Chương 84: CƠN BÃO TUYẾT BA NGÀY
Đang cập nhật
06/10/2016
Buổi sáng, khi mở mắt ra, Laura thấy tất cả những chiếc đinh gấp đóng vào mái nhà ở phía trên đều phủ trắng sương giá. Sương giá phủ đầy trên từng ô kính cửa sổ. Ánh sáng ban ngày mờ nhạt im lìm trong những bức vách kiên cố ngăn cách cơn bão đang gầm rú ở bên ngoài.
Carrie cũng thức giấc. Cô lén nhìn Laura một cách lo lắng từ dưới tấm mền phủ dưới chiếc giường kê gần ống khói lò sưởi là giường của cô và bé Grace. Cô thổi hơi ra để coi mức lạnh ra sao. Dù nằm sát bên ống khói lò sưởi, hơi thở của cô cũng đóng thành một lớp màu trắng trong không khí. Nhưng ngôi nhà dựng hoàn hảo tới mức không một mảnh tuyết nào có thể lọt qua vách hay qua mái.
Laura nằm im ê ẩm và Carrie cũng vậy. Nhưng sáng rồi và các cô phải trở dậy. Trượt ra khỏi giường bước vào cái lạnh khiến hụt hơi, Laura chộp vớ, giầy, áo và chạy vội vã ra đầu cầu thang. Cô lên tiếng trong lúc thầm cảm ơn bộ đồ fla-nen dài màu đỏ ấm áp dưới cái áo dài ngủ fla-nen.
- Mẹ, tụi con thay đồ ở dưới đó có được không?
Mẹ đáp:
- Được, bố đang ở chuồng ngựa.
Lò bếp sưởi ấm khắp nhà bếp và ánh sáng đèn giống như làm độ ấm tăng hơn. Laura mặc đồ lót, áo ngoài, mang giầy. Rồi cô mang quần áo của mấy chị em xuống hơ ấm và quấn Grace trong mền bồng xuống tầng dưới. Tất cả đều quần áo chỉnh tề và rửa ráy xong, khi bố quay vào với một xô sữa đông gần một nửa.
Sau khi lấy lại hơi thở và rũ hết sương giá và tuyết trên bộ râu. Bố nói :
- Rồi, mùa đông khắc nghiệt đã bắt đầu.
Mẹ nói:
- Sao vậy, Charles! Giống như anh không lo ngại gì về thời tiết mùa đông.
Bố đáp:
- Anh không lo ngại. Nhưng sắp tới một mùa đông khắc nghiệt.
Mẹ nói:
- Cũng đúng thôi, nếu nó tới thì mình đã ở đây, trong thị trấn là nơi mà mình có thể kiếm mọi thứ mình cần ở trong các cửa hàng ngay cả khi có bão.
Cho tới khi dứt bão sẽ không có chuyện tới trường. Thế là sau khi làm xong mọi việc, Laura cùng Carrie, Mary ngồi học bài và sau đó chăm chú khâu vá trong lúc mẹ đọc sách cho các cô nghe.
Khi ngẩng lên nhìn và nghe ngóng, mẹ nói:
- Nghe âm thanh giống như một trận bão tuyết ba ngày bình thường.
Laura nói:
- Tuần này không có chuyện đến trường nữa.
Cô tự hỏi không biết Mary và Minnie đang làm gì. Phòng trước ấm đến nỗi một phần sương gía trên cửa sổ tan ra biến thành băng. Khi cô phà hơi lên đó để dọn sạch thành một lỗ ngó ra, cô nhìn thấy qua kính cửa một lớp tuyết trắng xoay tít. Cô không thể tìm nổi cửa hàng đồ sắt Fuller’s nằm ở ngay bên kia phố, nơi bố đã ngồi tới bên lò sưởi để trò chuyện với những người đàn ông khác.
Nhích về phía trên đầu phố, qua khỏi cửa hàng đồ sắt Couse’s và nhà trọ Beardsley, tiệm tạp phẩm Barker’s, cửa hàng thức ăn gia súc Royal Wilder’s tối tăm và lạnh lẽo. Không có ai tới mua thực phẩm gia súc trong cơn bão đó nên Royal không nhóm lò sưởi. Nhưng ở phòng sau, ở chỗ của anh ta và Almanzo lại rất ấm áp và đầy đủ. Almanzo đang nướng bánh kép.
Royal đồng ý là ngay cả má cũng không qua nổi Almanzo trong việc làm bánh kép. Nhớ lại khi ở bang York lúc cả hai còn là những cậu bé và sau này, lúc ở trong khu nông trại lớn của ba ở Minnesota, cả hai không bao giờ nghĩ đến nấu nướng vì đó là việc của đàn bà. Nhưng từ khi cả hai tới miền tây nhận phần đất được cấp phát thì họ bắt buộc phải nấu nướng để khỏi bị chết đói. Almanzo phải lo bếp núc vì cậu khéo tay trong mọi thứ và cũng vì cậu nhỏ hơn còn Royal vẫn có ý nghĩ mình là chủ nhân.
Khi tới miền tây, Almanzo tròn mười chín tuổi. Nhưng đó là một điều bí mật vì cậu đã được cấp đất lập trại và theo luật định thì chỉ những người từ hai mốt tuổi mới có quyền lợi đó. Almanzo không cho là mình đã vi phạm pháp luật vì cậu biết cậu không lừa gạt chính quyền. Thêm nữa, bất kì ai biết cậu mới mười chín tuổi cũng có quyền tước phần đất đã cấp cho cậu.
Almanzo nhìn sự việc theo cách nhìn sau: Chính phủ muốn có sự định cư ở vùng đất này nên sẽ cấp đất lập trại cho bất kì ai đủ sức mạnh cơ bắp và trí não để tới đây khai phá và chịu gắn bó tới cùng với công việc. Nhưng các nhà chính khách ở xa mãi tận Washington lại không hiểu biết về những người định cư nên phải đặt ra các luật lệ và một trong các luật lệ đó qui định rằng người chủ trại phải ít nhất hai mươi mốt tuổi.
Không có qui định nào được tuân theo khi người ta có ý làm trái. Almanzo biết có những người kiếm rất nhiều tiền nhờ lập các hồ sơ xin cấp đất phù hợp hoàn toàn với luật định rồi sang đất lại cho những người giàu có. Khắp nơi đều có những người ăn cắp đất đai như thế nhờ dựa vào tất cả các điều qui định của pháp luật. Almanzo nghĩ rằng trong tất cả các qui định về cấp phát đất đai thì điều điên rồ nhất là qui định về mức tuổi.
Ai cũng biết rằng không có hai người hoàn toàn giống nhau. Nhưng người ta vẫn có những số chuẩn để đo vải, đo khoảng cách, nhưng không thể gộp chung mọi người lại và đo họ bằng các qui định. Trí não và tính cách không phụ thuộc vào bất kì thứ gì ngoại trừ bản thân mỗi con người. Có những người già tới sáu chục tuổi mà vẫn không có khả năng xét đoán trong khi người khác lại xét đoán tốt lúc mới mười sáu tuổi. Và Almanzo cho rằng cậu cũng có đủ những điều phải có của một người hai mươi mốt tuổi.
Cha của Almanzo cũng nghĩ như thế. Một người cha có quyền giữ con trai ở lại làm việc cho mình tới khi đứa con trai tròn hai mươi mốt tuổi. Nhưng Almanzo lại cho các con của ông ra đời sớm hơn để được rèn luyện tốt. Almanzo đã học được cách dành dụm tiền bạc từ trước khi mười tuổi và đã làm mọi công việc nông trại của một người đàn ông từ khi cậu mới chin tuổi. Khi cậu mười bảy tuổi, cha cậu đã đánh giá cậu là một người trưởng thành và dành cho cậu trọn quyền sử dụng thời giờ của mình. Almanzo đã làm việc lấy số tiền công mỗi ngày năm mươi xu rồi để dành tiền mua hạt giống và dụng cụ. Cậu đã trồng lúa trên các phần đất được chia ở miền tây Minnesota và đã thu một mùa vụ tốt.
Cậu cho rằng cậu đã là một người định cư thích hợp mà chính phủ cần và vấn đề tuổi tác của cậu chẳng là gì cả. Vì thế cậu đã nói với viên chức lo về ruộng đất:
- Ông có thể ghi cho tôi hai mươi mốt tuổi.
Và viên chức nọ nháy mắt với cậu và ghi như thế. Lúc này, Almanzo đã được cấp đất lập trại và mang từ Minnesota về đủ số hạt giống cho năm tới. Nếu cây có thể gieo những hạt giống đó trên các đồng cỏ nay và thu các vụ mùa tốt thì chỉ bốn năm nữa cậu đã có nông trại riêng.
Cậu đang làm bánh kép không phải do Royal ra lệnh cho cậu mà là do Royal không thể làm nổi những chiếc bánh kép ngon lành và Almanzo rất thích những chiếc bánh làm bằng bột mì xốp nhẹ với thật nhiều mật mía.
Royal nói:
- Chà! Nghe kìa!
Cả hai chưa từng nghe thấy gì giống như trận bão tuyết này.
Almanzo nói:
- Ông già da đỏ kia biết rõ ông ta nói về điều gì. Nếu mình sống suốt bảy tháng trong…
Ba chiếc bánh kép trên vỉ nướng đang nổi phồng lên những lỗ nhỏ gần các mép giòn. Cậu lật nhanh mấy chiếc bánh và ngắm những cạnh màu nâu ở chính giữa.
Mùi thơm của bánh hòa trộn với mùi thịt heo ướp muối nướng và mùi cà phê đang sôi. Căn phòng ấm áp và cây đèn với miếng phản quang bằng thiếc treo trên một đinh móc sáng trưng. Những chiếc yên và hàm thiếc ngựa lủng lẳng trên các vách ván thô nhám. Chiếc giường ngủ kê trong một góc và bàn ăn được kéo tới trước lò bếp để Almanzo có thể đặt bánh kép lên những chiếc đĩa sứ màu trắng mà không cần phải bước thêm một bước nào.
Royal nói:
- Trận bão này không thể kéo dài bảy tháng được. Đúng là nực cười. Mình lại chắc chắn là có những lời thần chú nào đó về thời tiết.
Almanzo đáp một cách ung dung:
- Mọi điều có thể xảy đến và phần đông thường là thế.
Cậu lướt lưỡi dao dưới mép của mấy chiếc bánh. Bánh đã chín và cậu hất chúng vào trong đĩa của Royal rồi tra mỡ trên vỉ nướng bằng lớp da heo ướp muối.
Royal tưới mật mía lên bánh, nói:
- Có một điều không thể xảy ra. Đó chính là mình không thể tiếp tục ở đây cho tới mùa xuân mà không có xe lửa chạy.
Almanzo trút thêm lên vỉ nướng đang xèo xèo ba viên bột nhồi từ bình đựng bột nhồi. Cậu uể oải tựa vào vách ngăn cạnh ống khói lò bếp chờ cho những chiếc bánh kép phồng lên. Cậu nói:
- Mình nên tính tới việc kéo thêm cỏ khô. Mình phải có nhiều cỏ khô làm thức ăn cho bò ngựa.
Royal nói trong khi ăn:
- Ồ, họ sẽ thông đường xe lửa. Nếu họ không chịu làm thì mình sẽ phải đả phá việc đó. Than dầu lửa, bột và đường như thế nào? Về vấn đề này, kho thực phẩm dự trữ của mình kéo dài được bao lâu nếu cả thị trấn dồn đống lại đây để mua?
Almanzo đứng thẳng lên. Cậu kêu lớn:
- Này! Chẳng có ai tới lấy hạt giống của em hết! Không có vấn đề gì xảy ra.
Royal nói:
- Sẽ không có điều gì xảy ra. Ai mà nghe nổi là có những trận bão kéo dài bảy tháng? Đường xe lửa sẽ lại thông thôi.
Almanzo đảo mấy chiếc bánh, nói:
- Những thứ này tốt hơn.
Cậu nghĩ tới ông già da đỏ và nhìn vào những túi hạt giống. Tất cả chất đống ở cuối phòng và có vài túi lăn lóc dưới gầm giường. Hạt giống không thuộc về Royal mà thuộc về cậu. Cậu đã trồng ở Minnesota. Cậu đã cày xới đất, bừa và gieo hạt. Cậu đã cắt lúa, bó, đập, đóng bao và lôi nó theo hàng trăm dặm, trên thùng xe.
Nếu những trận bão như trận bão này cản trở xe lửa đến nỗi không có thêm hạt giống từ miền đông tới cho tới sau thời gian gieo hạt thì mùa vụ năm tới của cậu, đất đai của cậu tùy thuộc vào số hạt giống đã có này để gieo. Cậu sẽ không bán với bất kể giá tiền nào. Hạt giống phải được giữ lại cho mùa vụ. Không thể gieo những đồng đô-la bằng bạc.
Cậu nói:
- Em sẽ không bán quá một đấu hạt giống.
Royal đáp:
- Tốt thôi, tốt thôi, không có ai làm phiền những hạt giống của em đâu. Bao nhiêu chiếc bánh rồi?
Almanzo vừa đặt chiếc bánh vào đĩa của Royal vừa nói:
- Đây là chiếc bánh thứ hai mươi mốt.
Royal hỏi:
- Em đã ăn bao nhiêu chiếc trong lúc anh lo công việc?
Almanzo cười:
- Em không đếm. Nhưng, trời đất ơi, em đang thấy ngon miệng, anh ăn no đi.
Royal nói:
- Cố kéo dài bữa ăn ra thì khỏi phải rửa chén đĩa.
11. BỐ TỚI VOLGA
Buổi trưa ngày thứ ba, cơn bão chấm dứt. Rồi gió ngưng và trên bầu trời quang, mặt trời tỏa sáng.
Bố nói một cách vui vẻ:
- Tốt, qua hết rồi. Bây giờ có lẽ mình sẽ có một câu thần chú về thời tiết tốt.
Mẹ thở ra khoan khoái:
- Thật dễ chịu lại được thấy mặt trời.
Mary thêm:
- Và nghe thấy sự yên tĩnh.
Tất cả lại nghe thấy những âm thanh nhỏ của thị trấn. Thỉnh thoảng cánh cửa ra vào của một cửa hàng đóng sập lại. Ben và Arthur đi ngang qua nói chuyện và Cap Garland huýt gió đi xuống phố Second Street. Âm thanh quen thuộc duy nhất mà tất cả không nghe thấy là tiếng còi xe lửa.
Lúc ăn tối, bố nói xe kẹt do tuyết dồn đống cắt đường gần Tracy. Bố nói:
- Nhưng họ sẽ phải xúc hết trong vài ngày. Với thời tiết như thế này, ai quan tâm tới xe lửa?
Sáng sớm hôm sau, bố băng qua phố tới cửa tiệm Fuller’s rồi vội vã trở về. Bố nói với mẹ là một số người sẽ dùng xe guồng từ nhà ga tới đón xe lửa ở Volga. Ông Foster đã nhận lời làm giúp công việc trong nhà nếu bố đi.
Bố nói:
- Anh ngồi một chỗ quá lâu rồi nên thích đi xa một chút.
Mẹ đồng ý:
- Anh đi đi, Charles. Nhưng mở đường xa như thế trong một ngày sao được?
Bố nói:
- Anh cũng thấy thế. Những chỗ kẹt từ đây tới Volga rất nhỏ và chỉ xa khoảng năm mươi dặm. Tình trạng căng nhất nằm ở phía đông Volga và các đoàn sửa chữa xe lửa đang làm việc tại đó. Nếu bọn anh dọn sạch phần đường còn lại cho họ thì phải trở về cùng chuyến xe lửa thường lệ vào ngày mốt.
Bố mang thêm một đôi vớ len ngắn trong lúc nói chuyện. Chiếc khăn quàng rộng quấn quanh cổ bố bắt chéo trước ngực nhét khít vào dưới chiếc áo khoác cài nút kín. Bố cột chặt tai mũ trùm, mang đôi bao tay ấm nhất, rồi đặt chiếc xẻng lên vai, bố đi tới nhà ga.
Gần tới giờ học, nhưng thay vì bước gấp tới trường thì Laura và Carrie dừng lại trong phố Second Street nhìn bố bước đi.
Chiếc xe guồng nằm trên đường sắt cạnh nhà ga và mọi người đang leo lên, lúc bố đi tới.
Tất cả đều gọi:
- Sẵn sáng rồi, Ingalls! Tất cả lên xe!
Gió từ hướng bắc đang thổi trên lớp tuyết rực rỡ đưa rõ từng tiếng nói tới chỗ Laura và Carrie.
Bố đã leo lên xe. Vừa bám được vào tay guồng, bố đã hô:
- Lên đường, các chàng trai!
Các ông Fuller, Mead và Hinz đứng thành một hàng đối mặt với bố, ông Wilmarth và Royal Wilder. Tất cả những bàn tay mang bao tay đều đặt trên hai going gỗ dài bắt ngang giữa xe kẹp hai bên chiếc guồng bơm.
Ông Fuller hô lớn:
- Sẵn sàng, các chàng trai! Guồng tới!
Ông Mead và ông Hinz cùng cúi thấp xuống theo ông Fuller đẩy tay guồng xuống. Rồi lúc đầu họ theo tay guồng vươn lên thì bố và hai người cùng phía cúi xuống đẩy tay guồng xuống rồi lên, lại xuống rồi lên, hai nhóm người cúi thấp rồi đứng thẳng tựa hồ luân phiên cúi đầu chào nhau và bánh của chiếc xe guồng bắt đầu nhích từ từ, rồi lăn nhanh theo đường sắt về phía Volga. Và khi xe đã chạy đều, bố bắt đầu hát và tất cả hòa theo:
Ta guồng cỗ xe già xộc xệch
Ta guồng cỗ xe già xộc xệch
Ta guồng cỗ xe già xộc xệch
Không lôi gì lếch thếch phía sau
Lên và xuống, lên và xuống, tất cả những chiếc lưng chuyển động đồng loạt theo nhịp hát và những chiếc bánh xe lăn nhẹ nhàng, nhanh hơn mãi.
Chặn đường ta là một tay lầm lỗi
Ta sẽ ngừng xe đón rước hẳn hoi
Và vẫn không lôi theo thứ gì lếch thếch
Ta guồng cỗ xe già xộc xệch
Ta guồng cỗ xe già…
Bùm ! Cỗ xe lao nhanh vào một bờ tuyết.
Ông Fuller hô lớn:
- Xả hết! Không chỉ lần này, mình không lăn qua nó!
Tất cả đều cầm xẻng lên và bước xuống xe. Những chiếc xẻng tíu tít hất văng những mảnh tuyết ra xa làm bụi tuyết bay mù mịt trong gió.
Laura nói với Carrie:
- Mình phải tới trường thôi.
- Ô, chờ coi thêm một phút nữa.
Carrie nài nỉ không rời cặp mắt ngó nghiêng qua lớp tuyết lấp lánh để ngắm bố đang làm việc trước cỗ xe guồng.
Chỉ một thoáng, mọi người đã lại bước tới cỗ xe, buông xẻng xuống và cúi mình trên các tay guồng.
Chặn đường ta là xa tăng quỉ dữ
Ta sẽ cho xe cán chết tươi
Và vẫn không lôi theo thứ gì lếch thếch!
Cỗ xe nhỏ dần, nhỏ dần và hai nhóm người tiếp tục luân phiên cúi chào nhau trong tiếng hát văng vẳng vọng lại qua cánh đồng tuyết lấp lánh.
Ta guồng cỗ xe già xộc xệch
Ta guồng cỗ xe già xộc xệch
Ta guồng cỗ xe già xộc xệch
Không lôi gì lếch thếch phía sau…
Hát và guồng, cỗ xe lăn tới mãi với những chiếc xẻng xúc thông đường xả sạch mọi bờ tuyết, mọi chướng ngại, bố đi xa lần về phía Volga.
Trọn phần còn lại trong ngày và suốt ngày hôm sau, ngôi nhà trống vắng. Buổi sáng và buổi tối, ông Foster tới lo các việc lặt vặt. Sau khi ông ta rời khỏi chuồng ngựa, mẹ sai Laura tới coi xem ông ta làm có hoàn hảo không.
Với đêm ngày thứ năm, mẹ nói:
- Chắc chắn mai bố sẽ về.
Trưa ngày hôm sau, một đoàn xe dài hụ còi vang động trên cánh đồng tuyết phủ và từ cửa sổ nhà bếp, Laura cùng Carrie nhìn thấy một cuộn khói đen cuồn cuộn bốc lên bầu trời trong lúc đoàn xe chạy rầm rập phía dưới. Đó là xe lửa chở công nhân, chen chúc đàn ông đang hô hoán và ca hát.
Mẹ nói:
- Giúp mẹ lo xong bữa trưa đi, Laura. Bố đói lắm rồi.
Laura lấy bánh qui khi cửa ýt mở ra và bố gọi:
- Ra coi, Caroline! Coi xem ai đi cùng anh về nhà mình.
Grace đang dẫn đầu xông tới đón bố bỗng ngừng lại, bước lui, đưa mấy ngón tay lên miệng, đứng nhìn. Mẹ khẽ nhấc bé sang bên khi mẹ bước tới cửa với đĩa khoai tây nghiền trên tay.
Mẹ kêu lên:
- Trời ơi, anh Edwards!
Bố nói:
- Anh đã nói với em là mình sẽ gặp anh ấy, sau khi anh ấy giúp giành lại khu trại của mình.
Mẹ đặt đĩa khoai tây lên bàn, nói với ông Edwards:
- Tôi rất muốn cảm ơn anh về việc đã giúp anh Ingalls khai nhận được khu đất lập trại.
Laura nhận ra ông ấy dễ dàng. Ông ấy vẫn là con mèo hoang cao, gầy, lang thang của xứ Tennessee. Những nếp nhăn ngộ nghĩnh trên khuôn mặt nâu bóng của ông ấy sâu hơn, trên má ông ấy có một vết thẹo do dao cắt trước đây không thấy, nhưng cặp mắt ông ấy vẫn cười cợt, lơ đãng và sắc sảo như cô còn nhớ. Cô kêu lớn:
- Ô, bác Edwards!
Mary nhắc:
- Bác đã mang quà của ông già Noel về cho tụi cháu.
Laura nói:
- Bác đã bơi qua suối. Rồi bác xuôi theo sông Verdigris…
Ông Edwards chà bàn chân trên nền nhà, cúi thấp đầu:
- Chị Ingalls và các cháu gái, tôi rất mừng được gặp lại tất cả.
Ông ấy nhìn vào cặp mắt của Mary đã không còn nhìn thấy ông ấy và giọng ông ấy dịu hẳn khi ông ấy nói:
- Hai tiểu thư xinh đẹp này có phải là hai cô bé mà tôi đã tung lên đầu gối và tung xuống sông Verdigris không, Ingalls?
Mary và Laura đáp phải và chỉ cho thấy Carrie lúc đó mới là một em bé.
Mẹ nói:
- Em bé của chúng tôi lúc này là Grace.
Nhưng Grace không tới gặp ông Edwards. Bé chỉ ngó ông ấy và bám cứng vào váy mẹ.
Mẹ nói một cách thân mật:
- Anh đến thật đúng lúc, anh Edwards. Chỉ một phút nữa là bữa ăn đã bày xong.
Và bố thúc giục:
- Ngồi xuống liền, Edwards và không được mắc cỡ! Bữa ăn rất thịnh soạn đúng như nó phải thịnh soạn!
Ông Edwards thích thú ngắm căn nhà thoải mái, dựng chắc chắn và bữa ăn tối ngon lành một cách thật tình. Nhưng ông ấy bảo ông ấy sẽ đáp chuyến xe lửa sắp tới đi miền tây. Bố không thể thuyết phục ông ấy ở lại lâu hơn.
Ông ấy nói:
- Tôi dự định đi thật xa về miền tây trong mùa xuân. Tôi cũng đã dứt khoát xong với vùng này. Đám chính khách đã kéo đến lúc nhúc và xin lỗi chị, nếu có một thứ dịch nào tệ hơn châu chấu thì chắc chắn là các chính khách. Sao, họ sẽ đánh thuế tới mảnh vải lót túi áo để duy trì những trung tâm hành chính ở đây! Tôi không thấy mình có cách gì phù hợp với một đời sống tỉnh lẻ. Tất cả chúng ta đều chạy theo hạnh phúc và bằng lòng với sự vắng mặt của những tay chính khách.
Mùa hè vừa rồi, Feller bám theo đánh thuế tôi. Anh ta bảo tôi kê khai tới những thứ tối thiểu cuối cùng mà tôi có được. Thế là tôi kê khai những con ngựa của tôi, Tom và Jerry theo ước giá mỗi con năm mươi đô-la, cặp bò của tôi, Buck và Bright trị giá năm mươi đô-la và con bò cái ba mươi lăm đô-la.
Ông ta hỏi “Anh chỉ có thế thôi sao?”. Được, tôi nói với ông ta là tôi khai thêm năm đứa con và tôi liệt giá mỗi đứa một đô-la.
Ông ta nói “Đó là tất cả?” Ông ta tiếp “Còn vợ anh thì sao?”
Tôi nói với ông ta “Chúa chứng giám cho tôi. Cô ấy nói rằng cô ấy không phải vật sở hữu của tôi nên tôi không tính là đóng một xu thuế nào cho cô ấy”. Tôi nói và tôi không kê khai.
Mẹ nói:
- Sao, anh Edwards, đây là những tin tức thông báo cho chúng tôi biết anh đã có gia đình. Anh Ingalls không nói gì về chuyện này cả.
Bố giải thích:
- Chính anh cũng không hề hay biết. Nhưng này Edwards, dù sao anh cũng không phải trả thuế vợ và thuế con.
Ông Edwards nói:
- Ông ta muốn có một bản liệt kê thuế thật dài. Các chính khách rất thích dí mũi vào công việc của người ta và tôi tính làm cho họ hài lòng.
Điều đó chẳng thành vấn đề gì vì tôi đâu có định đóng thuế. Tôi đã từ bỏ quyền khai thác phần đất được cấp phát và vào mùa xuân khi đám nhân viên thuế lảng vảng tới thì tôi đã đi khỏi đó rồi. Đi không có con, không có vợ, vì đâu còn cách nào.
Trước khi bố hoặc mẹ kịp lên tiếng, còi xe lửa hụ lớn và kéo dài. Ông Edwards nói:
- Nó gọi rồi!
Và ông đứng lên khỏi bàn ăn.
Bố nài nỉ:
- Edwards, hãy đổi ý, ở lại thêm một lúc nữa. Anh luôn đem may mắn đến cho chúng tôi.
Nhưng ông Edwards lần lượt bắt tay mọi người và cuối cùng bắt tay Mary đang ngồi bên cạnh ông ấy. Ông ấy nói:
- Tạm biệt tất cả!
Và vội vã bước ra khỏi cửa chạy về phía nhà ga.
Suốt khoảng thời gian đó, Grace chỉ trố mắt nhìn và lắng nghe chứ không nói một tiếng nào. Lúc này thì ông Edwards đột ngột biến mất và bé hít một hơi thật dài, hỏi:
- Mary, đó là người đã nhìn thấy ông già Noel hả?
Mary đáp:
- Ừ. Đó là người đã đi bộ suốt bốn mươi dăm dưới trời mưa tới Independence để gặp ông già Noel ở đó và mang quà Noel về cho Laura và chị lúc các chị còn là những cô bé.
Mẹ nói:
- Ông ấy có một tấm long vàng.
Laura nhắc:
- Ông ấy đem về cho mỗi đứa con một chiếc ly thiếc và một thỏi kẹo.
Cô chậm chạp đứng lên và bắt đầu giúp mẹ với Carrie dọn dẹp bàn ăn. Bố đi tới chiếc ghế lớn gần lò bếp.
Mary nhấc chiếc khăn tay trong long bàn tay lên khi cô rời bàn ăn và một cái gì đó rơi nhẹ Cap Garland nền nhà. Mẹ cúi xuống lượm lên. Mẹ đứng sững cầm vật đó trong tay không nói được tiếng nào và Laura kêu lớn:
- Mary! Hai mươi đô-la! Chị vừa đánh rơi một tờ hai mươi đô-la!
Mary kinh ngạc:
- Làm sao có chuyện đó!
Bố nói:
- Đó là của Edwards.
Mẹ nói:
- Mình không thể giữ lại.
Nhưng tiếng còi từ giã cuối cùng của chuyến xe lửa đã bốc lên một hồi dài lanh lảnh.
Bố hỏi:
- Em tính sao về chuyện này? Edwards đã đi rồi và mình khó gặp lại nổi anh ấy trong nhiều năm, có thể là không bao giờ gặp lại nữa. Anh ấy đang đi tới Oregon vào màu xuân.
Mẹ khẽ kêu lên trong sự bối rối:
- Nhưng, Charles… Ôi, tại sao anh ấy làm vậy?
Bố nói:
- Anh ấy cho Mary. Hãy để Mary giữ số tiền. Có thể số tiền sẽ giúp con tới trường được.
Mẹ suy nghĩ một lát rồi nói:
- Thôi được!
Và mẹ đưa tờ giấy bạc cho Mary.
Mary cầm một cách cẩn thận, vuốt nhẹ bằng mấy đầu ngón tay và gương mặt rạng sáng:
- Ôi, cháu cảm ơn bác Edwards.
Mẹ nói:
- Em mong là anh ấy không bao giờ cần đến số tiền này, dù anh ấy ở đâu cũng vậy.
Bố an ủi mẹ:
- Em nên tin rằng Edwards là người biết phòng xa.
Mặt Mary mơ màng như khi cô nghĩ tới trường học dành cho người khiếm thị. Cô nói:
- Mẹ, cộng với số tiền mẹ kiếm được do nấu cơm tháng hồi năm ngoái thì đã có ba mươi lăm đô-la hai mươi lăm xu.
Carrie cũng thức giấc. Cô lén nhìn Laura một cách lo lắng từ dưới tấm mền phủ dưới chiếc giường kê gần ống khói lò sưởi là giường của cô và bé Grace. Cô thổi hơi ra để coi mức lạnh ra sao. Dù nằm sát bên ống khói lò sưởi, hơi thở của cô cũng đóng thành một lớp màu trắng trong không khí. Nhưng ngôi nhà dựng hoàn hảo tới mức không một mảnh tuyết nào có thể lọt qua vách hay qua mái.
Laura nằm im ê ẩm và Carrie cũng vậy. Nhưng sáng rồi và các cô phải trở dậy. Trượt ra khỏi giường bước vào cái lạnh khiến hụt hơi, Laura chộp vớ, giầy, áo và chạy vội vã ra đầu cầu thang. Cô lên tiếng trong lúc thầm cảm ơn bộ đồ fla-nen dài màu đỏ ấm áp dưới cái áo dài ngủ fla-nen.
- Mẹ, tụi con thay đồ ở dưới đó có được không?
Mẹ đáp:
- Được, bố đang ở chuồng ngựa.
Lò bếp sưởi ấm khắp nhà bếp và ánh sáng đèn giống như làm độ ấm tăng hơn. Laura mặc đồ lót, áo ngoài, mang giầy. Rồi cô mang quần áo của mấy chị em xuống hơ ấm và quấn Grace trong mền bồng xuống tầng dưới. Tất cả đều quần áo chỉnh tề và rửa ráy xong, khi bố quay vào với một xô sữa đông gần một nửa.
Sau khi lấy lại hơi thở và rũ hết sương giá và tuyết trên bộ râu. Bố nói :
- Rồi, mùa đông khắc nghiệt đã bắt đầu.
Mẹ nói:
- Sao vậy, Charles! Giống như anh không lo ngại gì về thời tiết mùa đông.
Bố đáp:
- Anh không lo ngại. Nhưng sắp tới một mùa đông khắc nghiệt.
Mẹ nói:
- Cũng đúng thôi, nếu nó tới thì mình đã ở đây, trong thị trấn là nơi mà mình có thể kiếm mọi thứ mình cần ở trong các cửa hàng ngay cả khi có bão.
Cho tới khi dứt bão sẽ không có chuyện tới trường. Thế là sau khi làm xong mọi việc, Laura cùng Carrie, Mary ngồi học bài và sau đó chăm chú khâu vá trong lúc mẹ đọc sách cho các cô nghe.
Khi ngẩng lên nhìn và nghe ngóng, mẹ nói:
- Nghe âm thanh giống như một trận bão tuyết ba ngày bình thường.
Laura nói:
- Tuần này không có chuyện đến trường nữa.
Cô tự hỏi không biết Mary và Minnie đang làm gì. Phòng trước ấm đến nỗi một phần sương gía trên cửa sổ tan ra biến thành băng. Khi cô phà hơi lên đó để dọn sạch thành một lỗ ngó ra, cô nhìn thấy qua kính cửa một lớp tuyết trắng xoay tít. Cô không thể tìm nổi cửa hàng đồ sắt Fuller’s nằm ở ngay bên kia phố, nơi bố đã ngồi tới bên lò sưởi để trò chuyện với những người đàn ông khác.
Nhích về phía trên đầu phố, qua khỏi cửa hàng đồ sắt Couse’s và nhà trọ Beardsley, tiệm tạp phẩm Barker’s, cửa hàng thức ăn gia súc Royal Wilder’s tối tăm và lạnh lẽo. Không có ai tới mua thực phẩm gia súc trong cơn bão đó nên Royal không nhóm lò sưởi. Nhưng ở phòng sau, ở chỗ của anh ta và Almanzo lại rất ấm áp và đầy đủ. Almanzo đang nướng bánh kép.
Royal đồng ý là ngay cả má cũng không qua nổi Almanzo trong việc làm bánh kép. Nhớ lại khi ở bang York lúc cả hai còn là những cậu bé và sau này, lúc ở trong khu nông trại lớn của ba ở Minnesota, cả hai không bao giờ nghĩ đến nấu nướng vì đó là việc của đàn bà. Nhưng từ khi cả hai tới miền tây nhận phần đất được cấp phát thì họ bắt buộc phải nấu nướng để khỏi bị chết đói. Almanzo phải lo bếp núc vì cậu khéo tay trong mọi thứ và cũng vì cậu nhỏ hơn còn Royal vẫn có ý nghĩ mình là chủ nhân.
Khi tới miền tây, Almanzo tròn mười chín tuổi. Nhưng đó là một điều bí mật vì cậu đã được cấp đất lập trại và theo luật định thì chỉ những người từ hai mốt tuổi mới có quyền lợi đó. Almanzo không cho là mình đã vi phạm pháp luật vì cậu biết cậu không lừa gạt chính quyền. Thêm nữa, bất kì ai biết cậu mới mười chín tuổi cũng có quyền tước phần đất đã cấp cho cậu.
Almanzo nhìn sự việc theo cách nhìn sau: Chính phủ muốn có sự định cư ở vùng đất này nên sẽ cấp đất lập trại cho bất kì ai đủ sức mạnh cơ bắp và trí não để tới đây khai phá và chịu gắn bó tới cùng với công việc. Nhưng các nhà chính khách ở xa mãi tận Washington lại không hiểu biết về những người định cư nên phải đặt ra các luật lệ và một trong các luật lệ đó qui định rằng người chủ trại phải ít nhất hai mươi mốt tuổi.
Không có qui định nào được tuân theo khi người ta có ý làm trái. Almanzo biết có những người kiếm rất nhiều tiền nhờ lập các hồ sơ xin cấp đất phù hợp hoàn toàn với luật định rồi sang đất lại cho những người giàu có. Khắp nơi đều có những người ăn cắp đất đai như thế nhờ dựa vào tất cả các điều qui định của pháp luật. Almanzo nghĩ rằng trong tất cả các qui định về cấp phát đất đai thì điều điên rồ nhất là qui định về mức tuổi.
Ai cũng biết rằng không có hai người hoàn toàn giống nhau. Nhưng người ta vẫn có những số chuẩn để đo vải, đo khoảng cách, nhưng không thể gộp chung mọi người lại và đo họ bằng các qui định. Trí não và tính cách không phụ thuộc vào bất kì thứ gì ngoại trừ bản thân mỗi con người. Có những người già tới sáu chục tuổi mà vẫn không có khả năng xét đoán trong khi người khác lại xét đoán tốt lúc mới mười sáu tuổi. Và Almanzo cho rằng cậu cũng có đủ những điều phải có của một người hai mươi mốt tuổi.
Cha của Almanzo cũng nghĩ như thế. Một người cha có quyền giữ con trai ở lại làm việc cho mình tới khi đứa con trai tròn hai mươi mốt tuổi. Nhưng Almanzo lại cho các con của ông ra đời sớm hơn để được rèn luyện tốt. Almanzo đã học được cách dành dụm tiền bạc từ trước khi mười tuổi và đã làm mọi công việc nông trại của một người đàn ông từ khi cậu mới chin tuổi. Khi cậu mười bảy tuổi, cha cậu đã đánh giá cậu là một người trưởng thành và dành cho cậu trọn quyền sử dụng thời giờ của mình. Almanzo đã làm việc lấy số tiền công mỗi ngày năm mươi xu rồi để dành tiền mua hạt giống và dụng cụ. Cậu đã trồng lúa trên các phần đất được chia ở miền tây Minnesota và đã thu một mùa vụ tốt.
Cậu cho rằng cậu đã là một người định cư thích hợp mà chính phủ cần và vấn đề tuổi tác của cậu chẳng là gì cả. Vì thế cậu đã nói với viên chức lo về ruộng đất:
- Ông có thể ghi cho tôi hai mươi mốt tuổi.
Và viên chức nọ nháy mắt với cậu và ghi như thế. Lúc này, Almanzo đã được cấp đất lập trại và mang từ Minnesota về đủ số hạt giống cho năm tới. Nếu cây có thể gieo những hạt giống đó trên các đồng cỏ nay và thu các vụ mùa tốt thì chỉ bốn năm nữa cậu đã có nông trại riêng.
Cậu đang làm bánh kép không phải do Royal ra lệnh cho cậu mà là do Royal không thể làm nổi những chiếc bánh kép ngon lành và Almanzo rất thích những chiếc bánh làm bằng bột mì xốp nhẹ với thật nhiều mật mía.
Royal nói:
- Chà! Nghe kìa!
Cả hai chưa từng nghe thấy gì giống như trận bão tuyết này.
Almanzo nói:
- Ông già da đỏ kia biết rõ ông ta nói về điều gì. Nếu mình sống suốt bảy tháng trong…
Ba chiếc bánh kép trên vỉ nướng đang nổi phồng lên những lỗ nhỏ gần các mép giòn. Cậu lật nhanh mấy chiếc bánh và ngắm những cạnh màu nâu ở chính giữa.
Mùi thơm của bánh hòa trộn với mùi thịt heo ướp muối nướng và mùi cà phê đang sôi. Căn phòng ấm áp và cây đèn với miếng phản quang bằng thiếc treo trên một đinh móc sáng trưng. Những chiếc yên và hàm thiếc ngựa lủng lẳng trên các vách ván thô nhám. Chiếc giường ngủ kê trong một góc và bàn ăn được kéo tới trước lò bếp để Almanzo có thể đặt bánh kép lên những chiếc đĩa sứ màu trắng mà không cần phải bước thêm một bước nào.
Royal nói:
- Trận bão này không thể kéo dài bảy tháng được. Đúng là nực cười. Mình lại chắc chắn là có những lời thần chú nào đó về thời tiết.
Almanzo đáp một cách ung dung:
- Mọi điều có thể xảy đến và phần đông thường là thế.
Cậu lướt lưỡi dao dưới mép của mấy chiếc bánh. Bánh đã chín và cậu hất chúng vào trong đĩa của Royal rồi tra mỡ trên vỉ nướng bằng lớp da heo ướp muối.
Royal tưới mật mía lên bánh, nói:
- Có một điều không thể xảy ra. Đó chính là mình không thể tiếp tục ở đây cho tới mùa xuân mà không có xe lửa chạy.
Almanzo trút thêm lên vỉ nướng đang xèo xèo ba viên bột nhồi từ bình đựng bột nhồi. Cậu uể oải tựa vào vách ngăn cạnh ống khói lò bếp chờ cho những chiếc bánh kép phồng lên. Cậu nói:
- Mình nên tính tới việc kéo thêm cỏ khô. Mình phải có nhiều cỏ khô làm thức ăn cho bò ngựa.
Royal nói trong khi ăn:
- Ồ, họ sẽ thông đường xe lửa. Nếu họ không chịu làm thì mình sẽ phải đả phá việc đó. Than dầu lửa, bột và đường như thế nào? Về vấn đề này, kho thực phẩm dự trữ của mình kéo dài được bao lâu nếu cả thị trấn dồn đống lại đây để mua?
Almanzo đứng thẳng lên. Cậu kêu lớn:
- Này! Chẳng có ai tới lấy hạt giống của em hết! Không có vấn đề gì xảy ra.
Royal nói:
- Sẽ không có điều gì xảy ra. Ai mà nghe nổi là có những trận bão kéo dài bảy tháng? Đường xe lửa sẽ lại thông thôi.
Almanzo đảo mấy chiếc bánh, nói:
- Những thứ này tốt hơn.
Cậu nghĩ tới ông già da đỏ và nhìn vào những túi hạt giống. Tất cả chất đống ở cuối phòng và có vài túi lăn lóc dưới gầm giường. Hạt giống không thuộc về Royal mà thuộc về cậu. Cậu đã trồng ở Minnesota. Cậu đã cày xới đất, bừa và gieo hạt. Cậu đã cắt lúa, bó, đập, đóng bao và lôi nó theo hàng trăm dặm, trên thùng xe.
Nếu những trận bão như trận bão này cản trở xe lửa đến nỗi không có thêm hạt giống từ miền đông tới cho tới sau thời gian gieo hạt thì mùa vụ năm tới của cậu, đất đai của cậu tùy thuộc vào số hạt giống đã có này để gieo. Cậu sẽ không bán với bất kể giá tiền nào. Hạt giống phải được giữ lại cho mùa vụ. Không thể gieo những đồng đô-la bằng bạc.
Cậu nói:
- Em sẽ không bán quá một đấu hạt giống.
Royal đáp:
- Tốt thôi, tốt thôi, không có ai làm phiền những hạt giống của em đâu. Bao nhiêu chiếc bánh rồi?
Almanzo vừa đặt chiếc bánh vào đĩa của Royal vừa nói:
- Đây là chiếc bánh thứ hai mươi mốt.
Royal hỏi:
- Em đã ăn bao nhiêu chiếc trong lúc anh lo công việc?
Almanzo cười:
- Em không đếm. Nhưng, trời đất ơi, em đang thấy ngon miệng, anh ăn no đi.
Royal nói:
- Cố kéo dài bữa ăn ra thì khỏi phải rửa chén đĩa.
11. BỐ TỚI VOLGA
Buổi trưa ngày thứ ba, cơn bão chấm dứt. Rồi gió ngưng và trên bầu trời quang, mặt trời tỏa sáng.
Bố nói một cách vui vẻ:
- Tốt, qua hết rồi. Bây giờ có lẽ mình sẽ có một câu thần chú về thời tiết tốt.
Mẹ thở ra khoan khoái:
- Thật dễ chịu lại được thấy mặt trời.
Mary thêm:
- Và nghe thấy sự yên tĩnh.
Tất cả lại nghe thấy những âm thanh nhỏ của thị trấn. Thỉnh thoảng cánh cửa ra vào của một cửa hàng đóng sập lại. Ben và Arthur đi ngang qua nói chuyện và Cap Garland huýt gió đi xuống phố Second Street. Âm thanh quen thuộc duy nhất mà tất cả không nghe thấy là tiếng còi xe lửa.
Lúc ăn tối, bố nói xe kẹt do tuyết dồn đống cắt đường gần Tracy. Bố nói:
- Nhưng họ sẽ phải xúc hết trong vài ngày. Với thời tiết như thế này, ai quan tâm tới xe lửa?
Sáng sớm hôm sau, bố băng qua phố tới cửa tiệm Fuller’s rồi vội vã trở về. Bố nói với mẹ là một số người sẽ dùng xe guồng từ nhà ga tới đón xe lửa ở Volga. Ông Foster đã nhận lời làm giúp công việc trong nhà nếu bố đi.
Bố nói:
- Anh ngồi một chỗ quá lâu rồi nên thích đi xa một chút.
Mẹ đồng ý:
- Anh đi đi, Charles. Nhưng mở đường xa như thế trong một ngày sao được?
Bố nói:
- Anh cũng thấy thế. Những chỗ kẹt từ đây tới Volga rất nhỏ và chỉ xa khoảng năm mươi dặm. Tình trạng căng nhất nằm ở phía đông Volga và các đoàn sửa chữa xe lửa đang làm việc tại đó. Nếu bọn anh dọn sạch phần đường còn lại cho họ thì phải trở về cùng chuyến xe lửa thường lệ vào ngày mốt.
Bố mang thêm một đôi vớ len ngắn trong lúc nói chuyện. Chiếc khăn quàng rộng quấn quanh cổ bố bắt chéo trước ngực nhét khít vào dưới chiếc áo khoác cài nút kín. Bố cột chặt tai mũ trùm, mang đôi bao tay ấm nhất, rồi đặt chiếc xẻng lên vai, bố đi tới nhà ga.
Gần tới giờ học, nhưng thay vì bước gấp tới trường thì Laura và Carrie dừng lại trong phố Second Street nhìn bố bước đi.
Chiếc xe guồng nằm trên đường sắt cạnh nhà ga và mọi người đang leo lên, lúc bố đi tới.
Tất cả đều gọi:
- Sẵn sáng rồi, Ingalls! Tất cả lên xe!
Gió từ hướng bắc đang thổi trên lớp tuyết rực rỡ đưa rõ từng tiếng nói tới chỗ Laura và Carrie.
Bố đã leo lên xe. Vừa bám được vào tay guồng, bố đã hô:
- Lên đường, các chàng trai!
Các ông Fuller, Mead và Hinz đứng thành một hàng đối mặt với bố, ông Wilmarth và Royal Wilder. Tất cả những bàn tay mang bao tay đều đặt trên hai going gỗ dài bắt ngang giữa xe kẹp hai bên chiếc guồng bơm.
Ông Fuller hô lớn:
- Sẵn sàng, các chàng trai! Guồng tới!
Ông Mead và ông Hinz cùng cúi thấp xuống theo ông Fuller đẩy tay guồng xuống. Rồi lúc đầu họ theo tay guồng vươn lên thì bố và hai người cùng phía cúi xuống đẩy tay guồng xuống rồi lên, lại xuống rồi lên, hai nhóm người cúi thấp rồi đứng thẳng tựa hồ luân phiên cúi đầu chào nhau và bánh của chiếc xe guồng bắt đầu nhích từ từ, rồi lăn nhanh theo đường sắt về phía Volga. Và khi xe đã chạy đều, bố bắt đầu hát và tất cả hòa theo:
Ta guồng cỗ xe già xộc xệch
Ta guồng cỗ xe già xộc xệch
Ta guồng cỗ xe già xộc xệch
Không lôi gì lếch thếch phía sau
Lên và xuống, lên và xuống, tất cả những chiếc lưng chuyển động đồng loạt theo nhịp hát và những chiếc bánh xe lăn nhẹ nhàng, nhanh hơn mãi.
Chặn đường ta là một tay lầm lỗi
Ta sẽ ngừng xe đón rước hẳn hoi
Và vẫn không lôi theo thứ gì lếch thếch
Ta guồng cỗ xe già xộc xệch
Ta guồng cỗ xe già…
Bùm ! Cỗ xe lao nhanh vào một bờ tuyết.
Ông Fuller hô lớn:
- Xả hết! Không chỉ lần này, mình không lăn qua nó!
Tất cả đều cầm xẻng lên và bước xuống xe. Những chiếc xẻng tíu tít hất văng những mảnh tuyết ra xa làm bụi tuyết bay mù mịt trong gió.
Laura nói với Carrie:
- Mình phải tới trường thôi.
- Ô, chờ coi thêm một phút nữa.
Carrie nài nỉ không rời cặp mắt ngó nghiêng qua lớp tuyết lấp lánh để ngắm bố đang làm việc trước cỗ xe guồng.
Chỉ một thoáng, mọi người đã lại bước tới cỗ xe, buông xẻng xuống và cúi mình trên các tay guồng.
Chặn đường ta là xa tăng quỉ dữ
Ta sẽ cho xe cán chết tươi
Và vẫn không lôi theo thứ gì lếch thếch!
Cỗ xe nhỏ dần, nhỏ dần và hai nhóm người tiếp tục luân phiên cúi chào nhau trong tiếng hát văng vẳng vọng lại qua cánh đồng tuyết lấp lánh.
Ta guồng cỗ xe già xộc xệch
Ta guồng cỗ xe già xộc xệch
Ta guồng cỗ xe già xộc xệch
Không lôi gì lếch thếch phía sau…
Hát và guồng, cỗ xe lăn tới mãi với những chiếc xẻng xúc thông đường xả sạch mọi bờ tuyết, mọi chướng ngại, bố đi xa lần về phía Volga.
Trọn phần còn lại trong ngày và suốt ngày hôm sau, ngôi nhà trống vắng. Buổi sáng và buổi tối, ông Foster tới lo các việc lặt vặt. Sau khi ông ta rời khỏi chuồng ngựa, mẹ sai Laura tới coi xem ông ta làm có hoàn hảo không.
Với đêm ngày thứ năm, mẹ nói:
- Chắc chắn mai bố sẽ về.
Trưa ngày hôm sau, một đoàn xe dài hụ còi vang động trên cánh đồng tuyết phủ và từ cửa sổ nhà bếp, Laura cùng Carrie nhìn thấy một cuộn khói đen cuồn cuộn bốc lên bầu trời trong lúc đoàn xe chạy rầm rập phía dưới. Đó là xe lửa chở công nhân, chen chúc đàn ông đang hô hoán và ca hát.
Mẹ nói:
- Giúp mẹ lo xong bữa trưa đi, Laura. Bố đói lắm rồi.
Laura lấy bánh qui khi cửa ýt mở ra và bố gọi:
- Ra coi, Caroline! Coi xem ai đi cùng anh về nhà mình.
Grace đang dẫn đầu xông tới đón bố bỗng ngừng lại, bước lui, đưa mấy ngón tay lên miệng, đứng nhìn. Mẹ khẽ nhấc bé sang bên khi mẹ bước tới cửa với đĩa khoai tây nghiền trên tay.
Mẹ kêu lên:
- Trời ơi, anh Edwards!
Bố nói:
- Anh đã nói với em là mình sẽ gặp anh ấy, sau khi anh ấy giúp giành lại khu trại của mình.
Mẹ đặt đĩa khoai tây lên bàn, nói với ông Edwards:
- Tôi rất muốn cảm ơn anh về việc đã giúp anh Ingalls khai nhận được khu đất lập trại.
Laura nhận ra ông ấy dễ dàng. Ông ấy vẫn là con mèo hoang cao, gầy, lang thang của xứ Tennessee. Những nếp nhăn ngộ nghĩnh trên khuôn mặt nâu bóng của ông ấy sâu hơn, trên má ông ấy có một vết thẹo do dao cắt trước đây không thấy, nhưng cặp mắt ông ấy vẫn cười cợt, lơ đãng và sắc sảo như cô còn nhớ. Cô kêu lớn:
- Ô, bác Edwards!
Mary nhắc:
- Bác đã mang quà của ông già Noel về cho tụi cháu.
Laura nói:
- Bác đã bơi qua suối. Rồi bác xuôi theo sông Verdigris…
Ông Edwards chà bàn chân trên nền nhà, cúi thấp đầu:
- Chị Ingalls và các cháu gái, tôi rất mừng được gặp lại tất cả.
Ông ấy nhìn vào cặp mắt của Mary đã không còn nhìn thấy ông ấy và giọng ông ấy dịu hẳn khi ông ấy nói:
- Hai tiểu thư xinh đẹp này có phải là hai cô bé mà tôi đã tung lên đầu gối và tung xuống sông Verdigris không, Ingalls?
Mary và Laura đáp phải và chỉ cho thấy Carrie lúc đó mới là một em bé.
Mẹ nói:
- Em bé của chúng tôi lúc này là Grace.
Nhưng Grace không tới gặp ông Edwards. Bé chỉ ngó ông ấy và bám cứng vào váy mẹ.
Mẹ nói một cách thân mật:
- Anh đến thật đúng lúc, anh Edwards. Chỉ một phút nữa là bữa ăn đã bày xong.
Và bố thúc giục:
- Ngồi xuống liền, Edwards và không được mắc cỡ! Bữa ăn rất thịnh soạn đúng như nó phải thịnh soạn!
Ông Edwards thích thú ngắm căn nhà thoải mái, dựng chắc chắn và bữa ăn tối ngon lành một cách thật tình. Nhưng ông ấy bảo ông ấy sẽ đáp chuyến xe lửa sắp tới đi miền tây. Bố không thể thuyết phục ông ấy ở lại lâu hơn.
Ông ấy nói:
- Tôi dự định đi thật xa về miền tây trong mùa xuân. Tôi cũng đã dứt khoát xong với vùng này. Đám chính khách đã kéo đến lúc nhúc và xin lỗi chị, nếu có một thứ dịch nào tệ hơn châu chấu thì chắc chắn là các chính khách. Sao, họ sẽ đánh thuế tới mảnh vải lót túi áo để duy trì những trung tâm hành chính ở đây! Tôi không thấy mình có cách gì phù hợp với một đời sống tỉnh lẻ. Tất cả chúng ta đều chạy theo hạnh phúc và bằng lòng với sự vắng mặt của những tay chính khách.
Mùa hè vừa rồi, Feller bám theo đánh thuế tôi. Anh ta bảo tôi kê khai tới những thứ tối thiểu cuối cùng mà tôi có được. Thế là tôi kê khai những con ngựa của tôi, Tom và Jerry theo ước giá mỗi con năm mươi đô-la, cặp bò của tôi, Buck và Bright trị giá năm mươi đô-la và con bò cái ba mươi lăm đô-la.
Ông ta hỏi “Anh chỉ có thế thôi sao?”. Được, tôi nói với ông ta là tôi khai thêm năm đứa con và tôi liệt giá mỗi đứa một đô-la.
Ông ta nói “Đó là tất cả?” Ông ta tiếp “Còn vợ anh thì sao?”
Tôi nói với ông ta “Chúa chứng giám cho tôi. Cô ấy nói rằng cô ấy không phải vật sở hữu của tôi nên tôi không tính là đóng một xu thuế nào cho cô ấy”. Tôi nói và tôi không kê khai.
Mẹ nói:
- Sao, anh Edwards, đây là những tin tức thông báo cho chúng tôi biết anh đã có gia đình. Anh Ingalls không nói gì về chuyện này cả.
Bố giải thích:
- Chính anh cũng không hề hay biết. Nhưng này Edwards, dù sao anh cũng không phải trả thuế vợ và thuế con.
Ông Edwards nói:
- Ông ta muốn có một bản liệt kê thuế thật dài. Các chính khách rất thích dí mũi vào công việc của người ta và tôi tính làm cho họ hài lòng.
Điều đó chẳng thành vấn đề gì vì tôi đâu có định đóng thuế. Tôi đã từ bỏ quyền khai thác phần đất được cấp phát và vào mùa xuân khi đám nhân viên thuế lảng vảng tới thì tôi đã đi khỏi đó rồi. Đi không có con, không có vợ, vì đâu còn cách nào.
Trước khi bố hoặc mẹ kịp lên tiếng, còi xe lửa hụ lớn và kéo dài. Ông Edwards nói:
- Nó gọi rồi!
Và ông đứng lên khỏi bàn ăn.
Bố nài nỉ:
- Edwards, hãy đổi ý, ở lại thêm một lúc nữa. Anh luôn đem may mắn đến cho chúng tôi.
Nhưng ông Edwards lần lượt bắt tay mọi người và cuối cùng bắt tay Mary đang ngồi bên cạnh ông ấy. Ông ấy nói:
- Tạm biệt tất cả!
Và vội vã bước ra khỏi cửa chạy về phía nhà ga.
Suốt khoảng thời gian đó, Grace chỉ trố mắt nhìn và lắng nghe chứ không nói một tiếng nào. Lúc này thì ông Edwards đột ngột biến mất và bé hít một hơi thật dài, hỏi:
- Mary, đó là người đã nhìn thấy ông già Noel hả?
Mary đáp:
- Ừ. Đó là người đã đi bộ suốt bốn mươi dăm dưới trời mưa tới Independence để gặp ông già Noel ở đó và mang quà Noel về cho Laura và chị lúc các chị còn là những cô bé.
Mẹ nói:
- Ông ấy có một tấm long vàng.
Laura nhắc:
- Ông ấy đem về cho mỗi đứa con một chiếc ly thiếc và một thỏi kẹo.
Cô chậm chạp đứng lên và bắt đầu giúp mẹ với Carrie dọn dẹp bàn ăn. Bố đi tới chiếc ghế lớn gần lò bếp.
Mary nhấc chiếc khăn tay trong long bàn tay lên khi cô rời bàn ăn và một cái gì đó rơi nhẹ Cap Garland nền nhà. Mẹ cúi xuống lượm lên. Mẹ đứng sững cầm vật đó trong tay không nói được tiếng nào và Laura kêu lớn:
- Mary! Hai mươi đô-la! Chị vừa đánh rơi một tờ hai mươi đô-la!
Mary kinh ngạc:
- Làm sao có chuyện đó!
Bố nói:
- Đó là của Edwards.
Mẹ nói:
- Mình không thể giữ lại.
Nhưng tiếng còi từ giã cuối cùng của chuyến xe lửa đã bốc lên một hồi dài lanh lảnh.
Bố hỏi:
- Em tính sao về chuyện này? Edwards đã đi rồi và mình khó gặp lại nổi anh ấy trong nhiều năm, có thể là không bao giờ gặp lại nữa. Anh ấy đang đi tới Oregon vào màu xuân.
Mẹ khẽ kêu lên trong sự bối rối:
- Nhưng, Charles… Ôi, tại sao anh ấy làm vậy?
Bố nói:
- Anh ấy cho Mary. Hãy để Mary giữ số tiền. Có thể số tiền sẽ giúp con tới trường được.
Mẹ suy nghĩ một lát rồi nói:
- Thôi được!
Và mẹ đưa tờ giấy bạc cho Mary.
Mary cầm một cách cẩn thận, vuốt nhẹ bằng mấy đầu ngón tay và gương mặt rạng sáng:
- Ôi, cháu cảm ơn bác Edwards.
Mẹ nói:
- Em mong là anh ấy không bao giờ cần đến số tiền này, dù anh ấy ở đâu cũng vậy.
Bố an ủi mẹ:
- Em nên tin rằng Edwards là người biết phòng xa.
Mặt Mary mơ màng như khi cô nghĩ tới trường học dành cho người khiếm thị. Cô nói:
- Mẹ, cộng với số tiền mẹ kiếm được do nấu cơm tháng hồi năm ngoái thì đã có ba mươi lăm đô-la hai mươi lăm xu.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.