Quyển 4 - Chương 1: Nhà thám hiểm Corot Maar - Hồi 1: Dãi rồng trường sinh
Thiên Hạ Bá Xướng
03/11/2016
Mê Tông Chi Quốc IV - Cửu Tuyền U Minh sẽ tiếp tục hành trình mạo hiểm của những người bạn đồng hành cùng nhau vào sinh ra tử. Ở tập này, đoàn thám hiểm bắt đầu cuộc hành trình xuống địa ngục, họ sa chân vào vòng xoáy hư vô. Vực sâu không đáy thăm thẳm dưới lòng đất liệu có phải vương quốc của những vong hồn vạn kiếp không thể siêu sinh? Hàng loạt hiện tượng quái dị liên tiếp xảy ra. Tấm bia đá của tộc người Bái Xà trở thành manh mối duy nhất có thể phá giải chuỗi ẩn số thần bí. Cái giá phải trả cho việc giải mã nội dung tấm bia là mạng sống. Một dãy số ẩn chứa biết bao mầm họa. Phải chăng phía sau tấm bia cổ còn che giấu một bí mật kinh thiên động địa hơn thế…
Mê Tông Chi Quốc IV – Cửu Tuyền U Minh sẽ khép lại những hành trình sinh tử vượt thời gian, vượt không gian tưởng chừng đã đi đến hồi kết, số phận các nhân vật dường như đã được định đoạt. Tuy nhiên, với lối viết tinh tế của Thiên Hạ Bá Xướng và khả năng khởi tạo những ẩn số kịch tính đến mức ngộp thở sau đó tháo cởi nút thắt một cách hợp lý, tập 4 của Mê Tông Chi Quốc đã mang đến cái kết mở với nhiều lối suy tưởng đầy ám ảnh ngay cả khi bạn đã đặt cuốn sách xuống.
Nhà văn Thiên Hạ Bá Xướng tên thật là Trương Mục Dã, sinh năm 1978, người Thiên Tân. Anh được ca ngợi là nhà văn có trí tưởng tượng phong phú bậc nhất trong dòng văn học thám hiểm, kinh dị Trung Quốc. Anh là tác giả của bộ truyện “Ma thổi đèn” - bộ tiểu thuyết được truyền bá rộng rãi nhất ở Trung Quốc, chỉ sau những tác phẩm võ hiệp của Kim Dung. Với Mê Tông Chi Quốc, tác giả Thiên Hạ Bá Xướng đã kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố thần bí trong văn hóa phương Đông và những khái niệm văn hóa hiện đại của nhiều nơi trên thế giới. Phong cách đó không chỉ làm nên điểm độc đáo cho Mê Tông Chi Quốc mà còn tạo cho tác giả một “cõi giang hồ” riêng biệt.
Phía dưới vòng tròn nham thạch gần như là lò nung cao áp, nhưng mãi đến khi hội Tư Mã Khôi lún dần xuống vực sâu theo vỏ ốc Anh Vũ, rồi rơi xuống thâm cốc nằm chìm hẳn vào quyển Manti, họ mới phát hiện mây gió bao quanh thủy thể tạo thành vòng tròn từ trường nằm ở vành đai 30° vĩ Bắc đã giúp họ ngăn cách tuyệt đối với dòng dung nham nóng bỏng và địa áp phía ngoài.
Mọi người không tìm thấy tung tích của Nấm mồ xanh, trước mắt chỉ còn bóng đêm hư vô. Nhờ những đốm sáng yếu ớt do ma sát địa từ ở phía xa phát ra, cả hội nhìn thấy một bóng đen khổng lồ nằm sừng sững trong màn sương mù dày đặc, mọi người liền lấy đó làm vật tham chiếu, di chuyển dần dần từ trên cao xuống rồi tiến về phía trước.
Trong khe núi sâu nấm dại mọc um tùm, vỏ ốc cúc đá lô nhô trên mặt đất, địa hình nhấp nhô cao thấp, nơi lún xuống có nhiều khe nứt, chỉ cần lại gần một chút sẽ cảm nhận luồng hơi nóng như hơi chạy tàu hỏa phả vào cơ thể, trong đó toàn là những hang động pha lê tự nhiên, động nào cũng chứa đầy nước. Nếu lấy đèn quặng soi kỹ sẽ phát hiện những mỏm pha lê nhọn hoắt, sắc lẻm đâm tua tủa như rừng rậm, thật là một cảnh tưởng kỳ lạ đến nỗi khó ai dám tin là thật.
Mọi người đều hết sức ngạc nhiên, nhưng chỉ cần lại gần và dừng lại bên cánh rừng pha lê ẩm ướt, oi nóng lâu thêm một chút là cảm thấy tim đập rất nặng nề, toàn thân ướt đẫm mồ hôi, quần áo giày dép sũng nước, nên ai nấy đều tranh thủ nghỉ ngơi lấy lại sức và liên tục uống nước để duy trì thể lực.
Tư Mã Khôi thấy pin và cacbua tiêu hao quá nhanh, mà tốc độ di chuyển của cả đội lại quá chậm chạp nên trong lòng lo lắng không yên, nhưng nhất thời anh cũng không nghĩ ra cách gì, chỉ biết than thầm: “Năm xưa Tần Quỳnh gặp nạn phải bán cả ngựa, coi như xui tận mạng, thế mà giờ bọn ta còn không bằng Tần Quỳnh, đừng nói ngựa, ngay cả lạc đà cũng chẳng có nữa là”.
Hải ngọng cũng sốt ruột như kiến bò chảo lửa, nhưng anh vẫn để bụng chuyện lúc trước, nhìn Nhị Học Sinh mà “ngứa mắt trái, đỏ mắt phải”, nhân lúc nghỉ ngơi và lấy thêm nước, anh bĩu môi nói với Tư Mã Khôi: “Thằng mọt sách kia đáng ghét thế không biết, nhìn loại người như cậu ta, tớ lại liên tưởng đến một chuyện”.
Tư Mã Khôi thờ ơ hỏi lại: “Cậu liên tưởng đến chuyện gì?”
Hải ngọng đáp: “Liên tưởng đến nồi cơm to đùng chúng ta vừa nấu chín, sắp được ăn đến nơi thì bị thẳng tiểu tử kia hất cả vốc cát vào. Đúng là đồ thất đức!”.
Nhị Học Sinh tự cảm thấy xấu hổ, nên mặc Hải ngọng châm biếm, bới móc, cậu ta chẳng dám ho he gì, chỉ lặng thinh cúi đầu không đáp.
Cao Tư Dương sợ mọi người lại cãi nhau thêm chập nữa, cô bèn lảng sang chuyện khác, hỏi Tư Mã Khôi xem đã có kế hoạch gì chưa?
Tư Mã Khôi cảm thấy bóng đen trong sương mù rất không lành, nó cao chí ít cũng tới ngàn mét, e rằng tấm bia Vũ Vương không thể cao to dường vậy, có khi nó là dãi rồng từ trong mạch đất chảy xuống cũng chưa biết chừng, bây giờ chỉ còn cách liều mạng đến tận nơi xem rõ trắng đen thế nào thôi.
Hải ngọng hỏi: “Dãi rồng… là cái gì hả Khôi?”
Tư Mã Khôi đáp: “Ngay từ thời Hán Đường, thành Lạc Dương xảy ra một cơn địa chấn dữ dội, cả thôn làng bị sụt xuống lòng đất, duy có một người tên là Vương Nguyên thoát khỏi kiếp nạn, bởi ông ta may mắn gặp được “dãi rồng”.
Nghe nói, Vương Nguyên là người thông thạo huyền cơ, tu đạo, luyện khí, khi mặt đất nứt toác thôn làng sụt xuống, ông ta vẫn đang nằm ngủ trong nhà. Lúc mới bị lún, cả thôn chưa hề hấn gì, người dân trong thôn vẫn gào thét kêu cứu được, nhưng đến lúc sụt xuống tận suối sâu, thì già trẻ gái trai, chó mèo gà lợn trong thôn đều chìm nghỉm trong nước, chỉ mình Vương Nguyên từng luyện huyền thuật mới nổi trên mặt nước và thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, ông ta rơi xuống vực sâu cách mặt đất hàng ngàn trượng, bị dòng nước cuốn trôi vào một hang động rất lớn, đột nhiên ông ta thấy có một con quái xà thò đầu xuống, từ miệng nó chảy ra thứ dịch đen ngòm, thân nằm vắt dọc vách đá, lừng lững như cột đình.
Ông ta sợ hãi cuống quýt vòng sang bên tháo chạy, nhưng chưa đi được bao xa thì bụng đói đến nỗi không lê nổi bước chân, đưa tay quờ quạng xung quanh thấy mặt đất toàn là bụi đất rất mịn, mềm nhão, lại còn phảng phất mùi thơm như mùi cám gạo, đang lúc đói vàng mắt, ông bèn nắm một vốc nhét bừa vào miệng, ăn xong thấy quả nhiên giải quyết được cơn đói. Từ đó, ông cứ ăn thứ đó để duy trì sự sống. Ông đi ròng rã suốt ba năm dưới lòng đất mới thoát được ra ngoài. Sau này, ông ta đem chuyện kể cho một vị học giả uyên bác. Vị học giả nghe xong bèn bảo Vương Nguyên, chất dịch dấp dính màu đen là dãi của con rồng già sống trong sông Hoàng Hà nhả ra, nếu uống chất dịch đó sẽ trường sinh bất tử, còn đám bụi đất kia là dãi rồng bị phong hóa biến thành bùn, ăn nhiều đến đâu cũng chỉ có tác dụng no bụng chứ không có hiệu quả siêu việt gì hơn.
Hải ngọng thần người nghe, rồi chép miệng: “Bọn mình mau qua đó xem sao, uống được dãi rồng có khi lại biến thành thần tiên cũng nên”.
Cao Tư Dương nói: “Nếu thật có dãi từ miệng con rồng già rớt xuống, thì tôi cũng chẳng dám uống, nghĩ đến đã thấy buồn nôn…”
Thắng Hương Lân đoán: “Dãi rồng dưới lòng đất mà người xưa nói đến, có lẽ là một loại khoáng quặng dạng lỏng nào đó, ăn vào là mất mạng đấy!”.
Ngay từ đầu, Tư Mã Khôi đã cho rằng câu chuyện này vô căn cứ, nhưng anh vẫn kể để trấn an mọi người. Vì trong vực sâu tràn ngập sương khí mịt mù khắp tứ bề, ngoài chiếc bóng mờ ảo kia, thì không tìm thấy bất cứ vật tham chiếu nào khác, nên giờ chỉ còn cách liều chết xông vào, mới mong tìm thấy chút manh mối. Anh quan sát thấy xung quanh vương vãi đầy vỏ ốc cúc đá, ở đây không hề có dấu tích của sự sống nhưng sương khí dưới lòng đất mù mịt, nóng ẩm thế này kiểu gì chẳng tồn tại những vật thể sống khác, tính mạng của các thành viên trong đội có thể bị uy hiếp bất cứ lúc nào. Anh hiểu rõ, chỉ cần lơ là đôi chút là sẽ đi sai cả ván cờ, chỉ cần thiếu cảnh giác đôi chút, là có thể sẽ xảy ra sự cố. Bởi vậy, tuy ngoài miệng anh vẫn nói điềm nhiên, nhưng trong lòng không dám khinh suất chút nào.
Cả hội vừa đi vừa nói chuyện, đi được chừng vài mét, khoảng cách giữa họ với chiếc bóng màu đen ngày càng rút ngắn dần. Cuối cùng, mọi người phát hiện thứ đó không phải dãi rồng, cũng không phải bất kỳ vật thể gì, mà là một cột khói đen. Giống như luồng khói đen bốc lên sau khi thiêu cháy cả thảo nguyên, cột khói được tạo thành từ vô số khói bụi đậm đặc ngưng tụ, tổng thể trông giống hình chóp tròn lộn ngược, càng lên cao thì càng to dần ra, nom tựa một vòm nấm khổng lồ sừng sừng nằm bất động giữa tầng không, con người đứng dưới chân nó trông như những con kiến ngẩng đầu nhìn tán lá khổng lồ.
Hội Tư Mã Khôi cảm thấy nóng bức đến mức không thể chịu được, khói bụi trong bóng tối xộc vào mũi, khiến việc hít thở cũng khó khăn, mỗi người đều tự tìm một mảnh vải ướt che lên mặt, sau đó hạ kính chắn gió xuống, dừng chân quan sát. Mặt đất trước mắt lún xuống tạo thành sườn dốc, cột khói đen được phun ra từ miệng một hang động khá lớn bị sụt xuống, thì ra đó là tàn tích của chiếc tàu ngầm Z-615 bị nguyền rủa. Sau khi rơi khỏi núi từ, nó bị chìm xuống mặt biển mênh mông, xuyên qua thủy thể, rơi xuống lòng vực sâu, đâm thủng cả mặt đất, một nửa cắm trong động, khiến cột khói dày đặc không ngừng bốc cao lên không trung, không khí trên cao khá loãng khiến quầng khói đặc ngưng tụ và lơ lửng giữa bầu trời.
Tư Mã Khôi quan sát hồi lâu, anh cho rằng cột mây hình nấm đáng sợ kia chỉ là vết tích do địa nhiệt dưới lòng đất trào lên còn sót lại, trông đồ sộ đến khiếp nhưng thực ra không có gì khác thường. Đang lúc đi vòng qua đó, anh chợt nghe thấy một tiếng động nhẹ phát ra từ trong xác con tàu. Tư Mã Khôi rất nhạy cảm, chỉ cần gió lay cỏ động cũng lập tức phát giác ra ngay. Anh bật đèn quặng, soi về phía đó thì thấy có một người đang thò đầu chui ra khỏi xác tàu. Kẻ mới đến phát hiện ánh sáng lay động đang soi vào mình, liền vội vàng lẩn vào màn sương đen đang lan tỏa mịt mù.
Ban đầu, Tư Mã Khôi cứ ngỡ đó là Nấm mồ xanh, nên không định cho phép đối phương chạy thoát khỏi tay mình thêm lần nữa. Anh bất chấp cái nóng như thiêu đốt của cột khói đen, lao như tên bắn xuống sườn dốc. Thấy kẻ đó bị khói bụi che khuất, anh bèn thò tay ra túm lấy, không ngờ thân thủ của đối phương cũng hết sức lanh lẹ, hắn nhanh như một con mèo hoang, quay người rồi lăn xuống đất, thoát khỏi tầm tay của Tư Mã Khôi một cách uyển chuyển đến kinh ngạc.
Lúc này, hội Hải ngọng cũng lao đến bao vây, chùm sáng đèn quặng và họng súng nhất loạt chiếu vào kẻ mới đến, buộc hắn phải đứng im tại chỗ.
Khói đen quanh đó khiến tầm nhìn bị giới hạn đến cực độ, Tư Mã Khôi cứ ngỡ mình đã tóm cổ được Nấm mồ xanh, nhưng nhìn kỹ lại qua kính chắn gió, anh thấy kẻ đó đầu đội mũ da, mình khoác tấm áo da dê lộn, cổ đeo chuỗi bánh đả cẩu, hai con mắt gian manh đảo loạn xạ, tuy hắn cũng bịt mặt bằng mảnh vải ướt, nhưng anh vẫn nhận ra, hắn ta không phải cái gã Triệu Lão Biệt mà đáng lẽ phải chết từ nhiều năm trước thì còn ai vào đây?
Tư Mã Khôi vừa kinh ngạc vừa hãi hùng: “Sao lão quái này lại vẫn sống nhe nhởn sau bao phen tử nạn vậy nhỉ? Lẽ nào hẳn uống dãi rồng và trở nên trường sinh bất tử?”
Nhân lúc mọi người đang thẫn người chưa biết xử lý thế nào thì Triệu Lão Biệt đã nhanh như cắt đâm bổ vào Nhị Học Sinh, người duy nhất không cầm súng trên tay, để hi vọng mở đường thoát thân.
Nhưng lần này, Tư Mã Khôi đã đoán trước được hành động của Triệu Lão Biệt, anh lao lên dũng mãnh như con sư tử, quật lão ngã xuống đất, thò tay giật khẩu trang của đối phương.
Tư Mã Khôi ép báng súng vào cổ Triệu Lão Biệt, lúc này nếu muốn kết liễu mạng sống của lão thì dễ như trở bàn tay, nhưng nghĩ lại anh thấy hội anh và Triệu Lão Biệt cũng chưa xảy ra xung đột gì quá đáng, chưa đến mức phải ép đối phương đến bước đường cùng, huống hồ sự việc đến nước này, có giết Triệu Lão Biệt cũng không cứu vãn được tình thế.
Mọi người đứng dưới nấm mây, ai cũng thấy khó thở, biết đây không phải nơi tiện bề nói chuyện, họ liền áp giải Triệu Lão Biệt đến nơi khác.
Hội Tư Mã Khôi vây quanh Triệu Lão Biệt, hai bên đều đang thăm dò đối phương, không ai chịu mở lời trước, cảnh tượng lúc này đúng là “dạ đầy lời mà miệng không nói”.
Cuối cùng, Triệu Lão Biệt không chống đỡ nổi khí thế của đối phương, bèn lên tiếng hỏi Tư Mã Khôi: “Sông không đổi thì núi phải dời, không ngờ chúng ta lại gặp nhau…”, nói xong lão liếc trộm sắc mặt Tư Mã Khôi, rồi tiếp lời: “Vị thủ lĩnh đây thân thủ thật phi phàm, chắc do bậc tiền bối lục lâm cao thủ nào đó truyền thụ phải không, chúng ta tuy không họ hàng thân thích nhưng cùng là người trong giới, đều ăn bát cơm mà sư tổ để lại, các lão gia đi mòn gót khắp cõi trời đất, kết giao với bao nhiêu bằng hữu, ăn hết cơm của thiên hạ, rõ ràng là nhân vật thượng đẳng kiệt xuất, thân phận tôn quý, hà cớ gì phải chèn ép một kẻ biệt bảo hèn mạt như mỗ?”
Tư Mã Khôi nói: “Lão chớ múa mép với tôi, ai chẳng biết thủ đoạn lục lâm chia thành hai loại thượng hạ, thượng gọi là “xuyên thiên”, hạ gọi là “nhập địa”, công phu xuyên thiên là bản lĩnh có thể bay như chim, lượn như én, đi trên mái nhà như giẫm trên đất bằng, lẻn vào nhà trộm của mà quỷ không biết, thần không hay; còn nhập địa là đào huyệt động, bới địa đạo, chuyên làm mấy phi vụ đào mồ đổ đấu. Nhưng bất luận là “xuyên thiên” hay “nhập địa” thì đều không chung một đường với mấy dị thuật biệt bảo nhà lão, nên có nói thuật của tôi và thuật của lão là hai lĩnh vực hoàn toàn khác biệt cũng chẳng có gì quá đáng”.
Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh không biết thân phận của Triệu Lão Biệt, hai người cứ ngỡ đó là Nấm mồ xanh, họ không ngờ dung nhan hắn lại đầu gián mắt chuột như thế.
Nhưng Tư Mã Khôi thì rất rõ, Triệu Lão Biệt không phải Nấm mồ xanh, có điều chắc chắn lão ta có liên quan mật thiết với Nấm mồ xanh. Tư Mã Khôi cũng biết rất rõ lão ta gian xảo khó lường, bao quanh lão là vô số những ẩn số không có lời giải, thử hỏi một người rõ ràng đã chết và để lại thi thể ở một nơi, làm sao có thể sống lại và xuất hiện ở một nơi khác?
Nếu tính cả lần này, thì Tư Mã Khôi đã gặp Triệu Lão Biệt cả thảy ba lần, cũng có thể đó là ba người hoàn toàn khác biệt. Người thứ nhất, anh gặp trong nghĩa địa La Sư ở Trường Sa, lần ấy lão ta đi đào viên Lôi công mặc, rồi bị rơi xuống huyệt mộ, bị lửa ma thiêu chết. Người thứ hai anh gặp là kẻ đã tháo chạy khỏi chiếc hộp thời gian, rồi chết trước di chỉ Hắc Môn ở thành cổ Lâu Lan, còn bây giờ lại xuất hiện một Triệu Lão Biệt khác trong vực sâu dưới lòng đất.
Hải ngọng gặp phải sự việc kỳ lạ, đầu óc ngây ra, anh cứ cảm thấy Triệu Lão Biệt là yêu quái hóa thành, phải mau chóng trừ khử lão càng sớm càng tốt.
Tư Mã Khôi đầy dạ ngờ vực, nhưng trong đầu trăm ngàn mối tơ vò, anh không biết bắt đầu hỏi từ đâu, chợt anh nghe Thắng Hương Lân thì thầm bên tai: “Có khi lão ta không phải Triệu Lão Biệt đâu”.
Tư Mã Khôi chợt tỉnh ngộ: “Ừ nhỉ, xem tình hình thì Triệu Lão Biệt xuất hiện ở Hắc Môn và Triệu Lão Biệt trong vực sâu là cùng một người, bởi vì đối phương vẫn nhớ rõ sự việc xảy ra trong chiếc hộp thời gian, nhưng lão ta chưa bao giờ mở miệng thừa nhận mình là Triệu Lão Biệt. Tất cả chỉ là suy đoán chủ quan của mình mà thôi”.
Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền hỏi thẳng lão: “Tên họ lão là gì, lão từ đâu tới đây?”
Ánh mắt gian manh của lão lóe lên tia xảo trá, khuôn mặt cố nặn ra nụ cười ranh mãnh, lão vòng tay thưa: “Người đi qua không để lại họ tên, không biết Trương Tam, Lý Tứ. Nhạn bay qua không để lại tiếng, không biết xuân hạ thu đông. Chư vị đã có lòng hỏi, thì hôm nay mỗ đành để lại họ tên quý tính ở đây vậy”.
Mê Tông Chi Quốc IV – Cửu Tuyền U Minh sẽ khép lại những hành trình sinh tử vượt thời gian, vượt không gian tưởng chừng đã đi đến hồi kết, số phận các nhân vật dường như đã được định đoạt. Tuy nhiên, với lối viết tinh tế của Thiên Hạ Bá Xướng và khả năng khởi tạo những ẩn số kịch tính đến mức ngộp thở sau đó tháo cởi nút thắt một cách hợp lý, tập 4 của Mê Tông Chi Quốc đã mang đến cái kết mở với nhiều lối suy tưởng đầy ám ảnh ngay cả khi bạn đã đặt cuốn sách xuống.
Nhà văn Thiên Hạ Bá Xướng tên thật là Trương Mục Dã, sinh năm 1978, người Thiên Tân. Anh được ca ngợi là nhà văn có trí tưởng tượng phong phú bậc nhất trong dòng văn học thám hiểm, kinh dị Trung Quốc. Anh là tác giả của bộ truyện “Ma thổi đèn” - bộ tiểu thuyết được truyền bá rộng rãi nhất ở Trung Quốc, chỉ sau những tác phẩm võ hiệp của Kim Dung. Với Mê Tông Chi Quốc, tác giả Thiên Hạ Bá Xướng đã kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố thần bí trong văn hóa phương Đông và những khái niệm văn hóa hiện đại của nhiều nơi trên thế giới. Phong cách đó không chỉ làm nên điểm độc đáo cho Mê Tông Chi Quốc mà còn tạo cho tác giả một “cõi giang hồ” riêng biệt.
Phía dưới vòng tròn nham thạch gần như là lò nung cao áp, nhưng mãi đến khi hội Tư Mã Khôi lún dần xuống vực sâu theo vỏ ốc Anh Vũ, rồi rơi xuống thâm cốc nằm chìm hẳn vào quyển Manti, họ mới phát hiện mây gió bao quanh thủy thể tạo thành vòng tròn từ trường nằm ở vành đai 30° vĩ Bắc đã giúp họ ngăn cách tuyệt đối với dòng dung nham nóng bỏng và địa áp phía ngoài.
Mọi người không tìm thấy tung tích của Nấm mồ xanh, trước mắt chỉ còn bóng đêm hư vô. Nhờ những đốm sáng yếu ớt do ma sát địa từ ở phía xa phát ra, cả hội nhìn thấy một bóng đen khổng lồ nằm sừng sững trong màn sương mù dày đặc, mọi người liền lấy đó làm vật tham chiếu, di chuyển dần dần từ trên cao xuống rồi tiến về phía trước.
Trong khe núi sâu nấm dại mọc um tùm, vỏ ốc cúc đá lô nhô trên mặt đất, địa hình nhấp nhô cao thấp, nơi lún xuống có nhiều khe nứt, chỉ cần lại gần một chút sẽ cảm nhận luồng hơi nóng như hơi chạy tàu hỏa phả vào cơ thể, trong đó toàn là những hang động pha lê tự nhiên, động nào cũng chứa đầy nước. Nếu lấy đèn quặng soi kỹ sẽ phát hiện những mỏm pha lê nhọn hoắt, sắc lẻm đâm tua tủa như rừng rậm, thật là một cảnh tưởng kỳ lạ đến nỗi khó ai dám tin là thật.
Mọi người đều hết sức ngạc nhiên, nhưng chỉ cần lại gần và dừng lại bên cánh rừng pha lê ẩm ướt, oi nóng lâu thêm một chút là cảm thấy tim đập rất nặng nề, toàn thân ướt đẫm mồ hôi, quần áo giày dép sũng nước, nên ai nấy đều tranh thủ nghỉ ngơi lấy lại sức và liên tục uống nước để duy trì thể lực.
Tư Mã Khôi thấy pin và cacbua tiêu hao quá nhanh, mà tốc độ di chuyển của cả đội lại quá chậm chạp nên trong lòng lo lắng không yên, nhưng nhất thời anh cũng không nghĩ ra cách gì, chỉ biết than thầm: “Năm xưa Tần Quỳnh gặp nạn phải bán cả ngựa, coi như xui tận mạng, thế mà giờ bọn ta còn không bằng Tần Quỳnh, đừng nói ngựa, ngay cả lạc đà cũng chẳng có nữa là”.
Hải ngọng cũng sốt ruột như kiến bò chảo lửa, nhưng anh vẫn để bụng chuyện lúc trước, nhìn Nhị Học Sinh mà “ngứa mắt trái, đỏ mắt phải”, nhân lúc nghỉ ngơi và lấy thêm nước, anh bĩu môi nói với Tư Mã Khôi: “Thằng mọt sách kia đáng ghét thế không biết, nhìn loại người như cậu ta, tớ lại liên tưởng đến một chuyện”.
Tư Mã Khôi thờ ơ hỏi lại: “Cậu liên tưởng đến chuyện gì?”
Hải ngọng đáp: “Liên tưởng đến nồi cơm to đùng chúng ta vừa nấu chín, sắp được ăn đến nơi thì bị thẳng tiểu tử kia hất cả vốc cát vào. Đúng là đồ thất đức!”.
Nhị Học Sinh tự cảm thấy xấu hổ, nên mặc Hải ngọng châm biếm, bới móc, cậu ta chẳng dám ho he gì, chỉ lặng thinh cúi đầu không đáp.
Cao Tư Dương sợ mọi người lại cãi nhau thêm chập nữa, cô bèn lảng sang chuyện khác, hỏi Tư Mã Khôi xem đã có kế hoạch gì chưa?
Tư Mã Khôi cảm thấy bóng đen trong sương mù rất không lành, nó cao chí ít cũng tới ngàn mét, e rằng tấm bia Vũ Vương không thể cao to dường vậy, có khi nó là dãi rồng từ trong mạch đất chảy xuống cũng chưa biết chừng, bây giờ chỉ còn cách liều mạng đến tận nơi xem rõ trắng đen thế nào thôi.
Hải ngọng hỏi: “Dãi rồng… là cái gì hả Khôi?”
Tư Mã Khôi đáp: “Ngay từ thời Hán Đường, thành Lạc Dương xảy ra một cơn địa chấn dữ dội, cả thôn làng bị sụt xuống lòng đất, duy có một người tên là Vương Nguyên thoát khỏi kiếp nạn, bởi ông ta may mắn gặp được “dãi rồng”.
Nghe nói, Vương Nguyên là người thông thạo huyền cơ, tu đạo, luyện khí, khi mặt đất nứt toác thôn làng sụt xuống, ông ta vẫn đang nằm ngủ trong nhà. Lúc mới bị lún, cả thôn chưa hề hấn gì, người dân trong thôn vẫn gào thét kêu cứu được, nhưng đến lúc sụt xuống tận suối sâu, thì già trẻ gái trai, chó mèo gà lợn trong thôn đều chìm nghỉm trong nước, chỉ mình Vương Nguyên từng luyện huyền thuật mới nổi trên mặt nước và thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, ông ta rơi xuống vực sâu cách mặt đất hàng ngàn trượng, bị dòng nước cuốn trôi vào một hang động rất lớn, đột nhiên ông ta thấy có một con quái xà thò đầu xuống, từ miệng nó chảy ra thứ dịch đen ngòm, thân nằm vắt dọc vách đá, lừng lững như cột đình.
Ông ta sợ hãi cuống quýt vòng sang bên tháo chạy, nhưng chưa đi được bao xa thì bụng đói đến nỗi không lê nổi bước chân, đưa tay quờ quạng xung quanh thấy mặt đất toàn là bụi đất rất mịn, mềm nhão, lại còn phảng phất mùi thơm như mùi cám gạo, đang lúc đói vàng mắt, ông bèn nắm một vốc nhét bừa vào miệng, ăn xong thấy quả nhiên giải quyết được cơn đói. Từ đó, ông cứ ăn thứ đó để duy trì sự sống. Ông đi ròng rã suốt ba năm dưới lòng đất mới thoát được ra ngoài. Sau này, ông ta đem chuyện kể cho một vị học giả uyên bác. Vị học giả nghe xong bèn bảo Vương Nguyên, chất dịch dấp dính màu đen là dãi của con rồng già sống trong sông Hoàng Hà nhả ra, nếu uống chất dịch đó sẽ trường sinh bất tử, còn đám bụi đất kia là dãi rồng bị phong hóa biến thành bùn, ăn nhiều đến đâu cũng chỉ có tác dụng no bụng chứ không có hiệu quả siêu việt gì hơn.
Hải ngọng thần người nghe, rồi chép miệng: “Bọn mình mau qua đó xem sao, uống được dãi rồng có khi lại biến thành thần tiên cũng nên”.
Cao Tư Dương nói: “Nếu thật có dãi từ miệng con rồng già rớt xuống, thì tôi cũng chẳng dám uống, nghĩ đến đã thấy buồn nôn…”
Thắng Hương Lân đoán: “Dãi rồng dưới lòng đất mà người xưa nói đến, có lẽ là một loại khoáng quặng dạng lỏng nào đó, ăn vào là mất mạng đấy!”.
Ngay từ đầu, Tư Mã Khôi đã cho rằng câu chuyện này vô căn cứ, nhưng anh vẫn kể để trấn an mọi người. Vì trong vực sâu tràn ngập sương khí mịt mù khắp tứ bề, ngoài chiếc bóng mờ ảo kia, thì không tìm thấy bất cứ vật tham chiếu nào khác, nên giờ chỉ còn cách liều chết xông vào, mới mong tìm thấy chút manh mối. Anh quan sát thấy xung quanh vương vãi đầy vỏ ốc cúc đá, ở đây không hề có dấu tích của sự sống nhưng sương khí dưới lòng đất mù mịt, nóng ẩm thế này kiểu gì chẳng tồn tại những vật thể sống khác, tính mạng của các thành viên trong đội có thể bị uy hiếp bất cứ lúc nào. Anh hiểu rõ, chỉ cần lơ là đôi chút là sẽ đi sai cả ván cờ, chỉ cần thiếu cảnh giác đôi chút, là có thể sẽ xảy ra sự cố. Bởi vậy, tuy ngoài miệng anh vẫn nói điềm nhiên, nhưng trong lòng không dám khinh suất chút nào.
Cả hội vừa đi vừa nói chuyện, đi được chừng vài mét, khoảng cách giữa họ với chiếc bóng màu đen ngày càng rút ngắn dần. Cuối cùng, mọi người phát hiện thứ đó không phải dãi rồng, cũng không phải bất kỳ vật thể gì, mà là một cột khói đen. Giống như luồng khói đen bốc lên sau khi thiêu cháy cả thảo nguyên, cột khói được tạo thành từ vô số khói bụi đậm đặc ngưng tụ, tổng thể trông giống hình chóp tròn lộn ngược, càng lên cao thì càng to dần ra, nom tựa một vòm nấm khổng lồ sừng sừng nằm bất động giữa tầng không, con người đứng dưới chân nó trông như những con kiến ngẩng đầu nhìn tán lá khổng lồ.
Hội Tư Mã Khôi cảm thấy nóng bức đến mức không thể chịu được, khói bụi trong bóng tối xộc vào mũi, khiến việc hít thở cũng khó khăn, mỗi người đều tự tìm một mảnh vải ướt che lên mặt, sau đó hạ kính chắn gió xuống, dừng chân quan sát. Mặt đất trước mắt lún xuống tạo thành sườn dốc, cột khói đen được phun ra từ miệng một hang động khá lớn bị sụt xuống, thì ra đó là tàn tích của chiếc tàu ngầm Z-615 bị nguyền rủa. Sau khi rơi khỏi núi từ, nó bị chìm xuống mặt biển mênh mông, xuyên qua thủy thể, rơi xuống lòng vực sâu, đâm thủng cả mặt đất, một nửa cắm trong động, khiến cột khói dày đặc không ngừng bốc cao lên không trung, không khí trên cao khá loãng khiến quầng khói đặc ngưng tụ và lơ lửng giữa bầu trời.
Tư Mã Khôi quan sát hồi lâu, anh cho rằng cột mây hình nấm đáng sợ kia chỉ là vết tích do địa nhiệt dưới lòng đất trào lên còn sót lại, trông đồ sộ đến khiếp nhưng thực ra không có gì khác thường. Đang lúc đi vòng qua đó, anh chợt nghe thấy một tiếng động nhẹ phát ra từ trong xác con tàu. Tư Mã Khôi rất nhạy cảm, chỉ cần gió lay cỏ động cũng lập tức phát giác ra ngay. Anh bật đèn quặng, soi về phía đó thì thấy có một người đang thò đầu chui ra khỏi xác tàu. Kẻ mới đến phát hiện ánh sáng lay động đang soi vào mình, liền vội vàng lẩn vào màn sương đen đang lan tỏa mịt mù.
Ban đầu, Tư Mã Khôi cứ ngỡ đó là Nấm mồ xanh, nên không định cho phép đối phương chạy thoát khỏi tay mình thêm lần nữa. Anh bất chấp cái nóng như thiêu đốt của cột khói đen, lao như tên bắn xuống sườn dốc. Thấy kẻ đó bị khói bụi che khuất, anh bèn thò tay ra túm lấy, không ngờ thân thủ của đối phương cũng hết sức lanh lẹ, hắn nhanh như một con mèo hoang, quay người rồi lăn xuống đất, thoát khỏi tầm tay của Tư Mã Khôi một cách uyển chuyển đến kinh ngạc.
Lúc này, hội Hải ngọng cũng lao đến bao vây, chùm sáng đèn quặng và họng súng nhất loạt chiếu vào kẻ mới đến, buộc hắn phải đứng im tại chỗ.
Khói đen quanh đó khiến tầm nhìn bị giới hạn đến cực độ, Tư Mã Khôi cứ ngỡ mình đã tóm cổ được Nấm mồ xanh, nhưng nhìn kỹ lại qua kính chắn gió, anh thấy kẻ đó đầu đội mũ da, mình khoác tấm áo da dê lộn, cổ đeo chuỗi bánh đả cẩu, hai con mắt gian manh đảo loạn xạ, tuy hắn cũng bịt mặt bằng mảnh vải ướt, nhưng anh vẫn nhận ra, hắn ta không phải cái gã Triệu Lão Biệt mà đáng lẽ phải chết từ nhiều năm trước thì còn ai vào đây?
Tư Mã Khôi vừa kinh ngạc vừa hãi hùng: “Sao lão quái này lại vẫn sống nhe nhởn sau bao phen tử nạn vậy nhỉ? Lẽ nào hẳn uống dãi rồng và trở nên trường sinh bất tử?”
Nhân lúc mọi người đang thẫn người chưa biết xử lý thế nào thì Triệu Lão Biệt đã nhanh như cắt đâm bổ vào Nhị Học Sinh, người duy nhất không cầm súng trên tay, để hi vọng mở đường thoát thân.
Nhưng lần này, Tư Mã Khôi đã đoán trước được hành động của Triệu Lão Biệt, anh lao lên dũng mãnh như con sư tử, quật lão ngã xuống đất, thò tay giật khẩu trang của đối phương.
Tư Mã Khôi ép báng súng vào cổ Triệu Lão Biệt, lúc này nếu muốn kết liễu mạng sống của lão thì dễ như trở bàn tay, nhưng nghĩ lại anh thấy hội anh và Triệu Lão Biệt cũng chưa xảy ra xung đột gì quá đáng, chưa đến mức phải ép đối phương đến bước đường cùng, huống hồ sự việc đến nước này, có giết Triệu Lão Biệt cũng không cứu vãn được tình thế.
Mọi người đứng dưới nấm mây, ai cũng thấy khó thở, biết đây không phải nơi tiện bề nói chuyện, họ liền áp giải Triệu Lão Biệt đến nơi khác.
Hội Tư Mã Khôi vây quanh Triệu Lão Biệt, hai bên đều đang thăm dò đối phương, không ai chịu mở lời trước, cảnh tượng lúc này đúng là “dạ đầy lời mà miệng không nói”.
Cuối cùng, Triệu Lão Biệt không chống đỡ nổi khí thế của đối phương, bèn lên tiếng hỏi Tư Mã Khôi: “Sông không đổi thì núi phải dời, không ngờ chúng ta lại gặp nhau…”, nói xong lão liếc trộm sắc mặt Tư Mã Khôi, rồi tiếp lời: “Vị thủ lĩnh đây thân thủ thật phi phàm, chắc do bậc tiền bối lục lâm cao thủ nào đó truyền thụ phải không, chúng ta tuy không họ hàng thân thích nhưng cùng là người trong giới, đều ăn bát cơm mà sư tổ để lại, các lão gia đi mòn gót khắp cõi trời đất, kết giao với bao nhiêu bằng hữu, ăn hết cơm của thiên hạ, rõ ràng là nhân vật thượng đẳng kiệt xuất, thân phận tôn quý, hà cớ gì phải chèn ép một kẻ biệt bảo hèn mạt như mỗ?”
Tư Mã Khôi nói: “Lão chớ múa mép với tôi, ai chẳng biết thủ đoạn lục lâm chia thành hai loại thượng hạ, thượng gọi là “xuyên thiên”, hạ gọi là “nhập địa”, công phu xuyên thiên là bản lĩnh có thể bay như chim, lượn như én, đi trên mái nhà như giẫm trên đất bằng, lẻn vào nhà trộm của mà quỷ không biết, thần không hay; còn nhập địa là đào huyệt động, bới địa đạo, chuyên làm mấy phi vụ đào mồ đổ đấu. Nhưng bất luận là “xuyên thiên” hay “nhập địa” thì đều không chung một đường với mấy dị thuật biệt bảo nhà lão, nên có nói thuật của tôi và thuật của lão là hai lĩnh vực hoàn toàn khác biệt cũng chẳng có gì quá đáng”.
Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh không biết thân phận của Triệu Lão Biệt, hai người cứ ngỡ đó là Nấm mồ xanh, họ không ngờ dung nhan hắn lại đầu gián mắt chuột như thế.
Nhưng Tư Mã Khôi thì rất rõ, Triệu Lão Biệt không phải Nấm mồ xanh, có điều chắc chắn lão ta có liên quan mật thiết với Nấm mồ xanh. Tư Mã Khôi cũng biết rất rõ lão ta gian xảo khó lường, bao quanh lão là vô số những ẩn số không có lời giải, thử hỏi một người rõ ràng đã chết và để lại thi thể ở một nơi, làm sao có thể sống lại và xuất hiện ở một nơi khác?
Nếu tính cả lần này, thì Tư Mã Khôi đã gặp Triệu Lão Biệt cả thảy ba lần, cũng có thể đó là ba người hoàn toàn khác biệt. Người thứ nhất, anh gặp trong nghĩa địa La Sư ở Trường Sa, lần ấy lão ta đi đào viên Lôi công mặc, rồi bị rơi xuống huyệt mộ, bị lửa ma thiêu chết. Người thứ hai anh gặp là kẻ đã tháo chạy khỏi chiếc hộp thời gian, rồi chết trước di chỉ Hắc Môn ở thành cổ Lâu Lan, còn bây giờ lại xuất hiện một Triệu Lão Biệt khác trong vực sâu dưới lòng đất.
Hải ngọng gặp phải sự việc kỳ lạ, đầu óc ngây ra, anh cứ cảm thấy Triệu Lão Biệt là yêu quái hóa thành, phải mau chóng trừ khử lão càng sớm càng tốt.
Tư Mã Khôi đầy dạ ngờ vực, nhưng trong đầu trăm ngàn mối tơ vò, anh không biết bắt đầu hỏi từ đâu, chợt anh nghe Thắng Hương Lân thì thầm bên tai: “Có khi lão ta không phải Triệu Lão Biệt đâu”.
Tư Mã Khôi chợt tỉnh ngộ: “Ừ nhỉ, xem tình hình thì Triệu Lão Biệt xuất hiện ở Hắc Môn và Triệu Lão Biệt trong vực sâu là cùng một người, bởi vì đối phương vẫn nhớ rõ sự việc xảy ra trong chiếc hộp thời gian, nhưng lão ta chưa bao giờ mở miệng thừa nhận mình là Triệu Lão Biệt. Tất cả chỉ là suy đoán chủ quan của mình mà thôi”.
Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền hỏi thẳng lão: “Tên họ lão là gì, lão từ đâu tới đây?”
Ánh mắt gian manh của lão lóe lên tia xảo trá, khuôn mặt cố nặn ra nụ cười ranh mãnh, lão vòng tay thưa: “Người đi qua không để lại họ tên, không biết Trương Tam, Lý Tứ. Nhạn bay qua không để lại tiếng, không biết xuân hạ thu đông. Chư vị đã có lòng hỏi, thì hôm nay mỗ đành để lại họ tên quý tính ở đây vậy”.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.