Quyển 7 - Chương 5: Bảy Lạng Bông, Một Chiếc Mặt Nạ
Cổ Long
01/08/2014
Bảy Lạng Bông, Một Chiếc Mặt Nạ
C ái tên Kim Thất Lượng không phải là không có lai lịch. Bởi vì đấy chẳng
phải là tên của y, mà là trác hiệu.
Trong giang hồ ai ai cũng có trác hiệu, tên thì có thể không ra gì, nhưng
trác hiệu nhất định phải có lai lịch.
Lục Tiểu Phụng không phải tiểu cũng không phải phụng, ngay cả phụng và bà vợ
của phụng là hoàng, mặt mủi ra sao chàng cũng chưa hề thấy qua, Tây Môn Xuy Tuyết
đương nhiên cũng không phải thật sự là xuy tuyết.
Lý Tầm Hoan chỉ tầm phiền thì có, Hồ Thiết Hoa và đóa hoa bằng thiết, lấy tám
cây gậy đánh mãi cũng không ra nổi một sự quan hệ với nhau. Nhưng Sa đại hộ vẫn là
Sa đại hộ, tiểu khiếu hóa vẫn là tiểu khiếu hóa, vương bát đản không thể là xú ngư.
Vậy thì tại sao Kim Thất Lượng lại được người ta gọi là Kim Thất Lượng?
Cái tên của Kim Thất Lượng thật ra vốn là Kim Mãn Đường, nghĩa là có thể đem
vàng chất đầy ra nhà, có phải là sung sướng lắm không?
Chỉ tiếc là vàng nhà y đem chất lại cũng không đầy một bô nước tiểu.
Vì vậy từ nhỏ y đã đi học võ, trong các thứ võ công, y thích nhất là môn khinh
công đề tung thuật.
Khinh công luyện tới nơi rồi, bay qua bay lại, không ai cản trở, lấy tiền tài phụ nữ
nhà người ta như thò tay vào túi lấy đồ, không phải là sung sướng hơn cả nhà hoàng
kim sao?
Chính vì từ nhỏ y đã có chí lớn như vậy, do đó y quả thật luyện khinh công đến
mức độ siêu đẳng, trong giang hồ thậm chí có người nói, chỉ cần Kim Mãn Đường thi
triển khinh công ra, y sẽ đáp xuống đất nhẹ nhàng như bảy lạng bông vậy. Vì vậy
người khác gọi y là Kim Thất Lượng.
Kim Thất Lượng tuy hình dạng không oai vũ cao lớn, nhưng mặt mày thanh tú, răng
trắng môi hồng, từ nhỏ đã rất dễ thương, nếu không e chẳng có bao nhiêu đó tên phi
tặc truyền môn khinh công cho y.
Cái lão mặt mày vàng khè ốm nhách đó lại là Kim Thất Lượng sao? Có phải Lục
Tiểu Phụng nhìn lầm người không?
Lục Tiểu Phụng nói:
- Ta không nhìn lầm đâu, y đeo một bộ mặt nạ da người, tuy làm rất khéo, ít nhất
cũng tốn đi của y vài trăm lượng bạc, nhưng không qua khỏi mắt ta được.
Chàng bước lại, gã tú tài nhìn chàng lom lom, bỗng nhiên thở ra:
- Lục Tiểu Phụng, ta thật kỳ quái, tại sao tới giờ ngươi còn chưa chết vậy? Không lẽ
ngươi thật tình sẽ không bao giờ chết sao?
Kim Thất Lượng nhất định là một người thông minh.
Một người thông minh biết mình gạt không được người khác, sẽ nhất định không
ráng thêm.
Thậm chí y còn kéo mặt nạ ra khỏi mặt mình.
Kim Thất Lượng nói:
- Lục Tiểu Phụng, ngươi có bản sự nhận ra được ta, ta cũng chẳng nói gì, nhưng
ngươi nói chiếc mặt nạ này chỉ có vài trăm lạng bạc, không khỏi nói quá sao.
- Sao?
Kim Thất Lượng phủi nhẹ chiếc mặt nạ mỏng như cánh con ve trong tay, như lão
ông ôn nhu xoa trên má thiếu nữ.
Y nói:
- Đây là đồ Hồng Các chính tông, ta đem một bức của Ngô đạo tử và một cây Sách
Hồ cao bốn thước đổi lấy. Bao nhiêu đó cũng đáng giá chừng mấy chục lần vài trăm
lạng bạc.
- Thật sao?
- Đương nhiên là thật.
Bốn hàng lông mi của Lục Tiểu Phụng đều hạ xuống, thậm chí còn có vẻ muốn
khóc.
- Nếu quả như chiếc mặt nạ của ngươi đổi bằng hai thứ đó, tốt nhất ngươi nên mau
đi treo cổ là vừa.
Kim Thất Lượng vội vã hỏi:
- Tại sao? Không lẽ đó là đồ giả?
Lục Tiểu Phụng đáp:
-Nếu không phải đồ giả, ta sẽ đi treo cổ. Nếu như ban đêm ngươi đeo mặt nạ
Hồng Các chính tông, chỉ sợ ngay cả thần tiên cũng khó nhận ra ngươi.
"Hồng Các" chính là biệt hiệu của Châu Đình, Châu Đình là một diệu nhân, y là
bạn thân của Lục Tiểu Phụng.
Điều này được nhấn mạnh ở đây, vì nó là một trong những điểm rất quan trọng
trong câu chuyện này.
Bây giờ bộ mặt của Kim Thất Lượng hình như cũng muốn khóc luôn, bị người gạt
có lúc cũng như ăn phải cức, tức là đã ăn mất xác rồi, làm sao mà nhổ được ra?
Khóc cũng khóc không được, nhổ cũng nhổ không ra, Kim Thất Lượng chỉ thấy
miệng của mình vừa khô vừa thúi.
Lục Tiểu Phụng nhìn y ra vẻ rất đồng tình, lấy bàn tay rất ấm áp vỗ vào vai y.
- Ngươi bất tất phải tức giận, cũng bất tất phải khó chịu, chỉ cần ngươi nói thật một
câu, ta sẽ đưa cho ngươi một chiếc mặt nạ Hồng Các chính tông.
Kim Thất Lượng nói:
- Nếu ngươi thật tình muốn hỏi ta cái người đàn bà ấy là ai, ngươi hỏi nhầm người
rồi, trước giờ ta không nhìn đùi đàn bà.
Lục Tiểu Phụng nói:
- Ta biết ngươi không nhìn. Trước giờ ngươi chỉ muốn nhìn đàn ông.
Giọng nói của chàng không có vẻ gì là diễu cợt, lịch sử từ xưa đến giờ, đàn ông
thích đàn ông, đàn bà thích đàn bà, cũng là chuyện bình thường.
Nhất là trong thời thái bình thịnh thế, trong giai cấp sĩ đại phu, chuyện ấy còn phổ
thông hơn.
Kim Thất Lượng bỗng nhiên thay đổi thái độ ngay.
Thứ đồ tinh phẩm Hồng Các chính tông không làm y động tâm, cái nhìn của Lục
Tiểu Phụng về chuyện đó làm y cảm động, làm cho y mất đi cái cảm giác tự ty, và
cũng làm cho y có cảm giác đã gặp tri kỷ.
Cái thứ cảm giác đó khó dấu được lắm, Lục Tiểu Phụng đương nhiên nhìn ra, do đó
chàng lập tức hỏi tới:
- Ta nghĩ chắc ngươi biết Liễu Thừa Phong?
Kim Thất Lương đáp:
- Ta biết, y lại đây năm ngoái, chẳng những vậy, còn chết ở đây.
- Y chết như thế nào?
- Bị người đâm một nhát đao trong hẽm tối.
Thần tình của Kim Thất Lượng bỗng nhiên biến ra thảm đạm:
- Giống như ta đâm cháu của Điền Bát thái gia một đao trong hẽm tối vậy, đều
chẳng có nguyên do gì cả.
Lục Tiểu Phụng hỏi:
- Có phải ngươi giết Tiểu Tiểu Điền mà phải chạy trốn lại đây không?
Kim Thất Lượng buồn rầu nói:
- Giết người không nên giết hoặc không thể giết, chỉ còn đường chạy trốn, ngày
tháng của những kẻ vong mệnh trôi qua không được thoải mái lắm, thế nào cũng có
ngày người khác sẽ lò mò lại tìm.
- Tại sao?
Kim Thất Lượng nói:
- Giết người rồi, tâm hoảng ý loạn, thế nào cũng để lại dấu vết. Bất kể khinh công
cao siêu tới đâu, bất kể chạy trốn lẹ làng tới đâu, chỉ cần để lại tý manh mối, là cũng
sẽ có người lại tìm.
- Người giết Liễu Thừa Phong có để lại manh mối gì không?
- Y để lại một cây đao, một cây đao rất đặc biệt.
Trong con mắt người giang hồ, đao là đao, cũng như người là người, người nào cũng
giết được, đao nào cũng giết được người.
Người sử đao, đao giết người, người bị giết, cứ như gà đẻ trứng, trứng sinh ra gà, gà
lại sinh ra trứng, rất tự nhiên, đơn giản như một là một, hai là hai, ba là ba.
Đạo lý trong giang hồ, vốn vẫn là vậy.
Nếu bọn họ nói cây đao này rất đặc biệt, thì cây đao này nhất định đặc biệt phi
thường.
Kim Thất Lượng chính là một người trong giang hồ, y đã nói như vậy, Lục Tiểu
Phụng đương nhiên muốn hỏi:
- Cây đao ấy có gì đặc biệt?
Câu trả lời của Kim Thất Lượng rất kỳ quái, câu trả lời của y thậm chí không ra vẻ
câu nói người trong giang hồ sẽ thốt.
Y nói:
- Cây đao ấy chẳng thể nói là một cây đao.
Tai của Lục Tiểu Phụng không điếc, thần trí cũng còn rất thanh tỉnh, ngày hôm nay,
tới giờ chàng vẫn chưa uống giọt rượu nào trong bụng.
Chàng nghe rõ mồn một, một chữ cũng không mất: "Cây đao ấy chẳng thể nói là
một cây đao."
Kim Thất Lượng nói như vậy đó.
Kim Thất Lượng chẳng hề nói dối, cây đao ấy quả thật không thể gọi là đao, chẳng
qua chỉ là một cây chủy thủ thế thôi. Không những chế tạo rất là tinh xảo, giá trị chắc
chắn là vô cùng quý báu.
Cái cán làm bằng tượng ngà voi đẽo thành hình thiếu nữ khỏa thân, đường nét
sống động, nếu ai nhìn trừng trừng vào đó, sẽ thấy mi mắt nàng ta cũng đang nhìn mình,
thậm chí còn muốn lăn vào lòng người đó.
Màu sắc của ngà voi cũng như da thịt của thiếu nữ, mềm mại ấm áp trơn láng.
Có điều, nếu có ai nhè nhẹ nhấn vào ngực nàng một cái, cán đao sẽ lập tức bật ra
một lưỡi chủy thủ, lóng lánh ánh sáng đỏ, đỏ như máu tươi vừa đọng lại. Cây chủy thủ
này mỗi bộ phận hiển nhiên đều được tay hảo thủ làm ra, chẳng những vậy, hình như
cũng đã có tuổi lắm.
Sa đại hộ lấy trong một ngăn bí mật phía sau tủ sách trong thư phòng của y ra một
cây chủy thủ, nhẹ nhàng nhấn nút cơ quan, chủy thủ bật ra, lưỡi đao lập lò, màu đỏ
như máu.
Sa đại hộ nói:
- Đây là hung khí đã giết chết Liễu đại hiệp, cỡ thứ đao sắc bén như thế này, dĩ
nhiên ta phải cất nó đi mới yên tâm, nơi này của ta ít nhất cũng an toàn hơn cái tiệm
bán quan tài nhiều.
Y lại nói:
- Thật tình ta không muốn nó lạc vao tay ai khác, bởi vì ta muốn tự tay giao nó cho
ông.
Đây cũng không phải là lời nói dối, bây giờ y đã làm như vậy.
Lục Tiểu Phụng cầm cây đao cán ngà voi lên, bỗng nhiên thở ra, nói với Sa lão đại:
- Xem ra con người ông quả thật là một con người tốt, ít nhất là tốt hơn tôi nhiều
lắm. Nếu tôi mà là ông, tôi nhất định sẽ không giao một thứ lợi khí như thế này cho
người ta khơi khơi như vậy.
Chàng lại cười lên một tiếng:
- Nếu ông biết giá trị và lai lịch của nó, không chừng ông đã không giao nó cho tôi.
- Sao?
- Cây chủy thủ này là một thứ cổ vật! Tuổi tác của nó so với tổ phụ của tổ phụ tôi
còn muốn già hơn nhiều lắm.
- Điều đó ta cũng có nhận ra.
Lục Tiểu Phụng hỏi:
- Người có lai lịch, đao cũng có, ông có nhận ra lai lịch cây đao này không?
- Ta không nhận ra.
Lục Tiểu Phụng nói:
- Cây chủy thủ này bật ra từ trong cán, thợ nổi tiếng Trung thổ ít người chịu làm
loại chủy thủ thế này, không phải thợ giỏi cũng làm không được lưỡi bén nhọn như vậy,
do đó, ta có thể đoán chắc nó từ Ba Tư lại.
Sa đại hộ hỏi:
- Ba Tư? Không phải người Ba Tư đều dùng loan đao cả sao?
Lục Tiểu Phụng cười:
- Đây là đao?
Đây không phải đao, chỉ bất quá là một cây chủy thủ, Sa đại hộ chỉ còn nước cười
khổ.
Cái tên khốn kiếp này tại sao cứ muốn cho người khác cầm đá tảng nện vào chân
của mình.
Lục Tiểu Phụng nói:
- Tôi đã từng bị kẹt cứng trên biển cả một thời gian, đánh bạn với một số bạn bè,
chỉ cần nơi nào có biển là bọn họ đều đi tới, xa nhất là chân trời góc biển. Tôi rất tin
vào lời họ nói, những người ấy tuy không phải kẻ tốt, vừa hung dữ vừa độc ác, hoạnh
họe, nhưng đối với bạn bè họ không hề nói láo.
Những người đó không phải đều là cướp biển.
Bạn bè của Lục Tiểu Phụng có người là cướp biển, chẳng ai lấy đó làm ly kỳ. Nếu
bạn bè của chàng đều là quân tử, đó mới là chuyện quái sự.
Lục Tiểu Phụng nói:
- Trong bọn họ có một vị thuyền trưởng, già đến nổi chẳng còn nhớ tên tuổi của
mình là ai bao nhiêu. Lão ta cũng có một cây chủy thủ như vậy.
Vị thuyền trưởng này dĩ nhiên không phải là thuyền trưởng của một thuyền đánh cá,
ở mặt biển Ba Tư, những chiếc thuyền giăng cờ hoàng gia không thiếu, và bọn họ cũng
không khỏi có lúc đụng vào bọn cướp biển.
Cây chủy thủ của lão thuyền trưởng từ đâu ra? Đại khái cũng không khó đoán lắm.
Ngay cả lão ta cũng không phủ nhận:
- Những loại chủy thủ này thông thường chỉ thấy trong hoàng cung.
Trong hoàng cung, hoàng tử tranh quyền, phi tần tranh sủng ái, lộng thần sàm tấu,
là những tình huống thường xảy ra từ xưa tới giờ, không phân biệt nơi nào nước nào.
Vì tranh quyền tranh sủng, chuyện gì cũng làm được, ám sát, hạ độc, đều là
chuyện bình thường.
Nếu có một vị hoàng tử bỗng nhiên bạo bệnh mà chết, một vị phi tần bỗng nhiên
mất tích, lập tức sẽ có những tay lộng thần, cận thị, cấm vệ xúm lại tìm cách che đậy
kín mít, nhất định không thể để lộ ra ngoài, càng không được để hoàng đế hiểu được
nội tình, không thể có tai tiếng xảy ra trong hoàng tộc.
Nếu có người muốn đi điều tra, y không những phạm vào đại kỵ, mà còn là kẻ địch
chung của mọi người.
Vì bảo vệ tính mạng của mình, cũng vì để đối phó, hạ thủ trước địch nhân, đa số
các hoàng tử đương quyền và các phi tần đương sủng đều nuôi dưỡng một đám mưu
thần tử sĩ thích khách.
Lão thuyền trưởng nói:
- Có điều, trong hoàng cung đương nhiên không được đeo vũ khí ra vào, do đó cái
thứ mới nhìn như đồ chơi là chủy thủ ấy bèn biến thành thứ quý giá của thích khách.
Những thứ lợi khí như vậy dĩ nhiên không phải dễ dàng gì mà có.
Lão thuyền trưởng còn nói:
- Những lúc tình hình không được ổn định trong hoàng cung, những loại chủy thủ
này từng trị giá lên tới năm ngàn năm trăm lạng vàng.
Lão ta lại nói cho Lục Tiểu Phụng biết:
- Đương thời ở ngoài chợ bán nô lệ, một người nữ nô tóc vàng đắt giá nhất cũng
chỉ có bảy tám lạng vàng, nếu không phải là xử nữ, còn ít hơn một nửa.
Năm ngàn lạng hoàng kim, một cây chủy thủ. Cái thứ chủy thủ cổ kính giá trị liên
thành này, tại sao lại xuất hiện ở một nơi xa xôi bần cùng như thế này?
Nó thuộc về ai? Tại cái tiểu trấn nhỏ bé này, ai có tư cách làm chủ nó? Ai có thể
có tư cách ở trong hoàng cung Ba Tư?
Chỉ có một hạng người có tư cách đó, cũng chỉ có một hạng người xứng đáng dùng
thứ khí giới này.
Hạng người này là hạng người nào?
Đương nhiên là hạng người có thể dùng nó được hiệu quả nhất, có thể dùng nó
đúng thời cơ nhất, đánh ra không bao giờ thất thủ lần nào.
Những hạng người ấy thường thường có khí chất và nét đặc biệt, người khác có học
cũng học không được, không giống những hạng đâm giết người ngoài phố chợ.
Bởi vì bọn họ thường thường qua lại trong hoàng cung.
Vì vậy khí chất của họ thường thường đều rất ưu nhã, muốn bồi dưỡng cái khí chất
đó, đương nhiên phải có học thức, tu dưỡng và phẩm cách.
Những người họ tiếp xúc dĩ nhiên đều là bọn quý tộc.
Chỉ có những hạng thích khách như vậy mới có thể đứng ung dung trong đám
hoàng tộc trong cung điện, giết người trong chớp mắt, thoát thân như kẻ không hình
bóng.
Những hạng thích khách đó không đồng dạng với những tay sát thủ trong giang hồ.
Những tay sát thủ trong giang hồ nhất định phải là người bình thường, mặt mày
nhất định phải không có điểm gì đặc biệt để người khác khó quên, cũng không được có
chút gì đặc biệt về khí chất và cá tính, làm cho người khác để ý đến họ.
Nếu không biết có một người như vậy ở đó, thì làm gì để ý đề phòng họ?
Trong nghề đó, đã có một hàng tiền bối từng thốt ra một câu danh ngôn:
- Nếu ngươi muốn đi giết một tên vương bát, trước hết ngươi phải biến mình ra
thành một vương bát mới được.
Lục Tiểu Phụng nói:
- Bây giờ chúng ta đã biết không ít chuyện về cây chủy thủ này, thứ nhất, chúng ta
biết cây chủy thủ này rất quý giá, chẳng những vậy, còn là thứ cổ vật trong hoàng cung
Ba Tư, dù là ở đó, e cũng khó mà thấy được, một nơi đày đọa ở trung thổ này lại càng
khó kiếm.
Lấy kiến văn quảng bác, giao du rộng rãi của chàng, mà chỉ thấy có hai lần trong
đời.
Lục Tiểu Phụng nói:
- Người sử dụng cây đao này, thân phận dĩ nhiên không thấp kém, võ công cũng
không nhược, mà ra tay còn rất nhanh. Nếu không thể có cơ hội đánh ra được mà vẫn
cứ muốn đi giết người, là rõ ràng đã hạnh phụ bảo vật.
Chàng hững hờ hỏi Sa đại hộ:
- Ông thử xem, nơi đây có ai có đủ tư cách dùng thứ vũ khí này?
Sa đại hộ cười khổ nói:
- Theo tôi nghĩ, nơi đây chỉ có một người có thể sử dụng nó. Người đó hình như là
tôi.
Lục Tiểu Phụng thở ra:
- Ông nói không sai, chuyện này xem ra có vẻ như vậy, chỉ tiếc là chỉ "xem ra" thôi.
Sa đại hộ hình như muốn nổi giận lại:
- Tại sao? Không lẽ ông cho là tôi không đủ tư cách?
Lục Tiểu Phụng nói:
- Nếu nói chuyện sử dụng chủy thủ thôi, dĩ nhiên ông đủ tư cách, đại khái cũng
khá đấy, còn nếu nói ông dùng chủy thủ để đâm chết Liễu Thừa Phong trong tích tắc,
thì xin lỗi vậy.
Sa đại lão bản nổi nóng lên:
- Xin lỗi là nghĩa làm sao? Ông cho là tôi làm không được?
- Không phải ông làm không được, mà không ai có thể làm được.
Giọng của Lục Tiểu Phụng rất khẳng định:
- Khắp gầm trời này, không ai có khả năng đâm chết Liễu Thừa Phong từ trước mặt.
Sa đại lão bản trừng mắt nhìn chàng cả nửa ngày, bỗng nhiên thò tay ra nhanh như
chớp, đoạt lấy cây đao trên tay Lục Tiểu Phụng.
Lục Tiểu Phụng ngẫn người ra, Sa đại hộ cười lớn.
- Luc Tiểu Phụng, lần này ông sai rồi, Liễu Thừa Phong chính là bị ta dùng cây
chủy thủ này đâm chết, ông có tin không?
Lục Tiểu Phụng biến hẳn sắc mặt, làm như bỗng nhiên thấy trên mũi của một
người mọc ra một đóa hoa.
Dáng điệu như vậy của chàng càng làm cho Sa đại hộ thêm tức giận, y hét lên một
tiếng, cây chủy thủ trong tay đã nhanh như chớp đâm thẳng vào ngực Lục Tiểu Phụng.
Y ra tay dĩ nhiên còn chậm hơn tia chớp một tý, có điều muốn giết một người gần
như vậy, là chuyện quá dễ dàng.
Cái chiêu đó cũng bất ngờ cho Lục Tiểu Phụng, xem ra mũi đao đã sắp đâm thủng
vào tim của chàng.
Chính cái khoảnh khắc nhỏ vô cùng ấy, bỗng nhiên có hai ngón tay thò ra.
Chẳng ai nhìn thấy hai ngón tay ấy từ đâu thò ra, làm như mọc từ chỗ trái tim ra
vậy, chụp dính cây chủy thủ, tiếp theo cái chớp mắt, cây chủy thủ đã nằm trong tay
Lục Tiểu Phụng.
Lần này Sa đại lão bản là người biến sắc mặt, Lục Tiểu Phụng thì đang cười.
- Lúc nãy ông hỏi tôi có tin Liễu Thừa Phong bị ông giết hay không, bây giờ tôi có
thể trả lời ông.
Câu trả lời là:
- Tôi không tin. Nếu nói ông chỉ một đao đã giết được Liễu Thừa Phong, thì tôi chỉ
cần thổi một hơi là có thể thổi một con trâu bay tới Ba Tư (chú thích: xuy ngưu, thổi con
trâu đi, có nghĩa bóng là khoác lác).
Sa đại lão bản lại đứng nhìn trừng trừng cả nửa ngày, gương mặt đang vốn tức giận
đỏ kè, bỗng nhiên lộ ra một nụ cười:
- Lục Tiểu Phụng, ông giỏi lắm, tôi thật phục ông.
Y nói:
- Tôi chỉ có một điểm không phục.
- Điểm gì?
Sa đại hộ hỏi Lục Tiểu Phụng:
- Ông nói khắp thiên hạ không có ai đâm chết Liễu Thừa Phong trước mặt, nhưng
Liễu Thừa Phong rõ ràng đã bị một đao đâm chết trước mặt.
Lục Tiểu Phụng không suy nghĩ gì lập tức trả lời:
- Đấy chẳng qua tại vì người giết y là một người mà y nhất định không bao giờ đề
phòng, là một người bạn rất thân với y.
- Tôi cũng là bạn của y.
- Nhưng ông còn chưa thân với y đủ.
Sa đại lão bản hỏi:
- Muốn sao mới là bạn thân đủ với y?
- Thật ra ông cũng biết, một người làm cho một người đàn ông không đề phòng,
thường thường không phải là bạn của y, cũng không phải đàn ông.
- Không phải bạn bè thì là hạng người gì?
- Một người tình của một người đàn ông, thường thường chắc không phải là một
người đàn ông.
Sa đại lão bản ngớ mặt ra:
- Không lẽ ông cho là Liễu Thừa Phong có một tình nhân bí mật ở đây?
Câu hỏi này cũng thừa.
Một người đàn ông chỉ cần tá túc một đêm ở nơi nào, đều có thể có một tình nhân
bí mật, bất kỳ nguời đàn ông nào cũng vậy, ngay cả Liễu Thừa Phong cũng không ngoại
lệ.
Vấn đề là, tình nhân của y là ai nhĩ? Có phải là bà chủ tiệm tạp hóa mà người nào
cũng muốn xáp vào không?
Trong lòng của Lục Tiểu Phụng bỗng nhiên không được thoải mái lắm, nếu chàng
đã nghĩ đến điểm đó, dù lấy cây đao kề một bên trái cổ họng của chàng, chàng cũng
nhất định không đụng vào một sợi lông trên người bà ta.
Sa đại lão bản hình như cũng có chỗ không được thoải mái như chàng vậy.
... Có phải bởi vì y cũng đã từng lăng nhăng với bà chủ quán phong tao ấy chăng?
Nghĩ đến điểm đó, trong lòng của Lục Tiểu Phụng lại càng không thoải mái.
Những đường dây quan hệ tới cái chết của Liễu Thừa Phong mà chàng lần mò tới
giờ, không đưa được đến bao nhiêu sự kiện so với kỳ vọng.
Trước đó chàng cứ ngỡ mỗi người đều có chỗ đáng hoài nghi, bất kỳ người nào
cũng có thể dẫn được đến hung thủ.
Có điều chàng đã tự mình bác bỏ hết tất cả thứ đáng hoài nghi của mỗi người.
Chàng mới đến tiểu trấn này, đầu tiên là gặp tên ăn mày.
Tên ăn mày tính tình quái dị, vũ công quái dị, mặt mày lấm la lấm lét, cứ rón rén
đi làm chuyện mờ ám gì đâu không, còn có lúc chui xuống giường chàng, không biết
làm gì dưới đó.
Sau khi Lục Tiểu Phụng lại tiểu trấn này, người gặp đầu tiên là hắn, mà người phát
giác ra thi thể của Liễu Thừa Phong cũng là hắn.
Hắn là người đáng bị hoài nghi nhất, dù không phải chủ hung, chắc cũng là bang
hung.
Nhưng hắn bỗng hóa thành đệ tử đích truyền của Cái Bang là nơi rất thân thuộc
với Lục Tiểu Phụng.
Thi thể của Liễu Thừa Phong ở trong tiệm bán quan tài, hung khí giết y cũng ở
trong đó.
Ông chủ tiệm quan tài làm sao thoát khỏi bị tình nghi?
Có điều hung khí chẳng còn thấy đâu, xem ra y cũng không giống một kẻ giết
người.
Bà chủ gặp người là xông vào, ai bà ta cũng xáp lại được, có điều đó là dụ người,
không phải giết người.
Cặp đùi của bà ta cũng không phải cặp đùi đó.
Vương Đại Nhãn thật ra chỉ là một gã mù mắt thế thôi, bà vợ mình đi dụ dỗ người
ta lão còn không thấy.
Nếu nói lão ấy một đao đâm chết Liễu Thừa Phong phía trước mặt, đó mới là quái
sự.
Sa đại lão bản có đủ tư cách giết được Liễu Thừa Phong, y có tiền, có vũ công,
cũng có người đi làm chuyện đó cho y, hung khí giết người cũng nằm trong tay của y.
Chỉ tiếc là y còn có cái dáng điệu ta đây của một tay đại lão bản.
Cái điểm trọng yếu nhất là, những người ở đây chẳng có ân oán gì, quan hệ gì với
Liễu Thừa Phong, chẳng có lấy một động cơ, lý do thúc đẩy họ giết y. Càng xui nữa là,
Liễu Thừa Phong cứ bị chết tại nơi đây. Ai đã giết y? Vì chuyện gì?
Lục Tiểu Phụng biết trong đó nhất định có một then chốt rất trọng yếu mà không ai
có thể tưởng tượng ra.
Núp trong một góc kín mít nào đó trong tư tưởng con người.
Cái lối suy nghĩ của chàng không sai tý nào.
Chỉ tiếc là lúc tư tưởng chàng len lỏi tới cái góc kín mít đó, tìm ra được cái then chốt của
vấn đề, chàng đã bị chết.
Lục Tiểu Phụng làm sao chết được?
C ái tên Kim Thất Lượng không phải là không có lai lịch. Bởi vì đấy chẳng
phải là tên của y, mà là trác hiệu.
Trong giang hồ ai ai cũng có trác hiệu, tên thì có thể không ra gì, nhưng
trác hiệu nhất định phải có lai lịch.
Lục Tiểu Phụng không phải tiểu cũng không phải phụng, ngay cả phụng và bà vợ
của phụng là hoàng, mặt mủi ra sao chàng cũng chưa hề thấy qua, Tây Môn Xuy Tuyết
đương nhiên cũng không phải thật sự là xuy tuyết.
Lý Tầm Hoan chỉ tầm phiền thì có, Hồ Thiết Hoa và đóa hoa bằng thiết, lấy tám
cây gậy đánh mãi cũng không ra nổi một sự quan hệ với nhau. Nhưng Sa đại hộ vẫn là
Sa đại hộ, tiểu khiếu hóa vẫn là tiểu khiếu hóa, vương bát đản không thể là xú ngư.
Vậy thì tại sao Kim Thất Lượng lại được người ta gọi là Kim Thất Lượng?
Cái tên của Kim Thất Lượng thật ra vốn là Kim Mãn Đường, nghĩa là có thể đem
vàng chất đầy ra nhà, có phải là sung sướng lắm không?
Chỉ tiếc là vàng nhà y đem chất lại cũng không đầy một bô nước tiểu.
Vì vậy từ nhỏ y đã đi học võ, trong các thứ võ công, y thích nhất là môn khinh
công đề tung thuật.
Khinh công luyện tới nơi rồi, bay qua bay lại, không ai cản trở, lấy tiền tài phụ nữ
nhà người ta như thò tay vào túi lấy đồ, không phải là sung sướng hơn cả nhà hoàng
kim sao?
Chính vì từ nhỏ y đã có chí lớn như vậy, do đó y quả thật luyện khinh công đến
mức độ siêu đẳng, trong giang hồ thậm chí có người nói, chỉ cần Kim Mãn Đường thi
triển khinh công ra, y sẽ đáp xuống đất nhẹ nhàng như bảy lạng bông vậy. Vì vậy
người khác gọi y là Kim Thất Lượng.
Kim Thất Lượng tuy hình dạng không oai vũ cao lớn, nhưng mặt mày thanh tú, răng
trắng môi hồng, từ nhỏ đã rất dễ thương, nếu không e chẳng có bao nhiêu đó tên phi
tặc truyền môn khinh công cho y.
Cái lão mặt mày vàng khè ốm nhách đó lại là Kim Thất Lượng sao? Có phải Lục
Tiểu Phụng nhìn lầm người không?
Lục Tiểu Phụng nói:
- Ta không nhìn lầm đâu, y đeo một bộ mặt nạ da người, tuy làm rất khéo, ít nhất
cũng tốn đi của y vài trăm lượng bạc, nhưng không qua khỏi mắt ta được.
Chàng bước lại, gã tú tài nhìn chàng lom lom, bỗng nhiên thở ra:
- Lục Tiểu Phụng, ta thật kỳ quái, tại sao tới giờ ngươi còn chưa chết vậy? Không lẽ
ngươi thật tình sẽ không bao giờ chết sao?
Kim Thất Lượng nhất định là một người thông minh.
Một người thông minh biết mình gạt không được người khác, sẽ nhất định không
ráng thêm.
Thậm chí y còn kéo mặt nạ ra khỏi mặt mình.
Kim Thất Lượng nói:
- Lục Tiểu Phụng, ngươi có bản sự nhận ra được ta, ta cũng chẳng nói gì, nhưng
ngươi nói chiếc mặt nạ này chỉ có vài trăm lạng bạc, không khỏi nói quá sao.
- Sao?
Kim Thất Lượng phủi nhẹ chiếc mặt nạ mỏng như cánh con ve trong tay, như lão
ông ôn nhu xoa trên má thiếu nữ.
Y nói:
- Đây là đồ Hồng Các chính tông, ta đem một bức của Ngô đạo tử và một cây Sách
Hồ cao bốn thước đổi lấy. Bao nhiêu đó cũng đáng giá chừng mấy chục lần vài trăm
lạng bạc.
- Thật sao?
- Đương nhiên là thật.
Bốn hàng lông mi của Lục Tiểu Phụng đều hạ xuống, thậm chí còn có vẻ muốn
khóc.
- Nếu quả như chiếc mặt nạ của ngươi đổi bằng hai thứ đó, tốt nhất ngươi nên mau
đi treo cổ là vừa.
Kim Thất Lượng vội vã hỏi:
- Tại sao? Không lẽ đó là đồ giả?
Lục Tiểu Phụng đáp:
-Nếu không phải đồ giả, ta sẽ đi treo cổ. Nếu như ban đêm ngươi đeo mặt nạ
Hồng Các chính tông, chỉ sợ ngay cả thần tiên cũng khó nhận ra ngươi.
"Hồng Các" chính là biệt hiệu của Châu Đình, Châu Đình là một diệu nhân, y là
bạn thân của Lục Tiểu Phụng.
Điều này được nhấn mạnh ở đây, vì nó là một trong những điểm rất quan trọng
trong câu chuyện này.
Bây giờ bộ mặt của Kim Thất Lượng hình như cũng muốn khóc luôn, bị người gạt
có lúc cũng như ăn phải cức, tức là đã ăn mất xác rồi, làm sao mà nhổ được ra?
Khóc cũng khóc không được, nhổ cũng nhổ không ra, Kim Thất Lượng chỉ thấy
miệng của mình vừa khô vừa thúi.
Lục Tiểu Phụng nhìn y ra vẻ rất đồng tình, lấy bàn tay rất ấm áp vỗ vào vai y.
- Ngươi bất tất phải tức giận, cũng bất tất phải khó chịu, chỉ cần ngươi nói thật một
câu, ta sẽ đưa cho ngươi một chiếc mặt nạ Hồng Các chính tông.
Kim Thất Lượng nói:
- Nếu ngươi thật tình muốn hỏi ta cái người đàn bà ấy là ai, ngươi hỏi nhầm người
rồi, trước giờ ta không nhìn đùi đàn bà.
Lục Tiểu Phụng nói:
- Ta biết ngươi không nhìn. Trước giờ ngươi chỉ muốn nhìn đàn ông.
Giọng nói của chàng không có vẻ gì là diễu cợt, lịch sử từ xưa đến giờ, đàn ông
thích đàn ông, đàn bà thích đàn bà, cũng là chuyện bình thường.
Nhất là trong thời thái bình thịnh thế, trong giai cấp sĩ đại phu, chuyện ấy còn phổ
thông hơn.
Kim Thất Lượng bỗng nhiên thay đổi thái độ ngay.
Thứ đồ tinh phẩm Hồng Các chính tông không làm y động tâm, cái nhìn của Lục
Tiểu Phụng về chuyện đó làm y cảm động, làm cho y mất đi cái cảm giác tự ty, và
cũng làm cho y có cảm giác đã gặp tri kỷ.
Cái thứ cảm giác đó khó dấu được lắm, Lục Tiểu Phụng đương nhiên nhìn ra, do đó
chàng lập tức hỏi tới:
- Ta nghĩ chắc ngươi biết Liễu Thừa Phong?
Kim Thất Lương đáp:
- Ta biết, y lại đây năm ngoái, chẳng những vậy, còn chết ở đây.
- Y chết như thế nào?
- Bị người đâm một nhát đao trong hẽm tối.
Thần tình của Kim Thất Lượng bỗng nhiên biến ra thảm đạm:
- Giống như ta đâm cháu của Điền Bát thái gia một đao trong hẽm tối vậy, đều
chẳng có nguyên do gì cả.
Lục Tiểu Phụng hỏi:
- Có phải ngươi giết Tiểu Tiểu Điền mà phải chạy trốn lại đây không?
Kim Thất Lượng buồn rầu nói:
- Giết người không nên giết hoặc không thể giết, chỉ còn đường chạy trốn, ngày
tháng của những kẻ vong mệnh trôi qua không được thoải mái lắm, thế nào cũng có
ngày người khác sẽ lò mò lại tìm.
- Tại sao?
Kim Thất Lượng nói:
- Giết người rồi, tâm hoảng ý loạn, thế nào cũng để lại dấu vết. Bất kể khinh công
cao siêu tới đâu, bất kể chạy trốn lẹ làng tới đâu, chỉ cần để lại tý manh mối, là cũng
sẽ có người lại tìm.
- Người giết Liễu Thừa Phong có để lại manh mối gì không?
- Y để lại một cây đao, một cây đao rất đặc biệt.
Trong con mắt người giang hồ, đao là đao, cũng như người là người, người nào cũng
giết được, đao nào cũng giết được người.
Người sử đao, đao giết người, người bị giết, cứ như gà đẻ trứng, trứng sinh ra gà, gà
lại sinh ra trứng, rất tự nhiên, đơn giản như một là một, hai là hai, ba là ba.
Đạo lý trong giang hồ, vốn vẫn là vậy.
Nếu bọn họ nói cây đao này rất đặc biệt, thì cây đao này nhất định đặc biệt phi
thường.
Kim Thất Lượng chính là một người trong giang hồ, y đã nói như vậy, Lục Tiểu
Phụng đương nhiên muốn hỏi:
- Cây đao ấy có gì đặc biệt?
Câu trả lời của Kim Thất Lượng rất kỳ quái, câu trả lời của y thậm chí không ra vẻ
câu nói người trong giang hồ sẽ thốt.
Y nói:
- Cây đao ấy chẳng thể nói là một cây đao.
Tai của Lục Tiểu Phụng không điếc, thần trí cũng còn rất thanh tỉnh, ngày hôm nay,
tới giờ chàng vẫn chưa uống giọt rượu nào trong bụng.
Chàng nghe rõ mồn một, một chữ cũng không mất: "Cây đao ấy chẳng thể nói là
một cây đao."
Kim Thất Lượng nói như vậy đó.
Kim Thất Lượng chẳng hề nói dối, cây đao ấy quả thật không thể gọi là đao, chẳng
qua chỉ là một cây chủy thủ thế thôi. Không những chế tạo rất là tinh xảo, giá trị chắc
chắn là vô cùng quý báu.
Cái cán làm bằng tượng ngà voi đẽo thành hình thiếu nữ khỏa thân, đường nét
sống động, nếu ai nhìn trừng trừng vào đó, sẽ thấy mi mắt nàng ta cũng đang nhìn mình,
thậm chí còn muốn lăn vào lòng người đó.
Màu sắc của ngà voi cũng như da thịt của thiếu nữ, mềm mại ấm áp trơn láng.
Có điều, nếu có ai nhè nhẹ nhấn vào ngực nàng một cái, cán đao sẽ lập tức bật ra
một lưỡi chủy thủ, lóng lánh ánh sáng đỏ, đỏ như máu tươi vừa đọng lại. Cây chủy thủ
này mỗi bộ phận hiển nhiên đều được tay hảo thủ làm ra, chẳng những vậy, hình như
cũng đã có tuổi lắm.
Sa đại hộ lấy trong một ngăn bí mật phía sau tủ sách trong thư phòng của y ra một
cây chủy thủ, nhẹ nhàng nhấn nút cơ quan, chủy thủ bật ra, lưỡi đao lập lò, màu đỏ
như máu.
Sa đại hộ nói:
- Đây là hung khí đã giết chết Liễu đại hiệp, cỡ thứ đao sắc bén như thế này, dĩ
nhiên ta phải cất nó đi mới yên tâm, nơi này của ta ít nhất cũng an toàn hơn cái tiệm
bán quan tài nhiều.
Y lại nói:
- Thật tình ta không muốn nó lạc vao tay ai khác, bởi vì ta muốn tự tay giao nó cho
ông.
Đây cũng không phải là lời nói dối, bây giờ y đã làm như vậy.
Lục Tiểu Phụng cầm cây đao cán ngà voi lên, bỗng nhiên thở ra, nói với Sa lão đại:
- Xem ra con người ông quả thật là một con người tốt, ít nhất là tốt hơn tôi nhiều
lắm. Nếu tôi mà là ông, tôi nhất định sẽ không giao một thứ lợi khí như thế này cho
người ta khơi khơi như vậy.
Chàng lại cười lên một tiếng:
- Nếu ông biết giá trị và lai lịch của nó, không chừng ông đã không giao nó cho tôi.
- Sao?
- Cây chủy thủ này là một thứ cổ vật! Tuổi tác của nó so với tổ phụ của tổ phụ tôi
còn muốn già hơn nhiều lắm.
- Điều đó ta cũng có nhận ra.
Lục Tiểu Phụng hỏi:
- Người có lai lịch, đao cũng có, ông có nhận ra lai lịch cây đao này không?
- Ta không nhận ra.
Lục Tiểu Phụng nói:
- Cây chủy thủ này bật ra từ trong cán, thợ nổi tiếng Trung thổ ít người chịu làm
loại chủy thủ thế này, không phải thợ giỏi cũng làm không được lưỡi bén nhọn như vậy,
do đó, ta có thể đoán chắc nó từ Ba Tư lại.
Sa đại hộ hỏi:
- Ba Tư? Không phải người Ba Tư đều dùng loan đao cả sao?
Lục Tiểu Phụng cười:
- Đây là đao?
Đây không phải đao, chỉ bất quá là một cây chủy thủ, Sa đại hộ chỉ còn nước cười
khổ.
Cái tên khốn kiếp này tại sao cứ muốn cho người khác cầm đá tảng nện vào chân
của mình.
Lục Tiểu Phụng nói:
- Tôi đã từng bị kẹt cứng trên biển cả một thời gian, đánh bạn với một số bạn bè,
chỉ cần nơi nào có biển là bọn họ đều đi tới, xa nhất là chân trời góc biển. Tôi rất tin
vào lời họ nói, những người ấy tuy không phải kẻ tốt, vừa hung dữ vừa độc ác, hoạnh
họe, nhưng đối với bạn bè họ không hề nói láo.
Những người đó không phải đều là cướp biển.
Bạn bè của Lục Tiểu Phụng có người là cướp biển, chẳng ai lấy đó làm ly kỳ. Nếu
bạn bè của chàng đều là quân tử, đó mới là chuyện quái sự.
Lục Tiểu Phụng nói:
- Trong bọn họ có một vị thuyền trưởng, già đến nổi chẳng còn nhớ tên tuổi của
mình là ai bao nhiêu. Lão ta cũng có một cây chủy thủ như vậy.
Vị thuyền trưởng này dĩ nhiên không phải là thuyền trưởng của một thuyền đánh cá,
ở mặt biển Ba Tư, những chiếc thuyền giăng cờ hoàng gia không thiếu, và bọn họ cũng
không khỏi có lúc đụng vào bọn cướp biển.
Cây chủy thủ của lão thuyền trưởng từ đâu ra? Đại khái cũng không khó đoán lắm.
Ngay cả lão ta cũng không phủ nhận:
- Những loại chủy thủ này thông thường chỉ thấy trong hoàng cung.
Trong hoàng cung, hoàng tử tranh quyền, phi tần tranh sủng ái, lộng thần sàm tấu,
là những tình huống thường xảy ra từ xưa tới giờ, không phân biệt nơi nào nước nào.
Vì tranh quyền tranh sủng, chuyện gì cũng làm được, ám sát, hạ độc, đều là
chuyện bình thường.
Nếu có một vị hoàng tử bỗng nhiên bạo bệnh mà chết, một vị phi tần bỗng nhiên
mất tích, lập tức sẽ có những tay lộng thần, cận thị, cấm vệ xúm lại tìm cách che đậy
kín mít, nhất định không thể để lộ ra ngoài, càng không được để hoàng đế hiểu được
nội tình, không thể có tai tiếng xảy ra trong hoàng tộc.
Nếu có người muốn đi điều tra, y không những phạm vào đại kỵ, mà còn là kẻ địch
chung của mọi người.
Vì bảo vệ tính mạng của mình, cũng vì để đối phó, hạ thủ trước địch nhân, đa số
các hoàng tử đương quyền và các phi tần đương sủng đều nuôi dưỡng một đám mưu
thần tử sĩ thích khách.
Lão thuyền trưởng nói:
- Có điều, trong hoàng cung đương nhiên không được đeo vũ khí ra vào, do đó cái
thứ mới nhìn như đồ chơi là chủy thủ ấy bèn biến thành thứ quý giá của thích khách.
Những thứ lợi khí như vậy dĩ nhiên không phải dễ dàng gì mà có.
Lão thuyền trưởng còn nói:
- Những lúc tình hình không được ổn định trong hoàng cung, những loại chủy thủ
này từng trị giá lên tới năm ngàn năm trăm lạng vàng.
Lão ta lại nói cho Lục Tiểu Phụng biết:
- Đương thời ở ngoài chợ bán nô lệ, một người nữ nô tóc vàng đắt giá nhất cũng
chỉ có bảy tám lạng vàng, nếu không phải là xử nữ, còn ít hơn một nửa.
Năm ngàn lạng hoàng kim, một cây chủy thủ. Cái thứ chủy thủ cổ kính giá trị liên
thành này, tại sao lại xuất hiện ở một nơi xa xôi bần cùng như thế này?
Nó thuộc về ai? Tại cái tiểu trấn nhỏ bé này, ai có tư cách làm chủ nó? Ai có thể
có tư cách ở trong hoàng cung Ba Tư?
Chỉ có một hạng người có tư cách đó, cũng chỉ có một hạng người xứng đáng dùng
thứ khí giới này.
Hạng người này là hạng người nào?
Đương nhiên là hạng người có thể dùng nó được hiệu quả nhất, có thể dùng nó
đúng thời cơ nhất, đánh ra không bao giờ thất thủ lần nào.
Những hạng người ấy thường thường có khí chất và nét đặc biệt, người khác có học
cũng học không được, không giống những hạng đâm giết người ngoài phố chợ.
Bởi vì bọn họ thường thường qua lại trong hoàng cung.
Vì vậy khí chất của họ thường thường đều rất ưu nhã, muốn bồi dưỡng cái khí chất
đó, đương nhiên phải có học thức, tu dưỡng và phẩm cách.
Những người họ tiếp xúc dĩ nhiên đều là bọn quý tộc.
Chỉ có những hạng thích khách như vậy mới có thể đứng ung dung trong đám
hoàng tộc trong cung điện, giết người trong chớp mắt, thoát thân như kẻ không hình
bóng.
Những hạng thích khách đó không đồng dạng với những tay sát thủ trong giang hồ.
Những tay sát thủ trong giang hồ nhất định phải là người bình thường, mặt mày
nhất định phải không có điểm gì đặc biệt để người khác khó quên, cũng không được có
chút gì đặc biệt về khí chất và cá tính, làm cho người khác để ý đến họ.
Nếu không biết có một người như vậy ở đó, thì làm gì để ý đề phòng họ?
Trong nghề đó, đã có một hàng tiền bối từng thốt ra một câu danh ngôn:
- Nếu ngươi muốn đi giết một tên vương bát, trước hết ngươi phải biến mình ra
thành một vương bát mới được.
Lục Tiểu Phụng nói:
- Bây giờ chúng ta đã biết không ít chuyện về cây chủy thủ này, thứ nhất, chúng ta
biết cây chủy thủ này rất quý giá, chẳng những vậy, còn là thứ cổ vật trong hoàng cung
Ba Tư, dù là ở đó, e cũng khó mà thấy được, một nơi đày đọa ở trung thổ này lại càng
khó kiếm.
Lấy kiến văn quảng bác, giao du rộng rãi của chàng, mà chỉ thấy có hai lần trong
đời.
Lục Tiểu Phụng nói:
- Người sử dụng cây đao này, thân phận dĩ nhiên không thấp kém, võ công cũng
không nhược, mà ra tay còn rất nhanh. Nếu không thể có cơ hội đánh ra được mà vẫn
cứ muốn đi giết người, là rõ ràng đã hạnh phụ bảo vật.
Chàng hững hờ hỏi Sa đại hộ:
- Ông thử xem, nơi đây có ai có đủ tư cách dùng thứ vũ khí này?
Sa đại hộ cười khổ nói:
- Theo tôi nghĩ, nơi đây chỉ có một người có thể sử dụng nó. Người đó hình như là
tôi.
Lục Tiểu Phụng thở ra:
- Ông nói không sai, chuyện này xem ra có vẻ như vậy, chỉ tiếc là chỉ "xem ra" thôi.
Sa đại hộ hình như muốn nổi giận lại:
- Tại sao? Không lẽ ông cho là tôi không đủ tư cách?
Lục Tiểu Phụng nói:
- Nếu nói chuyện sử dụng chủy thủ thôi, dĩ nhiên ông đủ tư cách, đại khái cũng
khá đấy, còn nếu nói ông dùng chủy thủ để đâm chết Liễu Thừa Phong trong tích tắc,
thì xin lỗi vậy.
Sa đại lão bản nổi nóng lên:
- Xin lỗi là nghĩa làm sao? Ông cho là tôi làm không được?
- Không phải ông làm không được, mà không ai có thể làm được.
Giọng của Lục Tiểu Phụng rất khẳng định:
- Khắp gầm trời này, không ai có khả năng đâm chết Liễu Thừa Phong từ trước mặt.
Sa đại lão bản trừng mắt nhìn chàng cả nửa ngày, bỗng nhiên thò tay ra nhanh như
chớp, đoạt lấy cây đao trên tay Lục Tiểu Phụng.
Lục Tiểu Phụng ngẫn người ra, Sa đại hộ cười lớn.
- Luc Tiểu Phụng, lần này ông sai rồi, Liễu Thừa Phong chính là bị ta dùng cây
chủy thủ này đâm chết, ông có tin không?
Lục Tiểu Phụng biến hẳn sắc mặt, làm như bỗng nhiên thấy trên mũi của một
người mọc ra một đóa hoa.
Dáng điệu như vậy của chàng càng làm cho Sa đại hộ thêm tức giận, y hét lên một
tiếng, cây chủy thủ trong tay đã nhanh như chớp đâm thẳng vào ngực Lục Tiểu Phụng.
Y ra tay dĩ nhiên còn chậm hơn tia chớp một tý, có điều muốn giết một người gần
như vậy, là chuyện quá dễ dàng.
Cái chiêu đó cũng bất ngờ cho Lục Tiểu Phụng, xem ra mũi đao đã sắp đâm thủng
vào tim của chàng.
Chính cái khoảnh khắc nhỏ vô cùng ấy, bỗng nhiên có hai ngón tay thò ra.
Chẳng ai nhìn thấy hai ngón tay ấy từ đâu thò ra, làm như mọc từ chỗ trái tim ra
vậy, chụp dính cây chủy thủ, tiếp theo cái chớp mắt, cây chủy thủ đã nằm trong tay
Lục Tiểu Phụng.
Lần này Sa đại lão bản là người biến sắc mặt, Lục Tiểu Phụng thì đang cười.
- Lúc nãy ông hỏi tôi có tin Liễu Thừa Phong bị ông giết hay không, bây giờ tôi có
thể trả lời ông.
Câu trả lời là:
- Tôi không tin. Nếu nói ông chỉ một đao đã giết được Liễu Thừa Phong, thì tôi chỉ
cần thổi một hơi là có thể thổi một con trâu bay tới Ba Tư (chú thích: xuy ngưu, thổi con
trâu đi, có nghĩa bóng là khoác lác).
Sa đại lão bản lại đứng nhìn trừng trừng cả nửa ngày, gương mặt đang vốn tức giận
đỏ kè, bỗng nhiên lộ ra một nụ cười:
- Lục Tiểu Phụng, ông giỏi lắm, tôi thật phục ông.
Y nói:
- Tôi chỉ có một điểm không phục.
- Điểm gì?
Sa đại hộ hỏi Lục Tiểu Phụng:
- Ông nói khắp thiên hạ không có ai đâm chết Liễu Thừa Phong trước mặt, nhưng
Liễu Thừa Phong rõ ràng đã bị một đao đâm chết trước mặt.
Lục Tiểu Phụng không suy nghĩ gì lập tức trả lời:
- Đấy chẳng qua tại vì người giết y là một người mà y nhất định không bao giờ đề
phòng, là một người bạn rất thân với y.
- Tôi cũng là bạn của y.
- Nhưng ông còn chưa thân với y đủ.
Sa đại lão bản hỏi:
- Muốn sao mới là bạn thân đủ với y?
- Thật ra ông cũng biết, một người làm cho một người đàn ông không đề phòng,
thường thường không phải là bạn của y, cũng không phải đàn ông.
- Không phải bạn bè thì là hạng người gì?
- Một người tình của một người đàn ông, thường thường chắc không phải là một
người đàn ông.
Sa đại lão bản ngớ mặt ra:
- Không lẽ ông cho là Liễu Thừa Phong có một tình nhân bí mật ở đây?
Câu hỏi này cũng thừa.
Một người đàn ông chỉ cần tá túc một đêm ở nơi nào, đều có thể có một tình nhân
bí mật, bất kỳ nguời đàn ông nào cũng vậy, ngay cả Liễu Thừa Phong cũng không ngoại
lệ.
Vấn đề là, tình nhân của y là ai nhĩ? Có phải là bà chủ tiệm tạp hóa mà người nào
cũng muốn xáp vào không?
Trong lòng của Lục Tiểu Phụng bỗng nhiên không được thoải mái lắm, nếu chàng
đã nghĩ đến điểm đó, dù lấy cây đao kề một bên trái cổ họng của chàng, chàng cũng
nhất định không đụng vào một sợi lông trên người bà ta.
Sa đại lão bản hình như cũng có chỗ không được thoải mái như chàng vậy.
... Có phải bởi vì y cũng đã từng lăng nhăng với bà chủ quán phong tao ấy chăng?
Nghĩ đến điểm đó, trong lòng của Lục Tiểu Phụng lại càng không thoải mái.
Những đường dây quan hệ tới cái chết của Liễu Thừa Phong mà chàng lần mò tới
giờ, không đưa được đến bao nhiêu sự kiện so với kỳ vọng.
Trước đó chàng cứ ngỡ mỗi người đều có chỗ đáng hoài nghi, bất kỳ người nào
cũng có thể dẫn được đến hung thủ.
Có điều chàng đã tự mình bác bỏ hết tất cả thứ đáng hoài nghi của mỗi người.
Chàng mới đến tiểu trấn này, đầu tiên là gặp tên ăn mày.
Tên ăn mày tính tình quái dị, vũ công quái dị, mặt mày lấm la lấm lét, cứ rón rén
đi làm chuyện mờ ám gì đâu không, còn có lúc chui xuống giường chàng, không biết
làm gì dưới đó.
Sau khi Lục Tiểu Phụng lại tiểu trấn này, người gặp đầu tiên là hắn, mà người phát
giác ra thi thể của Liễu Thừa Phong cũng là hắn.
Hắn là người đáng bị hoài nghi nhất, dù không phải chủ hung, chắc cũng là bang
hung.
Nhưng hắn bỗng hóa thành đệ tử đích truyền của Cái Bang là nơi rất thân thuộc
với Lục Tiểu Phụng.
Thi thể của Liễu Thừa Phong ở trong tiệm bán quan tài, hung khí giết y cũng ở
trong đó.
Ông chủ tiệm quan tài làm sao thoát khỏi bị tình nghi?
Có điều hung khí chẳng còn thấy đâu, xem ra y cũng không giống một kẻ giết
người.
Bà chủ gặp người là xông vào, ai bà ta cũng xáp lại được, có điều đó là dụ người,
không phải giết người.
Cặp đùi của bà ta cũng không phải cặp đùi đó.
Vương Đại Nhãn thật ra chỉ là một gã mù mắt thế thôi, bà vợ mình đi dụ dỗ người
ta lão còn không thấy.
Nếu nói lão ấy một đao đâm chết Liễu Thừa Phong phía trước mặt, đó mới là quái
sự.
Sa đại lão bản có đủ tư cách giết được Liễu Thừa Phong, y có tiền, có vũ công,
cũng có người đi làm chuyện đó cho y, hung khí giết người cũng nằm trong tay của y.
Chỉ tiếc là y còn có cái dáng điệu ta đây của một tay đại lão bản.
Cái điểm trọng yếu nhất là, những người ở đây chẳng có ân oán gì, quan hệ gì với
Liễu Thừa Phong, chẳng có lấy một động cơ, lý do thúc đẩy họ giết y. Càng xui nữa là,
Liễu Thừa Phong cứ bị chết tại nơi đây. Ai đã giết y? Vì chuyện gì?
Lục Tiểu Phụng biết trong đó nhất định có một then chốt rất trọng yếu mà không ai
có thể tưởng tượng ra.
Núp trong một góc kín mít nào đó trong tư tưởng con người.
Cái lối suy nghĩ của chàng không sai tý nào.
Chỉ tiếc là lúc tư tưởng chàng len lỏi tới cái góc kín mít đó, tìm ra được cái then chốt của
vấn đề, chàng đã bị chết.
Lục Tiểu Phụng làm sao chết được?
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.