Quyển 5 - Chương 8: Đàm phán
Get Backer
27/07/2018
Ngay lúc này, Vô Phong cần viết di chúc. Nội dung chẳng có gì nhiều
ngoài để lại tiền cho Liệt Trúc, trao trả những vật hộ mệnh cho công
chúa và Tiểu Hồ, gửi gắm Hỏa Nghi tiếp tục điều tra bí mật Ngục Thánh.
Nếu Chợ Rác được công nhận là một quận, hắn cần ủy thác Hỏa Nghi làm
giấy tờ chủ sở hữu căn hộ rồi chuyển quyền thừa kế cho Liệt Trúc[1]. Nếu người Tuyệt Tưởng Thành công khai cảm ơn Vô Phong sau chiến tranh, hắn
muốn Tiểu Hồ nhận phần thưởng hoặc tham dự lễ vinh danh. Nếu công chúa
làm hoàng đế, hắn cần Hỏa Nghi thay mặt mình gửi lời chúc mừng. Kể thì
dài mà viết ra chỉ nhõn dăm ba dòng, không đáng mấy thời gian. Xin chút
ân huệ này trước khi chết, Vô Phong nghĩ ông đại thống lĩnh sẽ chẳng hẹp hòi.
-Nhưng suy cho cùng, Thổ Hành chỉ là công cụ chiến tranh. – Ông đại thống lĩnh cất lời sau những giây phút săm soi Vô Phong bằng ánh mắt viên đạn – Những năm tháng đó, các nước đều cử đặc nhiệm hoặc thuê sát thủ tiêu diệt nhân vật cao cấp của nhau. Xung đột khắp nơi và người ta luôn nói về một cuộc đại chiến mới sau Chiến Tranh Tài Nguyên. Cha, em trai ta, thậm chí chính ta trở thành nạn nhân. Chẳng ai mong muốn cả! Và nếu ai cũng tính chuyện báo thù thì chẳng bao giờ có cái gọi là đàm phán. Cậu tóc đỏ… ta gọi cậu như thế được chứ? Mời ngồi, chúng ta nói chuyện. Hãy tự nhiên như ở nhà.
Đang tưởng chết lại thấy đường sống nhưng Vô Phong chẳng khá hơn. Hắn ngồi xuống ghế mà không dám đụng bất cứ ly trà tách sữa nào dù được mời. Có ông quản gia hầm hầm như lò áp suất ở góc phòng, tên tóc đỏ cảm giác căn phòng thiếu khí thở. Trông vậy, Khai Y liền bảo quản gia để ba người có không gian riêng tư. Đợi ông già khuất hẳn, Vô Phong mới tạm nhẹ nhõm. Khai Y tiếp lời:
-Cậu nói mình biết Mục Á? Cô ấy thế nào? Bây giờ đang ở đâu? Hãy kể từ từ và chậm rãi, ta muốn nghe rõ ràng từng chi tiết một. Nếu câu chuyện phải kéo dài tới sáng thì cứ để nó như vậy, ta có thể chờ.
Ông đại thống lĩnh từ tốn nhưng đôi mắt chú mục tên tóc đỏ, không còn quan tâm điều gì khác xung quanh mình. Trong phút chốc, Vô Phong lại thấy cửa tử xuất hiện và hé ra khe chết chóc đen ngòm. Hắn muốn thò mặt sau bức thư của đại thánh sứ rồi mới nói chuyện, ngộ nhỡ Khai Y nổi khùng thì dùng bức thư làm khiên che chắn. Nhưng cảnh tượng khôi hài đó chỉ tồn tại trong tưởng tượng của hắn. Mục Á, những sự vụ ở Hoàng Hôn Cảng, những tình tiết mà hắn điều tra được, cuộc đụng độ tại Khẩu Lỗ thành – hắn đều khai báo. Có khác chăng là Vô Phong biến mình từ chủ thể câu chuyện trở thành người ngoài cuộc: hắn kể mình điều tra theo chỉ đạo từ chính phủ Phi Thiên quốc. Một lời nói dối nguy hiểm nhưng Vô Phong không phiền. Ngược lại hắn rất vui lòng nếu lời nói dối đó làm Phi Thiên quốc khốn đốn.
Cố nhiên Khai Y chẳng thích thú câu chuyện. Vốn mong đợi đoạn kết có hậu, ông ta không chấp nhận cái cách Mục Á ngã xuống. Có lẽ vì coi Mục Á là nhân vật chính nên Khai Y tin rằng nàng miễn nhiễm với nguy hiểm. Nhưng giữa mưa bom bão đạn ở Khẩu Lỗ thành ngày đó, bất cứ ai cũng có thể nhận vai diễn phụ. Ông đại thống lĩnh hỏi, vẻ mặt thẫn thờ:
-Cô ấy còn nói điều gì không? Có gửi gắm chuyện gì không?
-Mục Á luôn yêu thương chồng mình. – Vô Phong trả lời – Cô ấy để tôi nhìn thấy tâm sự riêng tư nhất, cô ấy luôn vì người chồng của mình.
Khai Y cười gượng – cái nét ít thấy ở người đàn ông trưởng thành mà hay xuất hiện ở gã trai trẻ bị từ chối tình cảm. Nó ít nhiều tố cáo ông đại thống lĩnh từng một thời si mê người đẹp. Người phương bắc mặt lạnh nhưng không giấu giếm cảm xúc. Chuyện không mới. Điều mà tên tóc đỏ quan tâm là Khai Y sẽ xử sự thế nào, bởi lẽ hắn không thấy đôi mắt ông ta không có sự “tha thứ”. Nó đang nhăn lại, hai đầu mày xô da đẩy thịt làm gồ lên một đường bóng nhẫy trên đỉnh sống mũi, con ngươi màu lam đậm long lên tựa xoáy nước biển. Đại thánh sứ Tây Minh đã đúng một nửa về con người Khai Y. Trực giác nhắc Vô Phong nên đưa ngay bức thư hoặc không bao giờ.
Với hy vọng cái nửa “tốt bụng” của Khai Y xuất hiện, tên tóc đỏ đặt bức thư lên mặt bàn và đẩy nó về phía trước. “Tôi muốn thương lượng!” – Thông điệp của hắn rất rõ ràng. Vẫn đôi mắt đe dọa, ông đại thống lĩnh mở thư đọc một chặp. Những giây phút đó, Vô Phong nín thở, thành thử tuyến mồ hôi làm thay việc của mũi, lưng áo ướt đầm đìa giữa trời đông. Trò cân não còn tiếp tục sau khi Khai Y đọc xong thư. Ông đại thống lĩnh hoàn toàn im lặng, đặt mọi toan tính cho số phận Vô Phong vào ly rượu “sói xanh”. Ông ta thấy gì trong ngọn lửa đó? – Vô Phong tự hỏi bằng trí tưởng tượng của kẻ chênh vênh giữa lằn ranh sống chết. Kẻ sắp chết hay nghĩ nhiều và hoang tưởng.
Khai Y uống rượu không ngừng. Dù mời mọc Vô Phong nhưng ông ta tay nâng tay rót từ đầu chí cuối, chai rượu “sói xanh” thoáng chốc vơi quá nửa. Sau rốt, Khai Y chấm dứt sự phân vân trong lòng, kết thúc cả nỗi thấp thỏm của Vô Phong:
-Cậu nên biết ơn đại thánh sứ Tây Minh. Thầy đối xử công bằng với bất cứ ai, thế nên không phải ai cũng được thầy quan tâm đặc biệt thế này…
Nói rồi ông đại thống lĩnh chìa bức thư cho Vô Phong đọc. Nhờ vậy, tên tóc đỏ mới biết Khai Y từng làm hộ vệ cho đại thánh sứ. Thư viết rằng đại thánh sứ đã đoán ra số phận Mục Á, đồng thời nhờ vả Khai Y bảo toàn mạng sống cho tên tóc đỏ. Nội dung chỉ vậy, không hơn. Nhưng có thể khiến người đàn ông quyền lực bậc nhất Băng Hóa nghe lời mình, uy tín của Tây Minh đắt xắt ra vàng ra kim cương. Vô Phong thở phào dẫu cái sự an toàn chỉ kéo dài trong một năm, một tháng hoặc thậm chí chốc lát dăm ngày.
-Đáng lý ta phải công khai vụ này trước toàn thể hoàng gia và quốc hội Băng Hóa, sau đó hoàng đế lẫn quốc hội mới tính xử lý cậu thế nào. – Khai Y tiếp tục – Nhưng đây là trường hợp đặc biệt, ta sẽ tạm cho qua. Hãy nhớ: tạm thời bỏ qua! Người phương bắc không quên nợ.
-Tại sao ngài phải giữ kín chuyện? – Vô Phong thắc mắc.
-Hơn nửa thế kỷ trước, Lực Lượng Mù Thủy thảm sát họ Biệt Liên nhờ lũ phản bội và chỉ điểm trong chính phủ. – Khai Y trả lời – Sau khi đuổi bọn Mù Thủy ra khỏi đất nước, chúng ta lập ủy ban điều tra tất cả dòng họ lẫn chính khách. Từ đó tới nay, Băng Hóa đã tử hình hoặc bắt giam hơn một trăm người. Tới giờ ủy ban vẫn tiếp tục công việc, mọi chứng cứ dù nhỏ nhất đều được lưu trữ, mọi kẻ liên đới dù sống hay chết đều bị trừng phạt. Nhưng hết điều tra rồi giám sát, chúng ta không bao giờ thống kê được còn bao nhiêu kẻ phản bội đang sống giữa đất nước mình. Những kẻ phản bội vẫn đang nhóng mắt tìm kiếm họ Biệt Liên; chúng và bọn Mù Thủy biết rằng dòng máu Đại Đế vẫn sót lại sau vụ thảm sát. …
Ông đại thống lĩnh dốc nốt những giọt rượu cuối cùng trước khi khui chai mới. Lần này ông ta không mời tên tóc đỏ nữa mà tiếp tục câu chuyện:
-…dân xứ này có câu “Dòng máu họ Biệt Liên còn chảy, Băng Thổ còn hòa bình”. Rất nhiều người tin vào điều đó, và cũng bởi thế, nhiều kẻ sẵn sàng triệt hạ họ Biệt Liên bằng mọi giá. Nếu biết Mục Á – dòng máu cuối cùng của Đại Đế qua đời, dân chúng lục địa nghĩ gì? Nhất là trong hoàn cảnh bây giờ? Không đơn giản là công bố rồi tổ chức tang lễ, cậu tóc đỏ ạ!
Ở ghế đối diện tên tóc đỏ, Đa Lạt cựa quậy sau một hồi im lặng. Có lẽ vị học giả đã bình tâm sau những bất ngờ mắc toi mắc dịch mà tên tóc đỏ mang lại. Ông ta mở lời với Khai Y:
-Dù gì chuyện cũng đã xảy ra, thưa ngài. Tất cả là tai nạn. Người chứng kiến có Mi Kha và một người Thanh Thủy, nếu cần, chúng ta có thể hỏi người Thanh Thủy, người tộc này không biết nói dối. Cậu Vô Phong cần chuộc lỗi, nhưng hãy để cậu ta làm một nhiệm vụ cao cả cho Băng Hóa và hợp với danh dự.
Khai Y gật gù nhưng chưa vội quyết định. Vô Phong đoán ông ta sẽ không đưa ra một đề nghị sách vở như Đa Lạt gợi ý. Đương dưng có con thiêu thân đến bán mạng, Khai Y tất không bỏ qua dễ dàng. Là đại thống lĩnh, là chính khách, ông ta phải dồn tên tóc đỏ vào chỗ bất lợi nhất nhằm đem lại nhiều lợi ích nhất cho Băng Hóa. Chính trị là vậy. Như đọc được dự định trong đầu Khai Y, Đa Lạt tiếp lời:
-Cho tới ngày công bố sự thật, chúng ta cần Vô Phong sống. Có cậu ta đối chất, chúng ta mới có thêm bằng chứng khẳng định thân thế Mục Á. Ngài biết đấy, để chứng minh dòng máu Biệt Liên đã đứt đoạn không chỉ giám định tế bào là xong. Rất, rất nhiều thứ phiền phức…
Rồi Đa Lạt liệt kê các thủ tục hoàng gia, ông đại thống lĩnh vừa nghe vừa ngẩn mặt như khối băng nứt. Cái sự nhiêu khê làm ông ta phải tính toán lại lần nữa. Lúc ấy, Vô Phong chợt hiểu vai trò của ông học giả. Trong những việc thế này, Đa Lạt nắm giữ quy tắc và hướng dẫn đôi bên có thể hay không thể dùng điều khoản nào, đồng thời cảnh báo hậu họa nếu trái luật. Ông ta không phán xét như quan tòa nhưng luôn nhắc nhở sự phán xét, nhờ vậy ông ta vừa giúp Vô Phong vừa không đi ngược lại lợi ích tổ quốc. “Người điều phối” làm việc như vậy.
Khi chai rượu “sói xanh” vơi hết một phần ba, Khai Y cũng nghĩ xong điều kiện thương lượng. Ông ta bước đến bàn làm việc, bật máy chiếu ba chiều đoạn ngoảnh sang Vô Phong:
-Đa Lạt nói đúng, cậu cần chuộc lỗi với sự cao quý lẫn danh dự, mặc dù nó chẳng thích hợp lắm với cậu. Có vẻ cậu đang chạy trốn Phi Thiên quốc, đúng không? – Ông ta lật mở rộng màn hình ba chiều với cái mặt Vô Phong chình ình trong lệnh truy nã – Sẽ hơi khó khăn, nhưng ta có thể làm giấy tờ thông hành và nếu cậu biết cách giấu mình, việc đi lại trên Băng Thổ cũng không khó lắm.
Tên tóc đỏ ngạc nhiên:
-Đi lại trên Băng Thổ, ngài muốn tôi làm gì?
-Để tìm một thứ. – Khai Y nói – Nếu làm được, ta sẽ bỏ qua tội lỗi của cậu, và ta cũng đảm bảo rằng chính phủ hay hoàng gia Băng Hóa không xét xử cậu. Thậm chí, nếu may mắn, cậu sẽ được hoàng gia Băng Hóa ghi ơn. Ta cần cậu tìm một thứ mà nhiều năm qua, không một gã săn tiền thưởng hay tay săn lùng kỳ cựu nào làm được. Để làm việc, cậu cần vài người cũng như mua sắm dụng cụ cần thiết. Địa điểm nằm ở đây…
Ông đại thống lĩnh mở một màn hình ba chiều mới. Lúc này, ngay trước mặt Vô Phong, một bản đồ địa lý hiện ra lửng lơ giữa không trung. Bản đồ mô tả một vùng đất rộng lớn nằm ở tây bắc Băng Thổ và cách xa thành thị, gọi là Vương Quốc Cũ. Nhìn những thông tin liên quan, Vô Phong nhận ra khu vực này gần như bỏ hoang, chỉ có vài bộ tộc thiểu số sinh sống rải rác. Điều kỳ lạ là không quốc gia nào tuyên bố chủ quyền tại khu vực này. Ông đại thống lĩnh giải thích:
-Vương Quốc Cũ từng là một đế chế thời phi cơ giới. Nó được lập nên bởi những người trốn chạy từ phương tây tức lục địa Hoa Thổ. Họ tới đây, tạo nên thể chế mới và hình thành quốc gia đầu tiên tại Băng Thổ vốn chỉ toàn những bộ tộc hay thành trì nhỏ lẻ. Họ cũng mang theo cả chế độ nô lệ, để sau này chúng ta có Biệt Liên Đại Đế. Trong tâm thức phương bắc, khu vực này khởi nguồn cho tất cả song cũng mang lại đau đớn cho tất cả, nó thiêng liêng nhưng cũng đầy nguyền rủa. Thế nên không quốc gia nào chiếm hữu Vương Quốc Cũ, kể cả Băng Hóa.
Vô Phong nheo mắt nhìn bản đồ, trông mấy khu vực heo hút không bóng người mà ngán. Một số hình ảnh bên cạnh bản đồ cho thấy Vương Quốc Cũ chỉ toàn phế tích, rất ít hoặc hầu như không có đường bộ, họa may sót lại những đường mòn xây dựng thuở xa xưa. Ở nơi này, sóng điện thoại cũng chập chờn còn mạng máy tính ba chiều thì tịt ngóm. Vô Phong thở phù, thầm nghĩ đặt chân tới đây chưa tìm được gì đã thành món cá phi lê ngâm đá. Ông đại thống lĩnh tiếp lời:
-Như cậu vừa nghe, cần rất nhiều thủ tục nhiêu khê mới chứng minh được Mục Á mang dòng máu hoàng gia. Bởi thế nhiều năm qua, ta cử người đến Vương Quốc Cũ tìm tro cốt của bà nội Mục Á. Bà ấy tên là Biệt Liên Đa Xuyến, người được tin là sống sót sau vụ thảm sát hơn nửa thế kỷ trước. Đa Xuyến sinh ra Mục Du Cổ, cha đẻ Mục Á. Khi còn sống tại Vương Quốc Cũ, Mục Du Cổ đã hỏa thiêu mẹ mình, sau đó đem giấu tro cốt. Đến bây giờ ta vẫn không biết tro cốt ở đâu.
-Có khi nào ông ta rải sông không? – Vô Phong hỏi – Nếu thế thì sao tìm được?
Vị học giả Đa Lạt lên tiếng:
-Chúng tôi không có tục lệ rải tro xuống sông. Trong văn hóa phương bắc, nguyên tố “thủy” chỉ là phụ, thậm chí mang điềm xấu. Nhưng kể cả Mục Du Cổ rải xuống sông, tro cốt vẫn tự động thu về một chỗ mà không bị dòng chảy cuốn đi, thậm chí phát sáng rực rỡ. Đó là điểm đặc biệt của họ Biệt Liên.
-Chúng ta đã dò tìm nhiều con sông nhưng chẳng thấy gì cả. – Ông đại thống lĩnh lắc đầu – Không có di cốt của Biệt Liên Đa Xuyến, thân thế Mục Á vẫn bị bỏ ngỏ. Cậu nghĩ sao, tóc đỏ? Cậu đồng ý chứ? Hy vọng cậu rủ lòng thương cho người đã khuất, nhất là một phụ nữ.
Khai Y hạ giọng từ đe dọa sang cầu khẩn. Thâm tâm Vô Phong bị đánh động phần nào. Sau ngày Mục Á chết, hắn tự nhắc nhở mình sẽ giúp nàng lấy lại danh dự nếu có cơ hội[2]. Giờ cơ hội tới, hắn nghĩ bản thân phải có trách nhiệm dù biết nhiệm vụ ở Vương Quốc Cũ lắm rủi ro. Tên tóc đỏ tính toán một hồi, sau nói:
-Tôi cần thời gian, tôi đang vướng công việc với Mi Kha. Sau khi xong chuyện, tôi sẽ làm việc mà ngài giao. Ngoài ra, tôi cần mình được an toàn. Tôi nghe nói bọn “bốc mả” từ Ẩn Lý Thị đã sang Băng Thổ, chúng tìm tôi báo thù. Như ông Đa Lạt nói, ngài cần tôi còn sống cho tới lúc công bố chuyện Mục Á, vậy nên tôi cần sự đảm bảo. Ngài không phiền chứ?
Ông đại thống lĩnh ngẫm nghĩ, uống thêm ngụm rượu đoạn gật gù:
-Được thôi, ta sẽ đảm bảo cho cậu. Về vấn đề Ẩn Lý Thị, ta sẽ cử người sang Diệp quốc. Nhưng còn việc tìm di cốt, cậu phải khẩn trương. Ta không quan tâm cậu với Mi Kha có chuyện gì, ta cần cậu ưu tiên việc tìm di cốt trước. Không phải ta làm khó cậu hay Mi Kha; ta yêu quý Mi Kha, cô bé rất được việc. Nhưng bên Ẩn Lý Thị không chờ đợi; họ chưa làm đám tang chính thức, nghĩa là xác Mục Á vẫn được bảo quản trước khi đem chôn. Nếu Băng Hóa không đàm phán nhanh, chúng ta rất khó đem lại Mục Á trở lại phương bắc.
-Tôi không thể làm hai việc cùng lúc! – Vô Phong kêu lên – Tôi đã ký hợp đồng với Mi Kha rồi!
-Như đã nói, đó là chuyện của cậu với Mi Kha, ta không quan tâm. – Khai Y kiên quyết – Bị lũ “bốc mả” và người phương bắc săn đuổi suốt đời hay sống thoải mái? Tùy cậu chọn thôi, tóc đỏ. Tin ta đi, trước lúc chết, chẳng ai muốn sống trong lo sợ đâu.
Mặc tên tóc đỏ phân bua, Khai Y vẫn không thay đổi ý định. Ông ta cũng gạt đi lời khuyên của Đa Lạt cho rằng làm vậy chỉ khiến Vô Phong gặp rắc rối. Lúc này, ông đại thống lĩnh như quả núi băng không gì lay chuyển nổi. Cuộc thương lượng kết thúc, Vô Phong thất vọng ra về. Đành rằng sau mỗi cuộc thương lượng là mỗi bên đều thất vọng một ít, nhưng Vô Phong thấy mình thiệt quá nhiều. Mấy lời an ủi từ Đa Lạt chẳng làm hắn khá hơn. Đã ba giờ sáng song Vô Phong không ngủ, hắn cần gọi điện cho Mi Kha.
Trong một ngày xui xẻo, những sự xui xẻo, xui thay, cứ thay nhau xuất hiện liên tục. Cô nàng Mi Kha xinh đẹp dễ chiều bỗng trở thành bà già khó ở. Vô Phong gọi điện xin thương lượng lại, cô ả giãy đành đạch nhất quyết không nghe. “Hợp đồng đã ký, bàn lại là thế nào? Bộ anh giỡn mặt tôi? Không thể ngừng được! Bọn trẻ họ Cát Giá đang chết dần, không có các nhà khoa học, tôi không thể làm gì cả! Đừng đùa với tôi, tóc đỏ! TÔI GIẾT ANH ĐẤY!” – Cô nàng gằn giọng kèm theo cái dập máy chát chúa, Vô Phong như muốn điếc lỗ nhĩ. Si Giáng vỗ vai hắn thông cảm:
-Anh không phải người đầu tiên. Ngày trước, khi tôi và bà chị Si Thăng muốn phá hợp đồng, bà già Mi Kha đến tận nơi rồi túm tóc hai đứa tôi đánh một trận. Không trốn được bả đâu!
Vô Phong cười không được mếu không xong, đành tùy gió chiều nào thì ngả chiều ấy. Chỉ nội một ngày, hắn bỗng ghét người Băng Hóa thêm một ít. “Người Băng Hóa không bao giờ tốt!” – Hắn vẫn nhớ như in lời của đại thánh sứ Tây Minh.
Sáng hôm sau, nhân viên họ Xuy Hạ mang giấy tờ thông hành, thẻ căn cước, tiền mặt cộng thêm tài liệu hướng dẫn cho Vô Phong. Chúng bao gồm những nơi cần đến, một số người cần gặp, các thiết bị vật tư cần vận chuyển. Cả nùi công việc ập xuống, tên tóc đỏ tính ra chẳng lãi được gì ngoài tiền. Hắn so sánh hai nhiệm vụ, tìm các địa điểm trùng khớp, sau đó vạch ra một lộ trình nhằm đảm bảo rằng từ nay tới tháng 3, hắn vừa tìm đám khoa học gia cho Mi Kha, vừa tuyển mộ thành viên đến Vương Quốc Cũ. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, hắn nhận ra họa may một ngày có bảy mươi hai tiếng mới giải quyết nổi.
-Nhờ “gã” xem! – Si Giáng gợi ý cho tên tóc đỏ – Tìm kiếm, thu thập, nghe ngóng chim lợn, chẳng phải “gã” giỏi nhất hay sao? Trong giới đánh thuê, tôi thấy “gã” là tên “điếm thối” giỏi nhất!
Vô Phong gục đầu. Sau chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, hắn không hy vọng gặp kẻ nọ thêm lần nào nữa. Nhưng hiểm họa thổi lửa bén mông, hắn cực chẳng đã phải nhấc máy gọi. Sau ba tiếng tút dài, một giọng nhừa nhựa đáp trả tên tóc đỏ: -Vô Phong? Lâu quá rồi mới thấy cậu gọi, tôi vui biết chừng nào! Phải, là tôi, Mai Hoa. Ồ, lại làm ăn hả? Vậy chúng ta cùng bàn bạc nhé! Do cậu là người quen nên tôi lấy giá rẻ thôi! Hi hi!
…
Một ngày tháng 3…
Đã ba tuần kể từ ngày Vô Phong rời Băng Hóa thành. Mặc dù tên tóc đỏ giữ liên lạc đều đặn bốn ngày một lần, thông báo địa điểm đàng hoàng nhưng Đa Lạt không thể xác định rõ hắn ở chỗ nào. Ông học giả vẽ đường di chuyển của Vô Phong trên bản đồ, nhận ra tên này nhiều khả năng tiến vào khu vực sáu nước đông bắc. Khoảng ba, bốn nhà khoa học phục vụ Đề Án Mắt Trắng sống tại sáu nước; vài nhân vật cần thiết cho chuyến đi tới Vương Quốc Cũ cũng loanh quanh ở đó. Điều đáng nói là khu vực này hiện đầy rẫy xung đột nhỏ lẻ, từng khoảnh đất đều có lính đánh thuê và phiến quân địa phương. Đa Lạt sợ rằng tên tóc đỏ kết thúc nhiệm vụ của Mi Kha với sức khỏe tàn tạ, mà sức khỏe tàn tạ thì không thể đến Vương Quốc Cũ.
Trên chuyến bay tới Diệp quốc, Đa Lạt lặng lẽ trầm mình vào máy chiếu ba chiều, lúc xem bản đồ Băng Thổ khi đảo qua tin tức thời sự. Hơn một năm gần đây, tin tức Băng Thổ chẳng bao giờ vui, nếu không phải các nước ly khai Liên Minh thì đụng độ, biểu tình hoặc bạo loạn. Và nếu người ta biết giọt máu cuối cùng của Biệt Liên Đại Đế qua đời, Liên Minh Phương Bắc tất sụp đổ. Những tiểu quốc đòi độc lập, đám phiến quân phản đối Băng Hóa, Lực Lượng Mù Thủy ngày đêm chống đối – tất cả đều chờ đợi thời khắc đó. Vài ngày trước, Đa Lạt kể chuyện cho vợ. Ông chẳng bao giờ quên vợ mình khóc như mưa như gió thế nào:
“Mục Á chết? Anh có nhầm không, chàng béo? Ôi, Mục Á chết rồi sao? Tại sao con thiên nga ấy lại chết? Con thiên nga ấy phải vỗ cánh, anh hiểu chứ, nó phải vỗ cánh cho người ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp. Giam cầm hay bắt giữ con thiên nga ấy đều là tội ác! Ôi, Mục Á chết rồi”
Đa Lạt phải che miệng bà vợ để đám người phục vụ không nghe thấy. Ông biết vợ mình từng thân thiết và thuộc số rất ít người gần gũi với Mục Á, tình cảm cố nhiên sâu sắc. Nhưng vài ngày kế tiếp, căn nhà vốn đầy ắp tiếng cười nói của ông bỗng trầm hẳn, thiếu mỗi tiếng khóc là thành nhà có tang. Vợ mình đã thế, người khác thì sao? – Ông tự hỏi.
Đa Lạt không phải người Băng Hóa chính gốc, một nửa dòng máu trong ông thuộc về miền đông nam lục địa, cái xứ sở mà người ta thường cười cợt rằng “có lũ đàn ông yếu đuối như đàn bà”. Quả vậy, nơi đấy yên bình hơn phần lớn lục địa, vài đất nước tham gia Khối Ngũ Giác thay vì khối liên minh truyền thống. Ở khía cạnh nào đó, ông ủng hộ các tiểu quốc giành độc lập và không phụ thuộc Băng Hóa; tất nhiên là ông không dám công khai bày tỏ quan điểm. Nhưng sâu thẳm trong tim mình, Đa Lạt biết mình vẫn trông về Băng Hóa, vẫn nghe ngóng lời đồn thổi xung quanh Biệt Liên Đại Đế cùng dòng máu của ngài. Giờ dòng máu Đại Đế đứt đoạn, ông học giả cảm giác một thời kỳ loạn lạc bất ổn vô tận sắp xảy đến. Bằng lý trí, ông biết viễn cảnh ấy vừa hoang đường vừa thiếu chứng cứ, nhưng trái tim phương bắc của ông bảo điều ngược lại. Giống như ai đấy từng nói “Rốt cục thì chúng ta quyết định bằng tình cảm chứ không phải đầu óc”.
Chiếc phi thuyền chở Đa Lạt tiến vào địa phận Diệp quốc. Ba mươi phút sau, nó đáp xuống một phi trường nằm trên sườn núi. Đương tháng 3, thời tiết Diệp quốc chưa sang xuân, mùa đông hẵng còn hiện diện trên đỉnh núi, khu rừng dưới chân núi hay các dải đồi bao quanh. Tất cả đều khoác một màu trắng lặng lẽ thay vì dữ dội khắc nghiệt như Băng Thổ. Nhiều năm trước, lần đầu tiên Đa Lạt công tác ở Diệp quốc và nhận ra mùa đông xứ này thích hợp với mình hơn. Thành ra hễ nghỉ phép là ông đưa gia đình sang đây du lịch tĩnh dưỡng.
Nhưng Đa Lạt ngờ rằng phải rất lâu nữa, ông mới được nghỉ phép. Và nếu – chỉ là nếu – viễn cảnh Băng Thổ sụp đổ xảy ra, nghỉ phép chỉ còn là danh từ cũ kĩ.
Từ phi thuyền, Đa Lạt xuống nhà chờ phi trường. Giữa dòng người làm thủ tục hải quan, ông chợt thấy ở phía xa có hai người đàn ông giơ cao biểu ngữ ghi tên mình. Đa Lạt bước khỏi hàng chờ rồi theo chân hai người đó rời phi trường. Hai người nói rằng đã làm thủ tục hộ Đa Lạt từ trước. Vị học giả thấy bọn họ cũng giống bao người Diệp quốc, ăn vận như nhân viên công vụ, chẳng nổi bật điểm nào. Mãi tới khi bước lên phi thuyền của họ, Đa Lạt mới nhận ra biểu tượng gia huy trên ghế ngồi. Khác xứ phương bắc thích phô trương, người Diệp quốc kín đáo hơn nhiều. Gia huy hình trăng lưỡi liềm xanh ẩn sau mây trắng – biểu tượng dòng họ Ẩn Lý Thị. Ngày đầu tiên đến Diệp quốc cũng là lần đầu tiên ông gặp gia huy này, từ ấy tới giờ đã khoảng mười năm.
Một trong hai người vừa nãy tiếp Đa Lạt trong khoang ngồi. Phi thuyền cất cánh, cửa sổ khoang ngồi đóng kín như muốn che chắn những cặp mắt vô hình bên ngoài. Đèn bật, một chiếc bàn nhỏ từ sàn khoang nổi lên với trà nóng, đồ ăn nhẹ làm ấm lòng người vừa kết thúc hành trình dài. Đa Lạt nhác thấy món bánh ngọt mà mười năm trước từng được nếm thử tại dinh thự Ẩn Lý Thị, ông yêu thích tới nỗi xin vài hộp về làm quà. Người Diệp quốc vẫn tinh tế và hiện đại như vậy.
-Mừng ngài học giả Đa Lạt hạ cố ghé thăm! Toàn thể dòng họ Ẩn Lý rất vui mừng và lấy làm vinh hạnh! – Người Ẩn Lý Thị cúi thấp đầu, đó là một người trẻ tuổi – Mời ngài dùng!
Anh chàng nọ đưa tay mời. Đa Lạt bốc vài cái bánh rồi nói:
-Cậu biết tôi đến vì việc gì chứ? Biết hả? Vậy… cô ấy thế nào?
-Chúng tôi đang bảo quản di hài tiểu thư. – Anh chàng nọ tiếp tục cúi đầu – Chúng tôi sử dụng những phép thuật tốt nhất, di hài tiểu thư sắp trở lại dáng vẻ như lúc còn sống. Khi nào Ẩn Lý Thị báo thù xong xuôi, chúng tôi mới chôn cất tiểu thư.
Đa Lạt gật gù vẻ đồng tình nhưng thâm tâm lợn cợn. Ông và đại thống lĩnh Khai Y vẫn chưa thông báo rằng họ đã gặp Vô Phong. Người Diệp quốc nhiều đức tính, hiếm tật xấu, khốn thay một tật xấu cố hữu của họ lại là “báo thù”. Họ cố chấp việc đó hơn cả người phương bắc dù chẳng tôn thờ nữ thần Nê Mê. Chuyện tên tóc đỏ lộ ra, mọi đàm phán giữa Băng Hóa và Ẩn Lý Thị tất đổ sông đổ bể.
Phi thuyền đưa Đa Lạt về dinh thự Ẩn Lý Thị. Cửa sổ khoang ngồi đóng suốt nên vị học giả không có dịp ngắm thành phố. Nhưng ông có thể hình dung nó qua ký ức. Thành phố tên Câu Nguyệt thành, nằm ở phía tây Diệp quốc và dựa lưng vùng núi non trùng điệp ngăn cách Diệp quốc với các nước láng giềng. Một thành phố yên bình, đẹp đẽ, trầm lặng với những con đường nhỏ quanh co, những ngôi nhà thấp mái ẩn sau các sân vườn trồng hoa trà. Hoa trà ở đây đủ loại, rực rỡ cả góc trời mỗi khi hoàng hôn xuống, nhất là buổi chiều hè. Mục Á sống nửa quãng đời ở Câu Nguyệt thành trước khi lưu lạc sang phương bắc.
Dinh thự Ẩn Lý Thị không quá cách biệt với khu dân cư. Nó nằm ở phía tây thành phố và ẩn mình dưới cánh rừng quanh chân núi. Phi thuyền chở Đa Lạt hạ xuống bãi đáp của dòng họ, sau đấy người Ẩn Lý Thị dẫn ông học giả đến nhà khách dinh thự. Bước qua nhiều lối mòn rợp bóng cây và cây cầu vắt qua dòng suối tự nhiên, Đa Lạt thấy cảnh vật nơi này chẳng đổi khác sau mười năm. Vẫn những ngôi nhà gỗ nằm ngụ trên từng khoảnh đất, nối với nhau bằng các hành lang lợp mái xám có lan can, cách một quãng lại treo đèn lồng vẽ gia huy dòng họ. Mỗi ngôi nhà đều có vườn trồng hoa trà lẫn hoa trạch kết. Ngày hè, hoa trạch kết nở rộ, nhuộm sắc vàng lẫn trắng khắp dinh thự. Nhưng giờ chưa phải mùa, hoa trạch kết chưa nở, chỉ có những đóa sơn trà trắng mà thôi.
Đa Lạt được đưa tới nhà khách, người dẫn đường bảo ông chờ ít phút vì gia chủ đang bận việc quan trọng. Truyền thống Diệp quốc bỏ giày dép ngoài hiên nhà, Đa Lạt tuân theo thủ tục ấy. Người Ẩn Lý Thị mang trà bánh giúp ông đỡ buồn chán khi phải đợi lâu. Nhưng vị học giả nhận ra mình không phải người duy nhất. Cách Đa Lạt dăm bước chân, một cô gái tóc vàng đang nằm dài trên bàn, cốc trà trong tay đã nguội ngắt còn đĩa bánh trước mặt hết nhẵn. Người giúp việc tới mang thêm trà bánh, cô gái hỏi bao giờ mới được gặp gia chủ thì nhận được cái lắc đầu. Thất vọng, cô nàng tiếp tục gục mặt xuống bàn. Nghe qua, Đa Lạt đoán cô gái đến từ Phi Thiên quốc, mặc dù vóc dáng cô ta hơi nhỏ nhắn so với phụ nữ Phi Thiên.
Thấy vị học giả nhìn mình, cô gái mỉm cười chào trả đoạn ngồi thẳng dậy thay vì nằm bò ra bàn. Đa Lạt cười:
-Thi thoảng phải chờ như vậy, Ẩn Lý Thị mà!
Cô gái gật đầu lia lịa như vừa tìm thấy người đồng cảm. Đa Lạt nhíu mày nhìn lần nữa, cảm giác đã gặp cô gái tóc vàng ở đâu đó. Cô gái nhích gần đến vị học giả, nói:
-Tôi mới đến Ẩn Lý Thị lần đầu. Ngài là khách quen hả?
-Không, tôi mới đến lần hai. – Đa Lạt thật thà đáp – Công việc thôi! Nhưng người phương đông luôn tiếp đãi khách như người nhà, phải chứ?
Cô gái tóc vàng giơ ngón cái đồng ý với ông học giả, vừa khen người Diệp quốc đãi khách hậu. Nàng ta hỏi:
-Ngài có gấp không?
-Ý cô là sao? – Đa Lạt ngạc nhiên – Phải, tôi đang rất vội. Nhưng tại sao cô hỏi vậy?
Cô nàng tóc vàng co chân ôm gối thở dài:
-Tôi muốn khóc quá! Lần nào tới đây cũng phải chờ đợi, mà công việc có đợi tôi đâu? Ẩn Lý Thị làm người ta bực mình quá! Ngài đến từ phương bắc, nhỉ? Vậy ngài có thể nhường tôi không? Tôi biết ngài đến từ phương xa, đường dài mệt mỏi, nhưng tôi cũng chờ lâu quá rồi, chờ thêm nữa chắc tôi chảy thành sáp dẻo mất! Nhường tôi nhé, xin ngài giúp đỡ! Tôi hứa sẽ đền bù cho ngài một hộp bánh ngon thật là ngon, hứa đấy!
Cô nàng liến thoắng tới tấp làm Đa Lạt luống cuống. Từ ngày kết hôn, ông chẳng mấy khi tiếp xúc những cô gái trẻ, họ hiện đại quá mức còn ông lại thích kiểu cổ điển. Điện thoại rung bần bật trong túi áo, ông lật đật rút nó ra mà chẳng xem ai đang gọi, chỉ kịp trả lời:
-Đây… đây là Đa Lạt, xin hỏi ai…
“Ông ở đâu thế?! Tôi cần giúp đỡ! Chúng tôi bị kẹt! Bọn phiến quân đang ở đây!”
Tiếng hét từ điện thoại vang ra làm Đa Lạt lẫn cô gái tóc vàng giật mình. Ông học giả vội vã rời phòng khách rồi nói:
-Tóc đỏ? Cậu đang ở đâu thế?
“Vùng sáu nước đông bắc!” – Vô Phong trả lời, giọng nói bị tiếng súng tiếng bom át đi – “Bọn đánh thuê với phiến quân đang đánh nhau! Chúng tôi bị kẹt ở giữa!”
-Tôi không ở Băng Hóa. Giờ tôi đang ở Diệp quốc! – Đa Lạt trả lời – Nhưng tôi sẽ gửi tin nhắn cho đại thống lĩnh Khai Y, ông ấy sẽ giúp cậu.
“Nhanh lên, ông già! Tôi không muốn bị thui chín đâu!” – Vô Phong gào lên.
Đa Lạt gác điện thoại rồi thở dài. Ông bấm máy gọi đại thống lĩnh, nhưng vừa quay ra thì thấy cô gái tóc vàng đã lù lù sau lưng mình từ lúc nào. Vị học giả nhăn trán:
-Cô… cô làm gì thế?
-Ngài nói chuyện với ai vậy, tôi nghe giọng quen lắm! – Cô gái tóc vàng nói – Tôi có thể hỏi người đấy là ai không?
Ông học giả nhăn trán, bị một cô gái lạ truy hỏi khiến ông khó chịu. Đa Lạt bèn nghiêm giọng:
-Xin lỗi nhưng đây là việc riêng, mong cô hiểu!
Cô gái tóc vàng xụ mặt vẻ không hài lòng. Nhưng sau rốt cô ta cũng chấp nhận rằng mình đang làm phiền người khác. Nở nụ cười thân thiện, cô gái chìa tay:
-Xin lỗi vì quấy rầy ngài, có lẽ tôi hơi nhạy cảm. Mong ngài bỏ qua. Tôi là Tiểu Hồ, đến từ Phi Thiên quốc.
Đa Lạt bắt tay cô gái, lòng ngờ ngợ. Ông lục lọi hàng trăm hàng nghìn sự kiện, cuối cùng mới nhớ cái tên Tiểu Hồ từng xuất hiện ở Kỳ Thi Tổng Lãnh. Trong các hộ vệ thánh sứ của công chúa Lục Châu – mà bây giờ là Phó Tổng Lãnh, Tiểu Hồ và Vô Phong từng làm việc chung. “Chả trách cô ta nhạy cảm thế!” – Đa Lạt hú hồn. Cho tới lúc đem được di thể Mục Á về phương bắc, ông sẽ không để lộ tung tích Vô Phong cho bất cứ ai.
[1]: Vô Phong từng có một căn hộ tại Chợ Rác, xem lại Quyển 3 Chương 58
[2]: xem lại Quyển 3 Chương 99, 100
-Nhưng suy cho cùng, Thổ Hành chỉ là công cụ chiến tranh. – Ông đại thống lĩnh cất lời sau những giây phút săm soi Vô Phong bằng ánh mắt viên đạn – Những năm tháng đó, các nước đều cử đặc nhiệm hoặc thuê sát thủ tiêu diệt nhân vật cao cấp của nhau. Xung đột khắp nơi và người ta luôn nói về một cuộc đại chiến mới sau Chiến Tranh Tài Nguyên. Cha, em trai ta, thậm chí chính ta trở thành nạn nhân. Chẳng ai mong muốn cả! Và nếu ai cũng tính chuyện báo thù thì chẳng bao giờ có cái gọi là đàm phán. Cậu tóc đỏ… ta gọi cậu như thế được chứ? Mời ngồi, chúng ta nói chuyện. Hãy tự nhiên như ở nhà.
Đang tưởng chết lại thấy đường sống nhưng Vô Phong chẳng khá hơn. Hắn ngồi xuống ghế mà không dám đụng bất cứ ly trà tách sữa nào dù được mời. Có ông quản gia hầm hầm như lò áp suất ở góc phòng, tên tóc đỏ cảm giác căn phòng thiếu khí thở. Trông vậy, Khai Y liền bảo quản gia để ba người có không gian riêng tư. Đợi ông già khuất hẳn, Vô Phong mới tạm nhẹ nhõm. Khai Y tiếp lời:
-Cậu nói mình biết Mục Á? Cô ấy thế nào? Bây giờ đang ở đâu? Hãy kể từ từ và chậm rãi, ta muốn nghe rõ ràng từng chi tiết một. Nếu câu chuyện phải kéo dài tới sáng thì cứ để nó như vậy, ta có thể chờ.
Ông đại thống lĩnh từ tốn nhưng đôi mắt chú mục tên tóc đỏ, không còn quan tâm điều gì khác xung quanh mình. Trong phút chốc, Vô Phong lại thấy cửa tử xuất hiện và hé ra khe chết chóc đen ngòm. Hắn muốn thò mặt sau bức thư của đại thánh sứ rồi mới nói chuyện, ngộ nhỡ Khai Y nổi khùng thì dùng bức thư làm khiên che chắn. Nhưng cảnh tượng khôi hài đó chỉ tồn tại trong tưởng tượng của hắn. Mục Á, những sự vụ ở Hoàng Hôn Cảng, những tình tiết mà hắn điều tra được, cuộc đụng độ tại Khẩu Lỗ thành – hắn đều khai báo. Có khác chăng là Vô Phong biến mình từ chủ thể câu chuyện trở thành người ngoài cuộc: hắn kể mình điều tra theo chỉ đạo từ chính phủ Phi Thiên quốc. Một lời nói dối nguy hiểm nhưng Vô Phong không phiền. Ngược lại hắn rất vui lòng nếu lời nói dối đó làm Phi Thiên quốc khốn đốn.
Cố nhiên Khai Y chẳng thích thú câu chuyện. Vốn mong đợi đoạn kết có hậu, ông ta không chấp nhận cái cách Mục Á ngã xuống. Có lẽ vì coi Mục Á là nhân vật chính nên Khai Y tin rằng nàng miễn nhiễm với nguy hiểm. Nhưng giữa mưa bom bão đạn ở Khẩu Lỗ thành ngày đó, bất cứ ai cũng có thể nhận vai diễn phụ. Ông đại thống lĩnh hỏi, vẻ mặt thẫn thờ:
-Cô ấy còn nói điều gì không? Có gửi gắm chuyện gì không?
-Mục Á luôn yêu thương chồng mình. – Vô Phong trả lời – Cô ấy để tôi nhìn thấy tâm sự riêng tư nhất, cô ấy luôn vì người chồng của mình.
Khai Y cười gượng – cái nét ít thấy ở người đàn ông trưởng thành mà hay xuất hiện ở gã trai trẻ bị từ chối tình cảm. Nó ít nhiều tố cáo ông đại thống lĩnh từng một thời si mê người đẹp. Người phương bắc mặt lạnh nhưng không giấu giếm cảm xúc. Chuyện không mới. Điều mà tên tóc đỏ quan tâm là Khai Y sẽ xử sự thế nào, bởi lẽ hắn không thấy đôi mắt ông ta không có sự “tha thứ”. Nó đang nhăn lại, hai đầu mày xô da đẩy thịt làm gồ lên một đường bóng nhẫy trên đỉnh sống mũi, con ngươi màu lam đậm long lên tựa xoáy nước biển. Đại thánh sứ Tây Minh đã đúng một nửa về con người Khai Y. Trực giác nhắc Vô Phong nên đưa ngay bức thư hoặc không bao giờ.
Với hy vọng cái nửa “tốt bụng” của Khai Y xuất hiện, tên tóc đỏ đặt bức thư lên mặt bàn và đẩy nó về phía trước. “Tôi muốn thương lượng!” – Thông điệp của hắn rất rõ ràng. Vẫn đôi mắt đe dọa, ông đại thống lĩnh mở thư đọc một chặp. Những giây phút đó, Vô Phong nín thở, thành thử tuyến mồ hôi làm thay việc của mũi, lưng áo ướt đầm đìa giữa trời đông. Trò cân não còn tiếp tục sau khi Khai Y đọc xong thư. Ông đại thống lĩnh hoàn toàn im lặng, đặt mọi toan tính cho số phận Vô Phong vào ly rượu “sói xanh”. Ông ta thấy gì trong ngọn lửa đó? – Vô Phong tự hỏi bằng trí tưởng tượng của kẻ chênh vênh giữa lằn ranh sống chết. Kẻ sắp chết hay nghĩ nhiều và hoang tưởng.
Khai Y uống rượu không ngừng. Dù mời mọc Vô Phong nhưng ông ta tay nâng tay rót từ đầu chí cuối, chai rượu “sói xanh” thoáng chốc vơi quá nửa. Sau rốt, Khai Y chấm dứt sự phân vân trong lòng, kết thúc cả nỗi thấp thỏm của Vô Phong:
-Cậu nên biết ơn đại thánh sứ Tây Minh. Thầy đối xử công bằng với bất cứ ai, thế nên không phải ai cũng được thầy quan tâm đặc biệt thế này…
Nói rồi ông đại thống lĩnh chìa bức thư cho Vô Phong đọc. Nhờ vậy, tên tóc đỏ mới biết Khai Y từng làm hộ vệ cho đại thánh sứ. Thư viết rằng đại thánh sứ đã đoán ra số phận Mục Á, đồng thời nhờ vả Khai Y bảo toàn mạng sống cho tên tóc đỏ. Nội dung chỉ vậy, không hơn. Nhưng có thể khiến người đàn ông quyền lực bậc nhất Băng Hóa nghe lời mình, uy tín của Tây Minh đắt xắt ra vàng ra kim cương. Vô Phong thở phào dẫu cái sự an toàn chỉ kéo dài trong một năm, một tháng hoặc thậm chí chốc lát dăm ngày.
-Đáng lý ta phải công khai vụ này trước toàn thể hoàng gia và quốc hội Băng Hóa, sau đó hoàng đế lẫn quốc hội mới tính xử lý cậu thế nào. – Khai Y tiếp tục – Nhưng đây là trường hợp đặc biệt, ta sẽ tạm cho qua. Hãy nhớ: tạm thời bỏ qua! Người phương bắc không quên nợ.
-Tại sao ngài phải giữ kín chuyện? – Vô Phong thắc mắc.
-Hơn nửa thế kỷ trước, Lực Lượng Mù Thủy thảm sát họ Biệt Liên nhờ lũ phản bội và chỉ điểm trong chính phủ. – Khai Y trả lời – Sau khi đuổi bọn Mù Thủy ra khỏi đất nước, chúng ta lập ủy ban điều tra tất cả dòng họ lẫn chính khách. Từ đó tới nay, Băng Hóa đã tử hình hoặc bắt giam hơn một trăm người. Tới giờ ủy ban vẫn tiếp tục công việc, mọi chứng cứ dù nhỏ nhất đều được lưu trữ, mọi kẻ liên đới dù sống hay chết đều bị trừng phạt. Nhưng hết điều tra rồi giám sát, chúng ta không bao giờ thống kê được còn bao nhiêu kẻ phản bội đang sống giữa đất nước mình. Những kẻ phản bội vẫn đang nhóng mắt tìm kiếm họ Biệt Liên; chúng và bọn Mù Thủy biết rằng dòng máu Đại Đế vẫn sót lại sau vụ thảm sát. …
Ông đại thống lĩnh dốc nốt những giọt rượu cuối cùng trước khi khui chai mới. Lần này ông ta không mời tên tóc đỏ nữa mà tiếp tục câu chuyện:
-…dân xứ này có câu “Dòng máu họ Biệt Liên còn chảy, Băng Thổ còn hòa bình”. Rất nhiều người tin vào điều đó, và cũng bởi thế, nhiều kẻ sẵn sàng triệt hạ họ Biệt Liên bằng mọi giá. Nếu biết Mục Á – dòng máu cuối cùng của Đại Đế qua đời, dân chúng lục địa nghĩ gì? Nhất là trong hoàn cảnh bây giờ? Không đơn giản là công bố rồi tổ chức tang lễ, cậu tóc đỏ ạ!
Ở ghế đối diện tên tóc đỏ, Đa Lạt cựa quậy sau một hồi im lặng. Có lẽ vị học giả đã bình tâm sau những bất ngờ mắc toi mắc dịch mà tên tóc đỏ mang lại. Ông ta mở lời với Khai Y:
-Dù gì chuyện cũng đã xảy ra, thưa ngài. Tất cả là tai nạn. Người chứng kiến có Mi Kha và một người Thanh Thủy, nếu cần, chúng ta có thể hỏi người Thanh Thủy, người tộc này không biết nói dối. Cậu Vô Phong cần chuộc lỗi, nhưng hãy để cậu ta làm một nhiệm vụ cao cả cho Băng Hóa và hợp với danh dự.
Khai Y gật gù nhưng chưa vội quyết định. Vô Phong đoán ông ta sẽ không đưa ra một đề nghị sách vở như Đa Lạt gợi ý. Đương dưng có con thiêu thân đến bán mạng, Khai Y tất không bỏ qua dễ dàng. Là đại thống lĩnh, là chính khách, ông ta phải dồn tên tóc đỏ vào chỗ bất lợi nhất nhằm đem lại nhiều lợi ích nhất cho Băng Hóa. Chính trị là vậy. Như đọc được dự định trong đầu Khai Y, Đa Lạt tiếp lời:
-Cho tới ngày công bố sự thật, chúng ta cần Vô Phong sống. Có cậu ta đối chất, chúng ta mới có thêm bằng chứng khẳng định thân thế Mục Á. Ngài biết đấy, để chứng minh dòng máu Biệt Liên đã đứt đoạn không chỉ giám định tế bào là xong. Rất, rất nhiều thứ phiền phức…
Rồi Đa Lạt liệt kê các thủ tục hoàng gia, ông đại thống lĩnh vừa nghe vừa ngẩn mặt như khối băng nứt. Cái sự nhiêu khê làm ông ta phải tính toán lại lần nữa. Lúc ấy, Vô Phong chợt hiểu vai trò của ông học giả. Trong những việc thế này, Đa Lạt nắm giữ quy tắc và hướng dẫn đôi bên có thể hay không thể dùng điều khoản nào, đồng thời cảnh báo hậu họa nếu trái luật. Ông ta không phán xét như quan tòa nhưng luôn nhắc nhở sự phán xét, nhờ vậy ông ta vừa giúp Vô Phong vừa không đi ngược lại lợi ích tổ quốc. “Người điều phối” làm việc như vậy.
Khi chai rượu “sói xanh” vơi hết một phần ba, Khai Y cũng nghĩ xong điều kiện thương lượng. Ông ta bước đến bàn làm việc, bật máy chiếu ba chiều đoạn ngoảnh sang Vô Phong:
-Đa Lạt nói đúng, cậu cần chuộc lỗi với sự cao quý lẫn danh dự, mặc dù nó chẳng thích hợp lắm với cậu. Có vẻ cậu đang chạy trốn Phi Thiên quốc, đúng không? – Ông ta lật mở rộng màn hình ba chiều với cái mặt Vô Phong chình ình trong lệnh truy nã – Sẽ hơi khó khăn, nhưng ta có thể làm giấy tờ thông hành và nếu cậu biết cách giấu mình, việc đi lại trên Băng Thổ cũng không khó lắm.
Tên tóc đỏ ngạc nhiên:
-Đi lại trên Băng Thổ, ngài muốn tôi làm gì?
-Để tìm một thứ. – Khai Y nói – Nếu làm được, ta sẽ bỏ qua tội lỗi của cậu, và ta cũng đảm bảo rằng chính phủ hay hoàng gia Băng Hóa không xét xử cậu. Thậm chí, nếu may mắn, cậu sẽ được hoàng gia Băng Hóa ghi ơn. Ta cần cậu tìm một thứ mà nhiều năm qua, không một gã săn tiền thưởng hay tay săn lùng kỳ cựu nào làm được. Để làm việc, cậu cần vài người cũng như mua sắm dụng cụ cần thiết. Địa điểm nằm ở đây…
Ông đại thống lĩnh mở một màn hình ba chiều mới. Lúc này, ngay trước mặt Vô Phong, một bản đồ địa lý hiện ra lửng lơ giữa không trung. Bản đồ mô tả một vùng đất rộng lớn nằm ở tây bắc Băng Thổ và cách xa thành thị, gọi là Vương Quốc Cũ. Nhìn những thông tin liên quan, Vô Phong nhận ra khu vực này gần như bỏ hoang, chỉ có vài bộ tộc thiểu số sinh sống rải rác. Điều kỳ lạ là không quốc gia nào tuyên bố chủ quyền tại khu vực này. Ông đại thống lĩnh giải thích:
-Vương Quốc Cũ từng là một đế chế thời phi cơ giới. Nó được lập nên bởi những người trốn chạy từ phương tây tức lục địa Hoa Thổ. Họ tới đây, tạo nên thể chế mới và hình thành quốc gia đầu tiên tại Băng Thổ vốn chỉ toàn những bộ tộc hay thành trì nhỏ lẻ. Họ cũng mang theo cả chế độ nô lệ, để sau này chúng ta có Biệt Liên Đại Đế. Trong tâm thức phương bắc, khu vực này khởi nguồn cho tất cả song cũng mang lại đau đớn cho tất cả, nó thiêng liêng nhưng cũng đầy nguyền rủa. Thế nên không quốc gia nào chiếm hữu Vương Quốc Cũ, kể cả Băng Hóa.
Vô Phong nheo mắt nhìn bản đồ, trông mấy khu vực heo hút không bóng người mà ngán. Một số hình ảnh bên cạnh bản đồ cho thấy Vương Quốc Cũ chỉ toàn phế tích, rất ít hoặc hầu như không có đường bộ, họa may sót lại những đường mòn xây dựng thuở xa xưa. Ở nơi này, sóng điện thoại cũng chập chờn còn mạng máy tính ba chiều thì tịt ngóm. Vô Phong thở phù, thầm nghĩ đặt chân tới đây chưa tìm được gì đã thành món cá phi lê ngâm đá. Ông đại thống lĩnh tiếp lời:
-Như cậu vừa nghe, cần rất nhiều thủ tục nhiêu khê mới chứng minh được Mục Á mang dòng máu hoàng gia. Bởi thế nhiều năm qua, ta cử người đến Vương Quốc Cũ tìm tro cốt của bà nội Mục Á. Bà ấy tên là Biệt Liên Đa Xuyến, người được tin là sống sót sau vụ thảm sát hơn nửa thế kỷ trước. Đa Xuyến sinh ra Mục Du Cổ, cha đẻ Mục Á. Khi còn sống tại Vương Quốc Cũ, Mục Du Cổ đã hỏa thiêu mẹ mình, sau đó đem giấu tro cốt. Đến bây giờ ta vẫn không biết tro cốt ở đâu.
-Có khi nào ông ta rải sông không? – Vô Phong hỏi – Nếu thế thì sao tìm được?
Vị học giả Đa Lạt lên tiếng:
-Chúng tôi không có tục lệ rải tro xuống sông. Trong văn hóa phương bắc, nguyên tố “thủy” chỉ là phụ, thậm chí mang điềm xấu. Nhưng kể cả Mục Du Cổ rải xuống sông, tro cốt vẫn tự động thu về một chỗ mà không bị dòng chảy cuốn đi, thậm chí phát sáng rực rỡ. Đó là điểm đặc biệt của họ Biệt Liên.
-Chúng ta đã dò tìm nhiều con sông nhưng chẳng thấy gì cả. – Ông đại thống lĩnh lắc đầu – Không có di cốt của Biệt Liên Đa Xuyến, thân thế Mục Á vẫn bị bỏ ngỏ. Cậu nghĩ sao, tóc đỏ? Cậu đồng ý chứ? Hy vọng cậu rủ lòng thương cho người đã khuất, nhất là một phụ nữ.
Khai Y hạ giọng từ đe dọa sang cầu khẩn. Thâm tâm Vô Phong bị đánh động phần nào. Sau ngày Mục Á chết, hắn tự nhắc nhở mình sẽ giúp nàng lấy lại danh dự nếu có cơ hội[2]. Giờ cơ hội tới, hắn nghĩ bản thân phải có trách nhiệm dù biết nhiệm vụ ở Vương Quốc Cũ lắm rủi ro. Tên tóc đỏ tính toán một hồi, sau nói:
-Tôi cần thời gian, tôi đang vướng công việc với Mi Kha. Sau khi xong chuyện, tôi sẽ làm việc mà ngài giao. Ngoài ra, tôi cần mình được an toàn. Tôi nghe nói bọn “bốc mả” từ Ẩn Lý Thị đã sang Băng Thổ, chúng tìm tôi báo thù. Như ông Đa Lạt nói, ngài cần tôi còn sống cho tới lúc công bố chuyện Mục Á, vậy nên tôi cần sự đảm bảo. Ngài không phiền chứ?
Ông đại thống lĩnh ngẫm nghĩ, uống thêm ngụm rượu đoạn gật gù:
-Được thôi, ta sẽ đảm bảo cho cậu. Về vấn đề Ẩn Lý Thị, ta sẽ cử người sang Diệp quốc. Nhưng còn việc tìm di cốt, cậu phải khẩn trương. Ta không quan tâm cậu với Mi Kha có chuyện gì, ta cần cậu ưu tiên việc tìm di cốt trước. Không phải ta làm khó cậu hay Mi Kha; ta yêu quý Mi Kha, cô bé rất được việc. Nhưng bên Ẩn Lý Thị không chờ đợi; họ chưa làm đám tang chính thức, nghĩa là xác Mục Á vẫn được bảo quản trước khi đem chôn. Nếu Băng Hóa không đàm phán nhanh, chúng ta rất khó đem lại Mục Á trở lại phương bắc.
-Tôi không thể làm hai việc cùng lúc! – Vô Phong kêu lên – Tôi đã ký hợp đồng với Mi Kha rồi!
-Như đã nói, đó là chuyện của cậu với Mi Kha, ta không quan tâm. – Khai Y kiên quyết – Bị lũ “bốc mả” và người phương bắc săn đuổi suốt đời hay sống thoải mái? Tùy cậu chọn thôi, tóc đỏ. Tin ta đi, trước lúc chết, chẳng ai muốn sống trong lo sợ đâu.
Mặc tên tóc đỏ phân bua, Khai Y vẫn không thay đổi ý định. Ông ta cũng gạt đi lời khuyên của Đa Lạt cho rằng làm vậy chỉ khiến Vô Phong gặp rắc rối. Lúc này, ông đại thống lĩnh như quả núi băng không gì lay chuyển nổi. Cuộc thương lượng kết thúc, Vô Phong thất vọng ra về. Đành rằng sau mỗi cuộc thương lượng là mỗi bên đều thất vọng một ít, nhưng Vô Phong thấy mình thiệt quá nhiều. Mấy lời an ủi từ Đa Lạt chẳng làm hắn khá hơn. Đã ba giờ sáng song Vô Phong không ngủ, hắn cần gọi điện cho Mi Kha.
Trong một ngày xui xẻo, những sự xui xẻo, xui thay, cứ thay nhau xuất hiện liên tục. Cô nàng Mi Kha xinh đẹp dễ chiều bỗng trở thành bà già khó ở. Vô Phong gọi điện xin thương lượng lại, cô ả giãy đành đạch nhất quyết không nghe. “Hợp đồng đã ký, bàn lại là thế nào? Bộ anh giỡn mặt tôi? Không thể ngừng được! Bọn trẻ họ Cát Giá đang chết dần, không có các nhà khoa học, tôi không thể làm gì cả! Đừng đùa với tôi, tóc đỏ! TÔI GIẾT ANH ĐẤY!” – Cô nàng gằn giọng kèm theo cái dập máy chát chúa, Vô Phong như muốn điếc lỗ nhĩ. Si Giáng vỗ vai hắn thông cảm:
-Anh không phải người đầu tiên. Ngày trước, khi tôi và bà chị Si Thăng muốn phá hợp đồng, bà già Mi Kha đến tận nơi rồi túm tóc hai đứa tôi đánh một trận. Không trốn được bả đâu!
Vô Phong cười không được mếu không xong, đành tùy gió chiều nào thì ngả chiều ấy. Chỉ nội một ngày, hắn bỗng ghét người Băng Hóa thêm một ít. “Người Băng Hóa không bao giờ tốt!” – Hắn vẫn nhớ như in lời của đại thánh sứ Tây Minh.
Sáng hôm sau, nhân viên họ Xuy Hạ mang giấy tờ thông hành, thẻ căn cước, tiền mặt cộng thêm tài liệu hướng dẫn cho Vô Phong. Chúng bao gồm những nơi cần đến, một số người cần gặp, các thiết bị vật tư cần vận chuyển. Cả nùi công việc ập xuống, tên tóc đỏ tính ra chẳng lãi được gì ngoài tiền. Hắn so sánh hai nhiệm vụ, tìm các địa điểm trùng khớp, sau đó vạch ra một lộ trình nhằm đảm bảo rằng từ nay tới tháng 3, hắn vừa tìm đám khoa học gia cho Mi Kha, vừa tuyển mộ thành viên đến Vương Quốc Cũ. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, hắn nhận ra họa may một ngày có bảy mươi hai tiếng mới giải quyết nổi.
-Nhờ “gã” xem! – Si Giáng gợi ý cho tên tóc đỏ – Tìm kiếm, thu thập, nghe ngóng chim lợn, chẳng phải “gã” giỏi nhất hay sao? Trong giới đánh thuê, tôi thấy “gã” là tên “điếm thối” giỏi nhất!
Vô Phong gục đầu. Sau chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, hắn không hy vọng gặp kẻ nọ thêm lần nào nữa. Nhưng hiểm họa thổi lửa bén mông, hắn cực chẳng đã phải nhấc máy gọi. Sau ba tiếng tút dài, một giọng nhừa nhựa đáp trả tên tóc đỏ: -Vô Phong? Lâu quá rồi mới thấy cậu gọi, tôi vui biết chừng nào! Phải, là tôi, Mai Hoa. Ồ, lại làm ăn hả? Vậy chúng ta cùng bàn bạc nhé! Do cậu là người quen nên tôi lấy giá rẻ thôi! Hi hi!
…
Một ngày tháng 3…
Đã ba tuần kể từ ngày Vô Phong rời Băng Hóa thành. Mặc dù tên tóc đỏ giữ liên lạc đều đặn bốn ngày một lần, thông báo địa điểm đàng hoàng nhưng Đa Lạt không thể xác định rõ hắn ở chỗ nào. Ông học giả vẽ đường di chuyển của Vô Phong trên bản đồ, nhận ra tên này nhiều khả năng tiến vào khu vực sáu nước đông bắc. Khoảng ba, bốn nhà khoa học phục vụ Đề Án Mắt Trắng sống tại sáu nước; vài nhân vật cần thiết cho chuyến đi tới Vương Quốc Cũ cũng loanh quanh ở đó. Điều đáng nói là khu vực này hiện đầy rẫy xung đột nhỏ lẻ, từng khoảnh đất đều có lính đánh thuê và phiến quân địa phương. Đa Lạt sợ rằng tên tóc đỏ kết thúc nhiệm vụ của Mi Kha với sức khỏe tàn tạ, mà sức khỏe tàn tạ thì không thể đến Vương Quốc Cũ.
Trên chuyến bay tới Diệp quốc, Đa Lạt lặng lẽ trầm mình vào máy chiếu ba chiều, lúc xem bản đồ Băng Thổ khi đảo qua tin tức thời sự. Hơn một năm gần đây, tin tức Băng Thổ chẳng bao giờ vui, nếu không phải các nước ly khai Liên Minh thì đụng độ, biểu tình hoặc bạo loạn. Và nếu người ta biết giọt máu cuối cùng của Biệt Liên Đại Đế qua đời, Liên Minh Phương Bắc tất sụp đổ. Những tiểu quốc đòi độc lập, đám phiến quân phản đối Băng Hóa, Lực Lượng Mù Thủy ngày đêm chống đối – tất cả đều chờ đợi thời khắc đó. Vài ngày trước, Đa Lạt kể chuyện cho vợ. Ông chẳng bao giờ quên vợ mình khóc như mưa như gió thế nào:
“Mục Á chết? Anh có nhầm không, chàng béo? Ôi, Mục Á chết rồi sao? Tại sao con thiên nga ấy lại chết? Con thiên nga ấy phải vỗ cánh, anh hiểu chứ, nó phải vỗ cánh cho người ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp. Giam cầm hay bắt giữ con thiên nga ấy đều là tội ác! Ôi, Mục Á chết rồi”
Đa Lạt phải che miệng bà vợ để đám người phục vụ không nghe thấy. Ông biết vợ mình từng thân thiết và thuộc số rất ít người gần gũi với Mục Á, tình cảm cố nhiên sâu sắc. Nhưng vài ngày kế tiếp, căn nhà vốn đầy ắp tiếng cười nói của ông bỗng trầm hẳn, thiếu mỗi tiếng khóc là thành nhà có tang. Vợ mình đã thế, người khác thì sao? – Ông tự hỏi.
Đa Lạt không phải người Băng Hóa chính gốc, một nửa dòng máu trong ông thuộc về miền đông nam lục địa, cái xứ sở mà người ta thường cười cợt rằng “có lũ đàn ông yếu đuối như đàn bà”. Quả vậy, nơi đấy yên bình hơn phần lớn lục địa, vài đất nước tham gia Khối Ngũ Giác thay vì khối liên minh truyền thống. Ở khía cạnh nào đó, ông ủng hộ các tiểu quốc giành độc lập và không phụ thuộc Băng Hóa; tất nhiên là ông không dám công khai bày tỏ quan điểm. Nhưng sâu thẳm trong tim mình, Đa Lạt biết mình vẫn trông về Băng Hóa, vẫn nghe ngóng lời đồn thổi xung quanh Biệt Liên Đại Đế cùng dòng máu của ngài. Giờ dòng máu Đại Đế đứt đoạn, ông học giả cảm giác một thời kỳ loạn lạc bất ổn vô tận sắp xảy đến. Bằng lý trí, ông biết viễn cảnh ấy vừa hoang đường vừa thiếu chứng cứ, nhưng trái tim phương bắc của ông bảo điều ngược lại. Giống như ai đấy từng nói “Rốt cục thì chúng ta quyết định bằng tình cảm chứ không phải đầu óc”.
Chiếc phi thuyền chở Đa Lạt tiến vào địa phận Diệp quốc. Ba mươi phút sau, nó đáp xuống một phi trường nằm trên sườn núi. Đương tháng 3, thời tiết Diệp quốc chưa sang xuân, mùa đông hẵng còn hiện diện trên đỉnh núi, khu rừng dưới chân núi hay các dải đồi bao quanh. Tất cả đều khoác một màu trắng lặng lẽ thay vì dữ dội khắc nghiệt như Băng Thổ. Nhiều năm trước, lần đầu tiên Đa Lạt công tác ở Diệp quốc và nhận ra mùa đông xứ này thích hợp với mình hơn. Thành ra hễ nghỉ phép là ông đưa gia đình sang đây du lịch tĩnh dưỡng.
Nhưng Đa Lạt ngờ rằng phải rất lâu nữa, ông mới được nghỉ phép. Và nếu – chỉ là nếu – viễn cảnh Băng Thổ sụp đổ xảy ra, nghỉ phép chỉ còn là danh từ cũ kĩ.
Từ phi thuyền, Đa Lạt xuống nhà chờ phi trường. Giữa dòng người làm thủ tục hải quan, ông chợt thấy ở phía xa có hai người đàn ông giơ cao biểu ngữ ghi tên mình. Đa Lạt bước khỏi hàng chờ rồi theo chân hai người đó rời phi trường. Hai người nói rằng đã làm thủ tục hộ Đa Lạt từ trước. Vị học giả thấy bọn họ cũng giống bao người Diệp quốc, ăn vận như nhân viên công vụ, chẳng nổi bật điểm nào. Mãi tới khi bước lên phi thuyền của họ, Đa Lạt mới nhận ra biểu tượng gia huy trên ghế ngồi. Khác xứ phương bắc thích phô trương, người Diệp quốc kín đáo hơn nhiều. Gia huy hình trăng lưỡi liềm xanh ẩn sau mây trắng – biểu tượng dòng họ Ẩn Lý Thị. Ngày đầu tiên đến Diệp quốc cũng là lần đầu tiên ông gặp gia huy này, từ ấy tới giờ đã khoảng mười năm.
Một trong hai người vừa nãy tiếp Đa Lạt trong khoang ngồi. Phi thuyền cất cánh, cửa sổ khoang ngồi đóng kín như muốn che chắn những cặp mắt vô hình bên ngoài. Đèn bật, một chiếc bàn nhỏ từ sàn khoang nổi lên với trà nóng, đồ ăn nhẹ làm ấm lòng người vừa kết thúc hành trình dài. Đa Lạt nhác thấy món bánh ngọt mà mười năm trước từng được nếm thử tại dinh thự Ẩn Lý Thị, ông yêu thích tới nỗi xin vài hộp về làm quà. Người Diệp quốc vẫn tinh tế và hiện đại như vậy.
-Mừng ngài học giả Đa Lạt hạ cố ghé thăm! Toàn thể dòng họ Ẩn Lý rất vui mừng và lấy làm vinh hạnh! – Người Ẩn Lý Thị cúi thấp đầu, đó là một người trẻ tuổi – Mời ngài dùng!
Anh chàng nọ đưa tay mời. Đa Lạt bốc vài cái bánh rồi nói:
-Cậu biết tôi đến vì việc gì chứ? Biết hả? Vậy… cô ấy thế nào?
-Chúng tôi đang bảo quản di hài tiểu thư. – Anh chàng nọ tiếp tục cúi đầu – Chúng tôi sử dụng những phép thuật tốt nhất, di hài tiểu thư sắp trở lại dáng vẻ như lúc còn sống. Khi nào Ẩn Lý Thị báo thù xong xuôi, chúng tôi mới chôn cất tiểu thư.
Đa Lạt gật gù vẻ đồng tình nhưng thâm tâm lợn cợn. Ông và đại thống lĩnh Khai Y vẫn chưa thông báo rằng họ đã gặp Vô Phong. Người Diệp quốc nhiều đức tính, hiếm tật xấu, khốn thay một tật xấu cố hữu của họ lại là “báo thù”. Họ cố chấp việc đó hơn cả người phương bắc dù chẳng tôn thờ nữ thần Nê Mê. Chuyện tên tóc đỏ lộ ra, mọi đàm phán giữa Băng Hóa và Ẩn Lý Thị tất đổ sông đổ bể.
Phi thuyền đưa Đa Lạt về dinh thự Ẩn Lý Thị. Cửa sổ khoang ngồi đóng suốt nên vị học giả không có dịp ngắm thành phố. Nhưng ông có thể hình dung nó qua ký ức. Thành phố tên Câu Nguyệt thành, nằm ở phía tây Diệp quốc và dựa lưng vùng núi non trùng điệp ngăn cách Diệp quốc với các nước láng giềng. Một thành phố yên bình, đẹp đẽ, trầm lặng với những con đường nhỏ quanh co, những ngôi nhà thấp mái ẩn sau các sân vườn trồng hoa trà. Hoa trà ở đây đủ loại, rực rỡ cả góc trời mỗi khi hoàng hôn xuống, nhất là buổi chiều hè. Mục Á sống nửa quãng đời ở Câu Nguyệt thành trước khi lưu lạc sang phương bắc.
Dinh thự Ẩn Lý Thị không quá cách biệt với khu dân cư. Nó nằm ở phía tây thành phố và ẩn mình dưới cánh rừng quanh chân núi. Phi thuyền chở Đa Lạt hạ xuống bãi đáp của dòng họ, sau đấy người Ẩn Lý Thị dẫn ông học giả đến nhà khách dinh thự. Bước qua nhiều lối mòn rợp bóng cây và cây cầu vắt qua dòng suối tự nhiên, Đa Lạt thấy cảnh vật nơi này chẳng đổi khác sau mười năm. Vẫn những ngôi nhà gỗ nằm ngụ trên từng khoảnh đất, nối với nhau bằng các hành lang lợp mái xám có lan can, cách một quãng lại treo đèn lồng vẽ gia huy dòng họ. Mỗi ngôi nhà đều có vườn trồng hoa trà lẫn hoa trạch kết. Ngày hè, hoa trạch kết nở rộ, nhuộm sắc vàng lẫn trắng khắp dinh thự. Nhưng giờ chưa phải mùa, hoa trạch kết chưa nở, chỉ có những đóa sơn trà trắng mà thôi.
Đa Lạt được đưa tới nhà khách, người dẫn đường bảo ông chờ ít phút vì gia chủ đang bận việc quan trọng. Truyền thống Diệp quốc bỏ giày dép ngoài hiên nhà, Đa Lạt tuân theo thủ tục ấy. Người Ẩn Lý Thị mang trà bánh giúp ông đỡ buồn chán khi phải đợi lâu. Nhưng vị học giả nhận ra mình không phải người duy nhất. Cách Đa Lạt dăm bước chân, một cô gái tóc vàng đang nằm dài trên bàn, cốc trà trong tay đã nguội ngắt còn đĩa bánh trước mặt hết nhẵn. Người giúp việc tới mang thêm trà bánh, cô gái hỏi bao giờ mới được gặp gia chủ thì nhận được cái lắc đầu. Thất vọng, cô nàng tiếp tục gục mặt xuống bàn. Nghe qua, Đa Lạt đoán cô gái đến từ Phi Thiên quốc, mặc dù vóc dáng cô ta hơi nhỏ nhắn so với phụ nữ Phi Thiên.
Thấy vị học giả nhìn mình, cô gái mỉm cười chào trả đoạn ngồi thẳng dậy thay vì nằm bò ra bàn. Đa Lạt cười:
-Thi thoảng phải chờ như vậy, Ẩn Lý Thị mà!
Cô gái gật đầu lia lịa như vừa tìm thấy người đồng cảm. Đa Lạt nhíu mày nhìn lần nữa, cảm giác đã gặp cô gái tóc vàng ở đâu đó. Cô gái nhích gần đến vị học giả, nói:
-Tôi mới đến Ẩn Lý Thị lần đầu. Ngài là khách quen hả?
-Không, tôi mới đến lần hai. – Đa Lạt thật thà đáp – Công việc thôi! Nhưng người phương đông luôn tiếp đãi khách như người nhà, phải chứ?
Cô gái tóc vàng giơ ngón cái đồng ý với ông học giả, vừa khen người Diệp quốc đãi khách hậu. Nàng ta hỏi:
-Ngài có gấp không?
-Ý cô là sao? – Đa Lạt ngạc nhiên – Phải, tôi đang rất vội. Nhưng tại sao cô hỏi vậy?
Cô nàng tóc vàng co chân ôm gối thở dài:
-Tôi muốn khóc quá! Lần nào tới đây cũng phải chờ đợi, mà công việc có đợi tôi đâu? Ẩn Lý Thị làm người ta bực mình quá! Ngài đến từ phương bắc, nhỉ? Vậy ngài có thể nhường tôi không? Tôi biết ngài đến từ phương xa, đường dài mệt mỏi, nhưng tôi cũng chờ lâu quá rồi, chờ thêm nữa chắc tôi chảy thành sáp dẻo mất! Nhường tôi nhé, xin ngài giúp đỡ! Tôi hứa sẽ đền bù cho ngài một hộp bánh ngon thật là ngon, hứa đấy!
Cô nàng liến thoắng tới tấp làm Đa Lạt luống cuống. Từ ngày kết hôn, ông chẳng mấy khi tiếp xúc những cô gái trẻ, họ hiện đại quá mức còn ông lại thích kiểu cổ điển. Điện thoại rung bần bật trong túi áo, ông lật đật rút nó ra mà chẳng xem ai đang gọi, chỉ kịp trả lời:
-Đây… đây là Đa Lạt, xin hỏi ai…
“Ông ở đâu thế?! Tôi cần giúp đỡ! Chúng tôi bị kẹt! Bọn phiến quân đang ở đây!”
Tiếng hét từ điện thoại vang ra làm Đa Lạt lẫn cô gái tóc vàng giật mình. Ông học giả vội vã rời phòng khách rồi nói:
-Tóc đỏ? Cậu đang ở đâu thế?
“Vùng sáu nước đông bắc!” – Vô Phong trả lời, giọng nói bị tiếng súng tiếng bom át đi – “Bọn đánh thuê với phiến quân đang đánh nhau! Chúng tôi bị kẹt ở giữa!”
-Tôi không ở Băng Hóa. Giờ tôi đang ở Diệp quốc! – Đa Lạt trả lời – Nhưng tôi sẽ gửi tin nhắn cho đại thống lĩnh Khai Y, ông ấy sẽ giúp cậu.
“Nhanh lên, ông già! Tôi không muốn bị thui chín đâu!” – Vô Phong gào lên.
Đa Lạt gác điện thoại rồi thở dài. Ông bấm máy gọi đại thống lĩnh, nhưng vừa quay ra thì thấy cô gái tóc vàng đã lù lù sau lưng mình từ lúc nào. Vị học giả nhăn trán:
-Cô… cô làm gì thế?
-Ngài nói chuyện với ai vậy, tôi nghe giọng quen lắm! – Cô gái tóc vàng nói – Tôi có thể hỏi người đấy là ai không?
Ông học giả nhăn trán, bị một cô gái lạ truy hỏi khiến ông khó chịu. Đa Lạt bèn nghiêm giọng:
-Xin lỗi nhưng đây là việc riêng, mong cô hiểu!
Cô gái tóc vàng xụ mặt vẻ không hài lòng. Nhưng sau rốt cô ta cũng chấp nhận rằng mình đang làm phiền người khác. Nở nụ cười thân thiện, cô gái chìa tay:
-Xin lỗi vì quấy rầy ngài, có lẽ tôi hơi nhạy cảm. Mong ngài bỏ qua. Tôi là Tiểu Hồ, đến từ Phi Thiên quốc.
Đa Lạt bắt tay cô gái, lòng ngờ ngợ. Ông lục lọi hàng trăm hàng nghìn sự kiện, cuối cùng mới nhớ cái tên Tiểu Hồ từng xuất hiện ở Kỳ Thi Tổng Lãnh. Trong các hộ vệ thánh sứ của công chúa Lục Châu – mà bây giờ là Phó Tổng Lãnh, Tiểu Hồ và Vô Phong từng làm việc chung. “Chả trách cô ta nhạy cảm thế!” – Đa Lạt hú hồn. Cho tới lúc đem được di thể Mục Á về phương bắc, ông sẽ không để lộ tung tích Vô Phong cho bất cứ ai.
[1]: Vô Phong từng có một căn hộ tại Chợ Rác, xem lại Quyển 3 Chương 58
[2]: xem lại Quyển 3 Chương 99, 100
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.