà, trả lời chẳng ăn nhập gì với câu hỏi của gã:
- Luận về thân phận, ta cùng vai vế với Vân Xán, cha Vân Hư. Lúc ta xuất đạo đương vào lúc triều Nguyên hỗn loạn, thiên hạ nhiễu nhương bất an, bá tánh lâm vào cảnh dầu sôi lửa bỏng. Năm ấy ta với bản tính nghĩa hiệp tuổi trẻ, vácc kiếm lên vai chu du thiên hạ, thấy bọn bắt nạt người lương thiện thì tất nhiên ra tay diệt trừ. Nhưng ta dần dần nhận ra, kẻ ác trên đời này giết mãi chẳng hết, thật khiến lòng người chán nản. Càng đau lòng hơn chính là đệ tử Đông Đảo tốt xấu lẫn lộn, cát cứ một phương mà phá luật làm ác, nhưng vì thuở trước gia sư có dặn không cho phép ta kết oán với Đông Đảo, cho nên ta trông thấy mà chẳng thể làm gì được.
- Một ngày nọ, ta đi qua địa giới Hào Châu, chợt bắt gặp có kẻ đang đánh nhau, trong đó bên ít người hơn toàn sử dụng võ công Đông Đảo; bên còn lại đều mặc áo lính, tuy quân số đông nhưng võ nghệ lại rất tầm thường. Bọn họ hô hào dũng cảm chiến đấu để bảo vệ một vị tướng quân. Vị tướng quân nọ lâm nguy không loạn, chỉ huy một nhóm quân sĩ bình thường ngăn cản một đám cao thủ võ học. Trong lòng ta lấy làm lạ bèn cẩn thận quan sát dung mạo người đó, không những dáng vẻ không xuất chúng mà thậm chí còn có phần xấu xí, tuy nhiên khí phách lớn như vậy thì là lần đầu tiên ta trông thấy. Hai bên chém giết đã lâu, Đông Đảo cuối cùng cũng chiếm được thượng phong, binh sĩ càng đánh càng ít đi, vị tướng quân nọ cũng sắp nguy khốn đến nơi. Ta thấy bọn người Đông Đảo ra tay ác hiểm, nhất thời nổi máu, liền vung kiếm xông ra đẩy lui đệ tử Đông Đảo, tuy nhiên ra tay cũng có phần nương nhẹ, chỉ đâm bị thương chân cẳng của chúng, tuyệt không hại đến tính mạng.
Nhạc Chi Dương nghe đến đây, trong dạ thầm kinh ngạc. Tịch Ứng Chân kể lại thì vắn tắt sơ sài, nhưng hai phe đang giao chiến, muốn làm bị thương chân cẳng từng kẻ địch mà lại không ảnh hưởng đến tính mạng họ, đủ thấy kiếm pháp của ông cao cường khó bề tưởng tượng.
Tịch Ứng Chân tiếp tục kể:
- Thủ lĩnh bên Đông Đảo nhận ra lai lịch của ta, bèn nói: “Linh Ngao Đảo và Thái Hạo Cốc như chim liền cánh cây liền cành, bổn đảo trước giờ kính nhường quý phái ba phần, cớ sao lại chõ mũi vào phá đám đại sự của chúng ta?”
- Trong lòng ta sẵn bực bội, bèn đáp: "Tiền bối của quý đảo ta đây hết sức khâm phục: Thích Thiên Phong, Công Dương Vũ, đại hiệp Vân Thù, Hoa Kính Viên chẳng phải là những con người kinh thiên động địa, lòng đầy hiệp nghĩa đấy sao? Còn hiện nay, các ngươi vì tranh giành thiên hạ, ai nấy đều đã quên tổ phản tông, thất tín bội nghĩa, chỉ nhăm nhe tranh quyền đoạt lợi, chẳng màng thiên hạ chúng sinh, phá hoại cả một vùng Giang Nam xương trắng đầy nội, chợ búa thành không, tiền bối của quý phái dưới đất kia nếu hay được chẳng biết sẽ có cảm nghĩ như thế nào?"
- Mắng sướng lỗ tai thật! - Nhạc Chi Dương vỗ tay khen hay.
Tịch Ứng Chân cũng bật cười, kể tiếp:
- Kẻ nọ nghe xong chỉ cười lạnh, bảo: "Mấy lời này ta sẽ nguyên văn thuật lại cho đảo vương nghe, những mong đạo trưởng nếu biết trước biết sau thì chớ có bỏ chạy mất tăm là được.”
- Cao thủ Đông Đảo nhiều như mây, sức ta một mình đơn lẻ, chỉ là tuổi trẻ thẳng tính, đầu óc nóng ran liền mở miệng đáp trả: "Trốn làm gì? Chuyện lớn đến đâu mình ta cũng gánh vác nổi."
- Kẻ nọ cười lạnh bỏ đi, vị tướng quân nọ cũng tiến lên trước gặp ta, hai bên cùng xưng tên báo họ, ngươi nói thử xem người nọ là ai?
Nhạc Chi Dương suy nghĩ rồi đáp:
- Chẳng lẽ là Chu Nguyên Chương?
Tịch Ứng Chân í một tiếng, hỏi:
- Dựa vào đâu mà ngươi nói vậy?
- Ông kể nơi xảy ra sự việc là Hào Châu, đó là đất nổi dậy của Chu Nguyên Chương, ông nói tướng mạo người đó xấu xí nhưng khí phách kinh người, lâm nguy không loạn mà còn trực tiếp chỉ huy, đủ thấy ông đối với người đó hết sức khâm phục. Nhân vật như đạo trưởng đây, người có thể khiến ông khâm phục e rằng không nhiều, ngẫm đi nghĩ lại, cũng chỉ có Chu Nguyên Chương mà thôi.
Tịch Ứng Chân vỗ tay cười:
- Khá thật, lại bị ngươi đoán trúng rồi. Tiếc là thiếu rượu, bằng không phải cạn với ngươi một chung.
Nhạc Chi Dương củng mỉm cười:
- Đạo trưởng cứu Chu Nguyên Chương, hẳn là đã kết bạn với ông ta nhỉ?
- Thằng nhóc không biết trời cao đất dày. - Tịch Ứng Chân cười mắng: - Y dẫu sao cũng là đương kim thiên tử, thiên tử không có bạn, cả đạo lý này mà ngươi cũng không biết hay sao?
Nhạc Chi Dương biết Tịch Ứng Chân thích nói chuyện theo kiểu "Chê trước khen sau", liền cười bảo:
- Khi ấy Chu Nguyên Chương chưa phải là thiên tử, nếu không kết giao bạn bè rộng rãi, sợ rằng sẽ không có được thiên hạ đâu.
Tịch Ứng Chân sững người, thở dài:
- Thẳng quỷ con, tuổi còn nhỏ mà cũng thấu tình đạt lý gớm. Không sai, ta và y vừa gặp như đã quen thân, hai bên tính tình tương đồng, đã cùng nhau kết nghĩa ngay tại nơi ấy.
Nhạc Chi Dương giật mình:
- Hóa ra các người không phải bạn bè mà là huynh đệ.
- Đó đã là chuyện nhiều năm trước rồi. - Tịch Ứng Chân thở dài xa vắng: - Y hiện giờ một thân một mình, cái gì là huynh đệ công thần đều đã sớm không còn trong mắt của y nữa!
Nhạc Chi Dương vốn ở tại kinh thành, nghe xong tự nhiên hiểu thấu. Mấy năm gần đây, Chu Nguyên Chương trừ khử công thần, hở tí là diệt tộc, tịch biên tài sản. Nhạc Chi Dương tận mắt trông thấy, một khi tấm lệnh bài trảm quan được ném xuống thì bất kể là già trẻ nam nữ, đầu người đều phải lăn dài dưới mặt đất. Gã từng một lần chứng kiến và từ đó không muốn thấy lại lần nào nữa, ngược lại Giang Tiểu Lưu thì hào hứng vô cùng, mỗi dịp có sự kiện như vậy đều lâng lâng thích thú chạy đi xem náo nhiệt.
- Chu Nguyên Chương mời ta đảm nhiệm một chức vị quan trọng cho y, ta chả có hứng thú gì với chuyện đánh trận công thành nhưng lo sợ cao thủ Đông Đảo đến xâm phạm nên mới đồng ý ở lại Hào Châu làm cảnh vệ. Ba ngày đầu trôi qua bình yên vô sự, đến đêm ngày thứ tư, cao thủ Đông Đảo quả nhiên xâm nhập, một lần đến hơn sáu tên đều bị ta huơ kiếm đánh lui. Qua hai ngày sau lại có bốn tên mò đến, bốn tên này hết sức lợi hại, trong đó có một tên ta không kịp thu kiếm, lỡ tay đâm chết. Cho dù đã hai lần đẩy lùi kẻ địch, nhưng tốp đến sau càng lợi hại hơn tốp đến trước, trong lòng ta hết sức lo lắng, luôn sớm chiều cảnh giác không dám lơ là.
- Đến đêm ngày thứ tám, bỗng nhiên xuất hiện hai lão già, võ công cao cường vô cùng, tuy không nằm trong dòng tứ tôn nhưng cũng là nhân vật có địa vị cao. Ta cùng bọn họ giao thủ trên giáo trường, lấy một chọi hai, ta phải chống đỡ hết sức vất vả. Mắt thấy sắp thua đến nơi, ta chợt nghe tiếng một người đàn ông bật cười ở trên cao, ta ngước lên xem, trên đỉnh cột cờ có một kẻ đang đứng sừng sững. Cột cờ ấy cao đến hơn bốn trượng, kẻ này nhảy lên đó từ khi nào, ba người chúng ta đều không hay không biết, bản lĩnh cỡ này có gọi là xuất quỷ nhập thần cũng không đủ hình dung. Nhị lão Đông Đảo e ngại đây chính là trợ thủ ẩn mình của ta, một người trong bọn liền đột ngột tung chưởng phải, định bất ngờ đánh gãy cột cờ. Một chiêu này độc địa vô cùng, xung quanh cột cờ trống trải chênh vênh, người nọ không có điểm đặt chân nhất định sẽ phải ngã chết.
- Ôi chao. - Nhạc Chi Dương khẽ hô lên: - Như vậy người đó ngã chết ư?
- Nói cũng lạ, cột cờ rầm rầm đổ xuống còn người nọ thì lại không rơi xuống theo. Ta nheo mắt nhìn kỹ liền không khỏi kinh ngạc, y treo người lơ lửng ở trên không, sau đó bồng bềnh đáp xuống mặt đất, thế rơi hết sức ung dung, không giống như thân thể bằng xương thịt mà tựa như một cánh diều mang hình dáng con người. Đến khi người nọ hạ xuống đất, ta cẩn thận quan sát lần nữa, chỉ thấy y còn rất trẻ, cùng lắm chỉ mới hơn hai mươi một chút.
- Ông nói kẻ đó là người, không phải hồn ma à? - Nhạc Chi Dương lấy làm kinh sợ.
Tịch Ứng Chân ha ha cười lớn:
- Y đương nhiên là người, có điều võ công tu luyện hết sức kỳ diệu, lên trời hóa chim, xuống nước thành rồng, có thể khéo léo điều khiển lực hút của thiên địa tạo hóa.
- Có nhân vật lợi hại như thế sao? - Nhạc Chi Dương như đang nghe kể một câu chuyện thần thoại, cảm giác khó mà tin được.
- Chẳng những ta sửng sốt mà nhị lão Đông Đảo thấy y có bản lĩnh như vậy cũng kinh ngạc không kém. Người trẻ tuổi ấy cười rằng: "Hai vị già như vậy rồi, không chịu ở Đông Đảo hưởng phúc mà lại chạy đến Trung Thổ làm loạn. Ta theo dõi hai vị suốt ba ngày nay, dọc đường đi các vị cứ tác oai tác oái, chả làm chuyện gì có ích cả. Cái tên đảo chủ Vân Xán kia cai quản thuộc hạ không nghiêm, làm hổ thẹn lây cả tổ tiên, các người nếu như còn chút liêm sỉ thì hãy ngoan ngoãn rời khỏi nơi này mà trở về Đông Đảo tu tỉnh."
- Hai lão già nghe được y đã theo họ ba ngày, ai nấy đều tỏ vẻ không tin, một lão nói: "Tên tiểu tử nhà ngươi nói khoác không biết thẹn, vậy ngươi bảo xem ba ngày qua bọn ta đã làm những gì?"
- Người trẻ tuổi mỉm cười: "Đêm đầu tiên, hai vị tuổi già hồi xuân, ghé hưởng lạc ở đường Tập Khánh (T/G chú: nay là thành phố Nam Kinh), đã ăn bánh không trả tiền thì chớ lại còn đánh trọng thương gái thanh lâu nhà người ta. Sáng sớm ngày thứ hai, hai vị lão huynh gặp tai nạn bất ngờ, bèn chuyển sang cướp lấy một thớt ngựa, chủ ngựa tỏ vẻ phản kháng liền bị các ngươi đá cho một cước gãy đoạn chân trái. Cũng vào trưa ngày hôm đó, một đám dân đói đến xin ăn các ngươi, kết quả bị các ngươi quét cho hai chưởng, làm thương nặng ba người, gây thương nhẹ bốn người, một người trong số đó nếu không có ta cứu chữa kịp thời sợ rằng tính mạng cũng khó giữ được. Ngoài ra còn có một chuyện, các ngươi đến đây không chỉ có hai người mà là ba người, hai người phụ trách dẫn dụ vị đạo sĩ này đi khỏi để cho người còn lại ám sát đại tướng thành Hào Châu.
- Ta nghe xong lời này cảm thấy kinh ngạc lạ thường, sắc mặt nhị lão Đông Đảo lại càng khó coi hơn, một lão hét lên: "Người huynh đệ ấy của ta, ngươi đã làm gì hắn rồi?"
- Người trẻ tuổi nọ cười: "Cũng chẳng làm gì, hồi nãy ta đem treo hắn ở dưới lá cờ, tiếp đó không hiểu sao cột cờ lại gãy sụm, về sau hắn thế nào ta cũng không biết nữa.”
- Hai người kia biến sắc vội vã xông lên đằng trước, dưới lá cờ quả nhiên có che phủ một người, kẻ đó trông có vẻ bị người trẻ tuổi kia bắt giữ rồi điểm huyệt đạo, treo trên cột cờ. Mới rồi hắn ngã xuống theo cột cờ, vỡ đầu toạc óc chết tươi. Ta thấy tình hình như vậy mới thở phào một hơi. Nhị lão Đông Đảo giết nhầm đồng môn, bi phẫn cùng cực, nhảy chồm lên toan ra tay tàn độc với người trẻ tuổi nọ. Ta sợ y gặp nguy khốn, đang định bạt kiếm tương trợ, nào ngờ hai bên vừa chạm trán, nhị lão Đông Đảo đã song song té nhào, thậm chí đến nỗi người trẻ tuổi nọ ra tay thế nào ta cũng không kịp nhìn rõ.
Nhạc Chi Dương buột miệng hỏi:
- Người này là ai mà lợi hại thế?
Tịch Ứng Chân nghiêm trang đáp:
- Người này họ Lương, tên Tư Cầm
Ổng vẫn còn sống cơ à? - Nhạc Chi Dương hỏi.
- Đương nhiên là còn! - Tịch Ứng chân khẽ cao giọng: - Chỉ vì ông ấy còn sống mà suốt ba mươi năm qua, Vân Hư không dám rời khỏi Đông Đảo nửa bước.
- Lợi hại thiệt! - Nhạc Chi Dương buột miệng kêu lên.
Tịch Ứng Chân cười khà khà, kể tiếp:
- Lương Tư Cầm chế ngự nhị lão nhưng tuyệt không xuống tay giết người mà lại thả cho bọn họ đi, lúc thả có dặn: "Các người thay ta chuyển lời cho Vân Xán, ngày nay thiên hạ đại loạn, lý ra phải trừ hại an dân, cứu vớt chúng sinh. Nếu y còn chút lương tâm thì tốt nhất nên quản thúc lại đám người trên đảo, không thì trời cao sẽ chẳng buông tha cho y đâu". Nhị lão đưa mắt nhìn nhau, cất giọng hỏi: "Ngươi tên họ là chi? Võ công từ đâu học được?" Lương Tư Cầm đáp: "Ta họ Lương, đến từ hải ngoại". Hai người nọ tái mét mặt mũi, chẳng nói chẳng rằng, xoay người bỏ đi một mạch, ngay cả thi thể đồng môn cũng không thèm quan tâm đến. Ta cảm kích trong dạ bèn tiến lên phía trước làm quen với Lương Tư Cầm, trong lúc chuyện trò mới hay người này chẳng những võ công tuyệt đỉnh mà học vấn cũng cao vời, tài trí trác tuyệt, lại có chí hướng giúp đỡ giang sơn xã tắc, ta liền khuyên y đầu quân về dưới trướng Chu Nguyên Chương. Nhưng y bản tính đạm bạc, không muốn làm tướng làm quan, trước sau chỉ muốn làm một viên phụ tá nhỏ. Về sau lúc truy diệt quần hùng, Lương Tư Cầm nghĩ ra diệu kế, tạo lập thần cơ, ra tay mạnh mẽ, quần hùng Đông Đảo liên tiếp đón nhận thất bại, trong lòng họ hiểu rõ, một ngày không diệt trừ đi Lương Tư Cầm thì chuyện thắng được Chu Nguyên Chương chỉ là vọng tưởng. Thế nên, Vân Xán mới hạ chiến thư, mời Lương Tư Cầm đến Đông Đảo quyết một trận tử chiến."
- Một mình ổng thôi à? - Nhạc Chi Dương không khỏi kinh ngạc.
- Ta vốn định cùng y đi đến đó, nhưng y bảo đối phương tráo trở, biết đâu lại là kế điệu hổ ly sơn, dặn ta ở lại bên cạnh Chu Nguyên Chương, phòng ngừa Đông Đảo ra tay ám sát. Vì thế sự tình sau đó, ta cũng chưa từng tận mắt chứng kiến, chỉ nghe kể lại rằng y một mình theo hẹn, vượt trùng dương đánh bại hết tất cả cao thủ ở Đông Đảo, lại khắc lên bảy chữ trên bia đá đầu đảo: "HỮU BẤT HÀI GIẢ NGÔ KÍCH CHI"(*)
(ND chú: đại loại là ~ hễ ai không thuận theo thì ta đánh hết!)
Nhạc Chi Dương tặc lưỡi liên hồi:
- Hóa ra hàng chữ ở trước đảo là do ổng viết, thảo nào, thảo nào...
Tịch Ứng Chân nói:
- Từ sau trận chiến ấy, Đông Đảo thất bại toàn tập, Vân Xán vừa thọ thương cộng thêm uất hận, không lâu sau thì lìa đời, trước khi chết cứ căn đi dặn lại con trai Vân Hư nhất định phải báo thù cho mình. Sau này Vân Hư luyện thành kiếm pháp, trong vòng mười năm đã khiêu chiến Lương Tư Cầm ba lần, kết quả đều thất bại cả ba. Lần thứ ba ấy, y trở về Đông Đảo, trong lúc tức giận đã phát lời thề độc, nếu không luyện thành võ công đánh bại Lương Tư Cầm thì cả đời sẽ quyết không rời khỏi Đông Đảo nửa bước.
Nhạc Chi Dương vỗ tay cười:
- Chả trách Vân Hư mặt mày khổ não như vậy, hóa ra là một kẻ thua cuộc cay đắng.
- Lương Tư Cầm vốn là vô địch thiên hạ, thua dưới tay ông ta cũng không đến nỗi mất thể diện! - Tịch Ứng Chân từ tốn bảo: - Vả lại Vân Hư trước nay giao đấu cũng chỉ thua mỗi ba lần duy nhất ấy, phóng mắt khắp thiên hạ, nhân vật có thể so vai với y chắc cũng không quá năm vị.
- Là năm vị nào? - Nhạc Chi Dương cảm thấy tò mò cực điểm.
Tịch Ứng Chân chầm chậm đáp:
- Nếu sau này ngươi vào giang hồ thì tự nhiên sẽ biết thôi.
- Lương Tư Cầm còn ở triều đình không vậy? - Nhạc Chi Dương không nhịn nổi thắc mắc:
- Sao ta chưa từng nghe nhắc đến danh của ổng?
Tịch Ứng Chân lặng im một thoáng mới trả lời:
- Bởi chính kiến không hợp nhau, y đoạn tuyệt với Chu Nguyên Chương rồi bỏ đi Tây Vực ẩn thân lánh đời, hiện nay ba từ "Lương Tư Cầm" chính là từ cấm kỵ ở triều đình, ai mà nhắc đến sẽ phạm vào tội chết.
Nhạc Chi Dương ngạc nhiên tột độ:
- Sao lại như thế chứ?
Tịch Ứng Chân ồ lên một tiếng bảo:
- Lạ nhỉ, Nhạc Thiều Phượng không kể cho ngươi nghe chuyện này à? Theo ta biết, lệnh tôn mất đi chức quan cũng là vì liên lụy đến cái án của Lương Tư Cầm.
Nhạc Chi Dương giật thót mình, lập tức hỏi ngay:
- Tịch đạo trưởng, nghĩa phụ ta và Lương Tư Cầm thân nhau lắm ư?
- Nói thân cũng không hẳn, Lương Tư Cầm tinh thông âm luật, năm ấy trong lúc bàn thảo Nhã Nhạc cho Đại Minh, Nhạc tiên sinh và y có qua lại giao thiệp với nhau một thời gian. Về sau Lương Tư Cầm gặp chuyện, lệnh tôn cũng chịu liên can, nhưng thời may là ông đã từ quan nên bảo toàn được tính mạng, còn những người khác thì không có được vận hạnh ấy.
Tịch Ứng Chân nói đến đây, thầm thở dài một hơi.
Nhạc Chi Dương nghe tim đập mạnh thình thịch, gã hỏi:
- Tịch đạo trưởng, cha của tôi có kẻ thù nào hay không?
Tịch Ứng Chân bảo:
- Việc này thì không nghe, lệnh tôn dựa trên âm nhạc mà làm quan, chưa từng lâm trận giết địch, cũng không tham gia chính sự, theo lẽ thì chẳng có kẻ thù nào.
Nói đến đây, ông lấy làm lạ hỏi lại:
- Nhóc con, ngươi hỏi việc này chi vậy?
Nhạc Chi Dương cố nén nhịn nỗi đau, mang cái chết của Nhạc Thiều Phượng kể lại một lượt. Tích Ứng Chân nghe xong, trầm ngâm bảo:
- Xuống tay tàn độc như thế hẳn là do huyết hải thâm thù, ta với lệnh tôn qua lại không được thân thích, rất nhiều chuyện cũng không rõ cho lắm.
- Liệu có phải là... - Nhạc Chi Dương hít sâu một hơi mới tiếp lời: - Là Chu Nguyên Chương?
- Không đâu! - Tịch Ứng Chân trầm tư bảo: - Nếu là Chu Nguyên Chương thì đã sớm giết lệnh tôn từ lâu rồi, hà tất phải chờ đến lúc này?
Trái tim Nhạc Chi Dương bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm, nếu Chu Nguyên Chương không phải là hung thủ, gã và Chu Vi cũng không phải gặp nhau trong thù hận nữa, nhưng nếu không phải Chu Nguyên Chương, vậy thì là ai?
Muôn mối tơ vò, gã đành dẹp sang một bên, hỏi tiếp:
- Tịch đạo trưởng, ông là bạn thân của đương kim hoàng thượng, vì sao lại bị nhốt ở chốn này?
- Nói ra thì dài lắm! - Tịch Ứng Chân khẽ thở dài. - Năm ấy thiên hạ được bình định, ta không muốn làm quan bèn đi vân du tứ phương. Nhưng Chu Nguyên Chương nhớ lại giao tình thuở trước liền tìm cách triệu hồi ta về kinh đô, một mặt giao nhi nữ của mình cho ta truyền thụ võ công, mặt khác ban cho ta nhiều danh hiệu, để ta ở lại kinh thành quản lý Đạo giáo trên khắp thiên hạ.
- Vốn là người trong Huyền Môn, bất quản cả trời đất, ta tham dự cuộc phân tranh trong thiên hạ cùng lắm chỉ là nhất thời ngẫu nhiên, vinh hoa phú quý không phải thứ ta thích, tiêu diêu tự tại mới là sở cầu của ta. Còn cái bọn hoàng tử hoàng tôn ấy được mấy bà vú nuôi lớn trong chốn thâm cung, nếu không phải loại hèn nhát tầm thường thì cũng là loại bạo ngược bất nhân, dạy dỗ chúng xem ra còn khó hơn lên trời, tính đi tính lại, chỉ có ba người là học được chân truyền của ta, trong đó có một cô bé mà ta hết sức tâm đắc. Chao, cô bé tốt tính như vậy mà lại sinh ra trong nhà đế vương thật là uổng phí.
Nhạc Chi Dương nghe kể đến đây, trong lòng ngưa ngứa, bèn hỏi:
- Cô bé ấy tên là gì?
- Tên nó độc mỗi chữ Vi. - Tịch Ứng Chân hờ hững đáp: - Hiệu là Bảo Huy công chúa.
Nhạc Chi Dương chỉ cảm thấy một bầu máu nóng dâng đến đỉnh đầu, trống ngực thình thịch đập vang. Gã cuối cùng cũng nhớ ra, trong phường hát Trương Thiên Ý đã từng bảo, Chu Vi chính là đệ tử của Tịch Ứng Chân, hèn chi cái tên ấy lại nghe quen tai đến như vậy. Thật không ngờ được, tại cái xứ khỉ ho cò gáy này lại gặp được sư phụ của tiểu công chúa.
Tịch Ứng Chân dòm qua chấn song thấy thần sắc của gã là lạ liền hỏi:
- Sao vậy? Ngươi từng nghe tên nó rồi à?
Nhạc Chi Dương không muốn liên lụy đến Chu Vi bèn lắc đầu giục:
- Xin đạo trưởng kể tiếp đi ạ.
- Ta không thích ở lại kinh thành bèn mượn cớ đi giám sát các đạo quán trong thiên hạ để tiện bề ra ngoài chu du. Chừng đâu hai năm trước, Vi nhi gởi thư cho ta, bảo đã lâu rồi không gặp, trong lòng nhung nhớ không thôi. Ta liếc qua phong thư, cũng có phần nhơ nhớ cô bé đồ đệ này, vì vậy mới chuyển hướng về kinh. Mấy năm qua Chu Nguyên Chương giết chóc quá nhiều, công thần bạn cũ tan tác quá nửa, tuy ông ấy không nói ra ngoài miệng nhưng trong lòng thì hết sức cô đơn, gặp được người bạn xưa đã lánh đời như ta liền níu giữ ở miết trong cung cùng ông ấy chơi cờ uống rượu. Một ngày nọ, chơi xong hai ván cờ, ông ấy chợt đề cập đến hoàng thái tôn Chu Doãn Văn, trong lòng vô cùng phiền muộn. Thái tôn tuy thừa đức hạnh nhưng lại không đủ hùng tài, tuy ông ta đã có trăm kế đề phòng nhưng vẫn lo sợ có sơ suất. Chướng ngại ở triều đình trước mắt đã bị quét sạch, đám quân thần hung hãn khó chế ngự đều bị tru diệt, tuy nhiên bên ngoài triều đình thì vẫn ẩn chứa mầm họa, đặc biệt là dư nghiệt của Đông Đảo. Nhiều năm qua như vậy, đám tro tàn lại âm ỉ bùng cháy, dạo gần đây bọn chúng đã đôi phen xông vào cung cấm, mặc dù chưa thể thành công nhưng cũng cần đề cao cảnh giác. Ông ấy hỏi ta có biết vị trí của Đông Đảo ở đâu không, định đóng tàu chinh phạt, đánh thẳng vào sào huyệt.
- Tuy ta biết Đông Đảo ở đâu nhưng Thái Hạo Cốc và Đông Đảo như cây liền cành như chim liền cánh, sao ta có thể tiết lộ vị trí, đẩy họ vào đường cùng cho được? Cho nên ta đành nói qua quýt, rằng Đông Đảo cách xa Trung Thổ, giữa vùng mênh mông khói sóng, trừ đệ tử Đông Đảo ra, không ai biết đảo ở vị trí nào. Năm ấy Đại Nguyên cũng từng phái binh đi chinh phạt nhưng cũng như mò kim đáy bể, xiết bao lượt công cốc trở về. Chu Nguyên Chương tiêu tan hy vọng, đành nói nếu lần sau còn có đệ tử Đông Đảo xông vào hoàng cung sẽ để cho "Âm Ma" Lãnh Huyền bắt sống, bất kể phải dùng thủ đoạn gì cũng phải ép hỏi cho ra nơi tọa lạc của Đông Đảo.
- Vậy toi rồi còn gì? - Nhạc Chi Dương nói: - Mấy tên ở Đông Đảo này hết sức cuồng vọng, nhất định sẽ còn lén trở lại hoàng cung.
- Ta cũng suy đoán như vậy. - Tích Ứng Chân thở dài: - Ta với Đông Đảo có dính dấp rất nhiều, năm ấy hai bên xem nhau như kẻ thù cũng vì tình thế chẳng đặng đừng, nay tuổi tác ta đã cao, cũng chẳng còn gì mà lo lắng, chi bằng xả thân dấn bước, cho dù chết hay sống thì cũng nên giải quyết nốt mối ân oán này. Nghĩ bụng như thế, ta mượn cớ vân du rời kinh thành, cưỡi thuyền vượt biển, mấy độ lênh đênh mới đến được Đông Đảo. Vân Hư trông thấy ta cũng hết sức ngạc nhiên, nhưng y thân là tông chủ một phái nên cũng không gây khó dễ gì cho ta mà ngược lại còn khách khí dò hỏi ý đồ đến đây của ta.
- Ta đem chuyện vì sao đến đây nói cho y biết, lại bảo: "Giờ đây thiên hạ thái bình, bá tánh lạc nghiệp. Ta với ông đều đã kinh qua chiến loạn, biết bao nhiêu thảm cảnh không dám ngoảnh đầu nhìn lại, nếu dấy binh biến lần nữa liệu sẽ có bao nhiêu người dân vô tội phải tan nhà nát cửa? Dám mong Vân đảo vương lấy bá tánh làm trọng, cứ một cõi xưng hùng ngoài hải ngoại, vứt bỏ đi thù xưa hận cũ". Vân Hư nghe xong chẳng mảy may biểu lộ cảm xúc, chỉ bảo: "Thái Hạo Cốc và Đông Đảo ta có dây mơ rễ má sâu xa, tổ sư Liễu Tình đạo trưởng của ông và tổ sư Công Dương Vũ của bản môn vốn giao tình không nhẹ, năm xưa đạo trưởng ở doanh trại kẻ địch cũng nhiều lần giơ cao đánh khẽ, chừa cho Đông Đảo ta một đường sống. Nhớ đến chuyện cũ ta đây kính ông ba phần. Nhưng mà, theo lời đạo trưởng nói, thật sự phải cân nhắc đôi điều. Từ khi nhà Tống mất ở Nhai Sơn thì Đông Đảo ta luôn nung nấu quyết tâm chống lại giặc Nguyên, trong suốt trăm năm ấy chả biết đã chết mất bao nhiêu anh hùng hảo hán. Về sau Đại Nguyên loạn chính cũng là lúc đệ tử Đông Đảo đồng loạt nổi dậy, muôn vạn người cùng chít khăn hồng. Trận chiến ở Cao Bưu, thừa tướng Đại Nguyên là Thoát Thoát dùng trăm vạn đại quân vây thành, một thành trì bé tẹo đã mấy phen suýt tan vỡ, là nhờ ai đã liều mạng khổ chiến, đại phá quân Nguyên khiến cho chúng chẳng thể tiến xuống phương Nam chứ? Bằng không, Thoát Thoát mà phá được Cao Bưu rồi, thừa thế cuống phăng Giang Nam, Chu Nguyên Chương cho dù có tài năng trùm trời đi nữa cũng phải thành ma dưới đao của bọn Nguyên. Kết quả thì sao chứ, đệ tử Đông Đảo chúng ta máu chảy đầu rơi nơi tiền tuyến, còn hắn thì ở hậu phương trắng trợn khuếch trương thực lực. Đáng hận nhất chính là cái tên Lương Tư Cầm, tổ tiên của hắn vốn là đại tướng triều Nguyên đã nhẫn tâm vứt bỏ đi áo mũ Đại Hán chúng ta. Đạo trưởng tương trợ Chu Nguyên Chương còn có thể cho là vì thiên hạ bá tánh, còn hắn giúp Chu Nguyên Chương chỉ là vì không muốn để cho Đông Đảo bọn ta đạt được ý nguyện, cho nên trăm phương ngàn kế phá hoại đại sự của bọn ta. Mối hận này cao đến trời xanh, Vân mỗ nếu không trả thù rửa hận thì quả là uổng thân nam tử bảy thước".
- Ta nghe xong lời này, đành nói: "Đánh đuổi rợ Nguyên, Đông Đảo đúng là lập công lớn. Đời có câu: "Tận nhân sự, an thiên mệnh"(*), chống lại giặc Nguyên rõ là quý đảo đã làm hết sức, không phụ lòng của thiên hạ bá tánh, thế nhưng để thống nhất thiên hạ thì không thể thiếu đi ít nhiều sự may mắn. Năm ấy đại chiến mấy bận, nếu Đông Đảo có cơ hội thủ thắng thì biết đâu chừng Chu Nguyên Chương cũng sẽ có họa diệt vong, mọi người ai cũng cố hết sức, thắng bại cũng rõ ràng rành mạch. Con người sinh ra ở đời phải biết chấp nhận thất bại, cứ mồm miệng oang oang không dứt như lũ đàn bà thì đâu có giống hành vi của một người đàn ông tốt."
(ND chú: có nghĩa là khi đã làm hết sức mình rồi, thì chuyện còn lại nên để cho số trời an bài.)
Nhạc Chi Dương bật cười:
- Đạo trưởng nói vậy chỉ e đắc tội người khác rồi.
Tịch Ứng Chân cười khà khà, kể tiếp:
- Vân Hư nghe xong nổi giận đùng đùng. Nhưng y tự cao tự đại, không tiện phác tác ra ở đó, hậm hực một lúc mới bảo: "Hóa ra đạo trưởng là thuyết khách của Chu Nguyên Chương". Ta thấy y ngu xuẩn cố chấp, trong lòng phát bực bèn nói: "Ta đi thuyết phục ông làm gì? Ông mà đi đầu hàng Chu Nguyên Chương, dựa vào thủ đoạn của ông ta, chắc gì chừa cho ông cửa sống. Ta chỉ vì nhớ lại mối quan hệ của đời trước, không nỡ chứng kiến Đông Đảo bị tận diệt nên mới mạo hiểm đến đây nhắc nhở ông một câu, đừng bao giờ trở về gây nhiễu loạn cho Trung Thổ nữa, nhỡ đâu chọc giận Chu Nguyên Chương, để ông ta đóng thuyền chinh phạt, vậy thì nguy to". Vân Hư nghe xong liền đáp: "Chu Nguyên Chương giết hại công thần, không chừa lại dư lực, đạo trưởng cứ năm lần bảy lượt bán mạng cho hắn thì có gì hay đâu? Năm đó Lương Tư Cầm lập cho hắn ta biết bao công lao, kết quả vì không hợp ý là lập tức trở mặt thành thù. Một người chủ bạo ngược như vậy đạo trưởng không cảm thấy đáng sợ hay sao?". Ta không thể khuyên nhủ được Vân Hư, ngược lại còn để y kích động ta, trong lòng thấy buồn cười liền nói: "Đánh giá một vị hoàng đế, hãy xem cách ông ta đối xử với bá tánh như thế nào. Có thể khiến cho thiên hạ thái bình, bá tánh lạc nghiệp, đó chính là một vị hoàng đế tốt, còn những chuyện khác bần đạo chẳng quan tâm". Vân Hư nói: "Xem ra, đạo trưởng không tác động được ta, ta cũng không thuyết phục được đạo trưởng, thôi thì như vầy, chúng ta cùng phát xuất từ một nguồn, đều dựa vào kiếm pháp mà rạng danh, ta và ngươi so kiếm pháp, nếu ngươi thắng thì ta sẽ tự quản thúc đệ tử, không gây khó dễ cho Chu Nguyên Chương nữa; còn nếu ngươi thua thì hãy lén trở về bên cạnh Chu Nguyên Chương, đoạt lấy cái đầu chó của tên ăn mày ấy cho ta!".
- Ta trong dạ giật bắn, vội nói: "So kiếm thì so kiếm, nhưng việc hành thích bần đạo nhất quyết không đồng ý". Vân Hư mỉm cười: "Việc này đạo trưởng không tự quyết định được, nếu không đồng ý, sợ là đạo trưởng không thể rời khỏi hòn đảo này đâu". Ta hỏi: "Ta thắng rồi thì có thể đi chứ?". Vân Hư đáp: "Tất nhiên!" Ta liền nói: "Đao kiếm không có mắt, Đông Đảo là địa bàn của ông, ông có giết ta cũng chẳng hề gì, còn ta mà lỡ làm bị thương ông, đệ tử của quý đảo chắc gì sẽ chấp nhận, lúc ấy ta vẫn không thể rời khỏi Đông Đảo. Hay là đổi sang cách này, có thể phân thắng bại mà không làm tổn thương hòa khí". Vân Hư hỏi là biện pháp nào, ta đáp: "Lúc bần đạo cưỡi thuyền đến đây có trông thấy một hang đá, nơi ấy chim yến ra vào thành từng bầy, hay là chúng ta dùng kiếm đâm yến, hễ chim rơi xuống đất mà không bị thương thì đạt yêu cầu, nếu như làm bị thương bao nhiêu con thì cứ căn cứ vào số con trên mặt đất mà trừ đi bấy nhiêu, trong vòng một nén nhang, ai làm rơi nhiều yến hơn là người thắng cuộc."
Nhạc Chi Dương giật mình:
- Dùng kiếm đâm yến, sao có thể không làm yến bị thương mà rơi xuống đất được chứ?
- Kể ra thì ảo diệu khó tin lắm, kiếm pháp khi luyện đến một cấp độ nhất định thì chuyện đó không có gì là khó nữa. Chỉ cần xuất kiếm êm, nhanh, đúng lúc, vận kình chuẩn xác, mũi kiếm chưa đâm đến nhưng kình lực đã xuyên vào cơ thể của chim yến trước, khiến cho khí huyết nó ngừng lại, mất đi khả năng bay liệng.
Nhạc Chi Dương hít ngược vào một hơi lạnh, buột miệng hô:
- Việc đó khó vô cùng!
- Nếu không khó thì đâu có thể hiện được bản lĩnh. Ta cứ nghĩ Vân Hư chưa chắc ưng thuận, ngờ đâu y không hề ngập ngừng, gật đầu đồng ý ngay, lại hỏi ta, nếu như ta thua thì có chịu đi hành thích Chu Nguyên Chương hay không? Ta không trả lời rõ ràng, chỉ bảo nếu ta thua thì tùy y xử trí. Y mỉm cười không nói gì thêm. Thế rồi chúng ta đi đến phía trước hang yến, đầu tiên giăng lưới cá ra phủ trước cửa hang tránh làm cho yến bay lật tổ, tiếp đó nổi trống lên, đàn yến trong hang giật mình, thi nhau tung cánh bay tán loạn, nhưng vì lưới cá ngăn cản, chúng chỉ biết hoảng hốt chao liệng ngay tại cửa hang. Hai chúng ta ở ngay phía trước lưới, mỗi người đều cầm trường kiếm đâm yến. "Phi Ảnh Thần Kiếm" với sở trường tốc độ, một khi tung chiêu, hệt như ngư long giỡn sóng, rọi bóng chim hồng, màng lưới kiếm kết thành từ lưỡi gươm ấy còn chằng chịt hơn cả tấm lưới cá ngoài kia, ánh kiếm lia đến đâu, hầu như nơi đó khó có con yến nào thoát được. Chốc lát sau, y đã loác xoác đâm rụng hơn mười con yến biển, tiếc thay trong số đám chim rơi dưới mặt đất thì số chết đã chiếm một phần ba còn bị thương đã hơn quá nửa, chỉ có một vài con là còn miễn cưỡng chấp nhận, nhưng nếu trừ đi số chim chết và bị thương thì y đến một con cũng không có dư, thậm chí còn bị âm không ít.
Lão đạo sĩ nói đến đây thì bật cười khùng khục. Nhạc Chi Dương cũng vỗ tay cười theo:
- Vân Hư tự cao quá trớn, lần này đã trúng kế rồi, đạo trưởng trước đây đã từng luyện qua chiêu đâm chim yến hay sao?
- Chưa luyện bao giờ, nhưng ta đề nghị đâm chim yến thì trong bụng cũng có sẵn tính toán. Kể từ khi đại hiệp Vân Thù sáng chế ra "Phi Ảnh Thần Kiếm" đến nay, đường kiếm pháp này thường áp dụng trong chiến tranh, trên chiến trường có ngươi thì không có ta, chuyên dùng để giết địch chớp nhoáng, thường thường đối thủ còn chưa nhìn rõ thì đã bị y một kiếm đâm chết, mà dù có nhìn rõ cũng chẳng thể nào đỡ nỗi một cú nhanh như điện xẹt ấy. Cho nên, đường kiếm pháp này chính là kiếm pháp đoạt mạng, sở hữu một khí thế không thể cản phá. Chim yến vốn nhỏ bé yếu mềm, dùng "Phi Ảnh Thần Kiếm" dũng mãnh như vậy, nếu không cẩn thận thì sẽ đâm xuyên qua mình chim. Còn Thái Hạo Cốc của ta bốn đời đều là đạo sĩ, Huyền Môn ý chính là ở hai từ "Xung Hư". Thánh nhân dạy: "Đại Doanh Nhược Xung, Kỳ Dụng Bất Cùng."(*) Chỉ có giữ lại đường lui ở khắp nơi thì sự sống mới không ngừng sinh sôi nảy nở. Cho nên "Dịch Tinh Kiếm" một khi luyện đến cảnh giới nhất định có thể chuyển Hư thành Xung, mỗi một lần đâm kiếm luôn giữ lại một ít kình lực, một là để tránh làm người khác bị thương nặng, mang ý nghĩa tha thứ của đạo môn, hai là những chiêu thức nhìn tưởng trống rỗng nhưng hậu chiêu thì lại nhiều vô cùng, bất kể đối thủ biến hóa thế nào, ta đều có cách để ứng biến.
(ND Chú: trích đạo đức kinh C45 của lão tử, ý nghĩa là thứ đầy đủ nhất là những thứ nhìn thì như rỗng không nhưng tác dụng nó mang lại thì lại nhiều vô kể)
- Ta hiểu rồi. - Nhạc Chi Dương vỗ tay cười: - Kiếm của Vân Hư là loại kiếm giết chóc, còn của đạo trưởng là kiếm nhân từ, nếu muốn chim yến không chết không bị thương thì loại kiếm nhân từ đương nhiên dễ dàng làm được.
- Thí dụ đúng rồi đó! - Tịch Ứng Chân vỗ tay cười lớn, có cảm giác như gặp được tri kỷ: - Kiếm pháp của ta tuy không dũng mãnh như Phi Ảnh Thần Kiếm thế nhưng kình lực có thể thu phát tùy tâm, mũi kiếm vừa chạm vào thân chim liền thuận theo thế bay của chim mà thu hồi lại phần lớn kình lực, phần dư lực sót lại có thể đâm rơi chim yến mà không gây ra bất kỳ thương tổn nào cho nó. Hiển nhiên không thể nói là "Dịch Tinh Kiếm" trội hơn "Phi Ảnh Thần Kiếm" được, chỉ là phong cách của cả hai không giống nhau, khi lâm trận giết địch, "Phi Ảnh Thần Kiếm" tất nhiên lợi hại nhưng nếu để đâm rơi chim yến thì "Dịch Tinh Kiếm" hiệu quả hơn nhiều.
Nhạc Chi Dương ngấm ngầm khâm phục, nhủ bụng lão đạo sĩ này cừ khôi thật, chỉ trong chốc lát ngắn ngủi mà cũng nghĩ ra được một cách có lợi cho mình như vậy. Nghĩ đến đây, gã lại thấy khó hiểu:
- Nói như vậy, đạo trưởng đáng lý phải thắng mới đúng, sao vẫn còn bị giam ở trên đảo?
- Ta chỉ lo nghĩ đến kiếm pháp mà quên đi mất lòng người. - Tịch Ứng Chân thở dài một hơi: - Lúc bắt đầu, Vân Hư cho rằng việc đâm yến quá sức đơn giản, lại ỷ vào khinh công và kiếm thuật, nhất định có thể giành chiến thắng ngay, đến khi y hiểu ra điểm khó khăn bên trong thì đã rơi xuống thế hạ phong quá sâu rồi. Mắt thấy nén nhang sắp tàn, bại cục đã định, y bèn phất tay bắn ra vô số "Dạ Vũ Thần Châm", thế là toàn bộ đám yến còn sống ở đằng trước ta đều bị ghim chết sạch trên mặt đất.
Nhạc Chi Dương hét lên:
- Như vậy không phải phạm quy hay sao?
- Đúng, ta cũng tố y phạm quy, Vân Hư lại bảo rằng: "Chúng ta chỉ nói không đâm chết yến của mình chứ đâu có nói không được đâm chết yến của đối thủ đâu. Đạo trưởng nếu có khả năng thì cứ đến đâm chết đám yến của ta cũng được mà." Lý lẽ này hết sức vô lại nhưng cũng khó mà phản bác, nén nhang nhanh chóng cháy tàn, ta đành phải buông kiếm nhận thua.
- Rõ ràng là xằng bậy. - Nhạc Chi Dương tỏ ra phẫn nộ: - Đạo trưởng sao có thể nhân thua!
- Chuyện này không minh không bạch, có thể nói là làm bậy, cũng có thể cho là lợi dụng kẽ hở trong quy tắc. Nếu là đám vô lại chợ búa thì hẳn có thể tranh cãi một trận ra trò, nhưng lão đạo ta một đời rộng lượng, sao có thể làm cái trò xấu xa như mấy bà thím ấy? Vân Hư thấy ta buông kiếm nhận thua, lại ép ta đi hành thích Chu Nguyên Chương. Ta nói "Ta cam nhận thất bại, muốn chém muốn giết ta đều nhận hết, nhưng việc hành thích thì vạn lần không thể. Bần đạo xuất thân ở Huyền Môn, cũng biết đến hai từ "nhân nghĩa", ta và Chu Nguyên Chương có giao tình kết bái, sao có thể vì sự bức ép của ông mà đi sát hại huynh đệ của mình, huống chi dù ta có đồng ý trước mặt nhưng về đến Trung Thổ ta lập tức nuốt lời thì sao?". Vân Hư bảo: "Nói cũng phải, đề phòng trường hợp này ta sẽ có hậu chiêu". Nói xong, y giơ ngón trỏ phải điểm năm lần xuống người ta, cảm giác tê-buốt-đau-ngứa, mỗi loại đều khác nhau, ta không kềm được liền hỏi: "Ông làm gì đấy?". Y nói: "Ngươi nghe qua ‘Nghịch Dương Chỉ’ chưa?".
- Ta vừa nghe cái tên đó thì hết hồn, ngón chỉ kình này chính là môn kỳ công mà năm xưa "Tây Côn Luân" Lương Tiêu trong lúc phá giải kỳ độc "Ngũ Hành Tán" đã ngộ ra. Thông thường khí huyết trong cơ thể vận hành đều hợp theo đạo ngũ hành, chỉ kình của "Nghịch Dương Chỉ" lại đảo ngược với ngũ hành, khắc chế toàn bộ khí huyết trong cơ thể. Chỉ kình ẩn nấp lâu ngày trong cơ thể, thường ngày người trúng chỉ không có vẻ gì khác với người bình thường, nhưng cứ mỗi bảy hôm lại phác tác một lần, mỗi lần phác tác thì sống không bằng chết"
Nhạc Chi Dương kinh hãi:
- Nói như vậy, cứ qua bảy ngày, đạo trưởng lại bị phác tác một lần hay sao?
- Ừm! - Tịch Ứng Chân thở dài: - Loại chỉ kình này chỉ có mình đảo vương hiểu rõ, đây vốn là cách thức chuyên dùng để trừng trị những tên phản đồ của Đông Đảo, Vân Hư sử dụng lên người ta, ý đồ hết sức rõ ràng: nếu ta không chịu nổi đau đớn khi chỉ kình phác tác sẽ phải khuất phục trước y rồi thay y đi hành thích Chu Nguyên Chương.
- Vậy đạo trưởng đã khuất phục rồi ư? - Nhạc Chi Dương vừa hỏi vừa nghĩ thầm, nếu như khuất phục thì Chu Nguyên Chương đã chết nhăn răng từ lâu, Tịch Ứng Chân cũng đã không bị nhốt ở cái nơi quái quỷ này nữa.
Chỉ nghe Tịch Ứng Chân đáp:
- Ta lên đảo ngót hai năm, mùi vị của Nghịch Dương Chỉ đã hơn trăm lần nếm trải, mỗi lần như vậy Vân Hư đều đến bức ép ta tuân theo lệnh y nhưng ta đều phớt lờ. Nếu y muốn giết ta cũng dễ thôi, chỉ cần khoanh tay đứng nhìn, đợi cho khí huyết của ta chảy ngược thì sau cùng cũng chết tốt. Nhưng y tính khí ngang ngạnh, ta càng không khuất phục y lại càng không để ta chết dễ dàng, đến thời điểm nghìn cân treo sợi tóc cuối cùng y luôn ra tay cứu chữa, còn nói: "Để ta xem ngươi chịu đựng đến bao giờ, một năm không được thì hai năm, hai năm không được thì ba năm, cỡ nào ta cũng sẽ bắt ngươi ngoan ngoãn khuất phục, thay ta đi giết tên cẩu hoàng đế đó". Ta cũng trả đũa lại: "Hai ba năm bõ bèn gì, sao không đợi qua hai ba chục năm ấy, khi đó Chu Nguyên Chương đã cưỡi rồng lên trời, không cần ta giết ông ấy thì ông cũng trả được mối thù". Miệng tuy nói thế nhưng nỗi đau đớn cứ mỗi bảy ngày kéo đến ấy quả thật không dễ chịu chút nào.
Tịch Ứng Chân nói hết sức nhẹ nhàng nhưng Nhạc Chi Dương lại cảm giác sống lưng lạnh toát. Thử tưởng tượng, nỗi đau đớn bảy ngày đến một lần này nếu đổi lại là chính gã, cho dù không khuất phục thì cũng phải phát điên phát cuồng. So ra, trận đòn bằng trượng kia đơn giản là chả thấm vào đâu cả. Nghĩ đến đây, gã chợt nảy sinh một niềm kính trọng dành cho Tịch Ứng Chân, bất kể Chu Nguyên Chương là tốt hay xấu thì nghĩa khí của lão đạo sĩ đều hết sức tuyệt vời.
Đang suy nghĩ, gã chợt nghe Tịch Ứng Chân bảo:
- Nhóc con, đệ tử Đông Đảo đi tuần đêm từ canh hai đến canh ba một lần, canh năm đến bình minh một lần, giờ đã qua canh năm, ngươi muốn về cũng khó đấy.
Nhạc Chi Dương nghĩ thầm chả trách ông ta lại kêu mình "Canh ba đến gặp", bèn vội vã chấp tay tạm biệt, lại hỏi:
- Tịch đạo trưởng, tối mai ta có thể đến nữa không?
Tịch Ứng Chân cười bảo: "Chân cẳng trên người của ngươi, ngươi muốn đến thì ai mà cản được?"
Nhạc Chi Dương mừng rỡ, bấu lấy dây leo trèo lên phía trên, mắt thấy nguyệt hằng sắp khuất dạng nẻo tây, gã vội vã trở về Yêu Nguyệt Phong, ngủ qua loa chốc lát rồi lại trở dậy đi làm việc.
Hôm sau vào giờ nghỉ trưa, Nhạc Chi Dương lấy mặt sắt của cây bừa bẻ ra một đoạn, dùng lửa nung cho đỏ mềm rồi rèn thành một sợi len thép dài mảnh. Ngủ đến canh ba, gã chạy đến hang Tinh Ẩn, lại phía trước cánh cửa đá, rút sợi len thép ra hí hoáy làm gì đó trên lỗ khóa. Tịch Ứng Chân nghe tiếng lách cách, bèn hỏi:
- Ngươi làm gì đó?
Nhạc Chi Dương im re không đáp, loay hoay một hồi, "Tách tách" - ổ khóa theo tiếng bật mở, Tịch Ứng Chân ồ lên bảo:
- Thằng nhóc giỏi, ngươi biết mở khóa à?
Nhạc Chi Dương sống lẫn trong đám ô hợp ven sông Tần Hoài, mấy trò mánh khóe hạ lưu đê tiện chẳng trò nào là không rành, bản lĩnh nhập nha này gã từ một lão thợ khóa già mà học được, sau khi học xong thì đây là lần đầu tiên dùng đến. Vừa nghĩ đến cảnh Tịch Ứng Chân có thể thoát khỏi nơi đây, gã cảm thấy vui mừng khôn xiết, nhưng nhìn mãi mà bên trong cửa đá vẫn tối u u, gã bất giác kêu lên:
- Tịch Đạo Trưởng?
Lão đạo sĩ thở dài, thắp sáng một bát đèn dầu. Nhạc Chi Dương nheo mắt nhìn vào, trong buồng giam là một ông lão râu tóc hoa râm đang ngồi, áo đạo màu xám, dáng hình gầy gò, đôi mắt sáng ngời minh mẫn ẩn bên dưới hàng chân mày mảnh dài khe khẽ rũ xuống.
Nhạc Chi Dương cười:
- Tịch đạo trưởng, sao còn chưa ra?
Tịch Ứng Chân vươn người đứng dậy, mỉm cười không đáp. Nhạc Chi Dương lấy làm lạ:
- Bộ ông không muốn rời Đông Đảo sao?
Tịch Ứng Chân khe khẽ lắc đầu:
- Nhóc con, ta trúng Nghịch Dương Chỉ, rời Đông Đảo cùng lắm chỉ sống được bảy ngày, ở lại đây tốt xấu gì cũng còn một tia hy vọng.
Nhạc Chi Dương nói:
- Đi Trung Thổ chuyến này chỉ mất không quá hai ba ngày đường, lên đến bờ rồi ông có thể đi tìm đại phu chữa trị.
- Đại phu? - Tịch Ứng Chân bật cười chua chát: - Có đại phu nào trên đời giải được Nghịch Dương Chỉ đâu!
- Ngón chỉ lực này thật sự vô phương cứu chữa sao? - Nhạc Chi Dương thầm cảm thấy tuyệt vọng.
- Không hẳn là không có cách. - Tịch Ứng Chân xòe lên hai ngón tay: - Trên đời này trừ Vân Hư ra, vẫn còn một người có thể phá giải được.
- Ai vậy? - Nhạc Chi Dương vội hỏi.
- Nói cũng vô ích thôi! - Tích Ứng Chân sắc mặt buồn rượi: - Người nọ ở tận núi Côn Luân ngoài Tây Vực, cách trở vạn dặm, nước xa không cứu được lửa gần.
- Tây Vực... - Trong đầu Nhạc Chi Dương lóe lên một ý nghĩ, gã buộc miệng: - Ông nói Lương Tư Cầm à?
Tịch Ứng Chân trầm ngâm không nói, Nhạc Chi Dương chỉ cảm thấy nhiệt huyết dâng trào, nhịn không được bật thốt lên:
- Đạo trưởng cứ an tâm, nếu tôi có thể rời khỏi Đông Đảo, nhất định sẽ đến núi Côn Luân tìm vị Lương tiền bối ấy, mời ông ấy đến đây cứu ông.
- Tiểu huynh đệ thật là tốt bụng! - Tịch Ứng Chân mỉm cười lắc đầu: - Nhưng với bản lĩnh của cậu, sợ là chẳng thể rời khỏi hòn đảo này được đâu.
Nhạc Chi Dương nghe xong cảm thấy chán nản vô cùng, lại thấy bên trong buồng giam để lỉn kỉn không ít vật dụng thường ngày, thậm chí còn có vài ba pho sách mục. Tịch Ứng Chân nhìn ra suy nghĩ của gã, bèn cười:
- Vân Hư tuy nhốt ta ở đây nhưng thức ăn thường ngày cũng chưa cắt xén đi bữa nào, chỉ hiềm thiếu mỗi bộ cờ vây. Ta đây, một hôm mà không sờ đến quân cờ là cảm thấy ngứa chân ngứa tay lắm, hai năm rồi chưa được chơi cờ, quả là bức bối muốn phát bệnh.
Nhạc Chi Dương cười:
- Sao đạo trưởng không nói sớm? Mai ta làm một bộ mang đến cho ông.
Tịch Ứng Chân xua tay bảo:
- Một mình ta vừa tung vừa hứng thì có ý nghĩa gì chứ!
Ngẫm nghĩ một lát, ông liền gọi:
- Nhóc con, ngươi qua đây.
Nhạc Chi Dương ậm ừ bước đến, Tịch Ứng Chân chợt phất tay, một luồng gió mạnh liền phất thẳng vào mặt gã.
Thiếu niên vừa cảm thấy hô hấp khó khăn, bàn tay của lão đạo sĩ đã chạm đến chóp mũi của gã.
Nhạc Chi Dương chẳng biết phải làm sao, trống ngực đập mạnh thình thịch. Tịch Ứng Chân bất ngờ thu tay về, trầm ngâm bảo:
- Quái lạ, lúc ta thấy ngươi đến đây, thân thủ có vẻ cũng khá lắm, rõ ràng là biết võ công, sao giờ ta chỉ tiện tay tung chưởng mà ngươi không đỡ được?
Nhạc Chi Dương ấp úng đáp:
- Chẳng dám giấu đạo trưởng, lúc trước ta có học qua một ít nội công, còn mấy thứ công phu khác thì chả học được môn nào cả.
Tịch Ứng Chân đưa tay bắt lấy mạch môn của gã, chỉ cảm thấy bên trong tràn trề sung mãn, nội công đã ở mức tương đương cơ bản. Ông bất giác lắc đầu:
- Đáng tiếc, đáng tiếc.
- Đáng tiếc gì ạ? - Nhạc Chi Dương thắc mắc.
- Năm xưa, tổ sư Bách Ách có thu nhận một gã đệ tử từng học qua võ công, kẻ nọ sau khi thành tài thì phạm phải tội nghiệt tày trời, vì vậy tổ sư trước lúc lâm chung có để lại di huấn: phàm đệ tử Thái Hạo Cốc thu nạp, nhất định phải không biết võ công. Ta thấy ngươi căn cơ không tệ, người cũng lanh lẹ, hiềm vì thân mang nội công, không thể làm đệ tử của ta được.
Nói đến đây, Tịch Ứng Chân không kềm được xót xa, lại cất lên hai từ "Đáng tiếc".
Nhạc Chi Dương nghe xong những lời này, trong lòng có cảm giác hẫng hụt, gã ngẫm nghĩ rồi mỉm cười bảo:
- Làm thầy trò thì đương nhiên là tốt, nhưng nếu là bằng hữu cũng đâu có tệ.
Tịch Ứng Chân ngẩn người, kế đó bật cười:
- Không sai, bần đạo trứ tướng(*) rồi, làm bằng hữu không câu nệ không ràng buộc, so với làm sư đồ sướng khoái hơn nhiều.
(ND chú: một từ trong kinh Phật, đại ý là cố chấp với những thứ bên ngoài mà xa rời bản chất)
Nói đến đây, ông lại suy nghĩ gì đó rồi hỏi dò:
- Nhạc Chi Dương, ngươi có muốn học võ công không?
Nhạc Chi Dương ngạc nhiên đáp:
- Ông không thể dạy tôi thì tôi học thế nào?
Tịch Ứng Chân nói:
- Võ công trong thiên hạ nhiều vô số kể, đâu chỉ có mỗi Thái Hạo Cốc chúng ta, tổ sư Bách Ách dặn là không được học võ công của bản phái, còn võ công môn phái khác chẳng lẽ ta không dạy cho ngươi được chắc?!"
Nhạc Chi Dương như mở cờ trong bụng, luôn miệng đáp "Phải". Tịch Ứng Chân võ học uyên bác, công phu của mỗi môn mỗi phái đều biết qua sơ lược, trước tiên dạy từ mã bộ trạm thung(*), sau khi căn cơ đã vững rồi lại chọn ra một số bài quyền thuật, dần dần từng bước truyền dạy cho Nhạc Chi Dương. Từ đó về sau, Nhạc Chi Dương cứ mỗi canh ba đều đến Tinh Ẩn Cốc tập võ. Gã mang trong mình "Linh khúc chân khí", lại luyện qua "Linh vũ", hai thứ này đều là võ công thượng thừa từ cổ chí kim, lấy chúng làm nền tảng, cho dù học bất cứ môn võ công nào cũng giống như "Cao ốc kiến linh, thủy đáo cừ thành"(**). Tịch Ứng Chân chỉ cần giảng giải qua mấy lần, gã liền có thể học được y chang.
(*ND chú: Mã bộ trạm thung là một trong tam đại khí công, là công pháp trở thành căn bản của "nội kình nhất chỉ thiền" của Thiếu Lâm khí công, có tác dụng lưu thông "khí" toàn thân, cường hóa phần dưới cơ thể, nhất là chân. Phương pháp này làm khí huyết lưu thông toàn thân tốt hơn, cường hóa hạ bàn, được cho là có tác dụng duy trì sức khỏe và là phần căn bản của khí công)
(**ND chú: "Cao ốc kiến linh" nghĩa là nhà cao làm ngói máng, ý nói chỗ cao dễ xuống chỗ thấp, còn “Thủy đáo cừ thành” là câu thành ngữ Trung Quốc ý nói rằng thành công sẽ tự nhiên đến khi có đầy đủ các điều kiện cần thiết mà không cần phải nhất mực truy cầu)
Tịch Ứng Chân thấy gã tiến bộ thần tốc, miệng tuy không nói nhưng trong lòng lại sửng sốt vô cùng, chỉ cảm thấy trên đời này dẫu có là thiên tài thì tốc độ tinh tiến cũng không thể nhanh như vậy được. Trong lúc truyền thụ quyền thuật, có đôi chỗ Nhạc Chi Dương chưa thể thông thạo ngay nhưng đến khi xuất chiêu thì gã luôn luôn có thể tùy ý thay đổi, nhẹ nhàng bổ khuyết đi chỗ còn thiếu sót, quyền cước trở nên tròn trịa tự nhiên, so với chiêu thức gốc còn có vẻ cao minh hơn một bậc.
Lão đạo sĩ tri thức hơn người, thầm biết Nhạc Chi Dương còn có một mối kỳ ngộ nào khác, nhưng tính ông vốn chẳng tò mò, cũng không tiện truy tận nguồn cơn. Nhạc Chi Dương không nói, ông cũng lười hỏi nhiều.
Chỉ lực của "Nghịch Dương Chỉ" cứ mỗi bày ngày phát tác một lần, thời gian rơi vào khoảng trước sau giờ Tý. Vào đêm hôm ấy, Vân Hư nhất định sẽ đến nơi này, Tịch Ứng Chân sợ y và Nhạc Chi Dương chạm mặt, cho nên mỗi khi đến ngày phát tác thì không cho phép Nhạc Chi Dương tiến vào đáy hang nữa. Nhạc Chi Dương trong bụng cảm thấy khó chịu, thầm hận bản thân võ công thấp kém, không thể giúp đỡ người bạn già này thoát khỏi nguy khốn, nghĩ như vậy gã lại càng dốc lòng học võ nhiều hơn.
Khổ luyện vài tháng, quyền cước của Nhạc Chi Dương dần dần thuần thục, "Linh khúc chân khí" dồn nén trong cơ thể cũng bị dẫn phát ra, lúc giơ tay nhấc chân hệt như cuốn theo gió mạnh. Tịch Ứng Chân càng cảm thấy kinh ngạc, nhìn quyền phong của gã mãnh liệt như vậy chí ít cũng mất ba bốn năm khổ luyện, bản thân ông truyền cho gã đa phần là công phu ngoại gia, không hề tu luyện nội lực, nhưng quan sát Nhạc Chi Dương lúc này, trong thì ẩn chứa tinh hoa, ngoài thì sức mạnh bùng phát, rõ ràng đã mang dáng vóc của cao thủ nội gia.
Đêm ấy, Nhạc Chi Dương tiến vào đáy cốc, mở cánh cửa đá ra, vừa cười vừa réo:
- Tịch đạo trưởng, ông xem đây là gì?
Tịch Ứng Chân đón lấy bao vải trong tay gã, mở ra xem thử, hóa ra là một bộ cờ vây, quân đen là những viên đá sẫm màu được tuyển lựa tỉ mỉ, quân trắng là những vỏ sò được mài nhẵn, viên nào viên nấy đều tròn đầy bóng loáng, đủ thấy đã hao phí rất nhiều tâm sức.
Tịch Ứng Chân lòng thầm cảm động, thật lâu không thốt nên lời. Nhạc Chi Dương bất giác hỏi:
- Tịch đạo trưởng, bộ có gì không đúng à?
Lão đạo sĩ giật mình tỉnh ra, vuốt râu cười khà khà:
- Chẳng có gì không đúng cả.
Ông bị nhốt trên đảo, cứ tưởng cả đời này vô vọng, nào ngờ trời còn sai một người bạn nhỏ đến đây giúp cho tâm hồn già cỗi của ông tươi mới trở lại. Ông lập tức cười bảo:
- Bộ cờ này làm khéo vô cùng, nhóc con, ngươi biết đành cờ chứ?
- Đủ để tiếp lão gia mấy ván.
Nhạc Chi Dương mở túi, lấy than đen vẽ trên nền đất một bàn cờ, lại lôi ra một bầu rượu nóng hệt như dùng ảo thuật. Tịch Ứng Chân mừng rỡ ngoài dự kiến, cảm giác chẳng còn mong cầu gì hơn, vì thế hai người ngồi đối diện nhau, bắt đầu chơi cờ dưới ánh đèn dầu.
Tịch Ứng Chân với trình độ chơi cờ tuyệt diệu đủ để đứng đầu cả nước, nếu thật sự so về tài nghệ chơi cờ thì Nhạc Chi Dương chạm còn không đến một góc nhỏ của ông, thế nhưng Nhạc Chi Dương đầu óc linh hoạt, lúc nào cũng nảy ra những suy nghĩ quái đản, năm lần bảy lượt thế cờ tưởng đâu chết chắc bỗng đâu lại được cải tử hoàn sinh.
Tịch Ứng Chân liên tục thắc mắc:
- Nhóc con, năng khiếu chơi cờ của ngươi rất cao, nếu không vào được môn phái của ta quả thật đáng tiếc. Nền tảng "Dịch Tinh Kiếm" của bản phái được đúc kết từ dịch lý đời trước, về sau tổ sư Liễu Tình lấy thêm cảm hứng từ Tây Côn Luân-Lương Tiêu, mang tinh tượng vũ trụ gộp vào trong kiếm pháp. Sư phụ Thiên Dịch chân nhân cùng ta rất thích chơi cờ, lại đem kỳ đạo dung hợp vào trong kiếm đạo. Nghĩa của "Dịch Tinh" chính là lấy trời xanh làm bàn cờ, lấy thiên hà làm quân cờ, lấy ngôi sao làm công thức, di tinh hoán đẩu, tung hoành Sâm-Thương(*). Bởi kỳ đạo và tinh tượng có liên quan với nhau, nên khi thiên văn càng rõ thì sức cờ cũng càng cao, đường kiếm pháp này cũng trở nên siêu việt hơn.
(ND chú: di tinh hoán đẩu là thay đổi vị trí của các vì sao, còn sao Sâm-Thương là 2 ngôi sao cách nhau rất xa và không bao giờ xuất hiện cùng lúc trên bầu trời, dân gian quen gọi là sao Mai-sao Hôm)
- Bình sinh ta có thu nhận bốn người đệ tử, đại đệ tử Đạo Diễn, kỳ đạo và thuật số đều tinh thông, đã học được chân truyền của ta. Nhị đệ tử Chu Lệ, sức cờ cao cường nhưng lại khá kém về thiên văn thuật số, may nhờ vóc dáng to cao, kiếm khí mịt trời, tuy tài kiếm thuật không bằng Đạo Diễn nhưng nhìn chung cũng hết sức khả quan. Tam đệ tử Chu Quyền, trời sinh sẵn tính thông minh, bất kể là học cái gì, hễ học là học đến nhuần nhuyễn, trong bốn người thì thiên phú của hắn cao nhất, chả bù với tiểu đồ đệ Chu Vi kia, bản tính con nhóc ấy chỉ yêu thích âm nhạc, không muốn đánh đánh giết giết, học võ nhưng không hề chuyên chú cho nên cảnh giới chỉ làng nhàng mức trung bình.
Nghe đến hai từ "Chu Vi", Nhạc Chi Dương lại thấy nhoi nhói trong tim, bất giác đưa tay dốc thêm vài chung rượu, rượu cạn rồi chợt thấy chếnh choáng men say, gã ngước mắt nhìn lên trời cao, nơi ấy vầng trăng đang rót ánh sáng trong trẻo xuống mặt đất, soi chiếu đáy cốc sáng lên vằng vặc. Nhất thời men rượu bốc lên đầu, gã chồm dậy, múa một bài quyền dưới bóng trăng.
Đầu tiên, gã thi triển một bài "Thái tổ trường quyền" rồi lại chuyển sang "Du thân bát quái chưởng", cả chân lẫn tay đều thấp thoáng chiêu thức của "Cửu cung bộ". Gã càng đánh càng nhanh, miệng khẽ hú dài, trong lòng nổi lên "Chu Thiên Linh Phi Khúc", bất chợt tâm tư lâng lâng, "Linh Vũ" rót vào quyền cước hệt như liễu nương theo gió, mây trôi chớp lóe, đánh đến mức quên mất cả bản thân đang ở đâu. Bỗng nhiên khi quay đầu lại, gã nhát thấy bên cạnh mình thò ra một bóng đen, chân trái hạ thấp, tay phải co vào như thể đang muốn chạy xộc đến, ẩn tàng nguy hiểm.
Nhạc Chi Dương không thèm nghĩ ngợi nhiều, chân trái đá về phía đối thủ, chỉ nghe "cốp" một tiếng, bóng đen lập tức ngã phịch ra đằng sau còn xương ngón chân Nhạc Chi Dương lại truyền đến một cơn đau nhói.
- Thằng nhóc ấm đầu hả? - Tịch Ứng Chân vỗ tay cười phá lên: - Đương không ngươi kích vào hòn đá làm gì vậy?
Đang ngẫm nghĩ, người tù lại thét lên mấy tiếng, tiếng sau yếu hơn tiếng trước tựa như sắp lìa đời. Qua một lúc sau, Vân Hư lạnh lùng bảo:
- Thôi bỏ đi, chúng ta cứ phí thời gian như vậy, để ta xem ông có thể cầm cự được đến năm nào tháng nào!
Người tù cười khà khà:
- Năm khỉ tháng ngựa, ngài thấy sao?
Vân Hư xùy một tiếng, người tù lại bật cười:
- Thứ cho không tiễn.
Bóng đen trong hang chớp động, một người luồn thân lướt ra, tay xách đèn lồng. Dưới ánh sáng đèn soi tỏ, gương mặt gầy gò của Vân Hư hiện ra hằm hằm sắc giận, ông đứng nán lại cửa hang thoáng chốc rồi phất tay áo, xoay người bỏ đi.
Nhạc Chi Dương nằm rạp một bên không dám thở, đợi đến khi Vân Hư đi thật xa mới dám mò đến trước miệng hang, nương theo một sợi dây leo tuột xuống, thấp giọng gọi:
- Lão tiên sinh, lão tiên sinh...
Trong hang lặng im hồi lâu, người tù nhân nọ lạnh lùng hỏi:
- Nhóc con, ngươi đến đây làm chi?
Nghe thấy giọng nói vẫn còn yếu ớt, Nhạc Chi Dương cười đáp:
- Không phải tiền bối bảo ta đến hay sao?
Người nọ hỏi:
- Ta bảo ngươi đến hồi nào?
Nhạc Chi Dương mỉm cười, ngân giọng ngâm:
Ngửi mùi hoa quế độ ba thu
Cho buổi xa nhau chớm mịt mù
Rồi dưới Suối Vàng mai sau gặp
Lại nghe sáo ngọc réo vi vu
- Một bài thơ thì tính làm gì?
- Đây là một bài thơ chứa ẩn ý, bốn từ đầu tiên của bốn câu khi ghép lại với nhau, chẳng phải là "Canh ba đến gặp" hay sao?(*)
(ND chú: nguyên văn bài thơ: “Tam thu văn quế tử, canh hữu li biệt kì, lai nhật tuyền hạ phùng, hội hữu thính ngọc địch” khi ghép các từ đầu tiên lại được “Tam canh lai hội” có nghĩa là “Canh ba đến gặp”)
Người nọ trầm ngâm giây lát rồi chợt cất tiếng cười khà khà, bảo:
- Thằng nhóc con này, đến giờ ngươi mới phát hiện điều bí mật ấy ư? Tuy biết hơi chậm nhưng còn hơn là vô tri vô giác, đủ thấy tâm tư nhà ngươi cũng mẫn tiệp đủ để thảo luận với lão phu một phen.
Nói xong đèn lửa chợt hắt ra sáng rỡ từ một mảng song sắt, Nhạc Chi Dương tiến về phía trước, chỉ thấy sau song sắt là một đôi mắt tựa như hai vì sao lạnh in soi đáy giếng đang lặng lẽ quan sát gã. Gã lập tức chấp tay cười chào:
- Tiểu tử Nhạc Chi Dương, dám hỏi đại danh của lão tiên sinh?
- Ta là đạo sĩ. - Người nọ đáp: - Họ tục gia là Tịch, đạo hiệu Ứng Chân.
Nhạc Chi Dương mỉm cười:
- Hóa ra là một vị đạo trưởng. Thất kính, thất kính!
Trong lòng gã lại nghĩ thầm: "Ba chữ "Tịch Ứng Chân" có vẻ quen quen, hình như đã từng nghe qua ở đâu đó thì phải!"
Tịch Ứng Chân nhìn thấy sắc mặt của gã thì có chút ngạc nhiên, nghĩ bụng đa số đệ tử Đông Đảo đều biết rõ mồn một danh hiệu của mình, nhưng nom vẻ mặt của Nhạc Chi Dương thì hình như chả biết ất giáp gì cả, ông bèn hỏi:
- Thằng nhóc, ngươi không phải đệ tử Đông Đảo hả?
Nhạc Chi Dương đáp:
- Không phải.
Tịch Ứng Chân lại hỏi:
- Ngươi là con nuôi của Nhạc Thiều Phượng, cớ sao lại đến Đông Đảo?
Nhạc Chi Dương bèn vắt tắt thuật lại câu chuyện, Tịch Ứng Chân cười lạnh bảo:
- Tên tiểu tử Vân Hư, lừa gạt người ta thì không tính đi, lại còn vùi dập nhân tài như thế đúng là có mắt không tròng mà.
Nhạc Chi Dương không nhịn được hỏi:
- Tịch đạo trưởng, sao Vân Hư lại hành hạ ông như vậy?
- Kể ra thì dài lắm! - Tịch Ứng Chân cười khà khà: - Nhóc con, ngươi có biết Thái Hạo Cốc không?
Rồi không đợi cho Nhạc Chi Dương kịp trả lời, ông lại cười rằng:
- Ta hồ đồ rồi, ngươi không phải là người trong giang hồ thì làm sao mà biết các môn phái này chứ.
Lão đạo sĩ ngừng một lúc, lại tiếp lời:
- Thái Hạo Cốc của ta ngụ ở phương Bắc, vốn được vị cao nhân tiền triều là Liễu Tình sáng lập, về sau nhờ tổ sư Bách Ách phát dương quang đại, hai vị trên đều là những kỳ nữ trong giới Huyền Môn. Tổ sư Bách Ách vốn không định thu nhận nam đồ, mãi đến cuối đời chán nản, mới phá lệ thu nhận thầy của ta là Thiên Dịch chân nhân làm học trò, đến thời của ta đã truyền được bốn đời. Nhưng kể ra về gốc gác thì Thái Hạo Cốc và Đông Đảo cùng xuất phát từ một mạch, "Dịch Tinh Kiếm" của bổn cốc và "Phi Ảnh Thần Kiếm" của Đông Đảo đều có nguồn gốc từ "Quy Tàng Kiếm" của đại kiếm khách tiền triều Công Dương Vũ, tổ sư của hai phái lại càng có nhiều quan hệ dây mơ rễ má phức tạp với nhau.
Nhạc Chi Dương cười hỏi:
- Vậy trong hai loại kiếm pháp ấy, thứ nào lợi hại hơn?
Tịch Ứng Chân cười khà khà, trả lời chẳng ăn nhập gì với câu hỏi của gã:
- Luận về thân phận, ta cùng vai vế với Vân Xán, cha Vân Hư. Lúc ta xuất đạo đương vào lúc triều Nguyên hỗn loạn, thiên hạ nhiễu nhương bất an, bá tánh lâm vào cảnh dầu sôi lửa bỏng. Năm ấy ta với bản tính nghĩa hiệp tuổi trẻ, vácc kiếm lên vai chu du thiên hạ, thấy bọn bắt nạt người lương thiện thì tất nhiên ra tay diệt trừ. Nhưng ta dần dần nhận ra, kẻ ác trên đời này giết mãi chẳng hết, thật khiến lòng người chán nản. Càng đau lòng hơn chính là đệ tử Đông Đảo tốt xấu lẫn lộn, cát cứ một phương mà phá luật làm ác, nhưng vì thuở trước gia sư có dặn không cho phép ta kết oán với Đông Đảo, cho nên ta trông thấy mà chẳng thể làm gì được.
- Một ngày nọ, ta đi qua địa giới Hào Châu, chợt bắt gặp có kẻ đang đánh nhau, trong đó bên ít người hơn toàn sử dụng võ công Đông Đảo; bên còn lại đều mặc áo lính, tuy quân số đông nhưng võ nghệ lại rất tầm thường. Bọn họ hô hào dũng cảm chiến đấu để bảo vệ một vị tướng quân. Vị tướng quân nọ lâm nguy không loạn, chỉ huy một nhóm quân sĩ bình thường ngăn cản một đám cao thủ võ học. Trong lòng ta lấy làm lạ bèn cẩn thận quan sát dung mạo người đó, không những dáng vẻ không xuất chúng mà thậm chí còn có phần xấu xí, tuy nhiên khí phách lớn như vậy thì là lần đầu tiên ta trông thấy. Hai bên chém giết đã lâu, Đông Đảo cuối cùng cũng chiếm được thượng phong, binh sĩ càng đánh càng ít đi, vị tướng quân nọ cũng sắp nguy khốn đến nơi. Ta thấy bọn người Đông Đảo ra tay ác hiểm, nhất thời nổi máu, liền vung kiếm xông ra đẩy lui đệ tử Đông Đảo, tuy nhiên ra tay cũng có phần nương nhẹ, chỉ đâm bị thương chân cẳng của chúng, tuyệt không hại đến tính mạng.
Nhạc Chi Dương nghe đến đây, trong dạ thầm kinh ngạc. Tịch Ứng Chân kể lại thì vắn tắt sơ sài, nhưng hai phe đang giao chiến, muốn làm bị thương chân cẳng từng kẻ địch mà lại không ảnh hưởng đến tính mạng họ, đủ thấy kiếm pháp của ông cao cường khó bề tưởng tượng.
Tịch Ứng Chân tiếp tục kể:
- Thủ lĩnh bên Đông Đảo nhận ra lai lịch của ta, bèn nói: “Linh Ngao Đảo và Thái Hạo Cốc như chim liền cánh cây liền cành, bổn đảo trước giờ kính nhường quý phái ba phần, cớ sao lại chõ mũi vào phá đám đại sự của chúng ta?”
- Trong lòng ta sẵn bực bội, bèn đáp: "Tiền bối của quý đảo ta đây hết sức khâm phục: Thích Thiên Phong, Công Dương Vũ, đại hiệp Vân Thù, Hoa Kính Viên chẳng phải là những con người kinh thiên động địa, lòng đầy hiệp nghĩa đấy sao? Còn hiện nay, các ngươi vì tranh giành thiên hạ, ai nấy đều đã quên tổ phản tông, thất tín bội nghĩa, chỉ nhăm nhe tranh quyền đoạt lợi, chẳng màng thiên hạ chúng sinh, phá hoại cả một vùng Giang Nam xương trắng đầy nội, chợ búa thành không, tiền bối của quý phái dưới đất kia nếu hay được chẳng biết sẽ có cảm nghĩ như thế nào?"
- Mắng sướng lỗ tai thật! - Nhạc Chi Dương vỗ tay khen hay.
Tịch Ứng Chân cũng bật cười, kể tiếp:
- Kẻ nọ nghe xong chỉ cười lạnh, bảo: "Mấy lời này ta sẽ nguyên văn thuật lại cho đảo vương nghe, những mong đạo trưởng nếu biết trước biết sau thì chớ có bỏ chạy mất tăm là được.”
- Cao thủ Đông Đảo nhiều như mây, sức ta một mình đơn lẻ, chỉ là tuổi trẻ thẳng tính, đầu óc nóng ran liền mở miệng đáp trả: "Trốn làm gì? Chuyện lớn đến đâu mình ta cũng gánh vác nổi."
- Kẻ nọ cười lạnh bỏ đi, vị tướng quân nọ cũng tiến lên trước gặp ta, hai bên cùng xưng tên báo họ, ngươi nói thử xem người nọ là ai?
Nhạc Chi Dương suy nghĩ rồi đáp:
- Chẳng lẽ là Chu Nguyên Chương?
Tịch Ứng Chân í một tiếng, hỏi:
- Dựa vào đâu mà ngươi nói vậy?
- Ông kể nơi xảy ra sự việc là Hào Châu, đó là đất nổi dậy của Chu Nguyên Chương, ông nói tướng mạo người đó xấu xí nhưng khí phách kinh người, lâm nguy không loạn mà còn trực tiếp chỉ huy, đủ thấy ông đối với người đó hết sức khâm phục. Nhân vật như đạo trưởng đây, người có thể khiến ông khâm phục e rằng không nhiều, ngẫm đi nghĩ lại, cũng chỉ có Chu Nguyên Chương mà thôi.
Tịch Ứng Chân vỗ tay cười:
- Khá thật, lại bị ngươi đoán trúng rồi. Tiếc là thiếu rượu, bằng không phải cạn với ngươi một chung.
Nhạc Chi Dương củng mỉm cười:
- Đạo trưởng cứu Chu Nguyên Chương, hẳn là đã kết bạn với ông ta nhỉ?
- Thằng nhóc không biết trời cao đất dày. - Tịch Ứng Chân cười mắng: - Y dẫu sao cũng là đương kim thiên tử, thiên tử không có bạn, cả đạo lý này mà ngươi cũng không biết hay sao?
Nhạc Chi Dương biết Tịch Ứng Chân thích nói chuyện theo kiểu "Chê trước khen sau", liền cười bảo:
- Khi ấy Chu Nguyên Chương chưa phải là thiên tử, nếu không kết giao bạn bè rộng rãi, sợ rằng sẽ không có được thiên hạ đâu.
Tịch Ứng Chân sững người, thở dài:
- Thẳng quỷ con, tuổi còn nhỏ mà cũng thấu tình đạt lý gớm. Không sai, ta và y vừa gặp như đã quen thân, hai bên tính tình tương đồng, đã cùng nhau kết nghĩa ngay tại nơi ấy.
Nhạc Chi Dương giật mình:
- Hóa ra các người không phải bạn bè mà là huynh đệ.
- Đó đã là chuyện nhiều năm trước rồi. - Tịch Ứng Chân thở dài xa vắng: - Y hiện giờ một thân một mình, cái gì là huynh đệ công thần đều đã sớm không còn trong mắt của y nữa!
Nhạc Chi Dương vốn ở tại kinh thành, nghe xong tự nhiên hiểu thấu. Mấy năm gần đây, Chu Nguyên Chương trừ khử công thần, hở tí là diệt tộc, tịch biên tài sản. Nhạc Chi Dương tận mắt trông thấy, một khi tấm lệnh bài trảm quan được ném xuống thì bất kể là già trẻ nam nữ, đầu người đều phải lăn dài dưới mặt đất. Gã từng một lần chứng kiến và từ đó không muốn thấy lại lần nào nữa, ngược lại Giang Tiểu Lưu thì hào hứng vô cùng, mỗi dịp có sự kiện như vậy đều lâng lâng thích thú chạy đi xem náo nhiệt.
- Chu Nguyên Chương mời ta đảm nhiệm một chức vị quan trọng cho y, ta chả có hứng thú gì với chuyện đánh trận công thành nhưng lo sợ cao thủ Đông Đảo đến xâm phạm nên mới đồng ý ở lại Hào Châu làm cảnh vệ. Ba ngày đầu trôi qua bình yên vô sự, đến đêm ngày thứ tư, cao thủ Đông Đảo quả nhiên xâm nhập, một lần đến hơn sáu tên đều bị ta huơ kiếm đánh lui. Qua hai ngày sau lại có bốn tên mò đến, bốn tên này hết sức lợi hại, trong đó có một tên ta không kịp thu kiếm, lỡ tay đâm chết. Cho dù đã hai lần đẩy lùi kẻ địch, nhưng tốp đến sau càng lợi hại hơn tốp đến trước, trong lòng ta hết sức lo lắng, luôn sớm chiều cảnh giác không dám lơ là.
- Đến đêm ngày thứ tám, bỗng nhiên xuất hiện hai lão già, võ công cao cường vô cùng, tuy không nằm trong dòng tứ tôn nhưng cũng là nhân vật có địa vị cao. Ta cùng bọn họ giao thủ trên giáo trường, lấy một chọi hai, ta phải chống đỡ hết sức vất vả. Mắt thấy sắp thua đến nơi, ta chợt nghe tiếng một người đàn ông bật cười ở trên cao, ta ngước lên xem, trên đỉnh cột cờ có một kẻ đang đứng sừng sững. Cột cờ ấy cao đến hơn bốn trượng, kẻ này nhảy lên đó từ khi nào, ba người chúng ta đều không hay không biết, bản lĩnh cỡ này có gọi là xuất quỷ nhập thần cũng không đủ hình dung. Nhị lão Đông Đảo e ngại đây chính là trợ thủ ẩn mình của ta, một người trong bọn liền đột ngột tung chưởng phải, định bất ngờ đánh gãy cột cờ. Một chiêu này độc địa vô cùng, xung quanh cột cờ trống trải chênh vênh, người nọ không có điểm đặt chân nhất định sẽ phải ngã chết.
- Ôi chao. - Nhạc Chi Dương khẽ hô lên: - Như vậy người đó ngã chết ư?
- Nói cũng lạ, cột cờ rầm rầm đổ xuống còn người nọ thì lại không rơi xuống theo. Ta nheo mắt nhìn kỹ liền không khỏi kinh ngạc, y treo người lơ lửng ở trên không, sau đó bồng bềnh đáp xuống mặt đất, thế rơi hết sức ung dung, không giống như thân thể bằng xương thịt mà tựa như một cánh diều mang hình dáng con người. Đến khi người nọ hạ xuống đất, ta cẩn thận quan sát lần nữa, chỉ thấy y còn rất trẻ, cùng lắm chỉ mới hơn hai mươi một chút.
- Ông nói kẻ đó là người, không phải hồn ma à? - Nhạc Chi Dương lấy làm kinh sợ.
Tịch Ứng Chân ha ha cười lớn:
- Y đương nhiên là người, có điều võ công tu luyện hết sức kỳ diệu, lên trời hóa chim, xuống nước thành rồng, có thể khéo léo điều khiển lực hút của thiên địa tạo hóa.
- Có nhân vật lợi hại như thế sao? - Nhạc Chi Dương như đang nghe kể một câu chuyện thần thoại, cảm giác khó mà tin được.
- Chẳng những ta sửng sốt mà nhị lão Đông Đảo thấy y có bản lĩnh như vậy cũng kinh ngạc không kém. Người trẻ tuổi ấy cười rằng: "Hai vị già như vậy rồi, không chịu ở Đông Đảo hưởng phúc mà lại chạy đến Trung Thổ làm loạn. Ta theo dõi hai vị suốt ba ngày nay, dọc đường đi các vị cứ tác oai tác oái, chả làm chuyện gì có ích cả. Cái tên đảo chủ Vân Xán kia cai quản thuộc hạ không nghiêm, làm hổ thẹn lây cả tổ tiên, các người nếu như còn chút liêm sỉ thì hãy ngoan ngoãn rời khỏi nơi này mà trở về Đông Đảo tu tỉnh."
- Hai lão già nghe được y đã theo họ ba ngày, ai nấy đều tỏ vẻ không tin, một lão nói: "Tên tiểu tử nhà ngươi nói khoác không biết thẹn, vậy ngươi bảo xem ba ngày qua bọn ta đã làm những gì?"
- Người trẻ tuổi mỉm cười: "Đêm đầu tiên, hai vị tuổi già hồi xuân, ghé hưởng lạc ở đường Tập Khánh (T/G chú: nay là thành phố Nam Kinh), đã ăn bánh không trả tiền thì chớ lại còn đánh trọng thương gái thanh lâu nhà người ta. Sáng sớm ngày thứ hai, hai vị lão huynh gặp tai nạn bất ngờ, bèn chuyển sang cướp lấy một thớt ngựa, chủ ngựa tỏ vẻ phản kháng liền bị các ngươi đá cho một cước gãy đoạn chân trái. Cũng vào trưa ngày hôm đó, một đám dân đói đến xin ăn các ngươi, kết quả bị các ngươi quét cho hai chưởng, làm thương nặng ba người, gây thương nhẹ bốn người, một người trong số đó nếu không có ta cứu chữa kịp thời sợ rằng tính mạng cũng khó giữ được. Ngoài ra còn có một chuyện, các ngươi đến đây không chỉ có hai người mà là ba người, hai người phụ trách dẫn dụ vị đạo sĩ này đi khỏi để cho người còn lại ám sát đại tướng thành Hào Châu.
- Ta nghe xong lời này cảm thấy kinh ngạc lạ thường, sắc mặt nhị lão Đông Đảo lại càng khó coi hơn, một lão hét lên: "Người huynh đệ ấy của ta, ngươi đã làm gì hắn rồi?"
- Người trẻ tuổi nọ cười: "Cũng chẳng làm gì, hồi nãy ta đem treo hắn ở dưới lá cờ, tiếp đó không hiểu sao cột cờ lại gãy sụm, về sau hắn thế nào ta cũng không biết nữa.”
- Hai người kia biến sắc vội vã xông lên đằng trước, dưới lá cờ quả nhiên có che phủ một người, kẻ đó trông có vẻ bị người trẻ tuổi kia bắt giữ rồi điểm huyệt đạo, treo trên cột cờ. Mới rồi hắn ngã xuống theo cột cờ, vỡ đầu toạc óc chết tươi. Ta thấy tình hình như vậy mới thở phào một hơi. Nhị lão Đông Đảo giết nhầm đồng môn, bi phẫn cùng cực, nhảy chồm lên toan ra tay tàn độc với người trẻ tuổi nọ. Ta sợ y gặp nguy khốn, đang định bạt kiếm tương trợ, nào ngờ hai bên vừa chạm trán, nhị lão Đông Đảo đã song song té nhào, thậm chí đến nỗi người trẻ tuổi nọ ra tay thế nào ta cũng không kịp nhìn rõ.
Nhạc Chi Dương buột miệng hỏi:
- Người này là ai mà lợi hại thế?
Tịch Ứng Chân nghiêm trang đáp:
- Người này họ Lương, tên Tư Cầm
Ổng vẫn còn sống cơ à? - Nhạc Chi Dương hỏi.
- Đương nhiên là còn! - Tịch Ứng chân khẽ cao giọng: - Chỉ vì ông ấy còn sống mà suốt ba mươi năm qua, Vân Hư không dám rời khỏi Đông Đảo nửa bước.
- Lợi hại thiệt! - Nhạc Chi Dương buột miệng kêu lên.
Tịch Ứng Chân cười khà khà, kể tiếp:
- Lương Tư Cầm chế ngự nhị lão nhưng tuyệt không xuống tay giết người mà lại thả cho bọn họ đi, lúc thả có dặn: "Các người thay ta chuyển lời cho Vân Xán, ngày nay thiên hạ đại loạn, lý ra phải trừ hại an dân, cứu vớt chúng sinh. Nếu y còn chút lương tâm thì tốt nhất nên quản thúc lại đám người trên đảo, không thì trời cao sẽ chẳng buông tha cho y đâu". Nhị lão đưa mắt nhìn nhau, cất giọng hỏi: "Ngươi tên họ là chi? Võ công từ đâu học được?" Lương Tư Cầm đáp: "Ta họ Lương, đến từ hải ngoại". Hai người nọ tái mét mặt mũi, chẳng nói chẳng rằng, xoay người bỏ đi một mạch, ngay cả thi thể đồng môn cũng không thèm quan tâm đến. Ta cảm kích trong dạ bèn tiến lên phía trước làm quen với Lương Tư Cầm, trong lúc chuyện trò mới hay người này chẳng những võ công tuyệt đỉnh mà học vấn cũng cao vời, tài trí trác tuyệt, lại có chí hướng giúp đỡ giang sơn xã tắc, ta liền khuyên y đầu quân về dưới trướng Chu Nguyên Chương. Nhưng y bản tính đạm bạc, không muốn làm tướng làm quan, trước sau chỉ muốn làm một viên phụ tá nhỏ. Về sau lúc truy diệt quần hùng, Lương Tư Cầm nghĩ ra diệu kế, tạo lập thần cơ, ra tay mạnh mẽ, quần hùng Đông Đảo liên tiếp đón nhận thất bại, trong lòng họ hiểu rõ, một ngày không diệt trừ đi Lương Tư Cầm thì chuyện thắng được Chu Nguyên Chương chỉ là vọng tưởng. Thế nên, Vân Xán mới hạ chiến thư, mời Lương Tư Cầm đến Đông Đảo quyết một trận tử chiến."
- Một mình ổng thôi à? - Nhạc Chi Dương không khỏi kinh ngạc.
- Ta vốn định cùng y đi đến đó, nhưng y bảo đối phương tráo trở, biết đâu lại là kế điệu hổ ly sơn, dặn ta ở lại bên cạnh Chu Nguyên Chương, phòng ngừa Đông Đảo ra tay ám sát. Vì thế sự tình sau đó, ta cũng chưa từng tận mắt chứng kiến, chỉ nghe kể lại rằng y một mình theo hẹn, vượt trùng dương đánh bại hết tất cả cao thủ ở Đông Đảo, lại khắc lên bảy chữ trên bia đá đầu đảo: "HỮU BẤT HÀI GIẢ NGÔ KÍCH CHI"(*)
(ND chú: đại loại là ~ hễ ai không thuận theo thì ta đánh hết!)
Nhạc Chi Dương tặc lưỡi liên hồi:
- Hóa ra hàng chữ ở trước đảo là do ổng viết, thảo nào, thảo nào...
Tịch Ứng Chân nói:
- Từ sau trận chiến ấy, Đông Đảo thất bại toàn tập, Vân Xán vừa thọ thương cộng thêm uất hận, không lâu sau thì lìa đời, trước khi chết cứ căn đi dặn lại con trai Vân Hư nhất định phải báo thù cho mình. Sau này Vân Hư luyện thành kiếm pháp, trong vòng mười năm đã khiêu chiến Lương Tư Cầm ba lần, kết quả đều thất bại cả ba. Lần thứ ba ấy, y trở về Đông Đảo, trong lúc tức giận đã phát lời thề độc, nếu không luyện thành võ công đánh bại Lương Tư Cầm thì cả đời sẽ quyết không rời khỏi Đông Đảo nửa bước.
Nhạc Chi Dương vỗ tay cười:
- Chả trách Vân Hư mặt mày khổ não như vậy, hóa ra là một kẻ thua cuộc cay đắng.
- Lương Tư Cầm vốn là vô địch thiên hạ, thua dưới tay ông ta cũng không đến nỗi mất thể diện! - Tịch Ứng Chân từ tốn bảo: - Vả lại Vân Hư trước nay giao đấu cũng chỉ thua mỗi ba lần duy nhất ấy, phóng mắt khắp thiên hạ, nhân vật có thể so vai với y chắc cũng không quá năm vị.
- Là năm vị nào? - Nhạc Chi Dương cảm thấy tò mò cực điểm.
Tịch Ứng Chân chầm chậm đáp:
- Nếu sau này ngươi vào giang hồ thì tự nhiên sẽ biết thôi.
- Lương Tư Cầm còn ở triều đình không vậy? - Nhạc Chi Dương không nhịn nổi thắc mắc:
- Sao ta chưa từng nghe nhắc đến danh của ổng?
Tịch Ứng Chân lặng im một thoáng mới trả lời:
- Bởi chính kiến không hợp nhau, y đoạn tuyệt với Chu Nguyên Chương rồi bỏ đi Tây Vực ẩn thân lánh đời, hiện nay ba từ "Lương Tư Cầm" chính là từ cấm kỵ ở triều đình, ai mà nhắc đến sẽ phạm vào tội chết.
Nhạc Chi Dương ngạc nhiên tột độ:
- Sao lại như thế chứ?
Tịch Ứng Chân ồ lên một tiếng bảo:
- Lạ nhỉ, Nhạc Thiều Phượng không kể cho ngươi nghe chuyện này à? Theo ta biết, lệnh tôn mất đi chức quan cũng là vì liên lụy đến cái án của Lương Tư Cầm.
Nhạc Chi Dương giật thót mình, lập tức hỏi ngay:
- Tịch đạo trưởng, nghĩa phụ ta và Lương Tư Cầm thân nhau lắm ư?
- Nói thân cũng không hẳn, Lương Tư Cầm tinh thông âm luật, năm ấy trong lúc bàn thảo Nhã Nhạc cho Đại Minh, Nhạc tiên sinh và y có qua lại giao thiệp với nhau một thời gian. Về sau Lương Tư Cầm gặp chuyện, lệnh tôn cũng chịu liên can, nhưng thời may là ông đã từ quan nên bảo toàn được tính mạng, còn những người khác thì không có được vận hạnh ấy.
Tịch Ứng Chân nói đến đây, thầm thở dài một hơi.
Nhạc Chi Dương nghe tim đập mạnh thình thịch, gã hỏi:
- Tịch đạo trưởng, cha của tôi có kẻ thù nào hay không?
Tịch Ứng Chân bảo:
- Việc này thì không nghe, lệnh tôn dựa trên âm nhạc mà làm quan, chưa từng lâm trận giết địch, cũng không tham gia chính sự, theo lẽ thì chẳng có kẻ thù nào.
Nói đến đây, ông lấy làm lạ hỏi lại:
- Nhóc con, ngươi hỏi việc này chi vậy?
Nhạc Chi Dương cố nén nhịn nỗi đau, mang cái chết của Nhạc Thiều Phượng kể lại một lượt. Tích Ứng Chân nghe xong, trầm ngâm bảo:
- Xuống tay tàn độc như thế hẳn là do huyết hải thâm thù, ta với lệnh tôn qua lại không được thân thích, rất nhiều chuyện cũng không rõ cho lắm.
- Liệu có phải là... - Nhạc Chi Dương hít sâu một hơi mới tiếp lời: - Là Chu Nguyên Chương?
- Không đâu! - Tịch Ứng Chân trầm tư bảo: - Nếu là Chu Nguyên Chương thì đã sớm giết lệnh tôn từ lâu rồi, hà tất phải chờ đến lúc này?
Trái tim Nhạc Chi Dương bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm, nếu Chu Nguyên Chương không phải là hung thủ, gã và Chu Vi cũng không phải gặp nhau trong thù hận nữa, nhưng nếu không phải Chu Nguyên Chương, vậy thì là ai?
Muôn mối tơ vò, gã đành dẹp sang một bên, hỏi tiếp:
- Tịch đạo trưởng, ông là bạn thân của đương kim hoàng thượng, vì sao lại bị nhốt ở chốn này?
- Nói ra thì dài lắm! - Tịch Ứng Chân khẽ thở dài. - Năm ấy thiên hạ được bình định, ta không muốn làm quan bèn đi vân du tứ phương. Nhưng Chu Nguyên Chương nhớ lại giao tình thuở trước liền tìm cách triệu hồi ta về kinh đô, một mặt giao nhi nữ của mình cho ta truyền thụ võ công, mặt khác ban cho ta nhiều danh hiệu, để ta ở lại kinh thành quản lý Đạo giáo trên khắp thiên hạ.
- Vốn là người trong Huyền Môn, bất quản cả trời đất, ta tham dự cuộc phân tranh trong thiên hạ cùng lắm chỉ là nhất thời ngẫu nhiên, vinh hoa phú quý không phải thứ ta thích, tiêu diêu tự tại mới là sở cầu của ta. Còn cái bọn hoàng tử hoàng tôn ấy được mấy bà vú nuôi lớn trong chốn thâm cung, nếu không phải loại hèn nhát tầm thường thì cũng là loại bạo ngược bất nhân, dạy dỗ chúng xem ra còn khó hơn lên trời, tính đi tính lại, chỉ có ba người là học được chân truyền của ta, trong đó có một cô bé mà ta hết sức tâm đắc. Chao, cô bé tốt tính như vậy mà lại sinh ra trong nhà đế vương thật là uổng phí.
Nhạc Chi Dương nghe kể đến đây, trong lòng ngưa ngứa, bèn hỏi:
- Cô bé ấy tên là gì?
- Tên nó độc mỗi chữ Vi. - Tịch Ứng Chân hờ hững đáp: - Hiệu là Bảo Huy công chúa.
Nhạc Chi Dương chỉ cảm thấy một bầu máu nóng dâng đến đỉnh đầu, trống ngực thình thịch đập vang. Gã cuối cùng cũng nhớ ra, trong phường hát Trương Thiên Ý đã từng bảo, Chu Vi chính là đệ tử của Tịch Ứng Chân, hèn chi cái tên ấy lại nghe quen tai đến như vậy. Thật không ngờ được, tại cái xứ khỉ ho cò gáy này lại gặp được sư phụ của tiểu công chúa.
Tịch Ứng Chân dòm qua chấn song thấy thần sắc của gã là lạ liền hỏi:
- Sao vậy? Ngươi từng nghe tên nó rồi à?
Nhạc Chi Dương không muốn liên lụy đến Chu Vi bèn lắc đầu giục:
- Xin đạo trưởng kể tiếp đi ạ.
- Ta không thích ở lại kinh thành bèn mượn cớ đi giám sát các đạo quán trong thiên hạ để tiện bề ra ngoài chu du. Chừng đâu hai năm trước, Vi nhi gởi thư cho ta, bảo đã lâu rồi không gặp, trong lòng nhung nhớ không thôi. Ta liếc qua phong thư, cũng có phần nhơ nhớ cô bé đồ đệ này, vì vậy mới chuyển hướng về kinh. Mấy năm qua Chu Nguyên Chương giết chóc quá nhiều, công thần bạn cũ tan tác quá nửa, tuy ông ấy không nói ra ngoài miệng nhưng trong lòng thì hết sức cô đơn, gặp được người bạn xưa đã lánh đời như ta liền níu giữ ở miết trong cung cùng ông ấy chơi cờ uống rượu. Một ngày nọ, chơi xong hai ván cờ, ông ấy chợt đề cập đến hoàng thái tôn Chu Doãn Văn, trong lòng vô cùng phiền muộn. Thái tôn tuy thừa đức hạnh nhưng lại không đủ hùng tài, tuy ông ta đã có trăm kế đề phòng nhưng vẫn lo sợ có sơ suất. Chướng ngại ở triều đình trước mắt đã bị quét sạch, đám quân thần hung hãn khó chế ngự đều bị tru diệt, tuy nhiên bên ngoài triều đình thì vẫn ẩn chứa mầm họa, đặc biệt là dư nghiệt của Đông Đảo. Nhiều năm qua như vậy, đám tro tàn lại âm ỉ bùng cháy, dạo gần đây bọn chúng đã đôi phen xông vào cung cấm, mặc dù chưa thể thành công nhưng cũng cần đề cao cảnh giác. Ông ấy hỏi ta có biết vị trí của Đông Đảo ở đâu không, định đóng tàu chinh phạt, đánh thẳng vào sào huyệt.
- Tuy ta biết Đông Đảo ở đâu nhưng Thái Hạo Cốc và Đông Đảo như cây liền cành như chim liền cánh, sao ta có thể tiết lộ vị trí, đẩy họ vào đường cùng cho được? Cho nên ta đành nói qua quýt, rằng Đông Đảo cách xa Trung Thổ, giữa vùng mênh mông khói sóng, trừ đệ tử Đông Đảo ra, không ai biết đảo ở vị trí nào. Năm ấy Đại Nguyên cũng từng phái binh đi chinh phạt nhưng cũng như mò kim đáy bể, xiết bao lượt công cốc trở về. Chu Nguyên Chương tiêu tan hy vọng, đành nói nếu lần sau còn có đệ tử Đông Đảo xông vào hoàng cung sẽ để cho "Âm Ma" Lãnh Huyền bắt sống, bất kể phải dùng thủ đoạn gì cũng phải ép hỏi cho ra nơi tọa lạc của Đông Đảo.
- Vậy toi rồi còn gì? - Nhạc Chi Dương nói: - Mấy tên ở Đông Đảo này hết sức cuồng vọng, nhất định sẽ còn lén trở lại hoàng cung.
- Ta cũng suy đoán như vậy. - Tích Ứng Chân thở dài: - Ta với Đông Đảo có dính dấp rất nhiều, năm ấy hai bên xem nhau như kẻ thù cũng vì tình thế chẳng đặng đừng, nay tuổi tác ta đã cao, cũng chẳng còn gì mà lo lắng, chi bằng xả thân dấn bước, cho dù chết hay sống thì cũng nên giải quyết nốt mối ân oán này. Nghĩ bụng như thế, ta mượn cớ vân du rời kinh thành, cưỡi thuyền vượt biển, mấy độ lênh đênh mới đến được Đông Đảo. Vân Hư trông thấy ta cũng hết sức ngạc nhiên, nhưng y thân là tông chủ một phái nên cũng không gây khó dễ gì cho ta mà ngược lại còn khách khí dò hỏi ý đồ đến đây của ta.
- Ta đem chuyện vì sao đến đây nói cho y biết, lại bảo: "Giờ đây thiên hạ thái bình, bá tánh lạc nghiệp. Ta với ông đều đã kinh qua chiến loạn, biết bao nhiêu thảm cảnh không dám ngoảnh đầu nhìn lại, nếu dấy binh biến lần nữa liệu sẽ có bao nhiêu người dân vô tội phải tan nhà nát cửa? Dám mong Vân đảo vương lấy bá tánh làm trọng, cứ một cõi xưng hùng ngoài hải ngoại, vứt bỏ đi thù xưa hận cũ". Vân Hư nghe xong chẳng mảy may biểu lộ cảm xúc, chỉ bảo: "Thái Hạo Cốc và Đông Đảo ta có dây mơ rễ má sâu xa, tổ sư Liễu Tình đạo trưởng của ông và tổ sư Công Dương Vũ của bản môn vốn giao tình không nhẹ, năm xưa đạo trưởng ở doanh trại kẻ địch cũng nhiều lần giơ cao đánh khẽ, chừa cho Đông Đảo ta một đường sống. Nhớ đến chuyện cũ ta đây kính ông ba phần. Nhưng mà, theo lời đạo trưởng nói, thật sự phải cân nhắc đôi điều. Từ khi nhà Tống mất ở Nhai Sơn thì Đông Đảo ta luôn nung nấu quyết tâm chống lại giặc Nguyên, trong suốt trăm năm ấy chả biết đã chết mất bao nhiêu anh hùng hảo hán. Về sau Đại Nguyên loạn chính cũng là lúc đệ tử Đông Đảo đồng loạt nổi dậy, muôn vạn người cùng chít khăn hồng. Trận chiến ở Cao Bưu, thừa tướng Đại Nguyên là Thoát Thoát dùng trăm vạn đại quân vây thành, một thành trì bé tẹo đã mấy phen suýt tan vỡ, là nhờ ai đã liều mạng khổ chiến, đại phá quân Nguyên khiến cho chúng chẳng thể tiến xuống phương Nam chứ? Bằng không, Thoát Thoát mà phá được Cao Bưu rồi, thừa thế cuống phăng Giang Nam, Chu Nguyên Chương cho dù có tài năng trùm trời đi nữa cũng phải thành ma dưới đao của bọn Nguyên. Kết quả thì sao chứ, đệ tử Đông Đảo chúng ta máu chảy đầu rơi nơi tiền tuyến, còn hắn thì ở hậu phương trắng trợn khuếch trương thực lực. Đáng hận nhất chính là cái tên Lương Tư Cầm, tổ tiên của hắn vốn là đại tướng triều Nguyên đã nhẫn tâm vứt bỏ đi áo mũ Đại Hán chúng ta. Đạo trưởng tương trợ Chu Nguyên Chương còn có thể cho là vì thiên hạ bá tánh, còn hắn giúp Chu Nguyên Chương chỉ là vì không muốn để cho Đông Đảo bọn ta đạt được ý nguyện, cho nên trăm phương ngàn kế phá hoại đại sự của bọn ta. Mối hận này cao đến trời xanh, Vân mỗ nếu không trả thù rửa hận thì quả là uổng thân nam tử bảy thước".
- Ta nghe xong lời này, đành nói: "Đánh đuổi rợ Nguyên, Đông Đảo đúng là lập công lớn. Đời có câu: "Tận nhân sự, an thiên mệnh"(*), chống lại giặc Nguyên rõ là quý đảo đã làm hết sức, không phụ lòng của thiên hạ bá tánh, thế nhưng để thống nhất thiên hạ thì không thể thiếu đi ít nhiều sự may mắn. Năm ấy đại chiến mấy bận, nếu Đông Đảo có cơ hội thủ thắng thì biết đâu chừng Chu Nguyên Chương cũng sẽ có họa diệt vong, mọi người ai cũng cố hết sức, thắng bại cũng rõ ràng rành mạch. Con người sinh ra ở đời phải biết chấp nhận thất bại, cứ mồm miệng oang oang không dứt như lũ đàn bà thì đâu có giống hành vi của một người đàn ông tốt."
(ND chú: có nghĩa là khi đã làm hết sức mình rồi, thì chuyện còn lại nên để cho số trời an bài.)
Nhạc Chi Dương bật cười:
- Đạo trưởng nói vậy chỉ e đắc tội người khác rồi.
Tịch Ứng Chân cười khà khà, kể tiếp:
- Vân Hư nghe xong nổi giận đùng đùng. Nhưng y tự cao tự đại, không tiện phác tác ra ở đó, hậm hực một lúc mới bảo: "Hóa ra đạo trưởng là thuyết khách của Chu Nguyên Chương". Ta thấy y ngu xuẩn cố chấp, trong lòng phát bực bèn nói: "Ta đi thuyết phục ông làm gì? Ông mà đi đầu hàng Chu Nguyên Chương, dựa vào thủ đoạn của ông ta, chắc gì chừa cho ông cửa sống. Ta chỉ vì nhớ lại mối quan hệ của đời trước, không nỡ chứng kiến Đông Đảo bị tận diệt nên mới mạo hiểm đến đây nhắc nhở ông một câu, đừng bao giờ trở về gây nhiễu loạn cho Trung Thổ nữa, nhỡ đâu chọc giận Chu Nguyên Chương, để ông ta đóng thuyền chinh phạt, vậy thì nguy to". Vân Hư nghe xong liền đáp: "Chu Nguyên Chương giết hại công thần, không chừa lại dư lực, đạo trưởng cứ năm lần bảy lượt bán mạng cho hắn thì có gì hay đâu? Năm đó Lương Tư Cầm lập cho hắn ta biết bao công lao, kết quả vì không hợp ý là lập tức trở mặt thành thù. Một người chủ bạo ngược như vậy đạo trưởng không cảm thấy đáng sợ hay sao?". Ta không thể khuyên nhủ được Vân Hư, ngược lại còn để y kích động ta, trong lòng thấy buồn cười liền nói: "Đánh giá một vị hoàng đế, hãy xem cách ông ta đối xử với bá tánh như thế nào. Có thể khiến cho thiên hạ thái bình, bá tánh lạc nghiệp, đó chính là một vị hoàng đế tốt, còn những chuyện khác bần đạo chẳng quan tâm". Vân Hư nói: "Xem ra, đạo trưởng không tác động được ta, ta cũng không thuyết phục được đạo trưởng, thôi thì như vầy, chúng ta cùng phát xuất từ một nguồn, đều dựa vào kiếm pháp mà rạng danh, ta và ngươi so kiếm pháp, nếu ngươi thắng thì ta sẽ tự quản thúc đệ tử, không gây khó dễ cho Chu Nguyên Chương nữa; còn nếu ngươi thua thì hãy lén trở về bên cạnh Chu Nguyên Chương, đoạt lấy cái đầu chó của tên ăn mày ấy cho ta!".
- Ta trong dạ giật bắn, vội nói: "So kiếm thì so kiếm, nhưng việc hành thích bần đạo nhất quyết không đồng ý". Vân Hư mỉm cười: "Việc này đạo trưởng không tự quyết định được, nếu không đồng ý, sợ là đạo trưởng không thể rời khỏi hòn đảo này đâu". Ta hỏi: "Ta thắng rồi thì có thể đi chứ?". Vân Hư đáp: "Tất nhiên!" Ta liền nói: "Đao kiếm không có mắt, Đông Đảo là địa bàn của ông, ông có giết ta cũng chẳng hề gì, còn ta mà lỡ làm bị thương ông, đệ tử của quý đảo chắc gì sẽ chấp nhận, lúc ấy ta vẫn không thể rời khỏi Đông Đảo. Hay là đổi sang cách này, có thể phân thắng bại mà không làm tổn thương hòa khí". Vân Hư hỏi là biện pháp nào, ta đáp: "Lúc bần đạo cưỡi thuyền đến đây có trông thấy một hang đá, nơi ấy chim yến ra vào thành từng bầy, hay là chúng ta dùng kiếm đâm yến, hễ chim rơi xuống đất mà không bị thương thì đạt yêu cầu, nếu như làm bị thương bao nhiêu con thì cứ căn cứ vào số con trên mặt đất mà trừ đi bấy nhiêu, trong vòng một nén nhang, ai làm rơi nhiều yến hơn là người thắng cuộc."
Nhạc Chi Dương giật mình:
- Dùng kiếm đâm yến, sao có thể không làm yến bị thương mà rơi xuống đất được chứ?
- Kể ra thì ảo diệu khó tin lắm, kiếm pháp khi luyện đến một cấp độ nhất định thì chuyện đó không có gì là khó nữa. Chỉ cần xuất kiếm êm, nhanh, đúng lúc, vận kình chuẩn xác, mũi kiếm chưa đâm đến nhưng kình lực đã xuyên vào cơ thể của chim yến trước, khiến cho khí huyết nó ngừng lại, mất đi khả năng bay liệng.
Nhạc Chi Dương hít ngược vào một hơi lạnh, buột miệng hô:
- Việc đó khó vô cùng!
- Nếu không khó thì đâu có thể hiện được bản lĩnh. Ta cứ nghĩ Vân Hư chưa chắc ưng thuận, ngờ đâu y không hề ngập ngừng, gật đầu đồng ý ngay, lại hỏi ta, nếu như ta thua thì có chịu đi hành thích Chu Nguyên Chương hay không? Ta không trả lời rõ ràng, chỉ bảo nếu ta thua thì tùy y xử trí. Y mỉm cười không nói gì thêm. Thế rồi chúng ta đi đến phía trước hang yến, đầu tiên giăng lưới cá ra phủ trước cửa hang tránh làm cho yến bay lật tổ, tiếp đó nổi trống lên, đàn yến trong hang giật mình, thi nhau tung cánh bay tán loạn, nhưng vì lưới cá ngăn cản, chúng chỉ biết hoảng hốt chao liệng ngay tại cửa hang. Hai chúng ta ở ngay phía trước lưới, mỗi người đều cầm trường kiếm đâm yến. "Phi Ảnh Thần Kiếm" với sở trường tốc độ, một khi tung chiêu, hệt như ngư long giỡn sóng, rọi bóng chim hồng, màng lưới kiếm kết thành từ lưỡi gươm ấy còn chằng chịt hơn cả tấm lưới cá ngoài kia, ánh kiếm lia đến đâu, hầu như nơi đó khó có con yến nào thoát được. Chốc lát sau, y đã loác xoác đâm rụng hơn mười con yến biển, tiếc thay trong số đám chim rơi dưới mặt đất thì số chết đã chiếm một phần ba còn bị thương đã hơn quá nửa, chỉ có một vài con là còn miễn cưỡng chấp nhận, nhưng nếu trừ đi số chim chết và bị thương thì y đến một con cũng không có dư, thậm chí còn bị âm không ít.
Lão đạo sĩ nói đến đây thì bật cười khùng khục. Nhạc Chi Dương cũng vỗ tay cười theo:
- Vân Hư tự cao quá trớn, lần này đã trúng kế rồi, đạo trưởng trước đây đã từng luyện qua chiêu đâm chim yến hay sao?
- Chưa luyện bao giờ, nhưng ta đề nghị đâm chim yến thì trong bụng cũng có sẵn tính toán. Kể từ khi đại hiệp Vân Thù sáng chế ra "Phi Ảnh Thần Kiếm" đến nay, đường kiếm pháp này thường áp dụng trong chiến tranh, trên chiến trường có ngươi thì không có ta, chuyên dùng để giết địch chớp nhoáng, thường thường đối thủ còn chưa nhìn rõ thì đã bị y một kiếm đâm chết, mà dù có nhìn rõ cũng chẳng thể nào đỡ nỗi một cú nhanh như điện xẹt ấy. Cho nên, đường kiếm pháp này chính là kiếm pháp đoạt mạng, sở hữu một khí thế không thể cản phá. Chim yến vốn nhỏ bé yếu mềm, dùng "Phi Ảnh Thần Kiếm" dũng mãnh như vậy, nếu không cẩn thận thì sẽ đâm xuyên qua mình chim. Còn Thái Hạo Cốc của ta bốn đời đều là đạo sĩ, Huyền Môn ý chính là ở hai từ "Xung Hư". Thánh nhân dạy: "Đại Doanh Nhược Xung, Kỳ Dụng Bất Cùng."(*) Chỉ có giữ lại đường lui ở khắp nơi thì sự sống mới không ngừng sinh sôi nảy nở. Cho nên "Dịch Tinh Kiếm" một khi luyện đến cảnh giới nhất định có thể chuyển Hư thành Xung, mỗi một lần đâm kiếm luôn giữ lại một ít kình lực, một là để tránh làm người khác bị thương nặng, mang ý nghĩa tha thứ của đạo môn, hai là những chiêu thức nhìn tưởng trống rỗng nhưng hậu chiêu thì lại nhiều vô cùng, bất kể đối thủ biến hóa thế nào, ta đều có cách để ứng biến.
(ND Chú: trích đạo đức kinh C45 của lão tử, ý nghĩa là thứ đầy đủ nhất là những thứ nhìn thì như rỗng không nhưng tác dụng nó mang lại thì lại nhiều vô kể)
- Ta hiểu rồi. - Nhạc Chi Dương vỗ tay cười: - Kiếm của Vân Hư là loại kiếm giết chóc, còn của đạo trưởng là kiếm nhân từ, nếu muốn chim yến không chết không bị thương thì loại kiếm nhân từ đương nhiên dễ dàng làm được.
- Thí dụ đúng rồi đó! - Tịch Ứng Chân vỗ tay cười lớn, có cảm giác như gặp được tri kỷ: - Kiếm pháp của ta tuy không dũng mãnh như Phi Ảnh Thần Kiếm thế nhưng kình lực có thể thu phát tùy tâm, mũi kiếm vừa chạm vào thân chim liền thuận theo thế bay của chim mà thu hồi lại phần lớn kình lực, phần dư lực sót lại có thể đâm rơi chim yến mà không gây ra bất kỳ thương tổn nào cho nó. Hiển nhiên không thể nói là "Dịch Tinh Kiếm" trội hơn "Phi Ảnh Thần Kiếm" được, chỉ là phong cách của cả hai không giống nhau, khi lâm trận giết địch, "Phi Ảnh Thần Kiếm" tất nhiên lợi hại nhưng nếu để đâm rơi chim yến thì "Dịch Tinh Kiếm" hiệu quả hơn nhiều.
Nhạc Chi Dương ngấm ngầm khâm phục, nhủ bụng lão đạo sĩ này cừ khôi thật, chỉ trong chốc lát ngắn ngủi mà cũng nghĩ ra được một cách có lợi cho mình như vậy. Nghĩ đến đây, gã lại thấy khó hiểu:
- Nói như vậy, đạo trưởng đáng lý phải thắng mới đúng, sao vẫn còn bị giam ở trên đảo?
- Ta chỉ lo nghĩ đến kiếm pháp mà quên đi mất lòng người. - Tịch Ứng Chân thở dài một hơi: - Lúc bắt đầu, Vân Hư cho rằng việc đâm yến quá sức đơn giản, lại ỷ vào khinh công và kiếm thuật, nhất định có thể giành chiến thắng ngay, đến khi y hiểu ra điểm khó khăn bên trong thì đã rơi xuống thế hạ phong quá sâu rồi. Mắt thấy nén nhang sắp tàn, bại cục đã định, y bèn phất tay bắn ra vô số "Dạ Vũ Thần Châm", thế là toàn bộ đám yến còn sống ở đằng trước ta đều bị ghim chết sạch trên mặt đất.
Nhạc Chi Dương hét lên:
- Như vậy không phải phạm quy hay sao?
- Đúng, ta cũng tố y phạm quy, Vân Hư lại bảo rằng: "Chúng ta chỉ nói không đâm chết yến của mình chứ đâu có nói không được đâm chết yến của đối thủ đâu. Đạo trưởng nếu có khả năng thì cứ đến đâm chết đám yến của ta cũng được mà." Lý lẽ này hết sức vô lại nhưng cũng khó mà phản bác, nén nhang nhanh chóng cháy tàn, ta đành phải buông kiếm nhận thua.
- Rõ ràng là xằng bậy. - Nhạc Chi Dương tỏ ra phẫn nộ: - Đạo trưởng sao có thể nhân thua!
- Chuyện này không minh không bạch, có thể nói là làm bậy, cũng có thể cho là lợi dụng kẽ hở trong quy tắc. Nếu là đám vô lại chợ búa thì hẳn có thể tranh cãi một trận ra trò, nhưng lão đạo ta một đời rộng lượng, sao có thể làm cái trò xấu xa như mấy bà thím ấy? Vân Hư thấy ta buông kiếm nhận thua, lại ép ta đi hành thích Chu Nguyên Chương. Ta nói "Ta cam nhận thất bại, muốn chém muốn giết ta đều nhận hết, nhưng việc hành thích thì vạn lần không thể. Bần đạo xuất thân ở Huyền Môn, cũng biết đến hai từ "nhân nghĩa", ta và Chu Nguyên Chương có giao tình kết bái, sao có thể vì sự bức ép của ông mà đi sát hại huynh đệ của mình, huống chi dù ta có đồng ý trước mặt nhưng về đến Trung Thổ ta lập tức nuốt lời thì sao?". Vân Hư bảo: "Nói cũng phải, đề phòng trường hợp này ta sẽ có hậu chiêu". Nói xong, y giơ ngón trỏ phải điểm năm lần xuống người ta, cảm giác tê-buốt-đau-ngứa, mỗi loại đều khác nhau, ta không kềm được liền hỏi: "Ông làm gì đấy?". Y nói: "Ngươi nghe qua ‘Nghịch Dương Chỉ’ chưa?".
- Ta vừa nghe cái tên đó thì hết hồn, ngón chỉ kình này chính là môn kỳ công mà năm xưa "Tây Côn Luân" Lương Tiêu trong lúc phá giải kỳ độc "Ngũ Hành Tán" đã ngộ ra. Thông thường khí huyết trong cơ thể vận hành đều hợp theo đạo ngũ hành, chỉ kình của "Nghịch Dương Chỉ" lại đảo ngược với ngũ hành, khắc chế toàn bộ khí huyết trong cơ thể. Chỉ kình ẩn nấp lâu ngày trong cơ thể, thường ngày người trúng chỉ không có vẻ gì khác với người bình thường, nhưng cứ mỗi bảy hôm lại phác tác một lần, mỗi lần phác tác thì sống không bằng chết"
Nhạc Chi Dương kinh hãi:
- Nói như vậy, cứ qua bảy ngày, đạo trưởng lại bị phác tác một lần hay sao?
- Ừm! - Tịch Ứng Chân thở dài: - Loại chỉ kình này chỉ có mình đảo vương hiểu rõ, đây vốn là cách thức chuyên dùng để trừng trị những tên phản đồ của Đông Đảo, Vân Hư sử dụng lên người ta, ý đồ hết sức rõ ràng: nếu ta không chịu nổi đau đớn khi chỉ kình phác tác sẽ phải khuất phục trước y rồi thay y đi hành thích Chu Nguyên Chương.
- Vậy đạo trưởng đã khuất phục rồi ư? - Nhạc Chi Dương vừa hỏi vừa nghĩ thầm, nếu như khuất phục thì Chu Nguyên Chương đã chết nhăn răng từ lâu, Tịch Ứng Chân cũng đã không bị nhốt ở cái nơi quái quỷ này nữa.
Chỉ nghe Tịch Ứng Chân đáp:
- Ta lên đảo ngót hai năm, mùi vị của Nghịch Dương Chỉ đã hơn trăm lần nếm trải, mỗi lần như vậy Vân Hư đều đến bức ép ta tuân theo lệnh y nhưng ta đều phớt lờ. Nếu y muốn giết ta cũng dễ thôi, chỉ cần khoanh tay đứng nhìn, đợi cho khí huyết của ta chảy ngược thì sau cùng cũng chết tốt. Nhưng y tính khí ngang ngạnh, ta càng không khuất phục y lại càng không để ta chết dễ dàng, đến thời điểm nghìn cân treo sợi tóc cuối cùng y luôn ra tay cứu chữa, còn nói: "Để ta xem ngươi chịu đựng đến bao giờ, một năm không được thì hai năm, hai năm không được thì ba năm, cỡ nào ta cũng sẽ bắt ngươi ngoan ngoãn khuất phục, thay ta đi giết tên cẩu hoàng đế đó". Ta cũng trả đũa lại: "Hai ba năm bõ bèn gì, sao không đợi qua hai ba chục năm ấy, khi đó Chu Nguyên Chương đã cưỡi rồng lên trời, không cần ta giết ông ấy thì ông cũng trả được mối thù". Miệng tuy nói thế nhưng nỗi đau đớn cứ mỗi bảy ngày kéo đến ấy quả thật không dễ chịu chút nào.
Tịch Ứng Chân nói hết sức nhẹ nhàng nhưng Nhạc Chi Dương lại cảm giác sống lưng lạnh toát. Thử tưởng tượng, nỗi đau đớn bảy ngày đến một lần này nếu đổi lại là chính gã, cho dù không khuất phục thì cũng phải phát điên phát cuồng. So ra, trận đòn bằng trượng kia đơn giản là chả thấm vào đâu cả. Nghĩ đến đây, gã chợt nảy sinh một niềm kính trọng dành cho Tịch Ứng Chân, bất kể Chu Nguyên Chương là tốt hay xấu thì nghĩa khí của lão đạo sĩ đều hết sức tuyệt vời.
Đang suy nghĩ, gã chợt nghe Tịch Ứng Chân bảo:
- Nhóc con, đệ tử Đông Đảo đi tuần đêm từ canh hai đến canh ba một lần, canh năm đến bình minh một lần, giờ đã qua canh năm, ngươi muốn về cũng khó đấy.
Nhạc Chi Dương nghĩ thầm chả trách ông ta lại kêu mình "Canh ba đến gặp", bèn vội vã chấp tay tạm biệt, lại hỏi:
- Tịch đạo trưởng, tối mai ta có thể đến nữa không?
Tịch Ứng Chân cười bảo: "Chân cẳng trên người của ngươi, ngươi muốn đến thì ai mà cản được?"
Nhạc Chi Dương mừng rỡ, bấu lấy dây leo trèo lên phía trên, mắt thấy nguyệt hằng sắp khuất dạng nẻo tây, gã vội vã trở về Yêu Nguyệt Phong, ngủ qua loa chốc lát rồi lại trở dậy đi làm việc.
Hôm sau vào giờ nghỉ trưa, Nhạc Chi Dương lấy mặt sắt của cây bừa bẻ ra một đoạn, dùng lửa nung cho đỏ mềm rồi rèn thành một sợi len thép dài mảnh. Ngủ đến canh ba, gã chạy đến hang Tinh Ẩn, lại phía trước cánh cửa đá, rút sợi len thép ra hí hoáy làm gì đó trên lỗ khóa. Tịch Ứng Chân nghe tiếng lách cách, bèn hỏi:
- Ngươi làm gì đó?
Nhạc Chi Dương im re không đáp, loay hoay một hồi, "Tách tách" - ổ khóa theo tiếng bật mở, Tịch Ứng Chân ồ lên bảo:
- Thằng nhóc giỏi, ngươi biết mở khóa à?
Nhạc Chi Dương sống lẫn trong đám ô hợp ven sông Tần Hoài, mấy trò mánh khóe hạ lưu đê tiện chẳng trò nào là không rành, bản lĩnh nhập nha này gã từ một lão thợ khóa già mà học được, sau khi học xong thì đây là lần đầu tiên dùng đến. Vừa nghĩ đến cảnh Tịch Ứng Chân có thể thoát khỏi nơi đây, gã cảm thấy vui mừng khôn xiết, nhưng nhìn mãi mà bên trong cửa đá vẫn tối u u, gã bất giác kêu lên:
- Tịch Đạo Trưởng?
Lão đạo sĩ thở dài, thắp sáng một bát đèn dầu. Nhạc Chi Dương nheo mắt nhìn vào, trong buồng giam là một ông lão râu tóc hoa râm đang ngồi, áo đạo màu xám, dáng hình gầy gò, đôi mắt sáng ngời minh mẫn ẩn bên dưới hàng chân mày mảnh dài khe khẽ rũ xuống.
Nhạc Chi Dương cười:
- Tịch đạo trưởng, sao còn chưa ra?
Tịch Ứng Chân vươn người đứng dậy, mỉm cười không đáp. Nhạc Chi Dương lấy làm lạ:
- Bộ ông không muốn rời Đông Đảo sao?
Tịch Ứng Chân khe khẽ lắc đầu:
- Nhóc con, ta trúng Nghịch Dương Chỉ, rời Đông Đảo cùng lắm chỉ sống được bảy ngày, ở lại đây tốt xấu gì cũng còn một tia hy vọng.
Nhạc Chi Dương nói:
- Đi Trung Thổ chuyến này chỉ mất không quá hai ba ngày đường, lên đến bờ rồi ông có thể đi tìm đại phu chữa trị.
- Đại phu? - Tịch Ứng Chân bật cười chua chát: - Có đại phu nào trên đời giải được Nghịch Dương Chỉ đâu!
- Ngón chỉ lực này thật sự vô phương cứu chữa sao? - Nhạc Chi Dương thầm cảm thấy tuyệt vọng.
- Không hẳn là không có cách. - Tịch Ứng Chân xòe lên hai ngón tay: - Trên đời này trừ Vân Hư ra, vẫn còn một người có thể phá giải được.
- Ai vậy? - Nhạc Chi Dương vội hỏi.
- Nói cũng vô ích thôi! - Tích Ứng Chân sắc mặt buồn rượi: - Người nọ ở tận núi Côn Luân ngoài Tây Vực, cách trở vạn dặm, nước xa không cứu được lửa gần.
- Tây Vực... - Trong đầu Nhạc Chi Dương lóe lên một ý nghĩ, gã buộc miệng: - Ông nói Lương Tư Cầm à?
Tịch Ứng Chân trầm ngâm không nói, Nhạc Chi Dương chỉ cảm thấy nhiệt huyết dâng trào, nhịn không được bật thốt lên:
- Đạo trưởng cứ an tâm, nếu tôi có thể rời khỏi Đông Đảo, nhất định sẽ đến núi Côn Luân tìm vị Lương tiền bối ấy, mời ông ấy đến đây cứu ông.
- Tiểu huynh đệ thật là tốt bụng! - Tịch Ứng Chân mỉm cười lắc đầu: - Nhưng với bản lĩnh của cậu, sợ là chẳng thể rời khỏi hòn đảo này được đâu.
Nhạc Chi Dương nghe xong cảm thấy chán nản vô cùng, lại thấy bên trong buồng giam để lỉn kỉn không ít vật dụng thường ngày, thậm chí còn có vài ba pho sách mục. Tịch Ứng Chân nhìn ra suy nghĩ của gã, bèn cười:
- Vân Hư tuy nhốt ta ở đây nhưng thức ăn thường ngày cũng chưa cắt xén đi bữa nào, chỉ hiềm thiếu mỗi bộ cờ vây. Ta đây, một hôm mà không sờ đến quân cờ là cảm thấy ngứa chân ngứa tay lắm, hai năm rồi chưa được chơi cờ, quả là bức bối muốn phát bệnh.
Nhạc Chi Dương cười:
- Sao đạo trưởng không nói sớm? Mai ta làm một bộ mang đến cho ông.
Tịch Ứng Chân xua tay bảo:
- Một mình ta vừa tung vừa hứng thì có ý nghĩa gì chứ!
Ngẫm nghĩ một lát, ông liền gọi:
- Nhóc con, ngươi qua đây.
Nhạc Chi Dương ậm ừ bước đến, Tịch Ứng Chân chợt phất tay, một luồng gió mạnh liền phất thẳng vào mặt gã.
Thiếu niên vừa cảm thấy hô hấp khó khăn, bàn tay của lão đạo sĩ đã chạm đến chóp mũi của gã.
Nhạc Chi Dương chẳng biết phải làm sao, trống ngực đập mạnh thình thịch. Tịch Ứng Chân bất ngờ thu tay về, trầm ngâm bảo:
- Quái lạ, lúc ta thấy ngươi đến đây, thân thủ có vẻ cũng khá lắm, rõ ràng là biết võ công, sao giờ ta chỉ tiện tay tung chưởng mà ngươi không đỡ được?
Nhạc Chi Dương ấp úng đáp:
- Chẳng dám giấu đạo trưởng, lúc trước ta có học qua một ít nội công, còn mấy thứ công phu khác thì chả học được môn nào cả.
Tịch Ứng Chân đưa tay bắt lấy mạch môn của gã, chỉ cảm thấy bên trong tràn trề sung mãn, nội công đã ở mức tương đương cơ bản. Ông bất giác lắc đầu:
- Đáng tiếc, đáng tiếc.
- Đáng tiếc gì ạ? - Nhạc Chi Dương thắc mắc.
- Năm xưa, tổ sư Bách Ách có thu nhận một gã đệ tử từng học qua võ công, kẻ nọ sau khi thành tài thì phạm phải tội nghiệt tày trời, vì vậy tổ sư trước lúc lâm chung có để lại di huấn: phàm đệ tử Thái Hạo Cốc thu nạp, nhất định phải không biết võ công. Ta thấy ngươi căn cơ không tệ, người cũng lanh lẹ, hiềm vì thân mang nội công, không thể làm đệ tử của ta được.
Nói đến đây, Tịch Ứng Chân không kềm được xót xa, lại cất lên hai từ "Đáng tiếc".
Nhạc Chi Dương nghe xong những lời này, trong lòng có cảm giác hẫng hụt, gã ngẫm nghĩ rồi mỉm cười bảo:
- Làm thầy trò thì đương nhiên là tốt, nhưng nếu là bằng hữu cũng đâu có tệ.
Tịch Ứng Chân ngẩn người, kế đó bật cười:
- Không sai, bần đạo trứ tướng(*) rồi, làm bằng hữu không câu nệ không ràng buộc, so với làm sư đồ sướng khoái hơn nhiều.
(ND chú: một từ trong kinh Phật, đại ý là cố chấp với những thứ bên ngoài mà xa rời bản chất)
Nói đến đây, ông lại suy nghĩ gì đó rồi hỏi dò:
- Nhạc Chi Dương, ngươi có muốn học võ công không?
Nhạc Chi Dương ngạc nhiên đáp:
- Ông không thể dạy tôi thì tôi học thế nào?
Tịch Ứng Chân nói:
- Võ công trong thiên hạ nhiều vô số kể, đâu chỉ có mỗi Thái Hạo Cốc chúng ta, tổ sư Bách Ách dặn là không được học võ công của bản phái, còn võ công môn phái khác chẳng lẽ ta không dạy cho ngươi được chắc?!"
Nhạc Chi Dương như mở cờ trong bụng, luôn miệng đáp "Phải". Tịch Ứng Chân võ học uyên bác, công phu của mỗi môn mỗi phái đều biết qua sơ lược, trước tiên dạy từ mã bộ trạm thung(*), sau khi căn cơ đã vững rồi lại chọn ra một số bài quyền thuật, dần dần từng bước truyền dạy cho Nhạc Chi Dương. Từ đó về sau, Nhạc Chi Dương cứ mỗi canh ba đều đến Tinh Ẩn Cốc tập võ. Gã mang trong mình "Linh khúc chân khí", lại luyện qua "Linh vũ", hai thứ này đều là võ công thượng thừa từ cổ chí kim, lấy chúng làm nền tảng, cho dù học bất cứ môn võ công nào cũng giống như "Cao ốc kiến linh, thủy đáo cừ thành"(**). Tịch Ứng Chân chỉ cần giảng giải qua mấy lần, gã liền có thể học được y chang.
(*ND chú: Mã bộ trạm thung là một trong tam đại khí công, là công pháp trở thành căn bản của "nội kình nhất chỉ thiền" của Thiếu Lâm khí công, có tác dụng lưu thông "khí" toàn thân, cường hóa phần dưới cơ thể, nhất là chân. Phương pháp này làm khí huyết lưu thông toàn thân tốt hơn, cường hóa hạ bàn, được cho là có tác dụng duy trì sức khỏe và là phần căn bản của khí công)
(**ND chú: "Cao ốc kiến linh" nghĩa là nhà cao làm ngói máng, ý nói chỗ cao dễ xuống chỗ thấp, còn “Thủy đáo cừ thành” là câu thành ngữ Trung Quốc ý nói rằng thành công sẽ tự nhiên đến khi có đầy đủ các điều kiện cần thiết mà không cần phải nhất mực truy cầu)
Tịch Ứng Chân thấy gã tiến bộ thần tốc, miệng tuy không nói nhưng trong lòng lại sửng sốt vô cùng, chỉ cảm thấy trên đời này dẫu có là thiên tài thì tốc độ tinh tiến cũng không thể nhanh như vậy được. Trong lúc truyền thụ quyền thuật, có đôi chỗ Nhạc Chi Dương chưa thể thông thạo ngay nhưng đến khi xuất chiêu thì gã luôn luôn có thể tùy ý thay đổi, nhẹ nhàng bổ khuyết đi chỗ còn thiếu sót, quyền cước trở nên tròn trịa tự nhiên, so với chiêu thức gốc còn có vẻ cao minh hơn một bậc.
Lão đạo sĩ tri thức hơn người, thầm biết Nhạc Chi Dương còn có một mối kỳ ngộ nào khác, nhưng tính ông vốn chẳng tò mò, cũng không tiện truy tận nguồn cơn. Nhạc Chi Dương không nói, ông cũng lười hỏi nhiều.
Chỉ lực của "Nghịch Dương Chỉ" cứ mỗi bày ngày phát tác một lần, thời gian rơi vào khoảng trước sau giờ Tý. Vào đêm hôm ấy, Vân Hư nhất định sẽ đến nơi này, Tịch Ứng Chân sợ y và Nhạc Chi Dương chạm mặt, cho nên mỗi khi đến ngày phát tác thì không cho phép Nhạc Chi Dương tiến vào đáy hang nữa. Nhạc Chi Dương trong bụng cảm thấy khó chịu, thầm hận bản thân võ công thấp kém, không thể giúp đỡ người bạn già này thoát khỏi nguy khốn, nghĩ như vậy gã lại càng dốc lòng học võ nhiều hơn.
Khổ luyện vài tháng, quyền cước của Nhạc Chi Dương dần dần thuần thục, "Linh khúc chân khí" dồn nén trong cơ thể cũng bị dẫn phát ra, lúc giơ tay nhấc chân hệt như cuốn theo gió mạnh. Tịch Ứng Chân càng cảm thấy kinh ngạc, nhìn quyền phong của gã mãnh liệt như vậy chí ít cũng mất ba bốn năm khổ luyện, bản thân ông truyền cho gã đa phần là công phu ngoại gia, không hề tu luyện nội lực, nhưng quan sát Nhạc Chi Dương lúc này, trong thì ẩn chứa tinh hoa, ngoài thì sức mạnh bùng phát, rõ ràng đã mang dáng vóc của cao thủ nội gia.
Đêm ấy, Nhạc Chi Dương tiến vào đáy cốc, mở cánh cửa đá ra, vừa cười vừa réo:
- Tịch đạo trưởng, ông xem đây là gì?
Tịch Ứng Chân đón lấy bao vải trong tay gã, mở ra xem thử, hóa ra là một bộ cờ vây, quân đen là những viên đá sẫm màu được tuyển lựa tỉ mỉ, quân trắng là những vỏ sò được mài nhẵn, viên nào viên nấy đều tròn đầy bóng loáng, đủ thấy đã hao phí rất nhiều tâm sức.
Tịch Ứng Chân lòng thầm cảm động, thật lâu không thốt nên lời. Nhạc Chi Dương bất giác hỏi:
- Tịch đạo trưởng, bộ có gì không đúng à?
Lão đạo sĩ giật mình tỉnh ra, vuốt râu cười khà khà:
- Chẳng có gì không đúng cả.
Ông bị nhốt trên đảo, cứ tưởng cả đời này vô vọng, nào ngờ trời còn sai một người bạn nhỏ đến đây giúp cho tâm hồn già cỗi của ông tươi mới trở lại. Ông lập tức cười bảo:
- Bộ cờ này làm khéo vô cùng, nhóc con, ngươi biết đành cờ chứ?
- Đủ để tiếp lão gia mấy ván.
Nhạc Chi Dương mở túi, lấy than đen vẽ trên nền đất một bàn cờ, lại lôi ra một bầu rượu nóng hệt như dùng ảo thuật. Tịch Ứng Chân mừng rỡ ngoài dự kiến, cảm giác chẳng còn mong cầu gì hơn, vì thế hai người ngồi đối diện nhau, bắt đầu chơi cờ dưới ánh đèn dầu.
Tịch Ứng Chân với trình độ chơi cờ tuyệt diệu đủ để đứng đầu cả nước, nếu thật sự so về tài nghệ chơi cờ thì Nhạc Chi Dương chạm còn không đến một góc nhỏ của ông, thế nhưng Nhạc Chi Dương đầu óc linh hoạt, lúc nào cũng nảy ra những suy nghĩ quái đản, năm lần bảy lượt thế cờ tưởng đâu chết chắc bỗng đâu lại được cải tử hoàn sinh.
Tịch Ứng Chân liên tục thắc mắc:
- Nhóc con, năng khiếu chơi cờ của ngươi rất cao, nếu không vào được môn phái của ta quả thật đáng tiếc. Nền tảng "Dịch Tinh Kiếm" của bản phái được đúc kết từ dịch lý đời trước, về sau tổ sư Liễu Tình lấy thêm cảm hứng từ Tây Côn Luân-Lương Tiêu, mang tinh tượng vũ trụ gộp vào trong kiếm pháp. Sư phụ Thiên Dịch chân nhân cùng ta rất thích chơi cờ, lại đem kỳ đạo dung hợp vào trong kiếm đạo. Nghĩa của "Dịch Tinh" chính là lấy trời xanh làm bàn cờ, lấy thiên hà làm quân cờ, lấy ngôi sao làm công thức, di tinh hoán đẩu, tung hoành Sâm-Thương(*). Bởi kỳ đạo và tinh tượng có liên quan với nhau, nên khi thiên văn càng rõ thì sức cờ cũng càng cao, đường kiếm pháp này cũng trở nên siêu việt hơn.
(ND chú: di tinh hoán đẩu là thay đổi vị trí của các vì sao, còn sao Sâm-Thương là 2 ngôi sao cách nhau rất xa và không bao giờ xuất hiện cùng lúc trên bầu trời, dân gian quen gọi là sao Mai-sao Hôm)
- Bình sinh ta có thu nhận bốn người đệ tử, đại đệ tử Đạo Diễn, kỳ đạo và thuật số đều tinh thông, đã học được chân truyền của ta. Nhị đệ tử Chu Lệ, sức cờ cao cường nhưng lại khá kém về thiên văn thuật số, may nhờ vóc dáng to cao, kiếm khí mịt trời, tuy tài kiếm thuật không bằng Đạo Diễn nhưng nhìn chung cũng hết sức khả quan. Tam đệ tử Chu Quyền, trời sinh sẵn tính thông minh, bất kể là học cái gì, hễ học là học đến nhuần nhuyễn, trong bốn người thì thiên phú của hắn cao nhất, chả bù với tiểu đồ đệ Chu Vi kia, bản tính con nhóc ấy chỉ yêu thích âm nhạc, không muốn đánh đánh giết giết, học võ nhưng không hề chuyên chú cho nên cảnh giới chỉ làng nhàng mức trung bình.
Nghe đến hai từ "Chu Vi", Nhạc Chi Dương lại thấy nhoi nhói trong tim, bất giác đưa tay dốc thêm vài chung rượu, rượu cạn rồi chợt thấy chếnh choáng men say, gã ngước mắt nhìn lên trời cao, nơi ấy vầng trăng đang rót ánh sáng trong trẻo xuống mặt đất, soi chiếu đáy cốc sáng lên vằng vặc. Nhất thời men rượu bốc lên đầu, gã chồm dậy, múa một bài quyền dưới bóng trăng.
Đầu tiên, gã thi triển một bài "Thái tổ trường quyền" rồi lại chuyển sang "Du thân bát quái chưởng", cả chân lẫn tay đều thấp thoáng chiêu thức của "Cửu cung bộ". Gã càng đánh càng nhanh, miệng khẽ hú dài, trong lòng nổi lên "Chu Thiên Linh Phi Khúc", bất chợt tâm tư lâng lâng, "Linh Vũ" rót vào quyền cước hệt như liễu nương theo gió, mây trôi chớp lóe, đánh đến mức quên mất cả bản thân đang ở đâu. Bỗng nhiên khi quay đầu lại, gã nhát thấy bên cạnh mình thò ra một bóng đen, chân trái hạ thấp, tay phải co vào như thể đang muốn chạy xộc đến, ẩn tàng nguy hiểm.
Nhạc Chi Dương không thèm nghĩ ngợi nhiều, chân trái đá về phía đối thủ, chỉ nghe "cốp" một tiếng, bóng đen lập tức ngã phịch ra đằng sau còn xương ngón chân Nhạc Chi Dương lại truyền đến một cơn đau nhói.
- Thằng nhóc ấm đầu hả? - Tịch Ứng Chân vỗ tay cười phá lên: - Đương không ngươi kích vào hòn đá làm gì vậy?
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.