Quyển 2 - Chương 25: Hồi bảy: Dòng sông không có điểm tận cùng
Thiên Hạ Bá Xướng
02/11/2016
Cơ quan cảm ứng của sinh vật dưới lòng đất nhạy bén hơn loài người rất nhiều. Loài rắn chuột nằm rình mồi trong hang động đá vôi dường như đều cảm thấy đại nạn sắp giáng xuống đầu, nên chúng thục mạng chạy trốn ra ngoài. Trong khi đó, mọi người vẫn chưa biết sắp xảy ra biến cố gì, mãi cho đến khi Tư Mã Khôi vứt cuộn ô bát liên lên cao, nhờ luồng sáng phát ra từ pháo tín hiệu, mọi người mới nhìn thấy ở nơi xa mãi sâu trong lòng động xuât hiện màn bụi đen khổng lồ dày đặc như một bức tường.
Do tia sáng quá nhạt mà khoảng cách lại xa, nên cả đội chỉ cảm thấy dường như đó là màn bụi đen mịt mù, vô cùng vô tận, chất liệu thô nặng, chìm lắng. Nó đậm đặc hơn khói sương thông thường nhiều lần, mật độ lại lớn, tựa hồ một bức tường thành đang chuyển động, bên trong còn kẹp lẫn những lằn sét lóe sáng và tiếng rền vang như sấm dội. Bức tường thành đang lao vùn vụt về phía mọi người với tốc độ kinh hồn.
Cuộn ô bát liên rơi trên mặt đất vẫn đang tiếp tục cháy sáng, nhưng khi vừa mới chạm vào đám bụi đen thì ánh lửa lập tức bị bóng tối nuốt chửng, phàm sinh vật nào rơi vào trong đó cũng đều biến mất, bặt vô âm tín, tựa hồ như thể bị phân giải trong bóng tối chỉ trong khoảnh khắc vậy.
Mọi người nhìn mà dựng hết tóc gáy, thứ vật chất bụi bặm màu đen tích tụ giống như bức tường kia, mang theo từ tính và phong áp rất mãnh liệt, tuy chưa đến gần nhưng nó bắt đầu khiến đầu óc người ta ong ong. Vật chất phân rã dưới lòng đất và khí gas axít cacbonic là những uy hiếp lớn nhất đối với đội thám hiểm; nhưng những loại vật chất thể khí đó phần lớn đều bị trầm tích bất động ở những khu vực khép kín, nên tuyệt đối không thể hình thành sấm dội. Cổ nhân gọi thứ vật chất này là “bức tường chết”, người hiện đại có lẽ cũng không thể tìm ra tên gọi nào phù hợp hơn dành cho nó, bởi vì loại vật chất hắc ám xuất hiện dưới lòng đất kia đã hoàn toàn vượt xa phạm trù nhận thức từ trước đến nay của loài người.
Tư Mã Khôi am hiểu cổ thuật tướng vật, thấy tình hình này, anh lập tức nhớ đến một thuyết cũ: tương truyền dưới lòng đất có hắc khôi, tức là lớp tro bụi màu đen, đó khác, rồi lớp canxi càng tích tụ càng lớn, đã tạo nên lớp vỏ rất mịn màng nhẵn nhụi và đặc biệt láng bóng.
Tuy rằng từng chuỗi sấm rền văng vẳng càng lúc càng lùi xa sau lưng, nhưng hội Tư Mã Khôi lại phát hiên cái dốc này quá sâu, tay trơn tuột khỏi vách đá, muốn dừng cũng không thể dừng được, nên đành trượt xuôi theo vách đá trân châu lồi lõm xuống tận khu vực đáy động. Cả đội hoàn toàn không thể dự tính được địa hình phía dưới thế nào, vì với tốc độ trượt nhanh như tên bắn thế này mà bên dưới lại là nhũ đá, thì thân thể nếu không bị xuyên táo như thịt xiên thì cũng khó tránh khỏi xương cốt gãy lìa.
Đúng lúc nơm nớp lo lắng chưa biết lành dữ thế nào, thì mọi người đột nhiên nghe thấy tiếng nước chảy róc rách. Thì ra vách đá trân châu này vươn dài mãi xuống lòng sông ngầm nằm rất sâu dưới lòng đất. Hội Tư Mã Khôi rơi xuống bờ cát thì dừng lại, người nào người nấy đều xây xước, bầm tím, không ai biết mình đang ở nơi nào.
Tư Mã Khôi rút ngọn đuốc cuối cùng, châm lửa và giơ cao trên tay. Nhờ ánh sáng bập bùng, mọi người có thể thăm dò xung quanh, chỉ thấy dưới lòng sông toàn là tầng nham thạch nhuộm cát vàng, ánh lên lấp lánh dưới ánh lửa lập lòe. Trong sông ngầm trôi nổi vô sô loài phù du và bọ gậy, mặt sông đen ngòm, sâu hút toàn là xoáy nước, xem ra phía dưới chắc chắn có mạch ngầm chảy xiết. Rất khó phân biệt dòng sông này chảy theo hướng nào, chỉ thấy phía xa liên tục nhấp nháy những đốm lửa ma trơi bất định.
Hải ngọng kiểm tra tình trạng của giáo sư rồi nói với Tư Mã Khôi: “Ông bác già trượt từ tít trên cao kia xuống, mông đít sắp bị mài nhẵn đến nơi rồi, tớ thấy chỗ này thế tựa vào sông, có thể tiến cũng có thể lui, hay ta để ông bác nghỉ ngơi ở đây một lát nhé!”
Tư Mã Khôi vẫn không dám lơi lỏng cảnh giác, dòng sông ngầm dưới lòng đất này, không khéo chẳng có ai lai vãng từ thưở hồng hoang hỗn độn cũng nên, nên chỉ có trời mới biết chỗ này ẩn nấp thứ gì, anh bảo mọi người: “Ở đây nhất định có xác chết sinh vật bị phân hủy, nên mới sản sinh ra phốt pho, nhưng ánh lửa ma trơi lại xuất hiện quá nhiều, nên chắc chắn không thể bình yên vô sự được đâu, chúng ta phải qua đó xem cho rõ đã rồi mới nói tiếp được.”
Thắng Hương Lân cũng có cảm giác bất an: “Tôi nghe thấy dường như có âm thanh kỳ lạ từ trên cao vọng xuống….”
Tư Mã Khôi gật đầu, bảo mọi người hãy giữ vững tinh thần cảnh giác cao độ, tiết kiệm nguồn nhiên liệu, cố gắng giảm thiểu sử dụng đèn quặng, không ai được phép ra khỏi phạm vi chiếu sáng của bó đuốc. Sau đó, anh kiểm tra lại súng trường, thấy không có gì hỏng hóc, mới dẫn mọi người đi về nơi phát ra ánh lửa lập lòe.
Mọi người chưa đi được nửa đường, thì ngửi thấy một mùi vô cùng hôi thối, đến nỗi phải lấy khăn tay ra bịt mũi. Trong bóng tối, chốc lát lại có luồng gió, với âm thanh không xác định, đột ngột quét qua, giống như thể một vật gì đó vụt lướt trước mặt với tốc độ cực cao, phả ra luồng gió thổi ánh lửa chập chờn lúc sáng lúc tối. Cả đội tiếp tục đi về phía trước, khắp nơi trên mặt đất vương vãi toàn đá vụn và lớp vỏ Silicon hóa thạch. Thì ra, bệ Silicon rơi từ trên cao xuống đều đáp xuống dòng sông ngầm này, chỉ duy chiếc quan tài đầu rắn mình dê là vẫn nguyên lành không hề bị hư hại gì, có điều nắp quan tài không còn nữa, lòng quan tài mở toang hoang, có thể trực tiếp nhìn thấy hài cốt người chết nằm bên trong.
Tư Mã Khôi cảm thấy kỳ lạ, anh lại gần quan sát, mới phát hiện khe hở quan tài có lỗ gió, nó đóng vai trò làm giảm vận tốc rơi và cường độ va chạm. Người Lâu Lan cổ đúng là liệu việc như thần, họ biết cổ mộ Hắc Môn kiểu gì cũng có ngày bị phá hủy, nếu bọn thô tặc nào ý đồ kinh động đến giấc ngủ ngàn thu của tiên vương, thì chiếc quan tài sẽ chìm xuống đáy hàn sơn dưới âm tuyền, mang theo cả tên thổ tặc mở nắp quan tài xuống vực và trở thành tế vật sống tuẫn táng cho tiên vương.
Moi người đều rất hiếu kỳ, không biết thi hài của vua Lâu Lan hai ngàn năm trước trông thế nào, nếu cứ tuân theo nguyên tắc của ông bác nói: “không được sờ vào nếu chưa thực sự cần thiết”, thì cả hội hoàn toàn không có cơ hội nhìn thấy tình hình bên trong quan quách, bây giờ nội gián địch đã phá vỡ kết cấu huyệt mộ, khiến thi thể của tiên vương Lâu Lan lộ ra ngoài, món nợ này nói thế nào cũng phải tính vào đầu đối phương mới phải.
Nhưng khi mọi người túm tụm đến trước quan tài, nghé mắt vào xem thì ai nấy đều rất đỗi kinh ngạc, vì chỉ thấy bên trong cái quách khổng lồ mình đê đầu rắn, không hề có cỗ thi hài nào, mà lổn nhổn toàn những bảo vật hiếm có, những loại ngọc ngà gấm vóc đó thì ngay cả Tư Mã Khôi cũng không biết tên tuổi của chúng, ngoài ra còn có mười mấy vật thể hình cầu vô cùng tanh tưởi hôi thối, bề mặt gồ ghề, giống như nội tạng bị phong hóa.
Tư Mã Khôi nhíu mày nhìn: “Đám này đều là não người bị khô hóa!”
Những người còn lại thất kinh: “Sao chỉ sót lại mỗi cái não của người chết bị phong hóa thế nhỉ? Còn hài cốt đâu? Vả lại cái quan tài này tuy to thật nhưng làm sao chứa được mười mấy thi thể hợp táng chứ…”
Giáo sư Nông địa cầu vừa nhìn thấy cỗ quan quách, có lẽ xuất phát từ phản xạ điều kiện được hình thành do thói quen nghề nghiệp lâu năm, ông bỗng dưng trở nên tỉnh táo hơn mấy phần. Cặp kính lão của giáo sư không biết đã bay mất từ lúc nào, nhưng chỉ cần sờ hoa văn và hình thù đầu dê kỳ dị ở đỉnh quách, rồi nghe Tư Mã Khôi nói cái gì mà “não người”, ông đột nhiên mở miệng: “Nó là quan quách của tiên vương An Quy Ma Nã đây mà, ai đã mở nó ra vậy? Ai bảo đây là não người chết bị phong hóa? Đúng là không biết còn nói bừa. Theo sử sách ghi chép thì rất có khả năng đó là não ngựa”.
Tư Mã Khôi nghe giáo sư nói là não ngựa, anh hơi sững người lại một chút, rồi lập tức hiểu ra vấn đề. Các phương thuật biệt bảo tướng vật ở các cổ quốc Tây Vực nhiều vô số kể, những người giỏi kiểm định, chỉ cần thông qua tiếng ngựa hí cũng có thể phân biệt màu sắc não ngựa. Nghe nói những con ngựa mà não có màu đỏ tươi như máu, một ngày có thể phi vạn dặm, lướt nhanh như bay giữa không trung, loại này được gọi là thần mã. Những con ngựa có não màu vàng sẫm thì một ngày có thể đi ngàn dặm, tiếng hí vang xa cả trăm dặm.
Hai loại ngựa này đều là ngựa báu, còn những con ngựa có bộ não mang màu sắc khác đều không thể coi là ngựa, mà có thành ngựa thì cũng chẳng ra gì. Đến khi con ngựa đó chết đi, người ta lấy não của chúng ra xem màu sắc, về cơ bản thì đều trùng khớp với phán đoán ban đầu của các thuật sĩ biệt bảo. Bởi vậy các công tôn quý tộc Tây Vực khi hạ táng, thường đặt não ngựa ngàn dặm vào trong quan tài để làm đồ bồi táng, thể hiện sự trân trọng và coi vật này là vô giá. Trong cỗ quan quách của tiên vương An Quy Ma Nã chỉ có não ngựa báu, còn thi hài thì không biết biến mất nơi nào.
Thắng Hương Lân thấy giáo sư tỉnh táo trở lại, cô cũng nhẹ người hơn một chút. Hương Lân định quay sang hỏi ông tình hình dưới địa máng, trong lòng huyệt động cách bề mặt Trái Đất mấy ngàn mét này, ngoại trừ địa áp khác thường thì địa mạo đa trùng cũng rất hiếm gặp, lại còn đám bụi đen với mật độ dày đặc như hắc khôi kia, rốt cục được hình thành như thế nào? Nhưng giữa lúc này đột nhiên cô thấy má mình chợt mát lạnh, dường như có giọt nước từ trên cao nhỏ xuống mặt, cô đưa tay chùi, thì phát hiện đó là chất dịch thối trơn dính như mực.
Dưới ánh lửa, Tư Mã Khôi cũng nhìn rõ mồn một, anh lại ngửi thấy mùi máu tanh nồng nặc, lẫn với mùi thối của xác chết rữa nát từ trên cao dội xuống. Rõ ràng đây không phải giọt nước dột từ tầng nham thạch, mà là máu của tử thi nhỏ xuống. Nhờ ánh lửa ma trơi yếu ớt lập lòe xung quanh, anh quan sát thấy vô số bóng đen đang bay lượn vù vù trên đỉnh đầu. Tư Mã Khôi biết não ngựa khô có thể bốc cháy cao cả trăm thước. Tình hình trước mắt cấp bách, anh không màng đến sự ngăn cản của giáo sư, liền nắm lấy một miếng dùng dây thừng buộc lại, châm lửa đốt rồi tung lên cao, chỉ thấy ngọn lửa bùng lên ngùn ngụt như một quả cầu, trong ánh lửa xuất hiện hàng ngàn hàng vạn con dơi trắng, chúng đông nghìn nghịt chao liệng giữa không trung, có những con sải cánh rộng cả mét, thân hình trông như cái sọ người. Chúng tụ tập thành bầy, quyện thành một cơn lốc màu trắng khổng lồ, cảnh tượng này khiến mọi người chỉ biết há hốc miệng sợ hãi.
Thì ra bục Silicon rơi từ trên cao xuống đã đè sập động dơi, cả phần đáy sào huyệt và phần lớn thịt thối đều bị sụt xuống, đồng thời làm kinh động đến những con dơi đang nằm săn mồi trên vách đá âm lạnh. Chúng xuất quân từ sào huyệt nằm giữa khe động, rồi bay lượn vòng vèo rợp trời xung quanh địa bàn bên dưới vách nhũ đá nằm ngược trong lòng sông ngầm, cỗ tử thi của vua Lâu Lan trong quan quách đã bị chúng sớm rỉa thành từng mảnh vụn. Do còn sợ ngọn lửa nhiệt lượng cao nên bây giờ chúng chỉ mới bay lượn xung quanh, chưa dám tiếp cận, nhưng chỉ cần đợi khi lửa tắt, chúng sẽ nhào tới cắn xé con mồi.
Mọi người biết đuốc và mấy miếng óc ngựa khô trong quan tài gộp lại, cũng chẳng thể cháy sáng được bao lâu; cứ nghĩ khi mất đi sự phòng vệ của bó đuốc là tức khắc bị gặm sống thành bộ xương trắng ởn mà rùng rợn hết cả người, tóc gáy bất giác dựng ngược lên.
Hải ngọng đột nhiên nảy ra một kế: “Mọi người mau nhảy xuống sông, nếu thực sự không xong thì con có thể lặn xuống nước trốn”.
Đội trưởng Lưu Giang Hà mặt vàng như nghệ lắp bắp’ “Em…em không biết bơi, nếu không mọi người cứ trốn đi, mặc kệ em!”
Thắng Hương Lân nhắc nhở: “Tuyệt đối không được, mạch ngầm của con sông này chảy rất xiết, cho dù người nào có thông thuộc thủy tính đến đâu cũng có khả năng bị cuốn trôi. Quan tài trong cái quách kia làm bằng gỗ, chúng ta hãy chẻ nó ra làm vài bó đuốc, chí ít cũng có thể duy trì thêm một lúc nữa”.
Tư Mã Khôi thầm nghĩ: đây cũng là một cách, tuy rằng trong ba lô vẫn còn hộp đèn dầu, nhưng dựa vào nguyên liệu dầu đốt thì không duy trì được bao lâu, mà để nó bốc cháy một chỗ thì mình cũng không thể chạy đi đâu được; chi bằng cứ chẻ cái quan tài kia ra thành củi, chỉ cần tìm được chỗ dung thân nhỏ hẹp nào đó trong động đá vôi trước khi đuốc cháy hết là chúng ta có thể sẽ trốn thoát khỏi kiếp nạn này.
Nhưng Tư Mã Khôi vừa mới quay người, thì nhìn thấy giữa lớp quan và quách thò ra một cánh tay người máu thịt trộn lẫn vào nhau be bét, tiếp đó lại thò ra nửa thân trước, khắp người đỏ hon hỏn, toàn bộ da trên cơ thể đều bị lột sạch, da mặt cũng không còn, gương mặt không thể phân biệt nổi, chỉ còn sót lại một con ngươi trong hố mắt, con mắt trợn trừng không nhắm.
Do tia sáng quá nhạt mà khoảng cách lại xa, nên cả đội chỉ cảm thấy dường như đó là màn bụi đen mịt mù, vô cùng vô tận, chất liệu thô nặng, chìm lắng. Nó đậm đặc hơn khói sương thông thường nhiều lần, mật độ lại lớn, tựa hồ một bức tường thành đang chuyển động, bên trong còn kẹp lẫn những lằn sét lóe sáng và tiếng rền vang như sấm dội. Bức tường thành đang lao vùn vụt về phía mọi người với tốc độ kinh hồn.
Cuộn ô bát liên rơi trên mặt đất vẫn đang tiếp tục cháy sáng, nhưng khi vừa mới chạm vào đám bụi đen thì ánh lửa lập tức bị bóng tối nuốt chửng, phàm sinh vật nào rơi vào trong đó cũng đều biến mất, bặt vô âm tín, tựa hồ như thể bị phân giải trong bóng tối chỉ trong khoảnh khắc vậy.
Mọi người nhìn mà dựng hết tóc gáy, thứ vật chất bụi bặm màu đen tích tụ giống như bức tường kia, mang theo từ tính và phong áp rất mãnh liệt, tuy chưa đến gần nhưng nó bắt đầu khiến đầu óc người ta ong ong. Vật chất phân rã dưới lòng đất và khí gas axít cacbonic là những uy hiếp lớn nhất đối với đội thám hiểm; nhưng những loại vật chất thể khí đó phần lớn đều bị trầm tích bất động ở những khu vực khép kín, nên tuyệt đối không thể hình thành sấm dội. Cổ nhân gọi thứ vật chất này là “bức tường chết”, người hiện đại có lẽ cũng không thể tìm ra tên gọi nào phù hợp hơn dành cho nó, bởi vì loại vật chất hắc ám xuất hiện dưới lòng đất kia đã hoàn toàn vượt xa phạm trù nhận thức từ trước đến nay của loài người.
Tư Mã Khôi am hiểu cổ thuật tướng vật, thấy tình hình này, anh lập tức nhớ đến một thuyết cũ: tương truyền dưới lòng đất có hắc khôi, tức là lớp tro bụi màu đen, đó khác, rồi lớp canxi càng tích tụ càng lớn, đã tạo nên lớp vỏ rất mịn màng nhẵn nhụi và đặc biệt láng bóng.
Tuy rằng từng chuỗi sấm rền văng vẳng càng lúc càng lùi xa sau lưng, nhưng hội Tư Mã Khôi lại phát hiên cái dốc này quá sâu, tay trơn tuột khỏi vách đá, muốn dừng cũng không thể dừng được, nên đành trượt xuôi theo vách đá trân châu lồi lõm xuống tận khu vực đáy động. Cả đội hoàn toàn không thể dự tính được địa hình phía dưới thế nào, vì với tốc độ trượt nhanh như tên bắn thế này mà bên dưới lại là nhũ đá, thì thân thể nếu không bị xuyên táo như thịt xiên thì cũng khó tránh khỏi xương cốt gãy lìa.
Đúng lúc nơm nớp lo lắng chưa biết lành dữ thế nào, thì mọi người đột nhiên nghe thấy tiếng nước chảy róc rách. Thì ra vách đá trân châu này vươn dài mãi xuống lòng sông ngầm nằm rất sâu dưới lòng đất. Hội Tư Mã Khôi rơi xuống bờ cát thì dừng lại, người nào người nấy đều xây xước, bầm tím, không ai biết mình đang ở nơi nào.
Tư Mã Khôi rút ngọn đuốc cuối cùng, châm lửa và giơ cao trên tay. Nhờ ánh sáng bập bùng, mọi người có thể thăm dò xung quanh, chỉ thấy dưới lòng sông toàn là tầng nham thạch nhuộm cát vàng, ánh lên lấp lánh dưới ánh lửa lập lòe. Trong sông ngầm trôi nổi vô sô loài phù du và bọ gậy, mặt sông đen ngòm, sâu hút toàn là xoáy nước, xem ra phía dưới chắc chắn có mạch ngầm chảy xiết. Rất khó phân biệt dòng sông này chảy theo hướng nào, chỉ thấy phía xa liên tục nhấp nháy những đốm lửa ma trơi bất định.
Hải ngọng kiểm tra tình trạng của giáo sư rồi nói với Tư Mã Khôi: “Ông bác già trượt từ tít trên cao kia xuống, mông đít sắp bị mài nhẵn đến nơi rồi, tớ thấy chỗ này thế tựa vào sông, có thể tiến cũng có thể lui, hay ta để ông bác nghỉ ngơi ở đây một lát nhé!”
Tư Mã Khôi vẫn không dám lơi lỏng cảnh giác, dòng sông ngầm dưới lòng đất này, không khéo chẳng có ai lai vãng từ thưở hồng hoang hỗn độn cũng nên, nên chỉ có trời mới biết chỗ này ẩn nấp thứ gì, anh bảo mọi người: “Ở đây nhất định có xác chết sinh vật bị phân hủy, nên mới sản sinh ra phốt pho, nhưng ánh lửa ma trơi lại xuất hiện quá nhiều, nên chắc chắn không thể bình yên vô sự được đâu, chúng ta phải qua đó xem cho rõ đã rồi mới nói tiếp được.”
Thắng Hương Lân cũng có cảm giác bất an: “Tôi nghe thấy dường như có âm thanh kỳ lạ từ trên cao vọng xuống….”
Tư Mã Khôi gật đầu, bảo mọi người hãy giữ vững tinh thần cảnh giác cao độ, tiết kiệm nguồn nhiên liệu, cố gắng giảm thiểu sử dụng đèn quặng, không ai được phép ra khỏi phạm vi chiếu sáng của bó đuốc. Sau đó, anh kiểm tra lại súng trường, thấy không có gì hỏng hóc, mới dẫn mọi người đi về nơi phát ra ánh lửa lập lòe.
Mọi người chưa đi được nửa đường, thì ngửi thấy một mùi vô cùng hôi thối, đến nỗi phải lấy khăn tay ra bịt mũi. Trong bóng tối, chốc lát lại có luồng gió, với âm thanh không xác định, đột ngột quét qua, giống như thể một vật gì đó vụt lướt trước mặt với tốc độ cực cao, phả ra luồng gió thổi ánh lửa chập chờn lúc sáng lúc tối. Cả đội tiếp tục đi về phía trước, khắp nơi trên mặt đất vương vãi toàn đá vụn và lớp vỏ Silicon hóa thạch. Thì ra, bệ Silicon rơi từ trên cao xuống đều đáp xuống dòng sông ngầm này, chỉ duy chiếc quan tài đầu rắn mình dê là vẫn nguyên lành không hề bị hư hại gì, có điều nắp quan tài không còn nữa, lòng quan tài mở toang hoang, có thể trực tiếp nhìn thấy hài cốt người chết nằm bên trong.
Tư Mã Khôi cảm thấy kỳ lạ, anh lại gần quan sát, mới phát hiện khe hở quan tài có lỗ gió, nó đóng vai trò làm giảm vận tốc rơi và cường độ va chạm. Người Lâu Lan cổ đúng là liệu việc như thần, họ biết cổ mộ Hắc Môn kiểu gì cũng có ngày bị phá hủy, nếu bọn thô tặc nào ý đồ kinh động đến giấc ngủ ngàn thu của tiên vương, thì chiếc quan tài sẽ chìm xuống đáy hàn sơn dưới âm tuyền, mang theo cả tên thổ tặc mở nắp quan tài xuống vực và trở thành tế vật sống tuẫn táng cho tiên vương.
Moi người đều rất hiếu kỳ, không biết thi hài của vua Lâu Lan hai ngàn năm trước trông thế nào, nếu cứ tuân theo nguyên tắc của ông bác nói: “không được sờ vào nếu chưa thực sự cần thiết”, thì cả hội hoàn toàn không có cơ hội nhìn thấy tình hình bên trong quan quách, bây giờ nội gián địch đã phá vỡ kết cấu huyệt mộ, khiến thi thể của tiên vương Lâu Lan lộ ra ngoài, món nợ này nói thế nào cũng phải tính vào đầu đối phương mới phải.
Nhưng khi mọi người túm tụm đến trước quan tài, nghé mắt vào xem thì ai nấy đều rất đỗi kinh ngạc, vì chỉ thấy bên trong cái quách khổng lồ mình đê đầu rắn, không hề có cỗ thi hài nào, mà lổn nhổn toàn những bảo vật hiếm có, những loại ngọc ngà gấm vóc đó thì ngay cả Tư Mã Khôi cũng không biết tên tuổi của chúng, ngoài ra còn có mười mấy vật thể hình cầu vô cùng tanh tưởi hôi thối, bề mặt gồ ghề, giống như nội tạng bị phong hóa.
Tư Mã Khôi nhíu mày nhìn: “Đám này đều là não người bị khô hóa!”
Những người còn lại thất kinh: “Sao chỉ sót lại mỗi cái não của người chết bị phong hóa thế nhỉ? Còn hài cốt đâu? Vả lại cái quan tài này tuy to thật nhưng làm sao chứa được mười mấy thi thể hợp táng chứ…”
Giáo sư Nông địa cầu vừa nhìn thấy cỗ quan quách, có lẽ xuất phát từ phản xạ điều kiện được hình thành do thói quen nghề nghiệp lâu năm, ông bỗng dưng trở nên tỉnh táo hơn mấy phần. Cặp kính lão của giáo sư không biết đã bay mất từ lúc nào, nhưng chỉ cần sờ hoa văn và hình thù đầu dê kỳ dị ở đỉnh quách, rồi nghe Tư Mã Khôi nói cái gì mà “não người”, ông đột nhiên mở miệng: “Nó là quan quách của tiên vương An Quy Ma Nã đây mà, ai đã mở nó ra vậy? Ai bảo đây là não người chết bị phong hóa? Đúng là không biết còn nói bừa. Theo sử sách ghi chép thì rất có khả năng đó là não ngựa”.
Tư Mã Khôi nghe giáo sư nói là não ngựa, anh hơi sững người lại một chút, rồi lập tức hiểu ra vấn đề. Các phương thuật biệt bảo tướng vật ở các cổ quốc Tây Vực nhiều vô số kể, những người giỏi kiểm định, chỉ cần thông qua tiếng ngựa hí cũng có thể phân biệt màu sắc não ngựa. Nghe nói những con ngựa mà não có màu đỏ tươi như máu, một ngày có thể phi vạn dặm, lướt nhanh như bay giữa không trung, loại này được gọi là thần mã. Những con ngựa có não màu vàng sẫm thì một ngày có thể đi ngàn dặm, tiếng hí vang xa cả trăm dặm.
Hai loại ngựa này đều là ngựa báu, còn những con ngựa có bộ não mang màu sắc khác đều không thể coi là ngựa, mà có thành ngựa thì cũng chẳng ra gì. Đến khi con ngựa đó chết đi, người ta lấy não của chúng ra xem màu sắc, về cơ bản thì đều trùng khớp với phán đoán ban đầu của các thuật sĩ biệt bảo. Bởi vậy các công tôn quý tộc Tây Vực khi hạ táng, thường đặt não ngựa ngàn dặm vào trong quan tài để làm đồ bồi táng, thể hiện sự trân trọng và coi vật này là vô giá. Trong cỗ quan quách của tiên vương An Quy Ma Nã chỉ có não ngựa báu, còn thi hài thì không biết biến mất nơi nào.
Thắng Hương Lân thấy giáo sư tỉnh táo trở lại, cô cũng nhẹ người hơn một chút. Hương Lân định quay sang hỏi ông tình hình dưới địa máng, trong lòng huyệt động cách bề mặt Trái Đất mấy ngàn mét này, ngoại trừ địa áp khác thường thì địa mạo đa trùng cũng rất hiếm gặp, lại còn đám bụi đen với mật độ dày đặc như hắc khôi kia, rốt cục được hình thành như thế nào? Nhưng giữa lúc này đột nhiên cô thấy má mình chợt mát lạnh, dường như có giọt nước từ trên cao nhỏ xuống mặt, cô đưa tay chùi, thì phát hiện đó là chất dịch thối trơn dính như mực.
Dưới ánh lửa, Tư Mã Khôi cũng nhìn rõ mồn một, anh lại ngửi thấy mùi máu tanh nồng nặc, lẫn với mùi thối của xác chết rữa nát từ trên cao dội xuống. Rõ ràng đây không phải giọt nước dột từ tầng nham thạch, mà là máu của tử thi nhỏ xuống. Nhờ ánh lửa ma trơi yếu ớt lập lòe xung quanh, anh quan sát thấy vô số bóng đen đang bay lượn vù vù trên đỉnh đầu. Tư Mã Khôi biết não ngựa khô có thể bốc cháy cao cả trăm thước. Tình hình trước mắt cấp bách, anh không màng đến sự ngăn cản của giáo sư, liền nắm lấy một miếng dùng dây thừng buộc lại, châm lửa đốt rồi tung lên cao, chỉ thấy ngọn lửa bùng lên ngùn ngụt như một quả cầu, trong ánh lửa xuất hiện hàng ngàn hàng vạn con dơi trắng, chúng đông nghìn nghịt chao liệng giữa không trung, có những con sải cánh rộng cả mét, thân hình trông như cái sọ người. Chúng tụ tập thành bầy, quyện thành một cơn lốc màu trắng khổng lồ, cảnh tượng này khiến mọi người chỉ biết há hốc miệng sợ hãi.
Thì ra bục Silicon rơi từ trên cao xuống đã đè sập động dơi, cả phần đáy sào huyệt và phần lớn thịt thối đều bị sụt xuống, đồng thời làm kinh động đến những con dơi đang nằm săn mồi trên vách đá âm lạnh. Chúng xuất quân từ sào huyệt nằm giữa khe động, rồi bay lượn vòng vèo rợp trời xung quanh địa bàn bên dưới vách nhũ đá nằm ngược trong lòng sông ngầm, cỗ tử thi của vua Lâu Lan trong quan quách đã bị chúng sớm rỉa thành từng mảnh vụn. Do còn sợ ngọn lửa nhiệt lượng cao nên bây giờ chúng chỉ mới bay lượn xung quanh, chưa dám tiếp cận, nhưng chỉ cần đợi khi lửa tắt, chúng sẽ nhào tới cắn xé con mồi.
Mọi người biết đuốc và mấy miếng óc ngựa khô trong quan tài gộp lại, cũng chẳng thể cháy sáng được bao lâu; cứ nghĩ khi mất đi sự phòng vệ của bó đuốc là tức khắc bị gặm sống thành bộ xương trắng ởn mà rùng rợn hết cả người, tóc gáy bất giác dựng ngược lên.
Hải ngọng đột nhiên nảy ra một kế: “Mọi người mau nhảy xuống sông, nếu thực sự không xong thì con có thể lặn xuống nước trốn”.
Đội trưởng Lưu Giang Hà mặt vàng như nghệ lắp bắp’ “Em…em không biết bơi, nếu không mọi người cứ trốn đi, mặc kệ em!”
Thắng Hương Lân nhắc nhở: “Tuyệt đối không được, mạch ngầm của con sông này chảy rất xiết, cho dù người nào có thông thuộc thủy tính đến đâu cũng có khả năng bị cuốn trôi. Quan tài trong cái quách kia làm bằng gỗ, chúng ta hãy chẻ nó ra làm vài bó đuốc, chí ít cũng có thể duy trì thêm một lúc nữa”.
Tư Mã Khôi thầm nghĩ: đây cũng là một cách, tuy rằng trong ba lô vẫn còn hộp đèn dầu, nhưng dựa vào nguyên liệu dầu đốt thì không duy trì được bao lâu, mà để nó bốc cháy một chỗ thì mình cũng không thể chạy đi đâu được; chi bằng cứ chẻ cái quan tài kia ra thành củi, chỉ cần tìm được chỗ dung thân nhỏ hẹp nào đó trong động đá vôi trước khi đuốc cháy hết là chúng ta có thể sẽ trốn thoát khỏi kiếp nạn này.
Nhưng Tư Mã Khôi vừa mới quay người, thì nhìn thấy giữa lớp quan và quách thò ra một cánh tay người máu thịt trộn lẫn vào nhau be bét, tiếp đó lại thò ra nửa thân trước, khắp người đỏ hon hỏn, toàn bộ da trên cơ thể đều bị lột sạch, da mặt cũng không còn, gương mặt không thể phân biệt nổi, chỉ còn sót lại một con ngươi trong hố mắt, con mắt trợn trừng không nhắm.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.