Quyển 3 - Chương 30: Hồi 3: Đèn chiếu u
Thiên Hạ Bá Xướng
03/11/2016
Toàn thân Tư Mã Khôi nổi da gà, khi anh định thần nhìn lại thì không thấy nó đâu nữa. Cái đầu đột nhiên chìm vào màn sương dày đặc. Anh đuổi theo cái đầu, phạt những sợi dây leo vướng víu trước mặt, phát hiện thấy phía sau bức tường dây leo và cây cổ thụ là một đầm nước tù đen ngòm và lạnh lẽo, mặt nước phẳng lặng, trải rộng mênh mông, căn bản không tìm được chỗ đặt chân.
Anh thầm nghĩ, chẳng lẽ là “phi đầu man” chăng? Năm xưa, trong rừng rậm Miến Điện, nhiều dân địa phương đã cắt thủ cấp của tù binh, rồi cắm sọ người chết lên một cọc nhọn để nó phong hóa. Nghe nói, những chiếc sọ người này thường bay đi cắn người vào ban đêm, nên ngay cả bọn thực dân Anh Pháp nghe nhắc đến nó cũng phải tái mặt, thế nhưng thời kì Sở quốc cổ vẫn chưa tồn tại truyền thuyết về phi đầu man.
Cao Tư Dương chưa xác định rõ mục tiêu thì không bao giờ tùy tiện nổ súng. Từ trước đến giờ cô không tin những chuyện ma quỷ, nhưng vật vừa xuất hiện rõ mồn một khi nãy đã khiến cô không biết giải thích thế nào. Lúc này, ba người còn lại cũng lần lượt tụt dây trèo xuống, sau khi nghe kể, ai nấy đều kinh ngạc tột độ.
Tư Mã Khôi vẫn chưa nhìn kỹ vật đó trông thế nào, liền bảo Nhị Học Sinh châm lửa thắp sáng ngọn đuốc, đoạn quay sang dặn mọi người, nơi đây không có người, vì vậy chỉ cần phát hiện tình hình bất ổn là có thể lập tức nổ súng. Bây giờ, chúng ta đã có súng và lửa phòng thân, nếu quả thực có thứ gì không sạch sẽ, thì nó cũng phải biết điều lùi lại ba bước.
Mọi người không dám lơ là, dò dẫm từng bước xuống đáy huyệt động, nơi có pho tượng điêu khắc mặt quỷ, để soi đèn cácbua thám thính. Huyệt động này dường như là hố tế lễ, đường kính rộng cả trăm mét, độ sâu cũng tầm trên dưới trăm mét, quy mô khá rộng lớn. Có điều, màn sương mỏng trong động giăng mắc mênh mông, không khí tràn ngập cảm giác âm u, tà mị.
Đáy hố vô cùng rộng rãi, dây leo quấn quýt bám chặt vách động, ven rìa toàn là vũng tù sâu hút, pho tượng điêu khắc cao lớn sừng sững nhìn xa xăm về phía đối diện, tựa như thể nó đang âm thầm lặng lẽ bảo vệ một vật gì đó trong bóng tối quánh đặc. Các đồ vật bằng vàng, ngọc hoặc đồng xanh đủ mọi hình thù vương vãi khắp nơi, dưới chân cũng có những phiến đá khắc hoa văn mây cuốn, nhưng bọn Tư Mã khôi không thể nhận dạng nó rốt cuộc là vật gì.
Nhị Học Sinh thấy hai mắt như không đủ dùng, bởi dường như sau mỗi vết tích vô cùng nhỏ bé lại đều ẩn chứa một bí mật ảo diệu vô cùng tận, anh chàng bất giác than: “Sở quốc đã diệt vong hơn hai ngàn năm, những cổ vật này đều bị ngủ quên dưới lòng đất, đúng là trách mình mau thịnh, trách người chóng suy mà….” Hải ngọng cũng cảm khái: “Cánh tay có to khỏe đến đâu cũng chẳng thể ngăn được bánh xe lịch sử lăn về phía trước.
Chú đừng ngồi đấy lo bò trắng răng nữa”. Đoạn anh quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Chẳng phải cậu bảo huyệt động này thông thẳng xuống mạch đất à? Sao… sao chưa gì đã thấy đến đáy thế này?” Tư Mã Khôi nhướn mắt nhìn tứ phía, xung quanh tuy vẫn có chút ánh sáng yếu ớt phát ra từ những hợp chất hữu cơ, nhưng tầm nhìn vẫn vô cùng hạn chế, còn đèn quặng chỉ đủ soi sáng một một vạt, nếu lờ dờ dò dẫm tìm kiếm, thì không biết bao lâu mới biết rõ tình hình phải đối mặt lúc này, nhưng ngay bây giờ anh cũng không có cách gì khác, đành bảo Hải ngọng: “Chắc còn có huyệt động khác thông tới nơi sâu hơn.
Chúng ta thà nghi lầm chứ không thể bỏ sót, trước tiên phải nắm rõ địa hình đã “ Mọi người thấy ven rìa đáy động phần lớn đã ngập trong nước tù, bởi vậy cả hội chỉ có thể giẫm lên cây, đi vào giữa. Chưa đi được mấy bước, họ đã thấy trong mặt nước trước mắt lộ ra những vật hình trụ vô cùng kì dị.
Trụ đá trên nhọn, dưới to, dài ngắn, cao thấp khác nhau, nhưng mỗi trụ đều to bằng cả một vòng tay, bề mặt khắc hoa văn vảy giáp, trình độ điêu khắc vô cùng tinh tế, các trụ đá bao quanh một bệ đá, ngoài ra còn có hai con kì lân nét mặt hung ác men cột bò xuống. Tư Mã Khôi vừa soi đèn quặng vừa nghĩ thầm: “Mấy trụ đá này hình thù rất kì quái, như thể đó là móng vuốt của một pho tượng thú khổng lồ nào đó.
Pho tượng lại chìm quá nửa dưới nước, thể tích to lớn kinh người, nên phạm vi chiếu sáng của đèn quặng và lửa đuốc đứng trước nó cũng nhỏ bé chẳng khác nào ánh sáng đom đóm….” Lúc này, trên mặt nước im lìm bỗng nhiên khuấy động một làn sóng nhẹ. Anh lập tức cúi sát đầu nhìn, chỉ thấy dưới đáy nước có một người đang ngẩng mặt nhìn anh chằm chằm.
Nước ngầm dưới lòng đất trong vắt, nhưng vì nằm trong địa động không bao giờ nhìn thấy ánh sáng ban ngày nên nó trông càng u tối và sâu thẳm hơn. Tư Mã Khôi biết, cái bóng bập bềnh dưới nước chắc chắn không phải bóng mình. Anh bất giác cúi thấp người, chậm chạp tiến gần mặt nước, định bụng quan sát cho rõ hơn.
Hình dạng cái đầu càng lúc càng rõ nét hơn nó giống như một người lùn màu trắng, nhưng chỉ thấy phần đầu chứ không thấy tứ chi, trông rất giống với cái đầu mà anh thấy trôi dập dềnh sau rặng dây leo khi nãy. Cái đầu bỗng nhiên há ngoác miệng, rồi nhảy vọt từ đáy nước lên không trung, lao bổ vào mặt Tư Mã Khôi.
Tư Mã Khôi không ngờ vật dưới nước lại biết bay, anh kinh hãi thất sắc, bởi tình thế cấp bách, trong lúc vội vã không kịp nghiêng người né tránh, Tư Mã Khôi đành giương khẩu súng M-1887, cuống quýt giơ báng súng ra đỡ trước mặt, và chỉ nghe “sột” một tiếng, như thể hàm răng sắc nhọn đang liên tiếp cắn vào báng súng gỗ.
Mọi người nghe động tĩnh, mới phát hiện có một thứ màu trắng bám trên báng súng của Tư Mã Khôi. Vật thể đó hao hao giống sọ người chết, từa tựa như cá, phần đầu giống sọ của người lùn, miệng rộng mang ngắn, trong mồm có vô số răng nhỏ ngọn hoắt xếp mau rít, phần thân sau thuôn dài, mình không có vảy, da giống cá giáp(1), sau mang mọc hai cặp vây cánh giúp chúng rời khỏi mặt nước bay lên không trung.
Lúc này, “con cá” đang cắn báng súng gỗ của Tư Mã Khôi, hàm răng sắc nhọn cắn ngập sâu vào trong, nó cố giơ vây giương cánh định bay, nhưng do cắn sâu quá nên chịu chết không thoát ra được. Dù vậy, sức mạnh của nó vẫn rất khủng khiếp, khẩu M-l 887 trong tay Tư Mã Khôi suýt chút nữa đã bị nó lôi xuống nước.
[1] Cá giáp (tên khoa học: Ostracodermi, nghĩa là ‘‘bọc da giáp, bọc da vỏ”, là tên gọi chung để chỉ bất kỳ nhóm cá không hàm (thời nguyên thủy, đã tuyệt chủng) với một số phần nào đó của cơ thể được che phủ bằng một lớp giáp có cấu tạo từ chất xương. Tư Mã Khôi từng xeÂm Sơn Hải Đồ trên đỉnh Vũ Vương, cũng thấy loài cá quái dị với hai cặp vây giống như cánh, thì đoán có lẽ nó là giống cá Lycoptera, một loài thuộc bộ cá rồng, đã tuyệt chủng từ cuối kỷ Phấn trắng, chúng chuyên ẩn mình ở những vùng nước tĩnh dưới lòng đất, có khả năng nhảy vọt khỏi mặt nước săn mồi, tập tính hung tàn khát máu.
Lúc này, anh bỗng nhiên gặp phải một một con cá rồng sờ sờ ngay trước mắt, thì mới biết loài cá này hung hãn, đáng sợ đến thế. Nếu khi nãy anh không kịp thời giơ súng che chắn thì đã bị nó cắn rách một mảng thịt lớn rồi. Tư Mã Khôi gí báng súng xuống đất, gọi Nhị Học Sinh lấy mũi giáo gỗ đâm thủng con cá rồng, rồi dùng hết sức gỡ nó ra.
Thắng Hương Lân thấy cảnh ấy, cô lập tức nảy sinh một dự cảm không lành: “Dưới đáy huyệt động này có loài cá ăn thịt người sinh sống, chứng tỏ nó không phải là vùng nước chết….” Lời còn chưa dứt thì một loạt cá vảy rồng từ vùng nước xa đã “chiu” một cái nhảy vọt lên không trung.
Lúc này, mọi người đã có sự phòng bị trước, nên Hải ngọng lập tức giương súng bóp cò, phạm vi sát thương của đạn số 8 rất lớn, con cá rồng đâm vào họng súng liền tan xác thành mảnh nhỏ ngay tức thì. Lúc này, vô số cá rồng từ đáy nước bơi lên. Những con cá Lycoptera bị dòng nước cuốn trôi xuống đây, chúng bắt phù du làm thức ăn.
Loài cá này đẻ trứng rất nhanh, không ngừng sinh sôi nảy nở thần tốc, trong khi đó số lượng phù du lại có hạn, nên tất cả sinh linh khác trong động đều đã bị chúng tiêu diệt sạch, bởi vậy lúc nào chúng cũng trong trạng thái đói khát cực độ. Giờ đây, chúng tụ tập thành bầy thành đàn bơi trên mặt nước, rồi lao bổ vào hội Tư Mã Khôi tấn công như vũ bão.
Mọi người đang đứng trên gốc cây ẩm ướt, chật chội, tứ bề trống trải, chỉ thấy bọn cá Lycoptera bay vù vù đến từ bốn phía. Sự cố xảy ra quá bất ngờ, cả hội chỉ còn biết gắng sức phòng ngự, con ở xa thì bắn, con ở gần thì chặn lại bằng báng súng. Cao Tư Dương không hổ danh là xạ thủ bách phát bách trúng, cô liên tiếp hạ gục mấy con cá bay ăn thịt người.
Cao Tư Dương đang chuẩn bị nạp thêm đạn, thì phát hiện có thứ gì đâm sầm sau lưng, trọng lượng ba lô tăng lên đột biến. Cô đổ nhào người về phía trước, suýt chút trượt chân xuống nước, quay đầu lại nhìn thì thấy hai con cá đang giằng xé ba lô của cô, thân mình chúng ngoáy loạn xạ, nhất quyết không chịu nhả ra, trong mồm chúng liên tục phát ra những hỗn âm đáng sợ.
Tư Mã Khôi phát hiện Cao Tư Dương gặp nguy cấp, anh tiện tay rút dao săn chém mạnh xuống, lập tức phanh thây hai con cá ăn thịt người thành bốn mảnh, nhưng cũng lúc này anh lại bị lộ sơ hở. Tư Mã Khôi chỉ cảm thấy cánh tay nhói một cái; tuy anh tránh né rất mau lẹ, nhưng con cá rồng thần tốc liệng bên cạnh vẫn kịp xé rách một miếng thịt, máu chảy ra không ngớt.
Tư Mã Khôi đang bận giao chiến với lũ cá rồng, không còn thời gian để ý vết thương. Máu tươi của cá Lycoptera và máu người hòa trộn vào nhau, phút chốc đã nhuốm đỏ nửa quãng mặt nước. Mọi người còn định dùng lại cách cũ, dùng lửa đuốc giải vây, ngặt nỗi không khí trong động vô cùng ẩm ướt, vả lại sinh vật sống dưới nước chưa bao giờ sợ lửa, nếu chỉ dựa vào lửa và súng thì không thể ngăn cản được thế tấn công của chúng.
Đúng lúc này, Tư Mã Khôi bỗng nhiên thấy mắt mình tối sầm lại, không rõ đèn quặng gắn trên mũ Pith Helmet bị thứ gì che mất ánh sáng. Anh lấy tay lau, thấy tay mình dính một thứ dịch ẩm ướt, dấp dính, đỏ tươi như máu. Anh thầm nghĩ chắc phải có một lượng máu rất lớn rơi từ trên cao xuống đây.
Càng nghĩ Tư Mã Khôi càng kinh hãi: “Sao trên đó có nhiều máu thế nhỉ?”. Anh nghiêng người né tránh một con cá bay ăn thịt người đang nhào tới trước mặt, thuận thế ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy trong bóng tối hun hút có một vật thể khổng lồ nằm vắt ngang thân mình ở trên cao.
Nó thò cái đầu hình tam giác, nom vừa giống đầu mãng xà lại vừa giống đầu kì nhông, đầu to đuôi nhỏ, mình dẹt, bốn chân thô ráp lực lưỡng. Nó sở hữu tất cả đặc điểm nổi bật của động vật bò sát, có điều Tư Mã Khôi vẫn chưa nhận ra nó thuộc nhóm nào trong nhóm thằn lằn giun, thằn lằn Eryops hay nhóm giáp đầu cá, vì tuy nó vẫn còn sống nhưng khắp người nhầy nhụa máu tươi, già nửa xương hàm và bộ răng sắc nhọn lởm chởm.
Thâin hình đồ sộ của nó trông có vẻ giống với loài giáp đầu cá hơn. Con giáp đầu cá có bộ răng cấu tạo hình mê lộ này có lẽ đã trườn qua khe đá, lớ ngớ thế nào chui ngay xuống đáy động, rồi không may bị bọn cá bay Lycoptera tấn công. May nhờ lớp da cứng như thép nguội, nên nó mới không bị ăn tươi nuốt sống thành bộ xương trắng, đồng thời còn kịp trèo lên cây cao lánh nạn.
Tuy nó tạm thời thoát khỏi vòng truy đuổi, nhưng vết thương quá nặng, nên có lẽ không sống nổi mấy khắc nữa. Có điều, bọn cổ sinh vật toàn một lũ đầu óc ngu si, tứ chi phát triển. Nó đang đói đỏ mắt, lúc này lại trông thấy có người ngang qua, liền bám bốn chân vào dây leo, thò người xuống dưới.
Máu tươi chảy ròng ròng từ cái đầu hình tam giác chỉ còn sót lại một nửa, xuống mũ Pith Helmet của Tư Mã Khôi, nên trong chốc lát, cả chiếc mũ đã bị nhuốm đỏ. Tư Mã Khôi đột nhiên mặt đối mặt với con cá giáp đầu, chỗ vòng sáng ánh đèn quặng rọi đến chính là đám xương hàm nhoe nhoét máu, còn bộ răng sắc nhọn kết cấu mê lộ cách anh chưa đầy nửa mét.
Trong lúc hốt hoảng, Tư Mã Khôi không kịp suy nghĩ gì, lập tức rút khẩu M-1887 trong tay ra bắn liên thanh mấy phát. Bóng tối mịt mùng bủa vây, dây leo che chắn chằng chịt, anh cũng không rõ mình bắn trúng chỗ nào trên người nó, chỉ thấy cả cơ thể khổng lồ của con giáp đầu cá lật nhào xuống đất, giãy giụa rồi chìm nhanh xuống nước.
Cái đuôi to dài và đầy sức mạnh quét ngang qua gốc cây, khiến Tư Mã Khôi ngã lộn đầu xuống. Cả gốc cây to một người ôm không xuể bị nó quật đứt đôi. Bầy cá Lycoptera gần đó cũng hoảng sợ tản ra tứ phía. Nhân cơ hội này, Hải ngọng lần sờ sợi dây thừng gắn móc câu dắt sau người, quăng lên trụ đá.
Nhờ mọi người yểm trợ, anh gắng giật dây thừng, khiến gốc cây bị gãy dưới chân di chuyển dần về phía bệ đá. Mọi người vượt sông lên mặt đất. Lúc này, cả hội đã có trụ đá sừng sững làm điểm tựa, thêm vào đó, dẫu bọn cá Lycoptera biết bay, nhưng chướng ngại vật với kết cấu phức tạp xung quanh cũng khiến khả năng tấn công của chúng bi hạn chế đi rất nhiều.
Bởi vậy, mọi người cũng tạm thời an toàn hơn đôi chút. Mọi người tựa vào cột đá thở hổn hển, nghe văng vẳng bên tai tiếng giãy giụa đạp nước trong bóng tối, con cá giáp đầu dài năm, sáu mét, nặng chừng nửa tấn nhanh chóng bị bầy cá gặm thành bộ xương, chắc chẳng còn lấy nửa miếng thịt, cứ nghĩ đến cảnh tượng đó mà mặt mày ai nấy tái mét như sắp chết.
Không ai dám thò đầu nhìn xuống. Vết thương trên cánh tay Tư Mã Khôi tuy chảy máu khá nhiều nhưng chưa sâu đến tận xương, coi như số anh vẫn còn may chán. Anh để Cao Tư Dương băng bó sơ cứu, rồi sau đó có thể cử động như bình thường. Hải ngọng nói: “Vết thương bé tí thế kia thì ăn thua gì, chẳng qua giống muỗi cắn ấy mà.
Nếu khi nãy cậu rơi xuống nước thật thì bây giờ đã thành chồn quay, trụi mẹ cả lông lẫn tóc rồi!” Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi bình an vô sự thì thở phào nhẹ nhõm. Cô vặn nắp bình nước quân dụng, rửa vết máu dính trên cổ áo và mũ Pith Helmet của Tư Mã Khôi. Trong lúc đó, Tư Mã Khôi vẫn để ý quan sát bệ đá, anh phát hiện, bên cạnh bệ đá có một vật thể cấu tạo hình cây bằng đồng, trông có vẻ loang lổ, cũ kỹ.
Trên mỗi cành lại cắm một vật trông to như cái chum lớn, trên thân chum đúc lỗ mẫu tử, trang trí họa tiết rồng phượng. Tư Mã Khôi từng nhìn thấy vật này trong bích họa, anh biết đây chính là đèn đồng chuyên dùng soi sáng dưới lòng đất, thời cổ gọi là “đèn chiếu u”. Tư Mã Khôi lập tức đứng dậy, rút nắp đồng trên lỗ mẫu tử, gí đuốc vào thử xem đèn còn phát sáng được nữa hay không.
Nghe nói, thời Xuân Thu Chiến Quốc có một loại nhiên liệu thắp sáng quanh năm không tắt, gọi là “long tùy”, loại dầu này được đổ vào đèn đồng chiếu u, loại đèn chuyên dùng cho các vương hầu xây dựng lăng tẩm dưới lòng đất, nó còn hiếm hơn cả nước mắt người cá rơi xuống đất kết thành ngọc, có điều nguồn gốc và thành phần thực sự thì từ lâu đã không còn ai biết nữa.
Có lẽ, trong chiếc đèn đồng hình cây chứa loại dầu long tủy này. Lúc này, sau khi được mồi lửa, nó lập tức bốc cháy phừng phừng, ánh sáng rực rỡ khác thường, soi rõ phạm vi hơn mấy chục bước. Khung cảnh trước mắt bỗng dưng vụt sáng, cả hội thấy mấy trụ đá ngay bên cạnh đúng là bàn tay xòe ra và hướng lên cao của con thú đá nào đó, ngọn đèn đồng hình cây, cao chừng sáu bảy mét, cũng chỉ là vật nằm trong tay nó.
Thật khó tưởng tượng nổi thân mình con thú khổng lồ này to đến mức nào. Tư Mã Khôi đứng cạnh cây đèn đồng, anh thò tay ra sờ vách đá lạnh lẽo, rồi chăm chú quan sát và phát hiện: đó chính là chiếc hộp đá chữ nhật khắc đầy những hình thù ma quái, nó như quả núi đè nặng trên thân con thú đá ôm cây đèn đồng.
Anh thầm nghĩ, chẳng lẽ là “phi đầu man” chăng? Năm xưa, trong rừng rậm Miến Điện, nhiều dân địa phương đã cắt thủ cấp của tù binh, rồi cắm sọ người chết lên một cọc nhọn để nó phong hóa. Nghe nói, những chiếc sọ người này thường bay đi cắn người vào ban đêm, nên ngay cả bọn thực dân Anh Pháp nghe nhắc đến nó cũng phải tái mặt, thế nhưng thời kì Sở quốc cổ vẫn chưa tồn tại truyền thuyết về phi đầu man.
Cao Tư Dương chưa xác định rõ mục tiêu thì không bao giờ tùy tiện nổ súng. Từ trước đến giờ cô không tin những chuyện ma quỷ, nhưng vật vừa xuất hiện rõ mồn một khi nãy đã khiến cô không biết giải thích thế nào. Lúc này, ba người còn lại cũng lần lượt tụt dây trèo xuống, sau khi nghe kể, ai nấy đều kinh ngạc tột độ.
Tư Mã Khôi vẫn chưa nhìn kỹ vật đó trông thế nào, liền bảo Nhị Học Sinh châm lửa thắp sáng ngọn đuốc, đoạn quay sang dặn mọi người, nơi đây không có người, vì vậy chỉ cần phát hiện tình hình bất ổn là có thể lập tức nổ súng. Bây giờ, chúng ta đã có súng và lửa phòng thân, nếu quả thực có thứ gì không sạch sẽ, thì nó cũng phải biết điều lùi lại ba bước.
Mọi người không dám lơ là, dò dẫm từng bước xuống đáy huyệt động, nơi có pho tượng điêu khắc mặt quỷ, để soi đèn cácbua thám thính. Huyệt động này dường như là hố tế lễ, đường kính rộng cả trăm mét, độ sâu cũng tầm trên dưới trăm mét, quy mô khá rộng lớn. Có điều, màn sương mỏng trong động giăng mắc mênh mông, không khí tràn ngập cảm giác âm u, tà mị.
Đáy hố vô cùng rộng rãi, dây leo quấn quýt bám chặt vách động, ven rìa toàn là vũng tù sâu hút, pho tượng điêu khắc cao lớn sừng sững nhìn xa xăm về phía đối diện, tựa như thể nó đang âm thầm lặng lẽ bảo vệ một vật gì đó trong bóng tối quánh đặc. Các đồ vật bằng vàng, ngọc hoặc đồng xanh đủ mọi hình thù vương vãi khắp nơi, dưới chân cũng có những phiến đá khắc hoa văn mây cuốn, nhưng bọn Tư Mã khôi không thể nhận dạng nó rốt cuộc là vật gì.
Nhị Học Sinh thấy hai mắt như không đủ dùng, bởi dường như sau mỗi vết tích vô cùng nhỏ bé lại đều ẩn chứa một bí mật ảo diệu vô cùng tận, anh chàng bất giác than: “Sở quốc đã diệt vong hơn hai ngàn năm, những cổ vật này đều bị ngủ quên dưới lòng đất, đúng là trách mình mau thịnh, trách người chóng suy mà….” Hải ngọng cũng cảm khái: “Cánh tay có to khỏe đến đâu cũng chẳng thể ngăn được bánh xe lịch sử lăn về phía trước.
Chú đừng ngồi đấy lo bò trắng răng nữa”. Đoạn anh quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Chẳng phải cậu bảo huyệt động này thông thẳng xuống mạch đất à? Sao… sao chưa gì đã thấy đến đáy thế này?” Tư Mã Khôi nhướn mắt nhìn tứ phía, xung quanh tuy vẫn có chút ánh sáng yếu ớt phát ra từ những hợp chất hữu cơ, nhưng tầm nhìn vẫn vô cùng hạn chế, còn đèn quặng chỉ đủ soi sáng một một vạt, nếu lờ dờ dò dẫm tìm kiếm, thì không biết bao lâu mới biết rõ tình hình phải đối mặt lúc này, nhưng ngay bây giờ anh cũng không có cách gì khác, đành bảo Hải ngọng: “Chắc còn có huyệt động khác thông tới nơi sâu hơn.
Chúng ta thà nghi lầm chứ không thể bỏ sót, trước tiên phải nắm rõ địa hình đã “ Mọi người thấy ven rìa đáy động phần lớn đã ngập trong nước tù, bởi vậy cả hội chỉ có thể giẫm lên cây, đi vào giữa. Chưa đi được mấy bước, họ đã thấy trong mặt nước trước mắt lộ ra những vật hình trụ vô cùng kì dị.
Trụ đá trên nhọn, dưới to, dài ngắn, cao thấp khác nhau, nhưng mỗi trụ đều to bằng cả một vòng tay, bề mặt khắc hoa văn vảy giáp, trình độ điêu khắc vô cùng tinh tế, các trụ đá bao quanh một bệ đá, ngoài ra còn có hai con kì lân nét mặt hung ác men cột bò xuống. Tư Mã Khôi vừa soi đèn quặng vừa nghĩ thầm: “Mấy trụ đá này hình thù rất kì quái, như thể đó là móng vuốt của một pho tượng thú khổng lồ nào đó.
Pho tượng lại chìm quá nửa dưới nước, thể tích to lớn kinh người, nên phạm vi chiếu sáng của đèn quặng và lửa đuốc đứng trước nó cũng nhỏ bé chẳng khác nào ánh sáng đom đóm….” Lúc này, trên mặt nước im lìm bỗng nhiên khuấy động một làn sóng nhẹ. Anh lập tức cúi sát đầu nhìn, chỉ thấy dưới đáy nước có một người đang ngẩng mặt nhìn anh chằm chằm.
Nước ngầm dưới lòng đất trong vắt, nhưng vì nằm trong địa động không bao giờ nhìn thấy ánh sáng ban ngày nên nó trông càng u tối và sâu thẳm hơn. Tư Mã Khôi biết, cái bóng bập bềnh dưới nước chắc chắn không phải bóng mình. Anh bất giác cúi thấp người, chậm chạp tiến gần mặt nước, định bụng quan sát cho rõ hơn.
Hình dạng cái đầu càng lúc càng rõ nét hơn nó giống như một người lùn màu trắng, nhưng chỉ thấy phần đầu chứ không thấy tứ chi, trông rất giống với cái đầu mà anh thấy trôi dập dềnh sau rặng dây leo khi nãy. Cái đầu bỗng nhiên há ngoác miệng, rồi nhảy vọt từ đáy nước lên không trung, lao bổ vào mặt Tư Mã Khôi.
Tư Mã Khôi không ngờ vật dưới nước lại biết bay, anh kinh hãi thất sắc, bởi tình thế cấp bách, trong lúc vội vã không kịp nghiêng người né tránh, Tư Mã Khôi đành giương khẩu súng M-1887, cuống quýt giơ báng súng ra đỡ trước mặt, và chỉ nghe “sột” một tiếng, như thể hàm răng sắc nhọn đang liên tiếp cắn vào báng súng gỗ.
Mọi người nghe động tĩnh, mới phát hiện có một thứ màu trắng bám trên báng súng của Tư Mã Khôi. Vật thể đó hao hao giống sọ người chết, từa tựa như cá, phần đầu giống sọ của người lùn, miệng rộng mang ngắn, trong mồm có vô số răng nhỏ ngọn hoắt xếp mau rít, phần thân sau thuôn dài, mình không có vảy, da giống cá giáp(1), sau mang mọc hai cặp vây cánh giúp chúng rời khỏi mặt nước bay lên không trung.
Lúc này, “con cá” đang cắn báng súng gỗ của Tư Mã Khôi, hàm răng sắc nhọn cắn ngập sâu vào trong, nó cố giơ vây giương cánh định bay, nhưng do cắn sâu quá nên chịu chết không thoát ra được. Dù vậy, sức mạnh của nó vẫn rất khủng khiếp, khẩu M-l 887 trong tay Tư Mã Khôi suýt chút nữa đã bị nó lôi xuống nước.
[1] Cá giáp (tên khoa học: Ostracodermi, nghĩa là ‘‘bọc da giáp, bọc da vỏ”, là tên gọi chung để chỉ bất kỳ nhóm cá không hàm (thời nguyên thủy, đã tuyệt chủng) với một số phần nào đó của cơ thể được che phủ bằng một lớp giáp có cấu tạo từ chất xương. Tư Mã Khôi từng xeÂm Sơn Hải Đồ trên đỉnh Vũ Vương, cũng thấy loài cá quái dị với hai cặp vây giống như cánh, thì đoán có lẽ nó là giống cá Lycoptera, một loài thuộc bộ cá rồng, đã tuyệt chủng từ cuối kỷ Phấn trắng, chúng chuyên ẩn mình ở những vùng nước tĩnh dưới lòng đất, có khả năng nhảy vọt khỏi mặt nước săn mồi, tập tính hung tàn khát máu.
Lúc này, anh bỗng nhiên gặp phải một một con cá rồng sờ sờ ngay trước mắt, thì mới biết loài cá này hung hãn, đáng sợ đến thế. Nếu khi nãy anh không kịp thời giơ súng che chắn thì đã bị nó cắn rách một mảng thịt lớn rồi. Tư Mã Khôi gí báng súng xuống đất, gọi Nhị Học Sinh lấy mũi giáo gỗ đâm thủng con cá rồng, rồi dùng hết sức gỡ nó ra.
Thắng Hương Lân thấy cảnh ấy, cô lập tức nảy sinh một dự cảm không lành: “Dưới đáy huyệt động này có loài cá ăn thịt người sinh sống, chứng tỏ nó không phải là vùng nước chết….” Lời còn chưa dứt thì một loạt cá vảy rồng từ vùng nước xa đã “chiu” một cái nhảy vọt lên không trung.
Lúc này, mọi người đã có sự phòng bị trước, nên Hải ngọng lập tức giương súng bóp cò, phạm vi sát thương của đạn số 8 rất lớn, con cá rồng đâm vào họng súng liền tan xác thành mảnh nhỏ ngay tức thì. Lúc này, vô số cá rồng từ đáy nước bơi lên. Những con cá Lycoptera bị dòng nước cuốn trôi xuống đây, chúng bắt phù du làm thức ăn.
Loài cá này đẻ trứng rất nhanh, không ngừng sinh sôi nảy nở thần tốc, trong khi đó số lượng phù du lại có hạn, nên tất cả sinh linh khác trong động đều đã bị chúng tiêu diệt sạch, bởi vậy lúc nào chúng cũng trong trạng thái đói khát cực độ. Giờ đây, chúng tụ tập thành bầy thành đàn bơi trên mặt nước, rồi lao bổ vào hội Tư Mã Khôi tấn công như vũ bão.
Mọi người đang đứng trên gốc cây ẩm ướt, chật chội, tứ bề trống trải, chỉ thấy bọn cá Lycoptera bay vù vù đến từ bốn phía. Sự cố xảy ra quá bất ngờ, cả hội chỉ còn biết gắng sức phòng ngự, con ở xa thì bắn, con ở gần thì chặn lại bằng báng súng. Cao Tư Dương không hổ danh là xạ thủ bách phát bách trúng, cô liên tiếp hạ gục mấy con cá bay ăn thịt người.
Cao Tư Dương đang chuẩn bị nạp thêm đạn, thì phát hiện có thứ gì đâm sầm sau lưng, trọng lượng ba lô tăng lên đột biến. Cô đổ nhào người về phía trước, suýt chút trượt chân xuống nước, quay đầu lại nhìn thì thấy hai con cá đang giằng xé ba lô của cô, thân mình chúng ngoáy loạn xạ, nhất quyết không chịu nhả ra, trong mồm chúng liên tục phát ra những hỗn âm đáng sợ.
Tư Mã Khôi phát hiện Cao Tư Dương gặp nguy cấp, anh tiện tay rút dao săn chém mạnh xuống, lập tức phanh thây hai con cá ăn thịt người thành bốn mảnh, nhưng cũng lúc này anh lại bị lộ sơ hở. Tư Mã Khôi chỉ cảm thấy cánh tay nhói một cái; tuy anh tránh né rất mau lẹ, nhưng con cá rồng thần tốc liệng bên cạnh vẫn kịp xé rách một miếng thịt, máu chảy ra không ngớt.
Tư Mã Khôi đang bận giao chiến với lũ cá rồng, không còn thời gian để ý vết thương. Máu tươi của cá Lycoptera và máu người hòa trộn vào nhau, phút chốc đã nhuốm đỏ nửa quãng mặt nước. Mọi người còn định dùng lại cách cũ, dùng lửa đuốc giải vây, ngặt nỗi không khí trong động vô cùng ẩm ướt, vả lại sinh vật sống dưới nước chưa bao giờ sợ lửa, nếu chỉ dựa vào lửa và súng thì không thể ngăn cản được thế tấn công của chúng.
Đúng lúc này, Tư Mã Khôi bỗng nhiên thấy mắt mình tối sầm lại, không rõ đèn quặng gắn trên mũ Pith Helmet bị thứ gì che mất ánh sáng. Anh lấy tay lau, thấy tay mình dính một thứ dịch ẩm ướt, dấp dính, đỏ tươi như máu. Anh thầm nghĩ chắc phải có một lượng máu rất lớn rơi từ trên cao xuống đây.
Càng nghĩ Tư Mã Khôi càng kinh hãi: “Sao trên đó có nhiều máu thế nhỉ?”. Anh nghiêng người né tránh một con cá bay ăn thịt người đang nhào tới trước mặt, thuận thế ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy trong bóng tối hun hút có một vật thể khổng lồ nằm vắt ngang thân mình ở trên cao.
Nó thò cái đầu hình tam giác, nom vừa giống đầu mãng xà lại vừa giống đầu kì nhông, đầu to đuôi nhỏ, mình dẹt, bốn chân thô ráp lực lưỡng. Nó sở hữu tất cả đặc điểm nổi bật của động vật bò sát, có điều Tư Mã Khôi vẫn chưa nhận ra nó thuộc nhóm nào trong nhóm thằn lằn giun, thằn lằn Eryops hay nhóm giáp đầu cá, vì tuy nó vẫn còn sống nhưng khắp người nhầy nhụa máu tươi, già nửa xương hàm và bộ răng sắc nhọn lởm chởm.
Thâin hình đồ sộ của nó trông có vẻ giống với loài giáp đầu cá hơn. Con giáp đầu cá có bộ răng cấu tạo hình mê lộ này có lẽ đã trườn qua khe đá, lớ ngớ thế nào chui ngay xuống đáy động, rồi không may bị bọn cá bay Lycoptera tấn công. May nhờ lớp da cứng như thép nguội, nên nó mới không bị ăn tươi nuốt sống thành bộ xương trắng, đồng thời còn kịp trèo lên cây cao lánh nạn.
Tuy nó tạm thời thoát khỏi vòng truy đuổi, nhưng vết thương quá nặng, nên có lẽ không sống nổi mấy khắc nữa. Có điều, bọn cổ sinh vật toàn một lũ đầu óc ngu si, tứ chi phát triển. Nó đang đói đỏ mắt, lúc này lại trông thấy có người ngang qua, liền bám bốn chân vào dây leo, thò người xuống dưới.
Máu tươi chảy ròng ròng từ cái đầu hình tam giác chỉ còn sót lại một nửa, xuống mũ Pith Helmet của Tư Mã Khôi, nên trong chốc lát, cả chiếc mũ đã bị nhuốm đỏ. Tư Mã Khôi đột nhiên mặt đối mặt với con cá giáp đầu, chỗ vòng sáng ánh đèn quặng rọi đến chính là đám xương hàm nhoe nhoét máu, còn bộ răng sắc nhọn kết cấu mê lộ cách anh chưa đầy nửa mét.
Trong lúc hốt hoảng, Tư Mã Khôi không kịp suy nghĩ gì, lập tức rút khẩu M-1887 trong tay ra bắn liên thanh mấy phát. Bóng tối mịt mùng bủa vây, dây leo che chắn chằng chịt, anh cũng không rõ mình bắn trúng chỗ nào trên người nó, chỉ thấy cả cơ thể khổng lồ của con giáp đầu cá lật nhào xuống đất, giãy giụa rồi chìm nhanh xuống nước.
Cái đuôi to dài và đầy sức mạnh quét ngang qua gốc cây, khiến Tư Mã Khôi ngã lộn đầu xuống. Cả gốc cây to một người ôm không xuể bị nó quật đứt đôi. Bầy cá Lycoptera gần đó cũng hoảng sợ tản ra tứ phía. Nhân cơ hội này, Hải ngọng lần sờ sợi dây thừng gắn móc câu dắt sau người, quăng lên trụ đá.
Nhờ mọi người yểm trợ, anh gắng giật dây thừng, khiến gốc cây bị gãy dưới chân di chuyển dần về phía bệ đá. Mọi người vượt sông lên mặt đất. Lúc này, cả hội đã có trụ đá sừng sững làm điểm tựa, thêm vào đó, dẫu bọn cá Lycoptera biết bay, nhưng chướng ngại vật với kết cấu phức tạp xung quanh cũng khiến khả năng tấn công của chúng bi hạn chế đi rất nhiều.
Bởi vậy, mọi người cũng tạm thời an toàn hơn đôi chút. Mọi người tựa vào cột đá thở hổn hển, nghe văng vẳng bên tai tiếng giãy giụa đạp nước trong bóng tối, con cá giáp đầu dài năm, sáu mét, nặng chừng nửa tấn nhanh chóng bị bầy cá gặm thành bộ xương, chắc chẳng còn lấy nửa miếng thịt, cứ nghĩ đến cảnh tượng đó mà mặt mày ai nấy tái mét như sắp chết.
Không ai dám thò đầu nhìn xuống. Vết thương trên cánh tay Tư Mã Khôi tuy chảy máu khá nhiều nhưng chưa sâu đến tận xương, coi như số anh vẫn còn may chán. Anh để Cao Tư Dương băng bó sơ cứu, rồi sau đó có thể cử động như bình thường. Hải ngọng nói: “Vết thương bé tí thế kia thì ăn thua gì, chẳng qua giống muỗi cắn ấy mà.
Nếu khi nãy cậu rơi xuống nước thật thì bây giờ đã thành chồn quay, trụi mẹ cả lông lẫn tóc rồi!” Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi bình an vô sự thì thở phào nhẹ nhõm. Cô vặn nắp bình nước quân dụng, rửa vết máu dính trên cổ áo và mũ Pith Helmet của Tư Mã Khôi. Trong lúc đó, Tư Mã Khôi vẫn để ý quan sát bệ đá, anh phát hiện, bên cạnh bệ đá có một vật thể cấu tạo hình cây bằng đồng, trông có vẻ loang lổ, cũ kỹ.
Trên mỗi cành lại cắm một vật trông to như cái chum lớn, trên thân chum đúc lỗ mẫu tử, trang trí họa tiết rồng phượng. Tư Mã Khôi từng nhìn thấy vật này trong bích họa, anh biết đây chính là đèn đồng chuyên dùng soi sáng dưới lòng đất, thời cổ gọi là “đèn chiếu u”. Tư Mã Khôi lập tức đứng dậy, rút nắp đồng trên lỗ mẫu tử, gí đuốc vào thử xem đèn còn phát sáng được nữa hay không.
Nghe nói, thời Xuân Thu Chiến Quốc có một loại nhiên liệu thắp sáng quanh năm không tắt, gọi là “long tùy”, loại dầu này được đổ vào đèn đồng chiếu u, loại đèn chuyên dùng cho các vương hầu xây dựng lăng tẩm dưới lòng đất, nó còn hiếm hơn cả nước mắt người cá rơi xuống đất kết thành ngọc, có điều nguồn gốc và thành phần thực sự thì từ lâu đã không còn ai biết nữa.
Có lẽ, trong chiếc đèn đồng hình cây chứa loại dầu long tủy này. Lúc này, sau khi được mồi lửa, nó lập tức bốc cháy phừng phừng, ánh sáng rực rỡ khác thường, soi rõ phạm vi hơn mấy chục bước. Khung cảnh trước mắt bỗng dưng vụt sáng, cả hội thấy mấy trụ đá ngay bên cạnh đúng là bàn tay xòe ra và hướng lên cao của con thú đá nào đó, ngọn đèn đồng hình cây, cao chừng sáu bảy mét, cũng chỉ là vật nằm trong tay nó.
Thật khó tưởng tượng nổi thân mình con thú khổng lồ này to đến mức nào. Tư Mã Khôi đứng cạnh cây đèn đồng, anh thò tay ra sờ vách đá lạnh lẽo, rồi chăm chú quan sát và phát hiện: đó chính là chiếc hộp đá chữ nhật khắc đầy những hình thù ma quái, nó như quả núi đè nặng trên thân con thú đá ôm cây đèn đồng.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.