Chương 113: VÒNG XOAY VUI THÚ
Đang cập nhật
06/10/2016
Bây giờ buổi tối Thứ Sáu luôn được trông chờ và sau lần sinh hoạt thứ nhì, cuộc tranh đua giữa những người tham gia đã trở thành tin tức hàng ngày. Buổi sinh hoạt thứ nhì gồm toàn những câu đố và Bố là người dành trọn vinh dự trong suốt buổi tối hôm đó. Không người nào giải nổi những câu đố của Bố. Trong bộ y phục thường ngày, Bố biểu diễn một mình. Đi bộ ngược lối đi giữa phòng, Bố mang hai củ khoai tây nhỏ đặt trên lưỡi cây rìu của Bố. Tất cả chỉ có thế. Rồi Bố đứng nháy mắt giễu đám đông đưa ra những lời gợi ý. Bố nói:
- Cần dựa theo Thánh Kinh. Có sao đâu, tất cả quí vị đều thuộc Thánh Kinh.
Bố lại nói:
- Đó là thứ mà ai cũng thường tham khảo.
Bố còn nói:
- Câu đó giúp cho sự tìm hiểu thêm Thánh Paul.
Bố giễu:
- Chớ nói với tôi rằng tất cả đều chịu thua!
Mọi người đều không giải nổi và Laura gần như nổ bùng trong sự tự hào chen lẫn thích thú khi sau cùng Bố nói với tất cả:
- Đó là những người bình giảng Thánh Kinh.
Khi lời giải đáp thấm sâu lập tức bùng lên một cơn sấm rền tiếng cười và lời hoan nghênh. Trên đường về nhà, Laura nghe thấy ông Bradley nói:
- Tụi mình phải kiếm ra một thứ gì để đánh bại cái trò hiểm hóc kia của Ingalls!
Ông Gerald Fuller với cung cách người Anh đề nghị:
- Này, mình có đủ tài năng cho một chương trình âm nhạc, được chứ?
Buổi sinh hoạt tiếp theo được dành cho âm nhạc. Bố với cây vĩ cầm và ông Gerald Fuller với cây tiểu phong cầm tạo ra một thú âm nhạc mê hoặc cả ngôi trường và đám đông. Mỗi khi hai người ngưng lại, tiếng vỗ tay tán thưởng đều bốc lên vang động.
Hình như không khi nào có thể có một buổi tối kỳ diệu hơn. Nhưng lúc này toàn thị trấn đã bừng tỉnh và nhiều gia đình từ các nông trại cũng tới tham gia sinh hoạt. Đám đàn ông ở thị trấn được khuyến khích nên cố sắp đặt cho một buổi tối âm nhạc thật tuyệt vời. Họ tập dượt và mượn cây đàn ooc-gan của ông Bradley.
Tối Thứ Sáu đó, họ dùng mền phủ kín cây đàn, đặt lên chiếc xe bò của ông Foster, cẩn thận chuyển tới trường. Cây đàn ooc-gan tuyệt đẹp bằng gỗ sáng bóng với những bàn đạp phủ thảm len, những phiếm gõ, những giá nhỏ và những chiếc gương hình hột xoài. Giá đặt nhạc là một mẩu ren đặt trên gỗ phía sau có một tấm vải đỏ và phía bên kia là một khoảng tròn trên đó đặt một cây đèn.
Chiếc bàn của thầy giáo được rời đi để dành chỗ cho cây đàn ooc-gan. Thầy Clewett viết rõ chương trình lên bảng. Chương trình gồm độc tấu ooc-gan, hòa tấu ooc-gan với vĩ cầm của Bố và đệm ooc-gan cho các cuộc trình diễn hợp ca, songca, đơn ca. Bà Bradley cất tiếng hát:
Xin trở lui, quay về thời đã mất! Hỡi thời gian đang vun vút cánh bay! Cho tôi lại thành bé thơ ngây dại! Dù chỉ trong khoảnh khắc đêm nay
Laura khó chịu nổi nét buồn của điệu hát. Cô cảm thấy nhức đau ở trong họng. Trên gò má của Mẹ, một giọt nước mắt lăn xuống trước khi Mẹ kịp đưa chiếc khăn tay lên chặn. Tất cả đám phụ nữ đều chùi mắt còn các ông thì khẽ hắng giọng và cánh mũi rung rung. Mọi người đều cho rằng không còn mục nào hay hơn trong chương trình âm nhạc đó. Nhưng Bố nói một cách bí mật:
- Hãy chờ coi.
Tựa hồ như thế vẫn chưa đủ nên cuối cùng nhà thờ đã lợp mái xong và lúc này mỗi Chủ Nhật lại có thêm hai buổi sinh hoạt là buổi lễ tại nhà thờ và lớp học ngày Chủ Nhật.
Nhà thờ rất xinh dù gỗ còn mới giống như ván tươi, trên gác chuông chưa có chuông và các bức vách chưa hoàn tất. Phía ngoài, vách chưa đổi màu vì nắng gió và bên trong vẫn chỉ là những tấm ván trần trụi lốm đốm vết đinh. Bục giảng và các dãy ghế dài cũng bằng gỗ tươi nhưng mới và còn nồng mùi gỗ.
Trong khoảng hành lang nhỏ ngoài cửa ra vào là một gian phòng vừa đủ để đứng rũ tuyết ra khỏi giày và sửa lại quần áo xộc xệch trước khi bước vào nhà thờ. Chiếc lò sưởi than và đám đông khiến nhà thờ ấm hẳn và chiếc đàn ooc-gan do bà Bradley cho nhà thờ mượn khiến nhà thờ có thể vang lên tiếng đàn hòa theo tiếng hát.
Laura thậm chí còn thấy vui với bài giảng của cha Brown. Những điều ông nói không gây ấn tượng với cô nhưng ông rất giống với bức chân dung John Brown trong cuốn sách lịch sử hiện ra sống động. Ánh mắt ông đầy thách thức, hàng ria mép màu trắng và bộ râu quai nón chuyển động đột ngột trong khi những bàn tay to chè bè của ông chập chờn chụp vào không khí rồi nắm thành nắm đấm đập lên bục giảng. Laura tự tạo niềm vui cho mình bằng cách thầm thay đổi trong đầu những câu nói của ông cho hợp văn phạm hơn. Cô không cần nhớ bài giảng vì ở nhà Bố chỉ đòi cô và Carrie thuộc nguyên văn bài kinh. Rồi, khi bài giảng qua đi thì còn có ca hát. Hay hơn hết là bài Thánh Thi Mười Tám khi những phím đàn rung lên và mọi người đều hát lớn:
Gậy nắm trong tay, vững vàng ta bước tới
Ngần ngại chi sa mạc mênh mang
Soi hướng ta đi là đức tin ngời sáng
Hy vọng ngày mai là sức mạnh phi thường
Và nẻo đường đưa ta về đất sống
Đã hiện hình trong khúc hát hành hương
Rồi tất cả hợp ca át hẳn tiếng đàn:
Nẻo đường xưa cha ông ta đã bước
Nẻo đường xưa đưa ta tới với Vua ta
Nẻo đường đi trong ánh dương chói lọi
Dẫn ta về đất hứa hiền hòa!
Với lớp học ngày Chủ Nhật, khóa lễ buổi sáng, bữa ăn trưa cùng việc rửa chén đĩa và trở lại nhà thờ vào buổi tối, mọi ngày Chủ Nhật đều trôi qua thật mau. Rồi lại tới ngày Thứ Hai ở trường học và dấy lên sự chờ đợi đầy kích thích buổi sinh hoạt văn học ngày Thứ Sáu. Ngày Thứ Bảy không đủ dài cho những cuộc chuyện trò sẽ trôi qua để tiếp nối trở lại ngày Chủ Nhật. Dường như ngần ấy thứ vẫn còn chưa đủ nên Hội Phụ Nữ Cứu Trợ đã sắp đặt một ngày lễ Tạ Ơn trọng thể với mục đích gây quỹ cho nhà thờ. Đó là việc tổ chức buổi dạ tiệc Tân Anh Cát Lợi.
Laura hối hả rời trường học chạy ào về giúp Mẹ gọt vỏ, xắt lát và hầm nhừ trái bí lớn nhất mà Bố trồng hồi mùa hè vừa qua. Cô cũng cẩn thận chọn và rửa kỹ một số đậu trắng. Mẹ đang làm một chiếc bánh bí nhồi thịt khổng lồ và một xoong lớn đậu hầm cho bữa dạ tiệc.
Không có buổi học trong Ngày Lễ Tạ Ơn. Cũng không có bữa ăn trưa đặc biệt trong ngày hôm đó. Đó là một ngày trống trơn kỳ lạ đầy lo âu trong chừng việc nấu các món ăn và chờ đợi buổi tối. Buổi chiều cả nhà luân phiên tắm rửa trong chiếc thùng tắm trong nhà bếp. Thật lạ lùng là tắm rửa giữa ban ngày và vào ngày Thứ Năm. Sau đó, Laura lo chải chiếc áo vẫn mặc tới trường, chải và uốn mới lại các lọn tóc. Mẹ thay chiếc áo đẹp thứ nhì và Bố tỉa tót bộ râu rồi mặc bộ đồ dành cho ngày Chủ Nhật.
Vào lúc lên đèn, khi tất cả đã đói, Mẹ phủ kín chảo đậu bằng tấm giấy bọc màu nâu và chiếc khăn san để giữ cho đậu nóng còn Laura thay đồ cho Grace rồi vội vã choàng áo, đội mũ trùm. Bố bưng chảo đậu, Mẹ khệ nệ bê bằng cả hai tay chiếc bánh bí nhồi được Mẹ nướng trong chiếc vỉ nướng vuông lớn bằng thiếc. Laura và Carrie khiêng một giỏ đầy chén đĩa và Grace vịn vào một bàn tay của Laura.
Ngay lúc vừa băng qua tới phía cửa hàng Fuller, tất cả đã nhìn thấy nhà thờ sáng trưng ở bên kia những lô đất trống. Tụ quanh nhà thờ là những cỗ xe, những cặp ngựa kéo, những con ngựa đóng yên và trong ánh sáng lờ mờ ở hành lang nhiều người đang bước vào.
Tất cả những ngọn đèn gắn trên vách nhà thờ đều tỏa sáng. Những chiếc phao thủy tinh đều đầy dầu và ánh đèn chói lọi phản chiếu từ những chụp bằng thiếc gắn phía sau bóng đèn. Những băng ghế được kéo lui sát vách và ở chính giữa phòng là hai dãy bàn dài trải khăn trắng rực rỡ. Carrie kêu lên:
- Ui cha, coi kìa!
Laura đứng lặng một hồi. Ngay cả Bố Mẹ cũng khựng lại vì ngạc nhiên. Một người lớn không khi nào bộc lộ cảm giác bằng cách kêu lên hoặc bằng cử chỉ. Cho nên, Laura chỉ nhìn và khẽ suỵt ra dấu cho Grace dù chính cô đang bị kích thích và choáng ngợp không khác Carrie.
Chính giữa một chiếc bàn đang đặt một con heo quay nâu bóng với một trái táo màu đỏ thật đẹp ngậm trong miệng. Mùi thịt heo quay thơm phức bốc trên mọi mùi thơm tỏa ra từ những chiếc bàn. Trọn đời mình, Laura và Carrie không khi nào nhìn thấy nhiều thức ăn như thế. Mọi chiếc bàn đều đầy ắp. Những chiếc đĩa chất đống khoai tây nghiền, củ cải nghiền, cà chua ép, tất cả đều đang nhễu bơ ròng ròng từ trên đỉnh xuống. Còn có những tô lớn đựng bắp rang đã được nhúng mềm và nấu với kem. Bên cạnh là những chiếc đĩa chồng cao những ổ bánh bột bắp vàng óng và những khoanh bánh mì nâu, trắng, bánh hạnh nhân. Dưa leo dầm, củ cải đường dầm, cà chua xanh dầm chen chúc với những chiếc tô thủy tinh có chân đứngcao đựng đầy mứt cà chua và mứt anh đào dại. Mỗi chiếc bàn đều có một chảo lớn bánh nhồi thịt gà đang tươm hơi qua những khía nứt trên lớp vỏ bánh rạn vỡ.
Vượt lên trên hết vẫn là con heo quay. Được chống bằng những chiếc que ngắn, nó giống hệt như đang đứng trên chiếc chảo lớn đầy táo hầm. Từ bao lâu rồi, Laura không hề thấy món ăn nào có hương vị béo ngậy, đậm đà như món heo quay này.
Mọi người đang ngồi quanh bàn nhận thức ăn, chuyển đĩa cho nhau và ăn uống, trò chuyện. Phần thịt từ một bên sườn con heo đang được chặt thành miếng, nước mỡ tuôn xuống và bốc hơi nghi ngút.
Laura nghe thấy một người hỏi khi chuyển chiếc đĩa lại để nhận thêm thức ăn:
- Con heo này nặng khoảng bao nhiêu?
Người đang chặt thịt chặt một khoanh dày và trả lời:
- Khó nói chính xác nhưng ước khoảng bốn chục pao. Quanh bàn không có một khoảng trống. Lăng xăng phía sau những chiếc ghế bà Tinkham và bà Bradley len lách giữa những chiếc vai để tiếp thêm đầy trà hoặc cà phê cho những chiếc ly. Nhiều bà khác đang dẹp những chiếc đĩa đã được dùng xong để thay bằng những chiếc đĩa sạch. Ngay khi một người ăn xong vừa đứng lên là có người chiếm chỗ ngay, dù giá bữa ăn tới năm mươi xu. Nhà thờ chật cứng nhưng vẫn còn nhiều người đang kéo đến.
Tất cả đều xa lạ đối với Laura. Cô cảm thấy lạc lõng và không biết làm gì cho tới khi cô nhìn thấy Ida đang loay hoay rửa chén trong một góc. Mẹ bắt đầu giúp lo việc quanh bàn nên Laura tới phụ Ida. Ida hỏi:
- Bồ có mang tạp dề theo không? Nếu không thì đeo chiếc khăn này để khỏi làm dơ quần áo. Là con gái của mục sư nên Ida thường tới nhà thờ giúp việc. Ống tay áo xắn cao, áo che kín trong một tấm tạp dề lớn, cô tươi cười trò chuyện trong lúc rửa chén đĩa thật nhanh và Laura phụ lau sạch. Ida hoan hỉ nói:
- Chà, bữa dạ tiệc này thành công rất lớn. Bồ có khi nào nghĩ là mình tiếp đón một số người đông tới thế!
- Không.
Laura đáp và thì thào:
- Sẽ còn gì cho tụi mình ăn không?
- Ồ, có chứ.
Ida trả lời một cách tự tin và cô nói tiếp:
- Má Brown luôn tính trước việc đó. Má đã giữ lại một cặp bánh nhồi thịt ngon nhất và một tảng bánh ngọt.
Laura không lưu ý nhiều tới bánh nhồi trái cây và bánh ngọt. Cô chỉ hy vọng còn một ít thịt heo quay khi tới lượt cô ngồi vào bàn ăn.
Và người đứng lên nhường chỗ cho Bố cùng Carrie và Grace. Laura liếc nhìn mọi người ăn uống ngon lành trong lúc cô tiếp tục chén đĩa. Cô lau thật nhanh cho kịp chuyển qua bàn trong khi chén đĩa dơ giống như được dồn tới với mức nhanh hơn và dơ hơn chất đống quanh thùng nước rửa.
Ida nói vui vẻ:
- Mình thực sự cần được phụ giúp ở đây.
Không ai ngờ trước sẽ có đông người như thế. Mẹ gần như bay lượn và hầu hết các bà khác cũng vậy. Laura miệt mài lau chén đĩa. Cô không thể bỏ mặc Ida làm một mình mặc dù cô càng lúc càng đói hơn và càng lúc càng thấy khó hy vọng sẽ còn thức ăn.
Thời gian khá dài trước khi những chiếc bàn ăn vắng người. Cuối cùng chỉ còn lại số hội viên Phụ Nữ Cứu Trợ với Laura và Ida đang đói cồn cào. Lúc đó, đĩa, tách, dao, nĩa, muỗng lại được rửa sạch và lau khô. Một bàn ăn được bày ra và tất cả đã có thể ngồi xuống. Một đống xương nằm ở chỗ con heo nhưng Laura sung sướng nhìn thấy vẫn còn khá nhiều thịt dính trên xương và trong chảo còn một ít bánh nhồi thịt gà. Bà Brown lặng lẽ đưa ra phần bánh ngọt và những chiếc bánh nhồi trái cây đã được cất lại.
Trong lúc Laura và Ida nghỉ ngơi và ăn, các bà khen ngợi nhau về các món nấu nướng rồi nói về mức thành công của buổi dạ tiệc. Tiếng trò chuyện rì rào dọc các băng ghế kê sát vách vá các góc phòng cũng như quanh lò sưởi, nơi các ông tụ lại.
Sau hết tất cả bàn ăn đều được dọn sạch. Laura và Ida lại rửa chén, lau chén còn các bà lấy ra, bỏ vào trong giỏ cùng số thức ăn còn dư. Món bánh bí nhồi của Mẹ không còn một miếng và món đậu hầm không sót lại một muỗng. Ida rửa xong chiếc vỉ và chiếc xoong cho Laura lau khô rồi Mẹ gom bỏ vào trong giỏ.
Bà Bradley đang chơi đàn oóc-gan. Bố cùng một ít người khác đang hát nhưng Grace đã buồn ngủ và tới giờ phải về nhà.
- Anh biết là em mệt lắm, Caroline. Nhưng buổi sinh hoạt xã hội này của Hội Cứu Trợ thành công lớn lắm.
Bố bồng Grace và nói trong lúc Mẹ cầm đèn soi đường còn Laura và Carrie đi sau khiêng theo chiếc giỏ chén đĩa.
Mẹ đáp:
- Mệt thật. - Giọng Mẹ dịu dàng hướng về phía Laura - Đây không phải là một buổi sinh hoạt xã hội. Đây là một bữa dạ tiệc Tân Anh Cát Lợi.
Bố không nói gì thêm. Đồng hồ điểm mười một tiếng khi về tới nhà. Ngày tiếp theo là một ngày ở trường và tối mai lại là tối Thứ Sáu sinh hoạt văn học.
Chương trình đã được thông báo là một cuộc thảo luận với đề tài: Lincoln là con người vĩ đại hơn Washington. Laura nôn nóng được lắng nghe vì luật sư Barnes hướng dẫn cuộc thảo luận và có những luận cứ phản bác rất vững chắc. Cô nói với Mẹ vào lúc hối hả tới dự:
- Chương trình rất có tính giáo dục.
Thực sự cô đang thầm phản đối chính mình vì cô biết cô cần phải học. Cô đã mất trọn hai buổi tối trong tuần lễ đó. Cô cũng còn mất thêm thời giờ vào mấy ngày Giáng Sinh và giữa các khóa học. Hộp quà Giáng Sinh cho Mary đã được gửi đi. Trong hộp quà đó, Mẹ đặt cẩn thận món đồ do Laura đan móc bằng len mịn nhuyễn trắng như những bông tuyết đang bay ngoài cửa sổ.
Mẹ đặt thêm vào đó chiếc cổ áo ren do Mẹ may bằng những sợi chỉ trắng hoàn hảo nhất. Rồi Mẹ xếp sáu chiếc khăn tay của Carrie làm bằng vải lanh mỏng. Ba chiếc khăn có đường viền ren nhỏ bằng máy và ba chiếc viền đơn giản. Grace chưa thể tự làm nổi quà Giáng Sinh nhưng để dành được mấy xu mua năm tấc băng màu xanh da trời và Mẹ làm thành một chiếc nơ bướm cho Mẹ kẹp vào lớp ren trắng trên cổ áo. Tất cả mọi người đều viết vào lá thư dài mừng Giáng Sinh và Bố bỏ thêm vào bao thư tờ giấy bạc năm đô-la. Bố nói:
- Số tiền này sẽ giúp mua được những thứ cần thiết.
Thầy giáo của Mary viết thư về nhà hết sức tán tụng Mary. Thư cũng cho biết Mary có thể gửi về nhà một mẫu xâu chuỗi nếu cô mua nổi hạt cườm và cho biết cô đang cần một tấm bảng viết đặc biệt để học cách viết chữ Braille, loại chữ dành riêng cho người mù có thể đọc được bằng cách lần các ngón tay.
- Mary sẽ biết rằng mọi người trong gia đình đều nghĩ tới nó vào dịp Giáng Sinh.
Mẹ nói và tất cả đều sung sướng nghĩ rằng hộp quà đang trên đường đi tới với Mary. Tuy nhiên, gần như không phải Giáng Sinh khi vắng mặt Mary. Chỉ riêng Grace là hoàn toàn vui vẻ khi cả nhà mở các gói quà Giáng Sinh trong bữa ăn sáng. Vì Grace có được một con búp bê thực sự với cái đầu và hai bàn tay bằng sứ cùng những chiếc dép nhỏ màu đen khâu dính vào các bàn chân bằng vải. Bố đặt mấy miếng gỗ cong trên một hộp đựng thuốc làm chiếc nôi cho búp bê còn Laura, Carrie và Mẹ làm các thứ mền, gối, khăn trải giường và cắt cho búp bê một chiếc áo dài ngủ, một chiếc mũ trùm. Grace vô cùng sung sướng.
Laura và Carrie chung nhau mua tặng Mẹ một chiếc đê bằng bạc của Đức, tặng Bố một chiếc cà vạt lụa. Và bên cạnh đĩa của Laura là cuốn sách màu xanh mạ vàng, Thơ Tennyson. Bố Mẹ không hề nghĩ rằng Laura không ngạc nhiên. Họ cũng mua về từ Iowa cho Carrie một cuốn sách và giấu kín. Đó là cuốn Những Câu Chuyện Về Moorland.
Tất cả quà Giáng Sinh là như vậy. Sau khi làm xong công việc buổi sáng, Laura ngồi xuống đọc bài thơ Những Kẻ Ăn Đào Tiên. Ngay cả bài thơ đó cũng là một nỗi thất vọng vì trên mảnh đất luôn luôn là buổi chiều kia các chàng thủy thủ cũng chẳng chứng tỏ được có gì tốt đẹp. Hình như họ chỉ nghĩ rằng họ được sống trên mảnh đất thần tiên đó và nằm dài than thở.
Khi họ nghĩ về cuộc sống khuấy động của mình, họ chỉ la lên:
- Cớ sao chúng ta phải vật lộn với sóng gió dữ dằn?
Sao lại phàn nàn! Laura nghĩ một cách khó chịu. Công việc của thủy thủ không phải là vật lộn với sóng gió dữ dằn sao? Họ đã không nghĩ thế, họ mong muốn một sự dễ dàng mộng tưởng. Laura gấp cuốn sách lại. Cô biết trong một cuốn sách như thế phải có nhiều bài thơ hay, nhưng cô nhớ Mary nhiều đến nỗi không còn lòng dạ nào để đọc nữa.
Lúc đó, Bố hối hả từ bưu điện về với một lá thư. Nét chữ trong thư rất lạ nhưng thư ký tên Mary! Mary viết rằng cô đặt giấy lên một tấm bảng kim loại có kẻ rãnh và cảm giác về những đường kẻ giúp cô viết nổi lá thư bằng cây bút chì. Lá thư này là quà Giáng Sinh của cô gửi tới cả nhà.
Cô viết rằng cô rất thích trường học và các thầy giáo đều bảo cô học hành rất khá. Hiện cô đang học đọc và viết chữ Braille. Cô mong được cùng cả nhà họp mặt trong dịp Giáng Sinh và chắc rằng cả nhà đang nghĩ nhiều đến cô không khác gì cô đang nghĩ đến cả nhà. Một ngày lặng lẽ trôi qua sau khi đọc xong lá thư. Có lần Laura nói:
- Nếu Mary ở đây, chị ấy sẽ vui thích ngần nào với những buổi sinh hoạt văn học!
Rồi đột nhiên cô thấy mọi sự đã đổi thay thật nhanh. Còn sáu năm nữa Mary mới có thể trở về và sẽ không thể nào còn một điều gì nguyên vẹn.
Laura không học hành được gì vào những ngày giữa các khóa học và tháng Giêng vùn vụt trôi nhanh tới mức cô muốn hụt hơi để bắt kịp thời gian. Mùa đông năm đó êm ả đến nỗi không mất một buổi học nào. Mỗi đêm Thứ Sáu vẫn có sinh hoạt văn học và càng lúc càng thêm lôi cuốn.
Chương trình bữa đó là Viện Bảo Tàng Sáp của cô Jarley. Nhiều người ở cách xa cũng kéo tới. Những con ngựa kéo xe, những cỗ xe, những con ngựa đóng yên đứng đầy quanh các cột buộc. Những con ngựa hung Morgan cũng đứng đó với những tấm mền phủ ấm trên người và Almanzo Wilder có mặt cùng Cap Garland trong đám đông ở trường học.
Tấm màn che làm bằng những chiếc mền trắng quây kín chiếc bục của thầy giáo. Khi tấm màn được kéo sang hai bên, một tiếng ồ kinh ngạc vang lên và dọc bức vách phía sau bục là một hàng hình nhân sáp lớn bằng người thật.
Ít ra thì tất cả đều có vẻ như được làm bằng sáp. Các khuôn mặt đều trắng như sáp, trừ những cặp lông mày vẽ đen và những đôi môi tô đỏ. Quấn trong những nếp vải màu trắng, mọi hình nhân đều bất động như những bức hình khắc họa.
Cô Jarley ngắm nghía những hình nhân sáp một hồi rồi bước tới từ phía sau tấm màn đã được kéo lui. Không người nào biết cô là ai. Cô mặc chiếc áo dài đen rộng thùng thình, đội một chiếc mũ loa và cầm trong tay chiếc gậy mà thầy giáo vẫn dùng để chỉ lên bảng.
Bằng một giọng trầm, cô nói trong lúc chạm đầu gậy vào một hình nhân sáp:
- George Washington, tôi ra lệnh cho ông! Hãy sống lại và cử động!
Hình nhân lập tức cử động. Với những cái giật nhanh, cứng ngắc, một cánh tay nhấc lên, đưa cao từ những nếp vải trắng một bàn tay giống như bằng sáp đang cầm chiếc rìu. Cánh tay phác họa những cửđộng bửa củi bằng rìu.
Cô Jarley gọi tên từng hình nhân, đụng vào bằng đầu cây gậy và mỗi hình nhân đều cử động bằng cách giật lắc lư. Daniel Boone đưa lên, hạ xuống một cây súng. Nữ hoàng Elizabeth đội vào và lấy ra chiếc vương miện dát vàng. Bàn tay cứng ngắc của văn hào Walter Raleigh đẩy chiếc tẩu thuốc từ phía này tới phía kia của cặp môi bất động.
Lần lượt mọi hình nhân đều cử động. Tất cả tiếp tục cử động theo đúng cách người sáp vô hồn cứng ngắc đến nỗi khó tin nổi đó là những người sống thật. Sau hết, khi tấm màn che được hạ xuống, một hơi thở dài trút ra rồi tiếng hoan hô cuồng loạn bốc lên. Tất nhiên, lúc này tất cả những hình nhân sáp trở lại thành người thực, bước ra đứng trước màn che trong tiếng vỗ tay tán thưởng càng cuồng loạn hơn. Cô Jarley lột chiếc mũ ra và hóa thành ông Gerald Fuller. Chiếc vương miện và bộ tóc giả của nữ hoàng Elizabeth được nhấc xuống và nữ hoàng chính là ông Bradley. Tiếng hoan hô tán thưởng hình như vô tận.
Trên đường về nhà, Mẹ nói:
- Bữa nay chắc là đạt mức vui cùng tột rồi.
Bố nói một cách giễu cợt tựa hồ biết còn nhiều điều hơn nữa:
- Em không nên vội vã. Cả thị trấn này sắp nổ tung lên bây giờ.
Hôm sau Mary Power tới chơi với Laura và trọn buổi chiều các cô chỉ nói về viện bảo tàng sáp. Tối hôm đó, khi ngồi vào học bài, Laura chỉ có thể ngáp.
- Con chắc phải lên giường mất, con buồn ngủ quá…
Cô nói và ngáp thật lớn. Mẹ nói:
- Vậy thì trong tuần này con đã mất hai buổi tối. Và tối mai lại có khóa lễ nhà thờ. Mẹ thấy quả là mình đang sống giữa một vòng xoáy vui vẻ…
Dường như có tiếng gõ cửa? Tiếng gõ cửa lại vang lên và Mẹ bước ra. Charley đang đứng đó nhưng cậu không bước vào. Mẹ nhận chiếc bao thư do cậu đưa và đóng cửa lại. Mẹ lên tiếng:
- Của con này, Laura.
Carrie và Grace tròn mắt nhìn và Bố Mẹ chờ trong lúc Laura đọc những dòng chữ ghi ngoài bao thư: Cô Laura Ingalls, De Smet, Vùng Dakota. Cô nói:
- Sao, cái này là cái gì!
Cô cẩn thận rọc bao thư bằng cây kẹp tóc và lôi ra một mảnh giấy viết thư in nhũ vàng ở mép giấy. Cô mở mảnh giấy và đọc lớn:
Ben M.Woodworth rất hân hạnh được nghênh đón tại nhà sự thăm viếng cửa bạn để dự buổi dạ tiệc bắt đầu lúc 8 giờ tối Thứ Bảy 28 tháng Giêng
Đúng như đôi lúc Mẹ vẫn làm, Laura buông người ngồi rũ xuống. Mẹ cầm tấm thiếp mời lên và đọc lại một lần nữa. Mẹ nói:
- Đó là một lễ hội. Một buổi dạ hội.
- Chao ôi, Laura! Chị được mời dự dạ hội!
Carrie kêu lên, rồi hỏi:
- Dạ hội là gì?
- Chị không biết.
Laura đáp và hỏi Mẹ:
- Ôi, Mẹ, con phải làm gì? Con chưa bao giờ dự dạ hội. Con phải xử sự ra sao trong buổi dạ tiệc?
Mẹ đáp:
- Con sẽ học được cách xử sự khi con đặt chân tới đó, Laura. Con chỉ cần giữ đúng phép lễ độ như con đã rõ.
Rõ ràng đó là sự thực nhưng Laura vẫn khó yên tâm.
- Cần dựa theo Thánh Kinh. Có sao đâu, tất cả quí vị đều thuộc Thánh Kinh.
Bố lại nói:
- Đó là thứ mà ai cũng thường tham khảo.
Bố còn nói:
- Câu đó giúp cho sự tìm hiểu thêm Thánh Paul.
Bố giễu:
- Chớ nói với tôi rằng tất cả đều chịu thua!
Mọi người đều không giải nổi và Laura gần như nổ bùng trong sự tự hào chen lẫn thích thú khi sau cùng Bố nói với tất cả:
- Đó là những người bình giảng Thánh Kinh.
Khi lời giải đáp thấm sâu lập tức bùng lên một cơn sấm rền tiếng cười và lời hoan nghênh. Trên đường về nhà, Laura nghe thấy ông Bradley nói:
- Tụi mình phải kiếm ra một thứ gì để đánh bại cái trò hiểm hóc kia của Ingalls!
Ông Gerald Fuller với cung cách người Anh đề nghị:
- Này, mình có đủ tài năng cho một chương trình âm nhạc, được chứ?
Buổi sinh hoạt tiếp theo được dành cho âm nhạc. Bố với cây vĩ cầm và ông Gerald Fuller với cây tiểu phong cầm tạo ra một thú âm nhạc mê hoặc cả ngôi trường và đám đông. Mỗi khi hai người ngưng lại, tiếng vỗ tay tán thưởng đều bốc lên vang động.
Hình như không khi nào có thể có một buổi tối kỳ diệu hơn. Nhưng lúc này toàn thị trấn đã bừng tỉnh và nhiều gia đình từ các nông trại cũng tới tham gia sinh hoạt. Đám đàn ông ở thị trấn được khuyến khích nên cố sắp đặt cho một buổi tối âm nhạc thật tuyệt vời. Họ tập dượt và mượn cây đàn ooc-gan của ông Bradley.
Tối Thứ Sáu đó, họ dùng mền phủ kín cây đàn, đặt lên chiếc xe bò của ông Foster, cẩn thận chuyển tới trường. Cây đàn ooc-gan tuyệt đẹp bằng gỗ sáng bóng với những bàn đạp phủ thảm len, những phiếm gõ, những giá nhỏ và những chiếc gương hình hột xoài. Giá đặt nhạc là một mẩu ren đặt trên gỗ phía sau có một tấm vải đỏ và phía bên kia là một khoảng tròn trên đó đặt một cây đèn.
Chiếc bàn của thầy giáo được rời đi để dành chỗ cho cây đàn ooc-gan. Thầy Clewett viết rõ chương trình lên bảng. Chương trình gồm độc tấu ooc-gan, hòa tấu ooc-gan với vĩ cầm của Bố và đệm ooc-gan cho các cuộc trình diễn hợp ca, songca, đơn ca. Bà Bradley cất tiếng hát:
Xin trở lui, quay về thời đã mất! Hỡi thời gian đang vun vút cánh bay! Cho tôi lại thành bé thơ ngây dại! Dù chỉ trong khoảnh khắc đêm nay
Laura khó chịu nổi nét buồn của điệu hát. Cô cảm thấy nhức đau ở trong họng. Trên gò má của Mẹ, một giọt nước mắt lăn xuống trước khi Mẹ kịp đưa chiếc khăn tay lên chặn. Tất cả đám phụ nữ đều chùi mắt còn các ông thì khẽ hắng giọng và cánh mũi rung rung. Mọi người đều cho rằng không còn mục nào hay hơn trong chương trình âm nhạc đó. Nhưng Bố nói một cách bí mật:
- Hãy chờ coi.
Tựa hồ như thế vẫn chưa đủ nên cuối cùng nhà thờ đã lợp mái xong và lúc này mỗi Chủ Nhật lại có thêm hai buổi sinh hoạt là buổi lễ tại nhà thờ và lớp học ngày Chủ Nhật.
Nhà thờ rất xinh dù gỗ còn mới giống như ván tươi, trên gác chuông chưa có chuông và các bức vách chưa hoàn tất. Phía ngoài, vách chưa đổi màu vì nắng gió và bên trong vẫn chỉ là những tấm ván trần trụi lốm đốm vết đinh. Bục giảng và các dãy ghế dài cũng bằng gỗ tươi nhưng mới và còn nồng mùi gỗ.
Trong khoảng hành lang nhỏ ngoài cửa ra vào là một gian phòng vừa đủ để đứng rũ tuyết ra khỏi giày và sửa lại quần áo xộc xệch trước khi bước vào nhà thờ. Chiếc lò sưởi than và đám đông khiến nhà thờ ấm hẳn và chiếc đàn ooc-gan do bà Bradley cho nhà thờ mượn khiến nhà thờ có thể vang lên tiếng đàn hòa theo tiếng hát.
Laura thậm chí còn thấy vui với bài giảng của cha Brown. Những điều ông nói không gây ấn tượng với cô nhưng ông rất giống với bức chân dung John Brown trong cuốn sách lịch sử hiện ra sống động. Ánh mắt ông đầy thách thức, hàng ria mép màu trắng và bộ râu quai nón chuyển động đột ngột trong khi những bàn tay to chè bè của ông chập chờn chụp vào không khí rồi nắm thành nắm đấm đập lên bục giảng. Laura tự tạo niềm vui cho mình bằng cách thầm thay đổi trong đầu những câu nói của ông cho hợp văn phạm hơn. Cô không cần nhớ bài giảng vì ở nhà Bố chỉ đòi cô và Carrie thuộc nguyên văn bài kinh. Rồi, khi bài giảng qua đi thì còn có ca hát. Hay hơn hết là bài Thánh Thi Mười Tám khi những phím đàn rung lên và mọi người đều hát lớn:
Gậy nắm trong tay, vững vàng ta bước tới
Ngần ngại chi sa mạc mênh mang
Soi hướng ta đi là đức tin ngời sáng
Hy vọng ngày mai là sức mạnh phi thường
Và nẻo đường đưa ta về đất sống
Đã hiện hình trong khúc hát hành hương
Rồi tất cả hợp ca át hẳn tiếng đàn:
Nẻo đường xưa cha ông ta đã bước
Nẻo đường xưa đưa ta tới với Vua ta
Nẻo đường đi trong ánh dương chói lọi
Dẫn ta về đất hứa hiền hòa!
Với lớp học ngày Chủ Nhật, khóa lễ buổi sáng, bữa ăn trưa cùng việc rửa chén đĩa và trở lại nhà thờ vào buổi tối, mọi ngày Chủ Nhật đều trôi qua thật mau. Rồi lại tới ngày Thứ Hai ở trường học và dấy lên sự chờ đợi đầy kích thích buổi sinh hoạt văn học ngày Thứ Sáu. Ngày Thứ Bảy không đủ dài cho những cuộc chuyện trò sẽ trôi qua để tiếp nối trở lại ngày Chủ Nhật. Dường như ngần ấy thứ vẫn còn chưa đủ nên Hội Phụ Nữ Cứu Trợ đã sắp đặt một ngày lễ Tạ Ơn trọng thể với mục đích gây quỹ cho nhà thờ. Đó là việc tổ chức buổi dạ tiệc Tân Anh Cát Lợi.
Laura hối hả rời trường học chạy ào về giúp Mẹ gọt vỏ, xắt lát và hầm nhừ trái bí lớn nhất mà Bố trồng hồi mùa hè vừa qua. Cô cũng cẩn thận chọn và rửa kỹ một số đậu trắng. Mẹ đang làm một chiếc bánh bí nhồi thịt khổng lồ và một xoong lớn đậu hầm cho bữa dạ tiệc.
Không có buổi học trong Ngày Lễ Tạ Ơn. Cũng không có bữa ăn trưa đặc biệt trong ngày hôm đó. Đó là một ngày trống trơn kỳ lạ đầy lo âu trong chừng việc nấu các món ăn và chờ đợi buổi tối. Buổi chiều cả nhà luân phiên tắm rửa trong chiếc thùng tắm trong nhà bếp. Thật lạ lùng là tắm rửa giữa ban ngày và vào ngày Thứ Năm. Sau đó, Laura lo chải chiếc áo vẫn mặc tới trường, chải và uốn mới lại các lọn tóc. Mẹ thay chiếc áo đẹp thứ nhì và Bố tỉa tót bộ râu rồi mặc bộ đồ dành cho ngày Chủ Nhật.
Vào lúc lên đèn, khi tất cả đã đói, Mẹ phủ kín chảo đậu bằng tấm giấy bọc màu nâu và chiếc khăn san để giữ cho đậu nóng còn Laura thay đồ cho Grace rồi vội vã choàng áo, đội mũ trùm. Bố bưng chảo đậu, Mẹ khệ nệ bê bằng cả hai tay chiếc bánh bí nhồi được Mẹ nướng trong chiếc vỉ nướng vuông lớn bằng thiếc. Laura và Carrie khiêng một giỏ đầy chén đĩa và Grace vịn vào một bàn tay của Laura.
Ngay lúc vừa băng qua tới phía cửa hàng Fuller, tất cả đã nhìn thấy nhà thờ sáng trưng ở bên kia những lô đất trống. Tụ quanh nhà thờ là những cỗ xe, những cặp ngựa kéo, những con ngựa đóng yên và trong ánh sáng lờ mờ ở hành lang nhiều người đang bước vào.
Tất cả những ngọn đèn gắn trên vách nhà thờ đều tỏa sáng. Những chiếc phao thủy tinh đều đầy dầu và ánh đèn chói lọi phản chiếu từ những chụp bằng thiếc gắn phía sau bóng đèn. Những băng ghế được kéo lui sát vách và ở chính giữa phòng là hai dãy bàn dài trải khăn trắng rực rỡ. Carrie kêu lên:
- Ui cha, coi kìa!
Laura đứng lặng một hồi. Ngay cả Bố Mẹ cũng khựng lại vì ngạc nhiên. Một người lớn không khi nào bộc lộ cảm giác bằng cách kêu lên hoặc bằng cử chỉ. Cho nên, Laura chỉ nhìn và khẽ suỵt ra dấu cho Grace dù chính cô đang bị kích thích và choáng ngợp không khác Carrie.
Chính giữa một chiếc bàn đang đặt một con heo quay nâu bóng với một trái táo màu đỏ thật đẹp ngậm trong miệng. Mùi thịt heo quay thơm phức bốc trên mọi mùi thơm tỏa ra từ những chiếc bàn. Trọn đời mình, Laura và Carrie không khi nào nhìn thấy nhiều thức ăn như thế. Mọi chiếc bàn đều đầy ắp. Những chiếc đĩa chất đống khoai tây nghiền, củ cải nghiền, cà chua ép, tất cả đều đang nhễu bơ ròng ròng từ trên đỉnh xuống. Còn có những tô lớn đựng bắp rang đã được nhúng mềm và nấu với kem. Bên cạnh là những chiếc đĩa chồng cao những ổ bánh bột bắp vàng óng và những khoanh bánh mì nâu, trắng, bánh hạnh nhân. Dưa leo dầm, củ cải đường dầm, cà chua xanh dầm chen chúc với những chiếc tô thủy tinh có chân đứngcao đựng đầy mứt cà chua và mứt anh đào dại. Mỗi chiếc bàn đều có một chảo lớn bánh nhồi thịt gà đang tươm hơi qua những khía nứt trên lớp vỏ bánh rạn vỡ.
Vượt lên trên hết vẫn là con heo quay. Được chống bằng những chiếc que ngắn, nó giống hệt như đang đứng trên chiếc chảo lớn đầy táo hầm. Từ bao lâu rồi, Laura không hề thấy món ăn nào có hương vị béo ngậy, đậm đà như món heo quay này.
Mọi người đang ngồi quanh bàn nhận thức ăn, chuyển đĩa cho nhau và ăn uống, trò chuyện. Phần thịt từ một bên sườn con heo đang được chặt thành miếng, nước mỡ tuôn xuống và bốc hơi nghi ngút.
Laura nghe thấy một người hỏi khi chuyển chiếc đĩa lại để nhận thêm thức ăn:
- Con heo này nặng khoảng bao nhiêu?
Người đang chặt thịt chặt một khoanh dày và trả lời:
- Khó nói chính xác nhưng ước khoảng bốn chục pao. Quanh bàn không có một khoảng trống. Lăng xăng phía sau những chiếc ghế bà Tinkham và bà Bradley len lách giữa những chiếc vai để tiếp thêm đầy trà hoặc cà phê cho những chiếc ly. Nhiều bà khác đang dẹp những chiếc đĩa đã được dùng xong để thay bằng những chiếc đĩa sạch. Ngay khi một người ăn xong vừa đứng lên là có người chiếm chỗ ngay, dù giá bữa ăn tới năm mươi xu. Nhà thờ chật cứng nhưng vẫn còn nhiều người đang kéo đến.
Tất cả đều xa lạ đối với Laura. Cô cảm thấy lạc lõng và không biết làm gì cho tới khi cô nhìn thấy Ida đang loay hoay rửa chén trong một góc. Mẹ bắt đầu giúp lo việc quanh bàn nên Laura tới phụ Ida. Ida hỏi:
- Bồ có mang tạp dề theo không? Nếu không thì đeo chiếc khăn này để khỏi làm dơ quần áo. Là con gái của mục sư nên Ida thường tới nhà thờ giúp việc. Ống tay áo xắn cao, áo che kín trong một tấm tạp dề lớn, cô tươi cười trò chuyện trong lúc rửa chén đĩa thật nhanh và Laura phụ lau sạch. Ida hoan hỉ nói:
- Chà, bữa dạ tiệc này thành công rất lớn. Bồ có khi nào nghĩ là mình tiếp đón một số người đông tới thế!
- Không.
Laura đáp và thì thào:
- Sẽ còn gì cho tụi mình ăn không?
- Ồ, có chứ.
Ida trả lời một cách tự tin và cô nói tiếp:
- Má Brown luôn tính trước việc đó. Má đã giữ lại một cặp bánh nhồi thịt ngon nhất và một tảng bánh ngọt.
Laura không lưu ý nhiều tới bánh nhồi trái cây và bánh ngọt. Cô chỉ hy vọng còn một ít thịt heo quay khi tới lượt cô ngồi vào bàn ăn.
Và người đứng lên nhường chỗ cho Bố cùng Carrie và Grace. Laura liếc nhìn mọi người ăn uống ngon lành trong lúc cô tiếp tục chén đĩa. Cô lau thật nhanh cho kịp chuyển qua bàn trong khi chén đĩa dơ giống như được dồn tới với mức nhanh hơn và dơ hơn chất đống quanh thùng nước rửa.
Ida nói vui vẻ:
- Mình thực sự cần được phụ giúp ở đây.
Không ai ngờ trước sẽ có đông người như thế. Mẹ gần như bay lượn và hầu hết các bà khác cũng vậy. Laura miệt mài lau chén đĩa. Cô không thể bỏ mặc Ida làm một mình mặc dù cô càng lúc càng đói hơn và càng lúc càng thấy khó hy vọng sẽ còn thức ăn.
Thời gian khá dài trước khi những chiếc bàn ăn vắng người. Cuối cùng chỉ còn lại số hội viên Phụ Nữ Cứu Trợ với Laura và Ida đang đói cồn cào. Lúc đó, đĩa, tách, dao, nĩa, muỗng lại được rửa sạch và lau khô. Một bàn ăn được bày ra và tất cả đã có thể ngồi xuống. Một đống xương nằm ở chỗ con heo nhưng Laura sung sướng nhìn thấy vẫn còn khá nhiều thịt dính trên xương và trong chảo còn một ít bánh nhồi thịt gà. Bà Brown lặng lẽ đưa ra phần bánh ngọt và những chiếc bánh nhồi trái cây đã được cất lại.
Trong lúc Laura và Ida nghỉ ngơi và ăn, các bà khen ngợi nhau về các món nấu nướng rồi nói về mức thành công của buổi dạ tiệc. Tiếng trò chuyện rì rào dọc các băng ghế kê sát vách vá các góc phòng cũng như quanh lò sưởi, nơi các ông tụ lại.
Sau hết tất cả bàn ăn đều được dọn sạch. Laura và Ida lại rửa chén, lau chén còn các bà lấy ra, bỏ vào trong giỏ cùng số thức ăn còn dư. Món bánh bí nhồi của Mẹ không còn một miếng và món đậu hầm không sót lại một muỗng. Ida rửa xong chiếc vỉ và chiếc xoong cho Laura lau khô rồi Mẹ gom bỏ vào trong giỏ.
Bà Bradley đang chơi đàn oóc-gan. Bố cùng một ít người khác đang hát nhưng Grace đã buồn ngủ và tới giờ phải về nhà.
- Anh biết là em mệt lắm, Caroline. Nhưng buổi sinh hoạt xã hội này của Hội Cứu Trợ thành công lớn lắm.
Bố bồng Grace và nói trong lúc Mẹ cầm đèn soi đường còn Laura và Carrie đi sau khiêng theo chiếc giỏ chén đĩa.
Mẹ đáp:
- Mệt thật. - Giọng Mẹ dịu dàng hướng về phía Laura - Đây không phải là một buổi sinh hoạt xã hội. Đây là một bữa dạ tiệc Tân Anh Cát Lợi.
Bố không nói gì thêm. Đồng hồ điểm mười một tiếng khi về tới nhà. Ngày tiếp theo là một ngày ở trường và tối mai lại là tối Thứ Sáu sinh hoạt văn học.
Chương trình đã được thông báo là một cuộc thảo luận với đề tài: Lincoln là con người vĩ đại hơn Washington. Laura nôn nóng được lắng nghe vì luật sư Barnes hướng dẫn cuộc thảo luận và có những luận cứ phản bác rất vững chắc. Cô nói với Mẹ vào lúc hối hả tới dự:
- Chương trình rất có tính giáo dục.
Thực sự cô đang thầm phản đối chính mình vì cô biết cô cần phải học. Cô đã mất trọn hai buổi tối trong tuần lễ đó. Cô cũng còn mất thêm thời giờ vào mấy ngày Giáng Sinh và giữa các khóa học. Hộp quà Giáng Sinh cho Mary đã được gửi đi. Trong hộp quà đó, Mẹ đặt cẩn thận món đồ do Laura đan móc bằng len mịn nhuyễn trắng như những bông tuyết đang bay ngoài cửa sổ.
Mẹ đặt thêm vào đó chiếc cổ áo ren do Mẹ may bằng những sợi chỉ trắng hoàn hảo nhất. Rồi Mẹ xếp sáu chiếc khăn tay của Carrie làm bằng vải lanh mỏng. Ba chiếc khăn có đường viền ren nhỏ bằng máy và ba chiếc viền đơn giản. Grace chưa thể tự làm nổi quà Giáng Sinh nhưng để dành được mấy xu mua năm tấc băng màu xanh da trời và Mẹ làm thành một chiếc nơ bướm cho Mẹ kẹp vào lớp ren trắng trên cổ áo. Tất cả mọi người đều viết vào lá thư dài mừng Giáng Sinh và Bố bỏ thêm vào bao thư tờ giấy bạc năm đô-la. Bố nói:
- Số tiền này sẽ giúp mua được những thứ cần thiết.
Thầy giáo của Mary viết thư về nhà hết sức tán tụng Mary. Thư cũng cho biết Mary có thể gửi về nhà một mẫu xâu chuỗi nếu cô mua nổi hạt cườm và cho biết cô đang cần một tấm bảng viết đặc biệt để học cách viết chữ Braille, loại chữ dành riêng cho người mù có thể đọc được bằng cách lần các ngón tay.
- Mary sẽ biết rằng mọi người trong gia đình đều nghĩ tới nó vào dịp Giáng Sinh.
Mẹ nói và tất cả đều sung sướng nghĩ rằng hộp quà đang trên đường đi tới với Mary. Tuy nhiên, gần như không phải Giáng Sinh khi vắng mặt Mary. Chỉ riêng Grace là hoàn toàn vui vẻ khi cả nhà mở các gói quà Giáng Sinh trong bữa ăn sáng. Vì Grace có được một con búp bê thực sự với cái đầu và hai bàn tay bằng sứ cùng những chiếc dép nhỏ màu đen khâu dính vào các bàn chân bằng vải. Bố đặt mấy miếng gỗ cong trên một hộp đựng thuốc làm chiếc nôi cho búp bê còn Laura, Carrie và Mẹ làm các thứ mền, gối, khăn trải giường và cắt cho búp bê một chiếc áo dài ngủ, một chiếc mũ trùm. Grace vô cùng sung sướng.
Laura và Carrie chung nhau mua tặng Mẹ một chiếc đê bằng bạc của Đức, tặng Bố một chiếc cà vạt lụa. Và bên cạnh đĩa của Laura là cuốn sách màu xanh mạ vàng, Thơ Tennyson. Bố Mẹ không hề nghĩ rằng Laura không ngạc nhiên. Họ cũng mua về từ Iowa cho Carrie một cuốn sách và giấu kín. Đó là cuốn Những Câu Chuyện Về Moorland.
Tất cả quà Giáng Sinh là như vậy. Sau khi làm xong công việc buổi sáng, Laura ngồi xuống đọc bài thơ Những Kẻ Ăn Đào Tiên. Ngay cả bài thơ đó cũng là một nỗi thất vọng vì trên mảnh đất luôn luôn là buổi chiều kia các chàng thủy thủ cũng chẳng chứng tỏ được có gì tốt đẹp. Hình như họ chỉ nghĩ rằng họ được sống trên mảnh đất thần tiên đó và nằm dài than thở.
Khi họ nghĩ về cuộc sống khuấy động của mình, họ chỉ la lên:
- Cớ sao chúng ta phải vật lộn với sóng gió dữ dằn?
Sao lại phàn nàn! Laura nghĩ một cách khó chịu. Công việc của thủy thủ không phải là vật lộn với sóng gió dữ dằn sao? Họ đã không nghĩ thế, họ mong muốn một sự dễ dàng mộng tưởng. Laura gấp cuốn sách lại. Cô biết trong một cuốn sách như thế phải có nhiều bài thơ hay, nhưng cô nhớ Mary nhiều đến nỗi không còn lòng dạ nào để đọc nữa.
Lúc đó, Bố hối hả từ bưu điện về với một lá thư. Nét chữ trong thư rất lạ nhưng thư ký tên Mary! Mary viết rằng cô đặt giấy lên một tấm bảng kim loại có kẻ rãnh và cảm giác về những đường kẻ giúp cô viết nổi lá thư bằng cây bút chì. Lá thư này là quà Giáng Sinh của cô gửi tới cả nhà.
Cô viết rằng cô rất thích trường học và các thầy giáo đều bảo cô học hành rất khá. Hiện cô đang học đọc và viết chữ Braille. Cô mong được cùng cả nhà họp mặt trong dịp Giáng Sinh và chắc rằng cả nhà đang nghĩ nhiều đến cô không khác gì cô đang nghĩ đến cả nhà. Một ngày lặng lẽ trôi qua sau khi đọc xong lá thư. Có lần Laura nói:
- Nếu Mary ở đây, chị ấy sẽ vui thích ngần nào với những buổi sinh hoạt văn học!
Rồi đột nhiên cô thấy mọi sự đã đổi thay thật nhanh. Còn sáu năm nữa Mary mới có thể trở về và sẽ không thể nào còn một điều gì nguyên vẹn.
Laura không học hành được gì vào những ngày giữa các khóa học và tháng Giêng vùn vụt trôi nhanh tới mức cô muốn hụt hơi để bắt kịp thời gian. Mùa đông năm đó êm ả đến nỗi không mất một buổi học nào. Mỗi đêm Thứ Sáu vẫn có sinh hoạt văn học và càng lúc càng thêm lôi cuốn.
Chương trình bữa đó là Viện Bảo Tàng Sáp của cô Jarley. Nhiều người ở cách xa cũng kéo tới. Những con ngựa kéo xe, những cỗ xe, những con ngựa đóng yên đứng đầy quanh các cột buộc. Những con ngựa hung Morgan cũng đứng đó với những tấm mền phủ ấm trên người và Almanzo Wilder có mặt cùng Cap Garland trong đám đông ở trường học.
Tấm màn che làm bằng những chiếc mền trắng quây kín chiếc bục của thầy giáo. Khi tấm màn được kéo sang hai bên, một tiếng ồ kinh ngạc vang lên và dọc bức vách phía sau bục là một hàng hình nhân sáp lớn bằng người thật.
Ít ra thì tất cả đều có vẻ như được làm bằng sáp. Các khuôn mặt đều trắng như sáp, trừ những cặp lông mày vẽ đen và những đôi môi tô đỏ. Quấn trong những nếp vải màu trắng, mọi hình nhân đều bất động như những bức hình khắc họa.
Cô Jarley ngắm nghía những hình nhân sáp một hồi rồi bước tới từ phía sau tấm màn đã được kéo lui. Không người nào biết cô là ai. Cô mặc chiếc áo dài đen rộng thùng thình, đội một chiếc mũ loa và cầm trong tay chiếc gậy mà thầy giáo vẫn dùng để chỉ lên bảng.
Bằng một giọng trầm, cô nói trong lúc chạm đầu gậy vào một hình nhân sáp:
- George Washington, tôi ra lệnh cho ông! Hãy sống lại và cử động!
Hình nhân lập tức cử động. Với những cái giật nhanh, cứng ngắc, một cánh tay nhấc lên, đưa cao từ những nếp vải trắng một bàn tay giống như bằng sáp đang cầm chiếc rìu. Cánh tay phác họa những cửđộng bửa củi bằng rìu.
Cô Jarley gọi tên từng hình nhân, đụng vào bằng đầu cây gậy và mỗi hình nhân đều cử động bằng cách giật lắc lư. Daniel Boone đưa lên, hạ xuống một cây súng. Nữ hoàng Elizabeth đội vào và lấy ra chiếc vương miện dát vàng. Bàn tay cứng ngắc của văn hào Walter Raleigh đẩy chiếc tẩu thuốc từ phía này tới phía kia của cặp môi bất động.
Lần lượt mọi hình nhân đều cử động. Tất cả tiếp tục cử động theo đúng cách người sáp vô hồn cứng ngắc đến nỗi khó tin nổi đó là những người sống thật. Sau hết, khi tấm màn che được hạ xuống, một hơi thở dài trút ra rồi tiếng hoan hô cuồng loạn bốc lên. Tất nhiên, lúc này tất cả những hình nhân sáp trở lại thành người thực, bước ra đứng trước màn che trong tiếng vỗ tay tán thưởng càng cuồng loạn hơn. Cô Jarley lột chiếc mũ ra và hóa thành ông Gerald Fuller. Chiếc vương miện và bộ tóc giả của nữ hoàng Elizabeth được nhấc xuống và nữ hoàng chính là ông Bradley. Tiếng hoan hô tán thưởng hình như vô tận.
Trên đường về nhà, Mẹ nói:
- Bữa nay chắc là đạt mức vui cùng tột rồi.
Bố nói một cách giễu cợt tựa hồ biết còn nhiều điều hơn nữa:
- Em không nên vội vã. Cả thị trấn này sắp nổ tung lên bây giờ.
Hôm sau Mary Power tới chơi với Laura và trọn buổi chiều các cô chỉ nói về viện bảo tàng sáp. Tối hôm đó, khi ngồi vào học bài, Laura chỉ có thể ngáp.
- Con chắc phải lên giường mất, con buồn ngủ quá…
Cô nói và ngáp thật lớn. Mẹ nói:
- Vậy thì trong tuần này con đã mất hai buổi tối. Và tối mai lại có khóa lễ nhà thờ. Mẹ thấy quả là mình đang sống giữa một vòng xoáy vui vẻ…
Dường như có tiếng gõ cửa? Tiếng gõ cửa lại vang lên và Mẹ bước ra. Charley đang đứng đó nhưng cậu không bước vào. Mẹ nhận chiếc bao thư do cậu đưa và đóng cửa lại. Mẹ lên tiếng:
- Của con này, Laura.
Carrie và Grace tròn mắt nhìn và Bố Mẹ chờ trong lúc Laura đọc những dòng chữ ghi ngoài bao thư: Cô Laura Ingalls, De Smet, Vùng Dakota. Cô nói:
- Sao, cái này là cái gì!
Cô cẩn thận rọc bao thư bằng cây kẹp tóc và lôi ra một mảnh giấy viết thư in nhũ vàng ở mép giấy. Cô mở mảnh giấy và đọc lớn:
Ben M.Woodworth rất hân hạnh được nghênh đón tại nhà sự thăm viếng cửa bạn để dự buổi dạ tiệc bắt đầu lúc 8 giờ tối Thứ Bảy 28 tháng Giêng
Đúng như đôi lúc Mẹ vẫn làm, Laura buông người ngồi rũ xuống. Mẹ cầm tấm thiếp mời lên và đọc lại một lần nữa. Mẹ nói:
- Đó là một lễ hội. Một buổi dạ hội.
- Chao ôi, Laura! Chị được mời dự dạ hội!
Carrie kêu lên, rồi hỏi:
- Dạ hội là gì?
- Chị không biết.
Laura đáp và hỏi Mẹ:
- Ôi, Mẹ, con phải làm gì? Con chưa bao giờ dự dạ hội. Con phải xử sự ra sao trong buổi dạ tiệc?
Mẹ đáp:
- Con sẽ học được cách xử sự khi con đặt chân tới đó, Laura. Con chỉ cần giữ đúng phép lễ độ như con đã rõ.
Rõ ràng đó là sự thực nhưng Laura vẫn khó yên tâm.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.