Quyển 3 - Chương 19: Kền kền
Get Backer
01/10/2014
Tối hôm đó,
khoảng 6 giờ, nhóm công chúa khởi hành đến thị trấn kế tiếp. Trước lúc
rời Ô Lô Vực, Vô Phong đưa mắt tìm kiếm dấu vết còn sót lại của trận
chiến Thợ Săn và Đầu Sói, song hoài công vô ích. Cây cầu cát giờ sạch sẽ tinh tươm, như thể đám Chó Hoang bỏ công lau chùi mọi ngóc ngách. Mặt
cầu thơm phức, thơm tới mức giả tạo và khiến người ta ngờ rằng có điều
gì đấy bị che giấu. Vô Phong không phải kẻ bệnh hoạn thích thú chuyện
kinh dị, mà chỉ muốn xác minh những gì mình đã chứng kiến là hiện thực
hay ác mộng? Hắn để ý trên những hành lang giàn giáo, dân chúng thi
thoảng chỉ trỏ xuống cầu. “Thế đấy! Bị giết thế đấy!”, “Chết thảm quá!”, “Ai bảo nó đụng vào Đạt Ba?”, “Thôi, Đạt Ba cũng được, đỡ hơn Quỷ Nhãn. Nghe mấy người bảo Quỷ Nhãn thích móc mắt lắm!” – Người ta vừa chỉ trỏ vừa kháo nhau vậy.
Nỗi lấn cấn ấy theo Vô Phong vào giấc ngủ. Trên đường đi, thấy công chúa thức, hắn bèn đánh một giấc cho đỡ mệt. Trong cơn mơ màng cùng cái lạnh của sa mạc, hắn trông thấy gã Đạt Ba túm xác người quật xuống đất. Mỗi lần quật, từng mảnh cơ nhục rớm máu bắn tung tóe, rơi lẹt phẹt trên đất. Cuối cùng, cái xác biến mất hoàn toàn, chỉ còn lại Đạt Ba cười hể hả giữa đống xương thịt. Cười xong, gã im lặng, mặt đần độn, mắt dáo dác ngó quanh tìm thú vui mới trong không gian đỏ lòm lòm. Bất chợt những mảnh vụn thịt xương rung bần bật, chúng lăn vào nhau, lắp ghép thành một thân thể méo mó đầy vết nứt rỉ máu. Cơ thể ấy dặt dẹo bước, khi đứng trước Đạt Ba, nó bỗng mở miệng khào khào:
-Mày thích không?
Đạt Ba không đáp. Không gian câm lặng. Bất thình lình toàn thân gã Đầu Sói biến dạng, lớp da quánh lại như nhựa đường vón cục, rồi đứt toác như bị một bàn tay vô hình xoắn vặn, xé toạc. Đạt Ba kêu gào thảm thiết. Lớp da đứt hết, để lại một thân thể khác gầy gò cùng mái tóc màu đỏ. Vô Phong giật thót rồi nhìn thêm lần nữa. Cơ thể gầy gò cùng mái tóc đỏ đích thực là hắn, là Vô Phong chứ không ai khác. Cái xác chắp vá kia lại gào lên lần nữa:
-Mày thích không?
Vô Phong kinh hoảng, tìm cách thoát khỏi không gian màu đỏ nhưng không thể. Hắn nhận ra mình không có tay chân, không thân xác, cũng chẳng có mồm để kêu la hoảng loạn. Hắn vô hình vô dạng, tựa thể một linh hồn hay đám khói. Hắn chẳng đi đâu được ngoài việc ở yên chỗ này và chứng kiến khung cảnh quái dị. Hốt nhiên cái xác chắp vá quay về phía hắn, nó chậm rãi tiến đến. Dường như nó nhìn thấy hắn. Khi đứng sát Vô Phong – hay thứ thể trạng vô hình này, cái xác ngoác mồm gào lớn:
-MÀY CÓ THÍCH KHÔNG?
Rồi từ cái miệng lều phều nhớp nhúa, cái xác phun dòng máu vào Vô Phong. Hắn ngửi thấy mùi tanh, ngửi thấy sự kinh tởm tràn ngập không gian. Lạ thay, khi máu tưới lên, thân xác hắn dần lộ diện. Từng ngón tay, ngón chân, từng mảnh da, khối tóc… tất cả được sinh trưởng trong đống máu mà cái xác chắp vá nôn mửa. Sợ hãi tột độ, Vô Phong hét lên. Có miệng có lưỡi, hắn hét được, hét bằng tất cả sức lực.
Tiếng hét kéo Vô Phong bừng tỉnh. Hắn bật dậy, trán đầm đìa mồ hôi, mặt mũi tái xanh tái đỏ. Bần thần khá lâu, hắn mới nhận ra mình đang nằm chổng vó trong xe kéo, Lục Châu và Mai Hoa ngồi quanh lo lắng. Công chúa hỏi hắn:
-Anh sao vậy? Anh ổn chứ?
Ác mộng… – Vô Phong lẩm bẩm. Sau lần đầu tiên giết người ở Quận 4 Cửu Long, hắn đã gặp ác mộng (*). Việc ấy xảy ra chưa lâu, mới cách đây một tháng rưỡi, giờ lại tái hiện. Lần này Vô Phong không giết ai mà hắn chứng kiến người này giết người khác. Từng sợi tâm trí của hắn bị bóp nghẹt, tâm tưởng như méo mó đi. Phút chốc thoáng qua, hắn thương cảm cho tên Thợ Săn vô danh và muốn giết những thể loại người như Đạt Ba. Cũng rất nhanh, hắn ngộ ra mình đang cuốn vào vòng xoáy bạo lực. Lục địa Kim Ngân chẳng tạo nên bất cứ cảm hứng nào ngoài việc khơi gợi bản tính dã thú bên trong con người.
Tên tóc đỏ xua tay đoạn nhăn răng cười với công chúa, tỏ vẻ mình vẫn khỏe như vâm. Nhưng hắn chỉ thay đổi nét mặt chứ chẳng thể che giấu ánh mắt đầy băn khoăn. Là mơ? Là thật? Điềm báo tương lai hay quá khứ bí mật? Vô Phong không trả lời được. Hắn đành mở máy chiếu và nghiên cứu bí kỹ, hy vọng chữ nghĩa sẽ xoa dịu những dư âm của ác mộng. Hết nghiên cứu, hắn lại theo dõi Chiến Tử. Hắn cố gắng làm đầu óc mình vận động liên tục, bởi chỉ cần một giây ngơi nghỉ, ý nghĩ cái xác kinh khủng kia sẽ quay trở lại.
Nhìn Vô Phong, Lục Châu biết hắn vừa có giấc ngủ không mấy dễ chịu. Nàng dám chắc đây là lần đầu tiên trông thấy vẻ mặt bối rối của hắn. Bối rối, lo lắng, bồn chồn? Nàng đã nghĩ mấy tính từ đó chẳng bao giờ xuất hiện ở gã tóc đỏ. Nhưng nó đang xảy ra và nàng hơi sợ. Công chúa không biết tại sao lại như thế.
Dạo gần đây, Lục Châu chợt nhận ra tâm lý mình thay đổi theo sự biểu hiện của Vô Phong. Hắn bắng nhắng, nàng có thể bình tĩnh suy xét mọi việc. Hắn lo lắng, nàng rối trí theo. Ngay bây giờ, Lục Châu không biết cần chuẩn bị những gì cho cuộc gặp gỡ Hiệp Dung. Đau đầu vì nghĩ ngợi, cô gái liền quay ra ô cửa, ánh mắt chơi vơi tìm chút giải tỏa ở làn gió lạnh sa mạc.
Để đi trong đêm, Đạp Lỗ phải gắn đèn chiếu trên mui xe. Đèn hình khối hộp, đá Hỗ Thạch đốt cháy ở đáy, bên trên có bộ phận chỉnh sáng. Từ Ô Lô Vực, ông già đánh xe qua con đường nhỏ hẹp đâm xuyên vách đá, sau lên dốc rồi trở lại sa mạc Hồi Đằng. Lục Châu nhận ra tuyến đường chuyển tiếp giữa các thị trấn khá yên bình. Đám trộm cướp ở Hồi Đằng không dám mó chân dù chỉ một bước vào lãnh thổ Đầu Sói, nhất là địa bàn của Đạt Ba.
Qua ô cửa xe, Lục Châu trông thấy nhiều khoảnh trũng nằm bên chân đồi cát hướng tây, mỗi khoảnh chia thành nhiều thửa trồng những cây thân mảnh dẻ, đầu trĩu nặng bông hoa có hình dáng cái chụp đèn và phát ánh sáng màu lam. Theo Lục Châu biết, cây này gọi là “măng man” – cây lương thực chủ chốt ở Kim Ngân. Nhờ bộ rễ rất dài, sức chịu đựng cao cùng khả năng tích trữ nước lâu ngày nên thứ cây này sống rất khỏe trên cát. Bột trong hoa dùng làm bánh măng man, một món ăn từng là đặc trưng của người Kim Ngân. Nhưng giờ chiến tranh nhiều, đất sản xuất ít, bánh măng man không thịnh hành như xưa nữa.
Ánh lam dìu dịu từ cánh đồng măng man như bàn tay mềm mại vỗ về đôi vai Lục Châu. Nàng thấy lẫn trong cánh đồng là những bóng người. Đám ấy có người già, trẻ con, nam nữ đủ cả. Họ xới cát làm thửa măng man mới, vắt bột cây, chất những bao tải lên xe kéo. Trời tối, gió lạnh lẽo hơn, họ hò nhau nghỉ làm. Từng người leo lên thùng hàng, giác cầu kéo xe chở người lẫn bao tải đựng bột cây về thị trấn. Đường mòn cát mênh mông trong bóng đêm, xe kéo nối đuôi nhau lăn bánh, bóng hình mờ đi trước rừng sắc lam hòa ái của đồng măng man, tựa thể đoàn thuyền bồng bềnh trôi theo gió sa mạc. Lục Châu bần thần nhìn theo. Từ ngày bước lên Thần Sấm, đây là lần thứ hai nàng được nhìn ngắm khung cảnh yên bình như thế. Lần trước là ngắm hoàng hôn cùng Vô Phong từ Thần Sấm (**). Một, hai… – Công chúa kín đáo xòe ngón tay đếm, tự thấy sao mà ít ỏi quá! Nàng tựa đầu cạnh cửa sổ, đôi mắt xanh thẫm níu chặt màu lam đồng cây măng man. Phải rồi, “măng man” phiên âm từ chữ cổ của Kim Ngân: Majn-mhan, còn có nghĩa là “mẹ” mà! – Lục Châu tự nhủ rồi cứ nghĩ về nó. “Majn-mhan, majn-mhan…” – Nàng lẩm bẩm.
Tâm hồn con người đầy màu sắc song không thiếu khoảng trống. Với công chúa, cái khoảng trống ấy là “majn-mhan”. Nàng đọc tiếng cổ ngữ rành rọt mà sao đọc tiếng phổ thông khó vô cùng.
Thần trí Lục Châu lạc vào đồng cây măng man và còn lâu mới dứt ra khỏi nếu không có tiếng động cơ ầm ì phá tan không gian yên tĩnh. Phía sau vọt lên một chiếc xe tự chế của đám Chó Hoang đàn em Đạt Ba. Đêm xuống, họ dong xe đi tuần kiểm tra địa bàn. Ánh đèn pha sáng rực phá nát sắc lam đồng măng man, phá luôn cả tâm tư mong muốn bình yên của công chúa. Cô gái nhăn trán, bực tức quay đi. Nàng nhìn Vô Phong, hy vọng hắn thay đổi. Nhưng bằng ánh mắt nhạy cảm của nữ giới, nàng biết rõ Vô Phong vẫn hết sức tâm trạng, chưa hề có chuyển biến tích cực. Nàng muốn tìm lời khuyên từ Chiến Tử nhưng nghĩ sao lại thôi. Nàng dẹp luôn ý định hỏi Mai Hoa. Thành thử suốt chuyến đi, dăm mười phút Lục Châu lại ngó gã tóc đỏ, như đợi một bàn tay khéo léo gỡ nùi tơ vò trong lòng.
Xe kéo đi, đi mãi. Nó vượt qua đường mòn trải dài bên đồng cây măng man, trèo lên đường triền, xuôi dốc rồi đi thêm năm cây số nữa thì đến thị trấn kế tiếp. Vừa thấy thị trấn, nhóm công chúa ngỡ tưởng đang bước vào bãi phế liệu. Trước mắt họ là hàng trăm xác phi thuyền to nhỏ trải dài trên một khu vực dài hơn nửa cây số, hầu hết đã vỡ nát, một số bị chôn vùi trong cát và tất cả đều rỉ ngoèn vì thời gian khốc liệt. Nơi đây ghi dấu tích cuộc nội chiến Âm Giới, xác phi thuyền thuộc về cả phiến quân lẫn chính phủ cũ. Giữa bãi, một cọc sắt lớn cắm trên cát, trên có tấm biển lớn đề dòng chữ “Thị trấn Xa Xác Đồng – Tiếp khách lạ, không tiếp kẻ cướp, có bán rượu” nhấp nháy sáng. Bọn Vô Phong đương không hiểu thị trấn ở đâu giữa đống phế thải này thì Đạp Lỗ giới thiệu:
-Mấy năm trước, sa kết tuyến đắt quá, không dựng nhà được. Dạo gần đây đỡ hơn tí.
Ban đầu bọn Vô Phong không hiểu lời Đạp Lỗ. Đợi lúc tiến vào thị trấn, họ mới thấy người Âm Giới đã cải tạo từng cái xác phi thuyền. Bộ phận máy móc bị tháo dỡ, khoảng trống được tận dụng làm nơi ở. Mỗi xác tàu là ngôi nhà cho một gia đình, tàu lớn có thể chứa khoảng bốn năm gia đình. Nhà thường không toàn vẹn, thi thoảng thủng chỗ này dột chỗ kia, dân chúng phải lấy vải bạt che lại, họa hoằn lắm mới đắp cát bằng sa kết tuyến. Người ta dùng những phần thừa thãi như cánh tàu làm mái che, ống xả nhiên liệu lắp hệ thống thông khói, linh kiện điện tử làm vật trang trí. Lục Châu để ý trước mỗi nhà đều treo chuông gió chế từ vỏ đạn pháo và vỏ đạn súng trường. Mỗi lần gió đông viếng thăm, vỏ đạn súng trường va vào vỏ đạn pháo, phát tiếng lách cách giòn mà lạnh, không giống thanh âm lanh canh vang mà ấm của chuông gió thông thường.
Chuông gió là thứ sống động duy nhất ở thị trấn im ắng như bãi tha ma này. Dân chúng làm việc cả ngày nên nghỉ sớm, kể cả trẻ con. Đang mùa gặt măng man, lũ trẻ cũng phải phụ việc gia đình từ sáng đến tối. Đường trong thị trấn vắng ngắt, chỉ có đám Chó Hoang thi thoảng đi tuần. Chốc chốc, những tiếng lách cách tựa lời nguyện cầu cho đêm đen vơi bớt nặng nề.
Đạp Lỗ dừng xe trước một tiệm tạp hóa để mua rượu. Người Âm Giới hay dùng bột cây măng man chưng cất rượu, lại đương đúng vụ thu hoạch nên ông già tranh thủ tích trữ. Tiệm tạp hóa vốn là phi thuyền vận tải hạng nặng, có thể chở được ba trung đội. Giờ đây, nó chỉ còn là cái xác kim loại được trang hoàng bằng những bó dây điện xanh đỏ, đèn pha nhấp nháy bắt mắt. Trong lúc chờ chủ tiệm mang rượu cho Đạp Lỗ, Lục Châu thấy bên ngoài có gian kệ treo mấy món đồ chơi trẻ con. Cô gái đặc biệt chú ý một chiếc chuông gió làm từ vỏ đạn và bi sắt. Nàng buột miệng hỏi:
-Cái chuông bao nhiêu vậy?
Chủ tiệm là một anh chàng khá trẻ. Gã đáp, giọng thổ âm nặng và uể oải như màn đêm Âm Giới:
-“Nhửa” đồng vàng!
Cô gái gật đầu mua ngay. Khi đưa chuông gió cho Lục Châu, bắt gặp đôi mắt xanh thẫm và cái “mùi” đặc trưng của nàng, tay chủ tiệm đờ người ra, miệng há hốc, mũi hít hửi như chó đánh hơi, mặt rực sáng hơn cả bóng đèn nhấp nháy trước cửa. Công chúa vội nói:
-Rượu đâu nhỉ?
Tay chủ tiệm gật gật đầu như cái máy. Gã đóng rượu vào két rồi chuyển cho Đạp Lỗ nhưng đôi mắt cứ dán chặt lên công chúa. Lục Châu bèn rụt đầu vào tránh mặt gã. Bất quá trong xe, nàng lại bắt gặp ánh mắt săm soi của Vô Phong và Mai Hoa. Hai gã hết nhìn công chúa lại ngó chiếc chuông trong tay nàng. Cái chuông không đẹp, đằng thẳng ra là hơi xấu. Tên tóc đỏ nhớ Lục Châu có đeo một chiếc dây bạc thô kệch trên cổ, lẽ nào muốn sưu tập thêm cái thứ này cho đủ bộ “xấu xí”?
-Tôi… tôi thích chuông gió! Vậy thôi! – Lục Châu nói.
Mai Hoa nhếch mép cười, tay bút tay sổ ghi ghi chép chép như phát hiện điều thú vị. Vô Phong gãi gãi đầu, chẳng dè công chúa có sở thích kỳ quái như thế.
Rời Xa Xác Đồng, nhóm người tiếp tục đi về hướng tây nam. Hơn một tiếng sau, họ đặt chân tới thị trấn kế tiếp. Thực tình Lục Châu cũng không biết gọi nơi này thế nào. Những gì nàng thấy là năm sáu ngôi nhà hình chóp nón nằm rải rác trên miền đất bằng phẳng trơ thốc lốc, chỉ độc một đường triền cát nhô lên đằng đông. Những ngôi nhà có ánh đèn, có bóng người song gọi chúng là thị trấn thì quá cường điệu. Đạp Lỗ chỉ vào đường triền cát:
-Phải đi vào đó mới thấy thị trấn.
Nói rồi ông già đánh xe vòng qua những ngôi nhà hình nón. Đạp Lỗ dừng lại trước đường triền rồi đánh chuông liên hồi. Đợi ít phút, lớp cát mặt triền bỗng rào rào rớt xuống, liền sau là một gã Chó Hoang thò đầu ra. Gã hỏi muốn gì, Đạp Lỗ đáp muốn vào thị trấn. Gã hỏi giấy phép đâu, Mai Hoa bèn chìa tấm giấy thông hành. Như đám Chó Hoang ở Ô Lô Vực, tay này cũng chẳng biết chữ mà phải viện tới máy dò con dấu. Dấu khớp, gã gật đầu cho nhóm công chúa thông quan. Mặt triền rung lên từng chặp rồi cát tách đôi như tấm rèm được vén ra, bên trong là con đường ngầm xuyên lòng đất, Đạp Lỗ đánh xe tiến vào. Đường ngầm hơi hẹp, độ rộng chỉ vừa đủ chứa hai xe giác cầu, không gian lờ nhờ màu vàng vọt của những bóng đèn tròn buông thõng trên trần. Con giác cầu dường như sợ đường hầm, cứ mở miệng khụt khịt liên hồi. Công chúa đoán con thú quá to xác nên sợ chui vô nơi vừa hẹp vừa bí thế này.
Đi hết đường hầm, nhóm công chúa bắt gặp một không gian khác thoáng đãng hơn nhiều, con giác cầu vì thế cũng hết khụt khịt. Trước mắt họ là hang động cát rộng lớn, khắp nơi treo bóng đèn tròn tỏa ánh vàng nhàn nhạt. Dựa vách hang là một quần thể cung điện, năm sáu ngôi nhà hình chóp nón mà Lục Châu thấy trên kia thực chất là những đỉnh tháp trong quần thể. Giữa các tháp, thành quách điện đài im lìm và cũ kỹ dưới lớp cát phủ, so với Hồi Đằng Cô Mộ thì không lộng lẫy bằng. Nhưng Hồi Đằng Cô Mộ đổ nát còn nơi đây hầu như chưa sứt mẻ. Mọi thứ vẫn nguyên trạng, tưởng chừng chỉ cần phủi hết lớp cát, nó sẽ lại rực rỡ như xưa. Nhưng cung điện đã như thế từ khi thời đại phi cơ giới kết thúc, giờ nó là nơi sinh sống của người Âm Giới. Phía xa, trên trần hang cát lủng liểng một tấm biển đề dòng chữ “Thị trấn Bích Ba Động – Nhà nghỉ tốt, giá thuê rẻ, không tiếp quân ăn cướp”.
Nhìn quang cảnh thị trấn, Lục Châu nhận ra một điểm bất hợp lý: hang động này không hề có dấu hiệu của đất đá. Nếu chỉ riêng cát thì không thể tạo thành hang, nguyên lý đó ai cũng hiểu. Nàng không sai, bởi lẽ đây là hang động nhân tạo. Theo lời Đạp Lỗ, người Âm Giới phát hiện ra cung điện này dưới lòng đất, họ dùng sa kết tuyến dựng hang nhằm nghiên cứu khảo cổ. Khắp trong hang từ những cột cát chống đỡ, trần hay vách đều có màu bàng bạc của sa kết tuyến. Người Âm Giới dự định đào sâu hơn nhưng nội chiến bùng nổ, kế hoạch bị bỏ dở vĩnh viễn. Những gì mà Lục Châu thấy ở đây mới chỉ là một phần nhỏ, phần lớn cung điện vẫn chìm sâu dưới cát và sẽ chẳng bao giờ lộ diện. Một điều nữa là cung điện không có tên, không cả lịch sử. Với người ham hiểu biết như công chúa, điều đó quá đáng tiếc.
Đạp Lỗ đánh xe tiến về phía trước. Con giác cầu trèo lên mô cát lớn, bước qua cổng chính cung điện và đi trên cầu thang đá dẫn vào nội thành. Cầu thang nằm ở lưng chừng không trung, Lục Châu có thể phóng mắt ngắm nhìn cảnh quan phía dưới. Đó đây là đường hành lang cong vồng dẫn đến tòa kiến trúc mái vòm; là những ô cửa hình tam giác trên tòa kiến trúc nhìn thẳng xuống vườn thượng uyển; là máng xối bao quanh vườn, dẫn nước xuống bậc tam cấp, chảy vào một lòng hồ mà ở chính giữa hồ có đài phun. Nhưng đấy là chuyện thuở xưa cũ. Hiện tại, dây treo quần áo căng dọc hành lang, lòng hồ cạn khô thành chỗ phơi cây măng man, còn điện đài thành quách đã tràn ngập đồ dùng vật dụng của dân chúng. Lục Châu chợt liên tưởng một tương lai rất xa, khi hoàng cung Phi Thiên đổ nát và trở thành một thị trấn. Kể cũng mắc cười! – Nàng nghĩ.
Do sở hữu lắm phòng ốc nên thị trấn có dịch vụ nhà nghỉ khá tốt. Nhưng nhóm công chúa không nghỉ lại vì Thây Thi Hẻm còn cách đây hơn bốn mươi cây số, chần chừ là trễ hẹn với Hiệp Dung. Họ đi vào một đường hầm trong cung điện, từng bước rời khỏi Bích Ba Động. Đường hầm nhỏ hẹp, trên trần cách một quãng lại treo bóng đèn, ánh sáng vàng leo lắt cùng tiếng khụt khịt của con giác cầu hắt vào không gian mờ tối. Chẳng còn gì để nhìn ngắm, Lục Châu bèn liếc sang Vô Phong. Thấy gã này vẫn hăng say nghiên cứu sách vở, nàng lắc đầu thở dài. “Không phải tóc đỏ! Không phải thế!” – Nàng tự nhủ.
Công chúa nhận ra khi Vô Phong chưa tìm lại chính mình, nàng chẳng thể bình tâm nổi.
Đường hầm dài ngoẵng, nhóm người mất gần nửa tiếng mới quay lại sa mạc Hồi Đằng. Lần này, thay vì di chuyển về tây nam, họ đổi sang hướng đông nam vì Thây Thi Hẻm ở hướng này. Họ băng qua một thung lũng được đồi cát bao bọc tứ phía, bên trong trải dài những cánh đồng măng man của thị trấn Bích Ba Động. Đi hết thung lũng, xe tiếp tục lăn bánh trên miền cát mênh mông. Đạp Lỗ điều chỉnh chiếc đèn, ánh sáng được bẻ thành một luồng duy nhất rọi vào bóng tối. Xe kéo như con tàu ngầm lặn sâu dưới đáy biển đen thùi lùi. Không gian im ắng, chỉ còn tiếng bánh xe kẽo kẹt cùng tiếng gió lạnh rít quanh.
Nhóm công chúa không đơn độc trên sa mạc. Họ thi thoảng bắt gặp đám Chó Hoang và bị căn vặn đủ điều. Khu vực này gần lãnh thổ Quỷ Nhãn nên lính của Đạt Ba kiểm tra rất kỹ, không như ở Xa Xác Đồng hay Bích Ba Động. Đám này chẳng ai biết chữ, lại không mang máy kiểm dấu nên tấm giấy thông hành của Lục Châu chẳng khác chi giấy lộn. Phải đợi bọn Chó Hoang gọi về Ô Lô Vực xác nhận, nhóm công chúa mới được đi tiếp. Dền dứ khoảng hai ba đám như vậy, mãi hơn 10 giờ họ mới đến thị trấn kế tiếp mang tên Thủy Tháp Đảo.
Trong số những nơi mà nhóm công chúa đặt chân tới, Thủy Tháp Đảo giống với định nghĩa “thị trấn” nhất. Từ trên đồi cát nhìn xuống, nó khá giống Vùng An Toàn với nhiều dãy nhà cát và nổi bật với những dải sa kết tuyến bàng bạc. Điểm đặc biệt là thị trấn nằm trên một ốc đảo lớn, bao quanh có hàng rào bụi gai cùng xương rồng. Bên trong Thủy Tháp Đảo, vườn tược chia từng ô vuông vắn, xen lẫn các dãy nhà. Tuy không nhìn rõ vườn trồng gì nhưng Lục Châu có thể ngửi hương cam ngọt hay mùi mơ chua do gió đông mang lại. Đồng măng man được trồng ngay bên cạnh thị trấn, tươi tốt và trĩu bông, màu lam rực rỡ hơn hết thảy những cánh đồng măng man mà Lục Châu từng thấy. Có được cảnh tượng trù phú ấy là nhờ mạch nước ngầm dưới lòng đất. Nước dồn thành hai lòng hồ, nằm ở hai góc chéo nhau của thị trấn. Từ hồ, người ta đào kênh dẫn tới các vườn, đào mương dẫn ra đồng măng man. Là nơi cung cấp nước nên Đạt Ba cử người bảo vệ Thủy Tháp Đảo rất kỹ lưỡng. Trên đường vào thị trấn, Lục Châu thấy người dân chẳng bao nhiêu mà Chó Hoang thì nhiều.
Nhờ nước ngầm mà ở đây tồn tại cây “thủy tháp”, phát âm từ chữ “Ujyn Klan” – cổ ngữ Kim Ngân, nghĩa là “cân bằng”. Cái tên “Thủy Tháp Đảo” từ đấy mà ra. Thân cây cao cỡ trung bình, ngọn không phải lá nhưng đầy những tua rua màu tím hồng. Thủy tháp không phải cây ăn trái hay lương thực, cũng không có giá trị kinh tế nào trừ một điểm đặc biệt: nó có thể thay đổi nhiệt độ. Khi nhiệt độ xuống thấp, chúng sẽ tỏa nhiệt nhằm chống chọi cái lạnh. Lợi dụng điều này, người Âm Giới đào đường dẫn nước quanh thủy tháp để bớt thời giờ đun nước. Thủy tháp mọc ở mọi nơi, nhưng nhiều nhất là xung quanh hai lòng hồ của thị trấn.
Nhìn mặt hồ loang loáng, Lục Châu bỗng ngứa ngáy kinh khủng. Công chúa nhăn nhó, cảm giác toàn thân đang nảy nở vi trùng bệnh tật. Nàng chợt nhận ra trong xe đang bốc mùi hôi hám của ba gã đàn ông lâu ngày không tắm. Sao họ chịu được? – Nàng tự hỏi. Lục Châu muốn tắm, nhưng nhớ lời Mai Hoa, nàng đành phải nhịn. Bất chợt gã bốn mắt bỗng lên tiếng:
-Tắm rửa rồi ngủ, ngày mai chúng ta đi sớm.
Lục Châu gật gật. Sau nhớ ra chuyện gì, nàng hỏi lại:
-Anh nói gì? Tắm hả?
Gã bốn mắt cười:
-Vâng, thưa cô. Tắm. Chúng ta không thể gặp Hiệp Dung với bộ dạng từa lưa thế này được.
Tuy ngoài mặt không biểu hiện gì nhưng trong lòng Lục Châu đầy tiếng pháo hoa nổ giòn giã. Tắm, được tắm, vậy là được tắm! – Cô gái cười thầm.
Nhưng niềm vui tắm gội của Lục Châu giảm dần theo thời gian. Thứ nhất, Thủy Tháp Đảo chỉ có dịch vụ tắm công cộng. Thứ hai, Vô Phong nằng nặc đòi đi theo để làm cái việc mà hắn gọi là “đảm bảo an toàn cho công chúa”. Chiến Tử bảo đó là bổn phận của mình, tên tóc đỏ nói từ giờ Chiến Tử nên chuyển giao trách nhiệm. Chiến Tử bảo không, tên tóc đỏ bảo có. Hai gã sửng cồ như thể sắp bụp nhau tới nơi. Vốn tính cả nể, Lục Châu đành thuận theo ý Vô Phong, dù trong lòng cảm giác rất kỳ cục.
Nhà tắm công cộng ở Thủy Tháp Đảo khá đặc biệt. Người Âm Giới đào hồ nhỏ quanh gốc thủy tháp, lại dựng vải bạt quây từng cây, mỗi màn quây là một nhà tắm, có vách ngăn phân cách chia thành năm sáu phòng. Chủ quản khu này là một bà cô luống tuổi sở hữu thân hình sồ sề, bộ mặt dày ự son phấn trắng lốp trong khi cổ và tay đen nhẻm. Trông thấy Lục Châu và Vô Phong, chưa để hai người mở miệng, bà ta đã nhanh nhảu quảng cáo:
-Ái da, cặp đôi, cặp đôi! Này, ở đây có phòng tắm tình nhân đấy, cô cậu thấy sao? Chỉ đúng một phòng thôi! Giá hơi mắc tí, mười đồng vàng nhưng đáng tiền lắm! Đôi nào mới cưới cũng tới đây cả. Phòng yên tĩnh, thoải mái cực kỳ! Thuê nhá? Nhá? Nhá?
Lục Châu mở miệng toan nói nhưng Vô Phong cướp lời nàng:
-Mười đồng vàng? Cho chúng tôi thuê!
Và chẳng thèm đợi công chúa đồng ý hay không, tên tóc đỏ đẩy lưng nàng đi về phía trước. Công chúa tính tình cả nể nhưng chuyện này vượt quá tầm kiểm soát. Nàng dừng bước, quay lại nhìn Vô Phong, nghiêm giọng nói:
-Anh làm vậy là sao? Tôi đâu cần phòng tắm kiểu này chứ?
-Cô mà tắm ở ngoài kia, tôi không ở gần cô được. – Vô Phong đáp – Phòng nam nữ mà, ai cho tôi vào chứ? Có phòng tình nhân thì được.
-Tôi không hiểu?!
Vô Phong ôm lấy vai công chúa đoạn xoay nàng lại:
-Cô cứ việc tắm. Tôi chỉ ở bên ngoài thôi. Hứa đấy!
Thực tình tên tóc đỏ không có ý xấu. Trong địa bàn của Đầu Sói, Lục Châu không thể tự tiện đi lại một mình hoặc nếu muốn, nàng cần người bảo vệ. Nhất lúc tắm công chúa phải lộ mặt, đây là quãng thời gian nguy hiểm nhất. Nhỡ ai đó trông thấy và biết thân phận thực sự của Lục Châu, cả sa mạc sẽ săn đuổi nàng. Hiểu vấn đề, cô gái thôi không phàn nàn nhưng thâm tâm vẫn đầy những hạt sạn phân vân. Kỳ cục thế nào ấy! – Nàng nghĩ thầm.
Phòng tắm tình nhân nằm ở chỗ riêng trong khu, được xây nhà cát kiên cố, có giường nằm thư giãn và cả nhân viên phục vụ. Tuy nhiên Vô Phong không muốn người lạ lởn vởn xung quanh. “Chúng tôi muốn riêng tư một chút!” – Hắn nháy mắt nói với đám nữ phục vụ viên, giọng khe khẽ đầy hàm ý. Mấy cô này tủm tỉm cười sau rời đi, để lại đôi nam nữ thích chuyện “riêng tư”. Lục Châu nóng bừng mặt, lưng ướt đẫm mồ hôi dù trời đương lạnh cắt da cắt thịt. Vô Phong nói:
-Tôi chờ ở ngoài. Cô cứ tự nhiên!
Dứt lời, hắn hạ người trên chiếc ghế dài án ngữ trước phòng tắm. Lục Châu liền chui tọt vô phòng và nhanh chóng sập cửa. Cảm giác công chúa muốn tránh mặt mình, Vô Phong thở dài. Hắn chẳng muốn làm thế này nhưng vì đại thánh sứ Tây Minh nhờ vả, hắn chỉ cố làm tròn bổn phận. Hắn cũng không có ý định nhìn trộm công chúa tắm vì căn bản là… không thể. Cửa phòng tắm làm bằng cát, kín như bưng, ruồi bay còn không lọt thì nhìn cái con khỉ! – Hắn lắc đầu.
Với Vô Phong, nơi này chán ngắt và vô vị, còn Lục Châu lại thấy nó như thiên đường trần thế. Phòng tắm không lợp mái, giữa phòng mọc một cây thủy tháp, tán cây xòe rộng in bóng trên mặt hồ bên dưới. Công chúa nhanh chóng trút bỏ xiêm y rồi trầm mình xuống hồ. Nước nóng khiến nàng khoan khoái dễ chịu. Cô gái lội đến thủy tháp, rờ tay ấn nhẹ bọng mềm trên gốc cây, tức thì tán tua rua rung động rũ nước. Một cơn mưa ngâu ấm áp trút xuống Lục Châu. Những giọt nước ngấm vào tóc, lăn dọc lưng rồi theo một đường cong mềm mại chảy đến tận gót chân nàng. Bụi bẩn Hồi Đằng, cơn ác mộng Hồi Đằng Cô Mộ, mùi hôi hám Đại Lộ Đỏ và mùi máu Ô Lô Vực; mọi thứ bám dính trên người được gột sạch. Giờ đây, công chúa như khối bạch ngọc trắng trẻo, tinh khiết và đẹp đẽ. Nàng cười thành tiếng, miệng cất tiếng hát khe khẽ, lòng ước rằng Tiểu Hồ xuất hiện ở đây. Ngâm mình một lúc, Lục Châu lại ước đám mây khổng lồ đang che phủ Hồi Đằng tan biến, để nàng có thể vừa tắm vừa ngắm trời sao.
Nhưng Lục Châu đột nhiên nhớ ra Vô Phong vẫn ngồi bên ngoài. Nàng vội lặn mình xuống hồ đoạn gọi:
-Phong?!
-Vâng? Công… à nhầm, cô gọi gì? – Vô Phong trả lời.
-Anh nghe thấy gì không?
-Có. Tôi nghe thấy. Sao vậy?
Công chúa cúi đầu tự trách mình lố lăng. Từ tiếng cười khoan khoái tới giọng hát của nàng, Vô Phong nghe rõ mồn một. Nàng lặn xuống hồ như muốn che giấu thần tình xấu hổ. Nỗi xấu hổ ấy còn lớn hơn khi nàng thấy vết bầm màu tím trên bả vai mình. Nó sinh ra từ sau sự vụ ở Thiên Phạn và vĩnh viễn không biến mất do tác động của Oán Hồn Dạ Hỏa (***). Lục Châu không quan tâm vết bầm làm mình xấu đi mà nó liên quan đến một sự tình khó nói. Nàng buột miệng:
-Anh… thấy hết rồi, đúng không?
-Hả? Thấy cái gì cơ?
Công chúa vội sửa:
-Không! Tôi nhầm! Tôi định nói… hôm nay trông anh căng thẳng quá!
-Hả? À… ờ, phải. Tôi không khỏe lắm.
-Vì chuyện ở Ô Lô Vực, đúng không?
Vô Phong im lặng một lúc, sau đáp:
-Phải. Tôi buồn nôn khi nghĩ về nó. Thằng khốn Đạt Ba dã man quá.
-Ngủ một giấc, anh sẽ quên thôi. Hoặc như anh nói: kệ mẹ nó! Phải không? – Lục Châu cười.
Tên tóc đỏ im lặng tập hai. Đắn đo suy nghĩ hồi lâu, hắn nói:
-Có nhiều điều rất kỳ lạ. Nó ám vào bộ não tôi, không dứt ra nổi. Lần trước ở Lạc Việt, cô nói với tôi rằng có nhiều thứ không thể quên. Cô nói đúng. Giống lần tới Quận 4 vậy! Tôi vẫn nhớ kẻ đầu tiên mình giết. Lúc ấy tôi đang truy đuổi Bất Vọng, gã đó xuất hiện. Tôi đánh trả. Hắn chết. Một nhát chém từ sườn phải lên ngực. Rồi sau đó tôi giết liên tiếp ba người nữa (****). Tôi tự nhủ: tự vệ thôi, tự vệ thôi! Nhưng sau hôm đó, tôi mất ngủ một vài ngày và cảm giác bên trong mình, cái gì đấy đã chết.
Lục Châu chăm chú lắng nghe. Suy nghĩ và suy nghĩ, nàng chợt hiểu tắm gội chỉ làm sạch bề ngoài chứ không thể gột rửa những suy nghĩ tăm tối trong đầu mình. Cơn ác mộng Hồi Đằng Cô Mộ không hề tan biến. Nó vẫn còn đó và luôn chực chờ cơ hội tái xuất trong đầu nàng.
-Cô giết ai bao giờ chưa? – Vô Phong hỏi.
-Chưa.
-À, vậy thật tốt. Giết chóc… tôi nhận ra nó là cái thứ khó quên nhất trần đời.
-Sao anh nghĩ về giết chóc hoài vậy? – Lục Châu nói – Có nhiều thứ khó quên mà vẫn tốt đẹp chứ!
-Ví dụ?
-Giống như kỷ niệm gì đấy! Tôi thích chuông gió vì quá khứ của tôi gắn liền với nó. Ngày trước, tôi từng có một hộ vệ ngầm. Anh ta không bao giờ xuất hiện, chỉ có tiếng chuông gió…
Và nàng bắt đầu kể chuyện xưa cũ, còn Vô Phong chẳng hé răng thêm lời nào nữa. Lục Châu cứ thao thao bất tuyệt cho tới khi thay quần áo. Vừa ra khỏi phòng tắm, nàng ngẩn người vì Vô Phong đã lăn lóc trên ghế ngáy ầm ầm từ bao giờ. Chân gác lên ba lô, tay thủ túi áo sẵn sàng rút kiếm nhưng với điệu bộ ngủ nghê này thì dẫu pháo nổ dưới mông, tên tóc đỏ cũng chẳng dậy. Vạn Thế ơi, hộ vệ thánh sứ kiểu gì đây? – Công chúa than thầm.
Bất quá nhìn tên tóc đỏ, Lục Châu cảm thấy bình an lạ kỳ. Đây là Vô Phong mà nàng biết: không lo lắng và không vướng bận. Công chúa ngồi xuống ghế, cách Vô Phong một khoảng nhưng đủ gần để nàng có thể liếc xuống và trông rõ gương mặt hắn. Tuy đã cùng nhau trải qua nhiều chuyện nhưng Lục Châu ngộ ra mình chẳng hiểu Vô Phong tí nào, như thể nàng đang đối mặt cơn gió lạ đến từ miền đất xa xăm.
Tâm trí Lục Châu thông suốt, chẳng còn những nùi tơ vò rắc rối nữa. Nàng ngồi đó, suy nghĩ về cuộc gặp gỡ với Hiệp Dung, suy nghĩ về nhiệm vụ. Nàng không đánh thức Vô Phong mà để hắn ngủ.
“Cứ thế này cũng được.” – Lục Châu tự nhủ, lòng cầu mong Vô Phong cứ mãi như vậy.
…
Nửa đêm, các thị trấn luôn tĩnh mịch bởi dân chúng đều say ngủ, ngoại trừ Xa Xác Đồng. Vì là nơi duy nhất bán rượu nên thương nhân, dân thường lẫn đám Chó Hoang hay lui tới đây. Trước tiệm tạp hóa của thị trấn, một nhóm người đang chờ đợi chủ tiệm mang rượu ra, phiền nỗi tay này uể oải như mất hồn, làm gì cũng chậm chạp. Một người gắt gỏng:
-Nhanh nhanh lên mày! Bọn tao còn phải chuyển hàng!
Gã chủ tiệm gật gật rồi thở dài đánh sượt. Một người khác nói:
-Sao thế chú mày? Mọi khi vui vẻ lắm mà? Sao giờ khó coi vậy?
-Các người không biết tôi vừa gặp cái gì đâu. – Tay chủ tiệm nói – Gái, các người hiểu không? Gái đẹp!
Đám khách mua hàng nhất loạt cười hô hố. Một người nhún vai:
-Bọn tao biết chất lượng gái điếm Xa Xác Đồng tệ cỡ nào. Rất thông cảm cho chú mày! Vậy… là gái từ thị trấn khác tới à?
Gã chủ tiệm lắc đầu nguầy nguậy:
-Không! Không!
-Hay gái từ Đại Lộ Đỏ?
-Không! Hơn thế “nhiệu” lắm! – Gã chủ tiệm nói, giọng thổ âm đặc sệt – Tôi dám cá không con điếm nào ở Kim Ngân sánh bằng. Không! Không thể so sánh với lũ “đỉ” điếm được. Đứa con gái ấy, tôi thề với các người, chỉ cần nhìn mắt nó thôi là các người chết tại “chổ” luôn! Chết ngắc luôn!
Đám khách hàng nhìn nhau, kẻ nhíu mày, kẻ nhăn mặt, hầu hết không tin lời gã chủ tiệm. Một người hất hàm hỏi:
-Mày láo toét gì thế? Đôi mắt là sao? Bọn tao đếch hiểu!
-Phải nhìn mới thấy! – Tay chủ tiệm chém tay như giáng búa đóng đinh – Vạn Thế ơi, con bé đó… Nó che mặt, nhưng chỉ nhìn vào mắt nó thôi, tôi biết nó là gái đẹp. Không phải gái đẹp thông thường đâu! Tôi ngửi thấy mùi của nó, rất đặc biệt! Nó không có mùi mồ hôi, không có mùi phấn rẻ tiền của lũ “đỉ” điếm, càng không có mùi măng man. Nói sao nhỉ? Cái mùi quyền quý, không phải dân lao động. Tôi dám cá con bé ấy đến từ Tuyệt Tưởng Thành, hoặc thậm chí là người nước ngoài. Khẳng định đấy!
Mọi người cười ầm ĩ, hết thảy đều nghĩ gã phét lác. Chỉ duy nhất một người khá quan tâm, y chen từ hàng cuối lên đầu, tay giơ một tấm ảnh đoạn hỏi gã chủ tiệm:
-Có giống người này không?
Gã chủ tiệm nheo mắt nhìn. Đó là ảnh chụp một cô gái tóc nâu, gương mặt thanh tú toát ra khí chất cao sang hiếm có và đeo một chiếc hoa tai mã não đính sợi lông vũ màu đỏ. Nhưng đặc biệt hơn cả là đôi mắt xanh thẫm của cô gái, nó khiến gã chủ tiệm bị hút hồn vào bức ảnh. Gã nói:
-Tôi không rõ, tôi chỉ nhìn thấy mắt con bé thôi. Không thấy mặt, nhưng đúng màu mắt này. Mà ảnh chụp ai thế?
Kẻ nọ hỏi tiếp:
-Nó đi về hướng nào?
-Ai biết? Từ Xa Xác Đồng đi đâu chẳng được? “Nhiệu” lắm! Tây nam, đông nam, đông bắc, hướng nào cũng được! Này, còn ảnh như vậy chứ? Tôi mua!
Kẻ nọ không đáp mà lập tức rời khỏi đám đông, bóng dáng dần mất hút dưới màn đêm dày đặc. Gã chủ tiệm nheo mắt khó chịu:
-Nó giữ ảnh cho riêng nó kìa! Mẹ kiếp, thằng bủn xỉn!
-Kền kền đấy! – Một người nói.
-Kền kền là cái gì? – Gã chủ tiệm hỏi lại.
-Bọn săn tin. – Người kia đáp lời – Nghe nói chúng lân la khắp thế giới nhằm moi móc và bán thông tin. Chúng đã săn ai thì không người nào thoát được.
Gã chủ tiệm nhún vai chẳng quan tâm. Tâm trí gã bây giờ chỉ biết lảm nhảm hai chữ “gái đẹp”. Suốt đêm ấy, gã kể đủ điều xung quanh cô gái và cả chiếc chuông gió mà nàng mua. Đám khách hàng lúc đầu chẳng tin, sau lặng thinh nghe gã luyên thuyên. Để rồi sáng ngày mai, dân chúng khắp các thị trấn sẽ đồn đại về mỹ nữ mắt xanh thẫm vừa đặt chân xuống Hồi Đằng.
Trong khi ấy, Lục Châu vẫn chưa biết cái đầu mình được treo giá ba mươi ba thùng quang tố. Nàng cũng chẳng ngờ những con kền kền đang vỗ cánh bay về Kim Ngân, càng lúc càng đông.
Nỗi lấn cấn ấy theo Vô Phong vào giấc ngủ. Trên đường đi, thấy công chúa thức, hắn bèn đánh một giấc cho đỡ mệt. Trong cơn mơ màng cùng cái lạnh của sa mạc, hắn trông thấy gã Đạt Ba túm xác người quật xuống đất. Mỗi lần quật, từng mảnh cơ nhục rớm máu bắn tung tóe, rơi lẹt phẹt trên đất. Cuối cùng, cái xác biến mất hoàn toàn, chỉ còn lại Đạt Ba cười hể hả giữa đống xương thịt. Cười xong, gã im lặng, mặt đần độn, mắt dáo dác ngó quanh tìm thú vui mới trong không gian đỏ lòm lòm. Bất chợt những mảnh vụn thịt xương rung bần bật, chúng lăn vào nhau, lắp ghép thành một thân thể méo mó đầy vết nứt rỉ máu. Cơ thể ấy dặt dẹo bước, khi đứng trước Đạt Ba, nó bỗng mở miệng khào khào:
-Mày thích không?
Đạt Ba không đáp. Không gian câm lặng. Bất thình lình toàn thân gã Đầu Sói biến dạng, lớp da quánh lại như nhựa đường vón cục, rồi đứt toác như bị một bàn tay vô hình xoắn vặn, xé toạc. Đạt Ba kêu gào thảm thiết. Lớp da đứt hết, để lại một thân thể khác gầy gò cùng mái tóc màu đỏ. Vô Phong giật thót rồi nhìn thêm lần nữa. Cơ thể gầy gò cùng mái tóc đỏ đích thực là hắn, là Vô Phong chứ không ai khác. Cái xác chắp vá kia lại gào lên lần nữa:
-Mày thích không?
Vô Phong kinh hoảng, tìm cách thoát khỏi không gian màu đỏ nhưng không thể. Hắn nhận ra mình không có tay chân, không thân xác, cũng chẳng có mồm để kêu la hoảng loạn. Hắn vô hình vô dạng, tựa thể một linh hồn hay đám khói. Hắn chẳng đi đâu được ngoài việc ở yên chỗ này và chứng kiến khung cảnh quái dị. Hốt nhiên cái xác chắp vá quay về phía hắn, nó chậm rãi tiến đến. Dường như nó nhìn thấy hắn. Khi đứng sát Vô Phong – hay thứ thể trạng vô hình này, cái xác ngoác mồm gào lớn:
-MÀY CÓ THÍCH KHÔNG?
Rồi từ cái miệng lều phều nhớp nhúa, cái xác phun dòng máu vào Vô Phong. Hắn ngửi thấy mùi tanh, ngửi thấy sự kinh tởm tràn ngập không gian. Lạ thay, khi máu tưới lên, thân xác hắn dần lộ diện. Từng ngón tay, ngón chân, từng mảnh da, khối tóc… tất cả được sinh trưởng trong đống máu mà cái xác chắp vá nôn mửa. Sợ hãi tột độ, Vô Phong hét lên. Có miệng có lưỡi, hắn hét được, hét bằng tất cả sức lực.
Tiếng hét kéo Vô Phong bừng tỉnh. Hắn bật dậy, trán đầm đìa mồ hôi, mặt mũi tái xanh tái đỏ. Bần thần khá lâu, hắn mới nhận ra mình đang nằm chổng vó trong xe kéo, Lục Châu và Mai Hoa ngồi quanh lo lắng. Công chúa hỏi hắn:
-Anh sao vậy? Anh ổn chứ?
Ác mộng… – Vô Phong lẩm bẩm. Sau lần đầu tiên giết người ở Quận 4 Cửu Long, hắn đã gặp ác mộng (*). Việc ấy xảy ra chưa lâu, mới cách đây một tháng rưỡi, giờ lại tái hiện. Lần này Vô Phong không giết ai mà hắn chứng kiến người này giết người khác. Từng sợi tâm trí của hắn bị bóp nghẹt, tâm tưởng như méo mó đi. Phút chốc thoáng qua, hắn thương cảm cho tên Thợ Săn vô danh và muốn giết những thể loại người như Đạt Ba. Cũng rất nhanh, hắn ngộ ra mình đang cuốn vào vòng xoáy bạo lực. Lục địa Kim Ngân chẳng tạo nên bất cứ cảm hứng nào ngoài việc khơi gợi bản tính dã thú bên trong con người.
Tên tóc đỏ xua tay đoạn nhăn răng cười với công chúa, tỏ vẻ mình vẫn khỏe như vâm. Nhưng hắn chỉ thay đổi nét mặt chứ chẳng thể che giấu ánh mắt đầy băn khoăn. Là mơ? Là thật? Điềm báo tương lai hay quá khứ bí mật? Vô Phong không trả lời được. Hắn đành mở máy chiếu và nghiên cứu bí kỹ, hy vọng chữ nghĩa sẽ xoa dịu những dư âm của ác mộng. Hết nghiên cứu, hắn lại theo dõi Chiến Tử. Hắn cố gắng làm đầu óc mình vận động liên tục, bởi chỉ cần một giây ngơi nghỉ, ý nghĩ cái xác kinh khủng kia sẽ quay trở lại.
Nhìn Vô Phong, Lục Châu biết hắn vừa có giấc ngủ không mấy dễ chịu. Nàng dám chắc đây là lần đầu tiên trông thấy vẻ mặt bối rối của hắn. Bối rối, lo lắng, bồn chồn? Nàng đã nghĩ mấy tính từ đó chẳng bao giờ xuất hiện ở gã tóc đỏ. Nhưng nó đang xảy ra và nàng hơi sợ. Công chúa không biết tại sao lại như thế.
Dạo gần đây, Lục Châu chợt nhận ra tâm lý mình thay đổi theo sự biểu hiện của Vô Phong. Hắn bắng nhắng, nàng có thể bình tĩnh suy xét mọi việc. Hắn lo lắng, nàng rối trí theo. Ngay bây giờ, Lục Châu không biết cần chuẩn bị những gì cho cuộc gặp gỡ Hiệp Dung. Đau đầu vì nghĩ ngợi, cô gái liền quay ra ô cửa, ánh mắt chơi vơi tìm chút giải tỏa ở làn gió lạnh sa mạc.
Để đi trong đêm, Đạp Lỗ phải gắn đèn chiếu trên mui xe. Đèn hình khối hộp, đá Hỗ Thạch đốt cháy ở đáy, bên trên có bộ phận chỉnh sáng. Từ Ô Lô Vực, ông già đánh xe qua con đường nhỏ hẹp đâm xuyên vách đá, sau lên dốc rồi trở lại sa mạc Hồi Đằng. Lục Châu nhận ra tuyến đường chuyển tiếp giữa các thị trấn khá yên bình. Đám trộm cướp ở Hồi Đằng không dám mó chân dù chỉ một bước vào lãnh thổ Đầu Sói, nhất là địa bàn của Đạt Ba.
Qua ô cửa xe, Lục Châu trông thấy nhiều khoảnh trũng nằm bên chân đồi cát hướng tây, mỗi khoảnh chia thành nhiều thửa trồng những cây thân mảnh dẻ, đầu trĩu nặng bông hoa có hình dáng cái chụp đèn và phát ánh sáng màu lam. Theo Lục Châu biết, cây này gọi là “măng man” – cây lương thực chủ chốt ở Kim Ngân. Nhờ bộ rễ rất dài, sức chịu đựng cao cùng khả năng tích trữ nước lâu ngày nên thứ cây này sống rất khỏe trên cát. Bột trong hoa dùng làm bánh măng man, một món ăn từng là đặc trưng của người Kim Ngân. Nhưng giờ chiến tranh nhiều, đất sản xuất ít, bánh măng man không thịnh hành như xưa nữa.
Ánh lam dìu dịu từ cánh đồng măng man như bàn tay mềm mại vỗ về đôi vai Lục Châu. Nàng thấy lẫn trong cánh đồng là những bóng người. Đám ấy có người già, trẻ con, nam nữ đủ cả. Họ xới cát làm thửa măng man mới, vắt bột cây, chất những bao tải lên xe kéo. Trời tối, gió lạnh lẽo hơn, họ hò nhau nghỉ làm. Từng người leo lên thùng hàng, giác cầu kéo xe chở người lẫn bao tải đựng bột cây về thị trấn. Đường mòn cát mênh mông trong bóng đêm, xe kéo nối đuôi nhau lăn bánh, bóng hình mờ đi trước rừng sắc lam hòa ái của đồng măng man, tựa thể đoàn thuyền bồng bềnh trôi theo gió sa mạc. Lục Châu bần thần nhìn theo. Từ ngày bước lên Thần Sấm, đây là lần thứ hai nàng được nhìn ngắm khung cảnh yên bình như thế. Lần trước là ngắm hoàng hôn cùng Vô Phong từ Thần Sấm (**). Một, hai… – Công chúa kín đáo xòe ngón tay đếm, tự thấy sao mà ít ỏi quá! Nàng tựa đầu cạnh cửa sổ, đôi mắt xanh thẫm níu chặt màu lam đồng cây măng man. Phải rồi, “măng man” phiên âm từ chữ cổ của Kim Ngân: Majn-mhan, còn có nghĩa là “mẹ” mà! – Lục Châu tự nhủ rồi cứ nghĩ về nó. “Majn-mhan, majn-mhan…” – Nàng lẩm bẩm.
Tâm hồn con người đầy màu sắc song không thiếu khoảng trống. Với công chúa, cái khoảng trống ấy là “majn-mhan”. Nàng đọc tiếng cổ ngữ rành rọt mà sao đọc tiếng phổ thông khó vô cùng.
Thần trí Lục Châu lạc vào đồng cây măng man và còn lâu mới dứt ra khỏi nếu không có tiếng động cơ ầm ì phá tan không gian yên tĩnh. Phía sau vọt lên một chiếc xe tự chế của đám Chó Hoang đàn em Đạt Ba. Đêm xuống, họ dong xe đi tuần kiểm tra địa bàn. Ánh đèn pha sáng rực phá nát sắc lam đồng măng man, phá luôn cả tâm tư mong muốn bình yên của công chúa. Cô gái nhăn trán, bực tức quay đi. Nàng nhìn Vô Phong, hy vọng hắn thay đổi. Nhưng bằng ánh mắt nhạy cảm của nữ giới, nàng biết rõ Vô Phong vẫn hết sức tâm trạng, chưa hề có chuyển biến tích cực. Nàng muốn tìm lời khuyên từ Chiến Tử nhưng nghĩ sao lại thôi. Nàng dẹp luôn ý định hỏi Mai Hoa. Thành thử suốt chuyến đi, dăm mười phút Lục Châu lại ngó gã tóc đỏ, như đợi một bàn tay khéo léo gỡ nùi tơ vò trong lòng.
Xe kéo đi, đi mãi. Nó vượt qua đường mòn trải dài bên đồng cây măng man, trèo lên đường triền, xuôi dốc rồi đi thêm năm cây số nữa thì đến thị trấn kế tiếp. Vừa thấy thị trấn, nhóm công chúa ngỡ tưởng đang bước vào bãi phế liệu. Trước mắt họ là hàng trăm xác phi thuyền to nhỏ trải dài trên một khu vực dài hơn nửa cây số, hầu hết đã vỡ nát, một số bị chôn vùi trong cát và tất cả đều rỉ ngoèn vì thời gian khốc liệt. Nơi đây ghi dấu tích cuộc nội chiến Âm Giới, xác phi thuyền thuộc về cả phiến quân lẫn chính phủ cũ. Giữa bãi, một cọc sắt lớn cắm trên cát, trên có tấm biển lớn đề dòng chữ “Thị trấn Xa Xác Đồng – Tiếp khách lạ, không tiếp kẻ cướp, có bán rượu” nhấp nháy sáng. Bọn Vô Phong đương không hiểu thị trấn ở đâu giữa đống phế thải này thì Đạp Lỗ giới thiệu:
-Mấy năm trước, sa kết tuyến đắt quá, không dựng nhà được. Dạo gần đây đỡ hơn tí.
Ban đầu bọn Vô Phong không hiểu lời Đạp Lỗ. Đợi lúc tiến vào thị trấn, họ mới thấy người Âm Giới đã cải tạo từng cái xác phi thuyền. Bộ phận máy móc bị tháo dỡ, khoảng trống được tận dụng làm nơi ở. Mỗi xác tàu là ngôi nhà cho một gia đình, tàu lớn có thể chứa khoảng bốn năm gia đình. Nhà thường không toàn vẹn, thi thoảng thủng chỗ này dột chỗ kia, dân chúng phải lấy vải bạt che lại, họa hoằn lắm mới đắp cát bằng sa kết tuyến. Người ta dùng những phần thừa thãi như cánh tàu làm mái che, ống xả nhiên liệu lắp hệ thống thông khói, linh kiện điện tử làm vật trang trí. Lục Châu để ý trước mỗi nhà đều treo chuông gió chế từ vỏ đạn pháo và vỏ đạn súng trường. Mỗi lần gió đông viếng thăm, vỏ đạn súng trường va vào vỏ đạn pháo, phát tiếng lách cách giòn mà lạnh, không giống thanh âm lanh canh vang mà ấm của chuông gió thông thường.
Chuông gió là thứ sống động duy nhất ở thị trấn im ắng như bãi tha ma này. Dân chúng làm việc cả ngày nên nghỉ sớm, kể cả trẻ con. Đang mùa gặt măng man, lũ trẻ cũng phải phụ việc gia đình từ sáng đến tối. Đường trong thị trấn vắng ngắt, chỉ có đám Chó Hoang thi thoảng đi tuần. Chốc chốc, những tiếng lách cách tựa lời nguyện cầu cho đêm đen vơi bớt nặng nề.
Đạp Lỗ dừng xe trước một tiệm tạp hóa để mua rượu. Người Âm Giới hay dùng bột cây măng man chưng cất rượu, lại đương đúng vụ thu hoạch nên ông già tranh thủ tích trữ. Tiệm tạp hóa vốn là phi thuyền vận tải hạng nặng, có thể chở được ba trung đội. Giờ đây, nó chỉ còn là cái xác kim loại được trang hoàng bằng những bó dây điện xanh đỏ, đèn pha nhấp nháy bắt mắt. Trong lúc chờ chủ tiệm mang rượu cho Đạp Lỗ, Lục Châu thấy bên ngoài có gian kệ treo mấy món đồ chơi trẻ con. Cô gái đặc biệt chú ý một chiếc chuông gió làm từ vỏ đạn và bi sắt. Nàng buột miệng hỏi:
-Cái chuông bao nhiêu vậy?
Chủ tiệm là một anh chàng khá trẻ. Gã đáp, giọng thổ âm nặng và uể oải như màn đêm Âm Giới:
-“Nhửa” đồng vàng!
Cô gái gật đầu mua ngay. Khi đưa chuông gió cho Lục Châu, bắt gặp đôi mắt xanh thẫm và cái “mùi” đặc trưng của nàng, tay chủ tiệm đờ người ra, miệng há hốc, mũi hít hửi như chó đánh hơi, mặt rực sáng hơn cả bóng đèn nhấp nháy trước cửa. Công chúa vội nói:
-Rượu đâu nhỉ?
Tay chủ tiệm gật gật đầu như cái máy. Gã đóng rượu vào két rồi chuyển cho Đạp Lỗ nhưng đôi mắt cứ dán chặt lên công chúa. Lục Châu bèn rụt đầu vào tránh mặt gã. Bất quá trong xe, nàng lại bắt gặp ánh mắt săm soi của Vô Phong và Mai Hoa. Hai gã hết nhìn công chúa lại ngó chiếc chuông trong tay nàng. Cái chuông không đẹp, đằng thẳng ra là hơi xấu. Tên tóc đỏ nhớ Lục Châu có đeo một chiếc dây bạc thô kệch trên cổ, lẽ nào muốn sưu tập thêm cái thứ này cho đủ bộ “xấu xí”?
-Tôi… tôi thích chuông gió! Vậy thôi! – Lục Châu nói.
Mai Hoa nhếch mép cười, tay bút tay sổ ghi ghi chép chép như phát hiện điều thú vị. Vô Phong gãi gãi đầu, chẳng dè công chúa có sở thích kỳ quái như thế.
Rời Xa Xác Đồng, nhóm người tiếp tục đi về hướng tây nam. Hơn một tiếng sau, họ đặt chân tới thị trấn kế tiếp. Thực tình Lục Châu cũng không biết gọi nơi này thế nào. Những gì nàng thấy là năm sáu ngôi nhà hình chóp nón nằm rải rác trên miền đất bằng phẳng trơ thốc lốc, chỉ độc một đường triền cát nhô lên đằng đông. Những ngôi nhà có ánh đèn, có bóng người song gọi chúng là thị trấn thì quá cường điệu. Đạp Lỗ chỉ vào đường triền cát:
-Phải đi vào đó mới thấy thị trấn.
Nói rồi ông già đánh xe vòng qua những ngôi nhà hình nón. Đạp Lỗ dừng lại trước đường triền rồi đánh chuông liên hồi. Đợi ít phút, lớp cát mặt triền bỗng rào rào rớt xuống, liền sau là một gã Chó Hoang thò đầu ra. Gã hỏi muốn gì, Đạp Lỗ đáp muốn vào thị trấn. Gã hỏi giấy phép đâu, Mai Hoa bèn chìa tấm giấy thông hành. Như đám Chó Hoang ở Ô Lô Vực, tay này cũng chẳng biết chữ mà phải viện tới máy dò con dấu. Dấu khớp, gã gật đầu cho nhóm công chúa thông quan. Mặt triền rung lên từng chặp rồi cát tách đôi như tấm rèm được vén ra, bên trong là con đường ngầm xuyên lòng đất, Đạp Lỗ đánh xe tiến vào. Đường ngầm hơi hẹp, độ rộng chỉ vừa đủ chứa hai xe giác cầu, không gian lờ nhờ màu vàng vọt của những bóng đèn tròn buông thõng trên trần. Con giác cầu dường như sợ đường hầm, cứ mở miệng khụt khịt liên hồi. Công chúa đoán con thú quá to xác nên sợ chui vô nơi vừa hẹp vừa bí thế này.
Đi hết đường hầm, nhóm công chúa bắt gặp một không gian khác thoáng đãng hơn nhiều, con giác cầu vì thế cũng hết khụt khịt. Trước mắt họ là hang động cát rộng lớn, khắp nơi treo bóng đèn tròn tỏa ánh vàng nhàn nhạt. Dựa vách hang là một quần thể cung điện, năm sáu ngôi nhà hình chóp nón mà Lục Châu thấy trên kia thực chất là những đỉnh tháp trong quần thể. Giữa các tháp, thành quách điện đài im lìm và cũ kỹ dưới lớp cát phủ, so với Hồi Đằng Cô Mộ thì không lộng lẫy bằng. Nhưng Hồi Đằng Cô Mộ đổ nát còn nơi đây hầu như chưa sứt mẻ. Mọi thứ vẫn nguyên trạng, tưởng chừng chỉ cần phủi hết lớp cát, nó sẽ lại rực rỡ như xưa. Nhưng cung điện đã như thế từ khi thời đại phi cơ giới kết thúc, giờ nó là nơi sinh sống của người Âm Giới. Phía xa, trên trần hang cát lủng liểng một tấm biển đề dòng chữ “Thị trấn Bích Ba Động – Nhà nghỉ tốt, giá thuê rẻ, không tiếp quân ăn cướp”.
Nhìn quang cảnh thị trấn, Lục Châu nhận ra một điểm bất hợp lý: hang động này không hề có dấu hiệu của đất đá. Nếu chỉ riêng cát thì không thể tạo thành hang, nguyên lý đó ai cũng hiểu. Nàng không sai, bởi lẽ đây là hang động nhân tạo. Theo lời Đạp Lỗ, người Âm Giới phát hiện ra cung điện này dưới lòng đất, họ dùng sa kết tuyến dựng hang nhằm nghiên cứu khảo cổ. Khắp trong hang từ những cột cát chống đỡ, trần hay vách đều có màu bàng bạc của sa kết tuyến. Người Âm Giới dự định đào sâu hơn nhưng nội chiến bùng nổ, kế hoạch bị bỏ dở vĩnh viễn. Những gì mà Lục Châu thấy ở đây mới chỉ là một phần nhỏ, phần lớn cung điện vẫn chìm sâu dưới cát và sẽ chẳng bao giờ lộ diện. Một điều nữa là cung điện không có tên, không cả lịch sử. Với người ham hiểu biết như công chúa, điều đó quá đáng tiếc.
Đạp Lỗ đánh xe tiến về phía trước. Con giác cầu trèo lên mô cát lớn, bước qua cổng chính cung điện và đi trên cầu thang đá dẫn vào nội thành. Cầu thang nằm ở lưng chừng không trung, Lục Châu có thể phóng mắt ngắm nhìn cảnh quan phía dưới. Đó đây là đường hành lang cong vồng dẫn đến tòa kiến trúc mái vòm; là những ô cửa hình tam giác trên tòa kiến trúc nhìn thẳng xuống vườn thượng uyển; là máng xối bao quanh vườn, dẫn nước xuống bậc tam cấp, chảy vào một lòng hồ mà ở chính giữa hồ có đài phun. Nhưng đấy là chuyện thuở xưa cũ. Hiện tại, dây treo quần áo căng dọc hành lang, lòng hồ cạn khô thành chỗ phơi cây măng man, còn điện đài thành quách đã tràn ngập đồ dùng vật dụng của dân chúng. Lục Châu chợt liên tưởng một tương lai rất xa, khi hoàng cung Phi Thiên đổ nát và trở thành một thị trấn. Kể cũng mắc cười! – Nàng nghĩ.
Do sở hữu lắm phòng ốc nên thị trấn có dịch vụ nhà nghỉ khá tốt. Nhưng nhóm công chúa không nghỉ lại vì Thây Thi Hẻm còn cách đây hơn bốn mươi cây số, chần chừ là trễ hẹn với Hiệp Dung. Họ đi vào một đường hầm trong cung điện, từng bước rời khỏi Bích Ba Động. Đường hầm nhỏ hẹp, trên trần cách một quãng lại treo bóng đèn, ánh sáng vàng leo lắt cùng tiếng khụt khịt của con giác cầu hắt vào không gian mờ tối. Chẳng còn gì để nhìn ngắm, Lục Châu bèn liếc sang Vô Phong. Thấy gã này vẫn hăng say nghiên cứu sách vở, nàng lắc đầu thở dài. “Không phải tóc đỏ! Không phải thế!” – Nàng tự nhủ.
Công chúa nhận ra khi Vô Phong chưa tìm lại chính mình, nàng chẳng thể bình tâm nổi.
Đường hầm dài ngoẵng, nhóm người mất gần nửa tiếng mới quay lại sa mạc Hồi Đằng. Lần này, thay vì di chuyển về tây nam, họ đổi sang hướng đông nam vì Thây Thi Hẻm ở hướng này. Họ băng qua một thung lũng được đồi cát bao bọc tứ phía, bên trong trải dài những cánh đồng măng man của thị trấn Bích Ba Động. Đi hết thung lũng, xe tiếp tục lăn bánh trên miền cát mênh mông. Đạp Lỗ điều chỉnh chiếc đèn, ánh sáng được bẻ thành một luồng duy nhất rọi vào bóng tối. Xe kéo như con tàu ngầm lặn sâu dưới đáy biển đen thùi lùi. Không gian im ắng, chỉ còn tiếng bánh xe kẽo kẹt cùng tiếng gió lạnh rít quanh.
Nhóm công chúa không đơn độc trên sa mạc. Họ thi thoảng bắt gặp đám Chó Hoang và bị căn vặn đủ điều. Khu vực này gần lãnh thổ Quỷ Nhãn nên lính của Đạt Ba kiểm tra rất kỹ, không như ở Xa Xác Đồng hay Bích Ba Động. Đám này chẳng ai biết chữ, lại không mang máy kiểm dấu nên tấm giấy thông hành của Lục Châu chẳng khác chi giấy lộn. Phải đợi bọn Chó Hoang gọi về Ô Lô Vực xác nhận, nhóm công chúa mới được đi tiếp. Dền dứ khoảng hai ba đám như vậy, mãi hơn 10 giờ họ mới đến thị trấn kế tiếp mang tên Thủy Tháp Đảo.
Trong số những nơi mà nhóm công chúa đặt chân tới, Thủy Tháp Đảo giống với định nghĩa “thị trấn” nhất. Từ trên đồi cát nhìn xuống, nó khá giống Vùng An Toàn với nhiều dãy nhà cát và nổi bật với những dải sa kết tuyến bàng bạc. Điểm đặc biệt là thị trấn nằm trên một ốc đảo lớn, bao quanh có hàng rào bụi gai cùng xương rồng. Bên trong Thủy Tháp Đảo, vườn tược chia từng ô vuông vắn, xen lẫn các dãy nhà. Tuy không nhìn rõ vườn trồng gì nhưng Lục Châu có thể ngửi hương cam ngọt hay mùi mơ chua do gió đông mang lại. Đồng măng man được trồng ngay bên cạnh thị trấn, tươi tốt và trĩu bông, màu lam rực rỡ hơn hết thảy những cánh đồng măng man mà Lục Châu từng thấy. Có được cảnh tượng trù phú ấy là nhờ mạch nước ngầm dưới lòng đất. Nước dồn thành hai lòng hồ, nằm ở hai góc chéo nhau của thị trấn. Từ hồ, người ta đào kênh dẫn tới các vườn, đào mương dẫn ra đồng măng man. Là nơi cung cấp nước nên Đạt Ba cử người bảo vệ Thủy Tháp Đảo rất kỹ lưỡng. Trên đường vào thị trấn, Lục Châu thấy người dân chẳng bao nhiêu mà Chó Hoang thì nhiều.
Nhờ nước ngầm mà ở đây tồn tại cây “thủy tháp”, phát âm từ chữ “Ujyn Klan” – cổ ngữ Kim Ngân, nghĩa là “cân bằng”. Cái tên “Thủy Tháp Đảo” từ đấy mà ra. Thân cây cao cỡ trung bình, ngọn không phải lá nhưng đầy những tua rua màu tím hồng. Thủy tháp không phải cây ăn trái hay lương thực, cũng không có giá trị kinh tế nào trừ một điểm đặc biệt: nó có thể thay đổi nhiệt độ. Khi nhiệt độ xuống thấp, chúng sẽ tỏa nhiệt nhằm chống chọi cái lạnh. Lợi dụng điều này, người Âm Giới đào đường dẫn nước quanh thủy tháp để bớt thời giờ đun nước. Thủy tháp mọc ở mọi nơi, nhưng nhiều nhất là xung quanh hai lòng hồ của thị trấn.
Nhìn mặt hồ loang loáng, Lục Châu bỗng ngứa ngáy kinh khủng. Công chúa nhăn nhó, cảm giác toàn thân đang nảy nở vi trùng bệnh tật. Nàng chợt nhận ra trong xe đang bốc mùi hôi hám của ba gã đàn ông lâu ngày không tắm. Sao họ chịu được? – Nàng tự hỏi. Lục Châu muốn tắm, nhưng nhớ lời Mai Hoa, nàng đành phải nhịn. Bất chợt gã bốn mắt bỗng lên tiếng:
-Tắm rửa rồi ngủ, ngày mai chúng ta đi sớm.
Lục Châu gật gật. Sau nhớ ra chuyện gì, nàng hỏi lại:
-Anh nói gì? Tắm hả?
Gã bốn mắt cười:
-Vâng, thưa cô. Tắm. Chúng ta không thể gặp Hiệp Dung với bộ dạng từa lưa thế này được.
Tuy ngoài mặt không biểu hiện gì nhưng trong lòng Lục Châu đầy tiếng pháo hoa nổ giòn giã. Tắm, được tắm, vậy là được tắm! – Cô gái cười thầm.
Nhưng niềm vui tắm gội của Lục Châu giảm dần theo thời gian. Thứ nhất, Thủy Tháp Đảo chỉ có dịch vụ tắm công cộng. Thứ hai, Vô Phong nằng nặc đòi đi theo để làm cái việc mà hắn gọi là “đảm bảo an toàn cho công chúa”. Chiến Tử bảo đó là bổn phận của mình, tên tóc đỏ nói từ giờ Chiến Tử nên chuyển giao trách nhiệm. Chiến Tử bảo không, tên tóc đỏ bảo có. Hai gã sửng cồ như thể sắp bụp nhau tới nơi. Vốn tính cả nể, Lục Châu đành thuận theo ý Vô Phong, dù trong lòng cảm giác rất kỳ cục.
Nhà tắm công cộng ở Thủy Tháp Đảo khá đặc biệt. Người Âm Giới đào hồ nhỏ quanh gốc thủy tháp, lại dựng vải bạt quây từng cây, mỗi màn quây là một nhà tắm, có vách ngăn phân cách chia thành năm sáu phòng. Chủ quản khu này là một bà cô luống tuổi sở hữu thân hình sồ sề, bộ mặt dày ự son phấn trắng lốp trong khi cổ và tay đen nhẻm. Trông thấy Lục Châu và Vô Phong, chưa để hai người mở miệng, bà ta đã nhanh nhảu quảng cáo:
-Ái da, cặp đôi, cặp đôi! Này, ở đây có phòng tắm tình nhân đấy, cô cậu thấy sao? Chỉ đúng một phòng thôi! Giá hơi mắc tí, mười đồng vàng nhưng đáng tiền lắm! Đôi nào mới cưới cũng tới đây cả. Phòng yên tĩnh, thoải mái cực kỳ! Thuê nhá? Nhá? Nhá?
Lục Châu mở miệng toan nói nhưng Vô Phong cướp lời nàng:
-Mười đồng vàng? Cho chúng tôi thuê!
Và chẳng thèm đợi công chúa đồng ý hay không, tên tóc đỏ đẩy lưng nàng đi về phía trước. Công chúa tính tình cả nể nhưng chuyện này vượt quá tầm kiểm soát. Nàng dừng bước, quay lại nhìn Vô Phong, nghiêm giọng nói:
-Anh làm vậy là sao? Tôi đâu cần phòng tắm kiểu này chứ?
-Cô mà tắm ở ngoài kia, tôi không ở gần cô được. – Vô Phong đáp – Phòng nam nữ mà, ai cho tôi vào chứ? Có phòng tình nhân thì được.
-Tôi không hiểu?!
Vô Phong ôm lấy vai công chúa đoạn xoay nàng lại:
-Cô cứ việc tắm. Tôi chỉ ở bên ngoài thôi. Hứa đấy!
Thực tình tên tóc đỏ không có ý xấu. Trong địa bàn của Đầu Sói, Lục Châu không thể tự tiện đi lại một mình hoặc nếu muốn, nàng cần người bảo vệ. Nhất lúc tắm công chúa phải lộ mặt, đây là quãng thời gian nguy hiểm nhất. Nhỡ ai đó trông thấy và biết thân phận thực sự của Lục Châu, cả sa mạc sẽ săn đuổi nàng. Hiểu vấn đề, cô gái thôi không phàn nàn nhưng thâm tâm vẫn đầy những hạt sạn phân vân. Kỳ cục thế nào ấy! – Nàng nghĩ thầm.
Phòng tắm tình nhân nằm ở chỗ riêng trong khu, được xây nhà cát kiên cố, có giường nằm thư giãn và cả nhân viên phục vụ. Tuy nhiên Vô Phong không muốn người lạ lởn vởn xung quanh. “Chúng tôi muốn riêng tư một chút!” – Hắn nháy mắt nói với đám nữ phục vụ viên, giọng khe khẽ đầy hàm ý. Mấy cô này tủm tỉm cười sau rời đi, để lại đôi nam nữ thích chuyện “riêng tư”. Lục Châu nóng bừng mặt, lưng ướt đẫm mồ hôi dù trời đương lạnh cắt da cắt thịt. Vô Phong nói:
-Tôi chờ ở ngoài. Cô cứ tự nhiên!
Dứt lời, hắn hạ người trên chiếc ghế dài án ngữ trước phòng tắm. Lục Châu liền chui tọt vô phòng và nhanh chóng sập cửa. Cảm giác công chúa muốn tránh mặt mình, Vô Phong thở dài. Hắn chẳng muốn làm thế này nhưng vì đại thánh sứ Tây Minh nhờ vả, hắn chỉ cố làm tròn bổn phận. Hắn cũng không có ý định nhìn trộm công chúa tắm vì căn bản là… không thể. Cửa phòng tắm làm bằng cát, kín như bưng, ruồi bay còn không lọt thì nhìn cái con khỉ! – Hắn lắc đầu.
Với Vô Phong, nơi này chán ngắt và vô vị, còn Lục Châu lại thấy nó như thiên đường trần thế. Phòng tắm không lợp mái, giữa phòng mọc một cây thủy tháp, tán cây xòe rộng in bóng trên mặt hồ bên dưới. Công chúa nhanh chóng trút bỏ xiêm y rồi trầm mình xuống hồ. Nước nóng khiến nàng khoan khoái dễ chịu. Cô gái lội đến thủy tháp, rờ tay ấn nhẹ bọng mềm trên gốc cây, tức thì tán tua rua rung động rũ nước. Một cơn mưa ngâu ấm áp trút xuống Lục Châu. Những giọt nước ngấm vào tóc, lăn dọc lưng rồi theo một đường cong mềm mại chảy đến tận gót chân nàng. Bụi bẩn Hồi Đằng, cơn ác mộng Hồi Đằng Cô Mộ, mùi hôi hám Đại Lộ Đỏ và mùi máu Ô Lô Vực; mọi thứ bám dính trên người được gột sạch. Giờ đây, công chúa như khối bạch ngọc trắng trẻo, tinh khiết và đẹp đẽ. Nàng cười thành tiếng, miệng cất tiếng hát khe khẽ, lòng ước rằng Tiểu Hồ xuất hiện ở đây. Ngâm mình một lúc, Lục Châu lại ước đám mây khổng lồ đang che phủ Hồi Đằng tan biến, để nàng có thể vừa tắm vừa ngắm trời sao.
Nhưng Lục Châu đột nhiên nhớ ra Vô Phong vẫn ngồi bên ngoài. Nàng vội lặn mình xuống hồ đoạn gọi:
-Phong?!
-Vâng? Công… à nhầm, cô gọi gì? – Vô Phong trả lời.
-Anh nghe thấy gì không?
-Có. Tôi nghe thấy. Sao vậy?
Công chúa cúi đầu tự trách mình lố lăng. Từ tiếng cười khoan khoái tới giọng hát của nàng, Vô Phong nghe rõ mồn một. Nàng lặn xuống hồ như muốn che giấu thần tình xấu hổ. Nỗi xấu hổ ấy còn lớn hơn khi nàng thấy vết bầm màu tím trên bả vai mình. Nó sinh ra từ sau sự vụ ở Thiên Phạn và vĩnh viễn không biến mất do tác động của Oán Hồn Dạ Hỏa (***). Lục Châu không quan tâm vết bầm làm mình xấu đi mà nó liên quan đến một sự tình khó nói. Nàng buột miệng:
-Anh… thấy hết rồi, đúng không?
-Hả? Thấy cái gì cơ?
Công chúa vội sửa:
-Không! Tôi nhầm! Tôi định nói… hôm nay trông anh căng thẳng quá!
-Hả? À… ờ, phải. Tôi không khỏe lắm.
-Vì chuyện ở Ô Lô Vực, đúng không?
Vô Phong im lặng một lúc, sau đáp:
-Phải. Tôi buồn nôn khi nghĩ về nó. Thằng khốn Đạt Ba dã man quá.
-Ngủ một giấc, anh sẽ quên thôi. Hoặc như anh nói: kệ mẹ nó! Phải không? – Lục Châu cười.
Tên tóc đỏ im lặng tập hai. Đắn đo suy nghĩ hồi lâu, hắn nói:
-Có nhiều điều rất kỳ lạ. Nó ám vào bộ não tôi, không dứt ra nổi. Lần trước ở Lạc Việt, cô nói với tôi rằng có nhiều thứ không thể quên. Cô nói đúng. Giống lần tới Quận 4 vậy! Tôi vẫn nhớ kẻ đầu tiên mình giết. Lúc ấy tôi đang truy đuổi Bất Vọng, gã đó xuất hiện. Tôi đánh trả. Hắn chết. Một nhát chém từ sườn phải lên ngực. Rồi sau đó tôi giết liên tiếp ba người nữa (****). Tôi tự nhủ: tự vệ thôi, tự vệ thôi! Nhưng sau hôm đó, tôi mất ngủ một vài ngày và cảm giác bên trong mình, cái gì đấy đã chết.
Lục Châu chăm chú lắng nghe. Suy nghĩ và suy nghĩ, nàng chợt hiểu tắm gội chỉ làm sạch bề ngoài chứ không thể gột rửa những suy nghĩ tăm tối trong đầu mình. Cơn ác mộng Hồi Đằng Cô Mộ không hề tan biến. Nó vẫn còn đó và luôn chực chờ cơ hội tái xuất trong đầu nàng.
-Cô giết ai bao giờ chưa? – Vô Phong hỏi.
-Chưa.
-À, vậy thật tốt. Giết chóc… tôi nhận ra nó là cái thứ khó quên nhất trần đời.
-Sao anh nghĩ về giết chóc hoài vậy? – Lục Châu nói – Có nhiều thứ khó quên mà vẫn tốt đẹp chứ!
-Ví dụ?
-Giống như kỷ niệm gì đấy! Tôi thích chuông gió vì quá khứ của tôi gắn liền với nó. Ngày trước, tôi từng có một hộ vệ ngầm. Anh ta không bao giờ xuất hiện, chỉ có tiếng chuông gió…
Và nàng bắt đầu kể chuyện xưa cũ, còn Vô Phong chẳng hé răng thêm lời nào nữa. Lục Châu cứ thao thao bất tuyệt cho tới khi thay quần áo. Vừa ra khỏi phòng tắm, nàng ngẩn người vì Vô Phong đã lăn lóc trên ghế ngáy ầm ầm từ bao giờ. Chân gác lên ba lô, tay thủ túi áo sẵn sàng rút kiếm nhưng với điệu bộ ngủ nghê này thì dẫu pháo nổ dưới mông, tên tóc đỏ cũng chẳng dậy. Vạn Thế ơi, hộ vệ thánh sứ kiểu gì đây? – Công chúa than thầm.
Bất quá nhìn tên tóc đỏ, Lục Châu cảm thấy bình an lạ kỳ. Đây là Vô Phong mà nàng biết: không lo lắng và không vướng bận. Công chúa ngồi xuống ghế, cách Vô Phong một khoảng nhưng đủ gần để nàng có thể liếc xuống và trông rõ gương mặt hắn. Tuy đã cùng nhau trải qua nhiều chuyện nhưng Lục Châu ngộ ra mình chẳng hiểu Vô Phong tí nào, như thể nàng đang đối mặt cơn gió lạ đến từ miền đất xa xăm.
Tâm trí Lục Châu thông suốt, chẳng còn những nùi tơ vò rắc rối nữa. Nàng ngồi đó, suy nghĩ về cuộc gặp gỡ với Hiệp Dung, suy nghĩ về nhiệm vụ. Nàng không đánh thức Vô Phong mà để hắn ngủ.
“Cứ thế này cũng được.” – Lục Châu tự nhủ, lòng cầu mong Vô Phong cứ mãi như vậy.
…
Nửa đêm, các thị trấn luôn tĩnh mịch bởi dân chúng đều say ngủ, ngoại trừ Xa Xác Đồng. Vì là nơi duy nhất bán rượu nên thương nhân, dân thường lẫn đám Chó Hoang hay lui tới đây. Trước tiệm tạp hóa của thị trấn, một nhóm người đang chờ đợi chủ tiệm mang rượu ra, phiền nỗi tay này uể oải như mất hồn, làm gì cũng chậm chạp. Một người gắt gỏng:
-Nhanh nhanh lên mày! Bọn tao còn phải chuyển hàng!
Gã chủ tiệm gật gật rồi thở dài đánh sượt. Một người khác nói:
-Sao thế chú mày? Mọi khi vui vẻ lắm mà? Sao giờ khó coi vậy?
-Các người không biết tôi vừa gặp cái gì đâu. – Tay chủ tiệm nói – Gái, các người hiểu không? Gái đẹp!
Đám khách mua hàng nhất loạt cười hô hố. Một người nhún vai:
-Bọn tao biết chất lượng gái điếm Xa Xác Đồng tệ cỡ nào. Rất thông cảm cho chú mày! Vậy… là gái từ thị trấn khác tới à?
Gã chủ tiệm lắc đầu nguầy nguậy:
-Không! Không!
-Hay gái từ Đại Lộ Đỏ?
-Không! Hơn thế “nhiệu” lắm! – Gã chủ tiệm nói, giọng thổ âm đặc sệt – Tôi dám cá không con điếm nào ở Kim Ngân sánh bằng. Không! Không thể so sánh với lũ “đỉ” điếm được. Đứa con gái ấy, tôi thề với các người, chỉ cần nhìn mắt nó thôi là các người chết tại “chổ” luôn! Chết ngắc luôn!
Đám khách hàng nhìn nhau, kẻ nhíu mày, kẻ nhăn mặt, hầu hết không tin lời gã chủ tiệm. Một người hất hàm hỏi:
-Mày láo toét gì thế? Đôi mắt là sao? Bọn tao đếch hiểu!
-Phải nhìn mới thấy! – Tay chủ tiệm chém tay như giáng búa đóng đinh – Vạn Thế ơi, con bé đó… Nó che mặt, nhưng chỉ nhìn vào mắt nó thôi, tôi biết nó là gái đẹp. Không phải gái đẹp thông thường đâu! Tôi ngửi thấy mùi của nó, rất đặc biệt! Nó không có mùi mồ hôi, không có mùi phấn rẻ tiền của lũ “đỉ” điếm, càng không có mùi măng man. Nói sao nhỉ? Cái mùi quyền quý, không phải dân lao động. Tôi dám cá con bé ấy đến từ Tuyệt Tưởng Thành, hoặc thậm chí là người nước ngoài. Khẳng định đấy!
Mọi người cười ầm ĩ, hết thảy đều nghĩ gã phét lác. Chỉ duy nhất một người khá quan tâm, y chen từ hàng cuối lên đầu, tay giơ một tấm ảnh đoạn hỏi gã chủ tiệm:
-Có giống người này không?
Gã chủ tiệm nheo mắt nhìn. Đó là ảnh chụp một cô gái tóc nâu, gương mặt thanh tú toát ra khí chất cao sang hiếm có và đeo một chiếc hoa tai mã não đính sợi lông vũ màu đỏ. Nhưng đặc biệt hơn cả là đôi mắt xanh thẫm của cô gái, nó khiến gã chủ tiệm bị hút hồn vào bức ảnh. Gã nói:
-Tôi không rõ, tôi chỉ nhìn thấy mắt con bé thôi. Không thấy mặt, nhưng đúng màu mắt này. Mà ảnh chụp ai thế?
Kẻ nọ hỏi tiếp:
-Nó đi về hướng nào?
-Ai biết? Từ Xa Xác Đồng đi đâu chẳng được? “Nhiệu” lắm! Tây nam, đông nam, đông bắc, hướng nào cũng được! Này, còn ảnh như vậy chứ? Tôi mua!
Kẻ nọ không đáp mà lập tức rời khỏi đám đông, bóng dáng dần mất hút dưới màn đêm dày đặc. Gã chủ tiệm nheo mắt khó chịu:
-Nó giữ ảnh cho riêng nó kìa! Mẹ kiếp, thằng bủn xỉn!
-Kền kền đấy! – Một người nói.
-Kền kền là cái gì? – Gã chủ tiệm hỏi lại.
-Bọn săn tin. – Người kia đáp lời – Nghe nói chúng lân la khắp thế giới nhằm moi móc và bán thông tin. Chúng đã săn ai thì không người nào thoát được.
Gã chủ tiệm nhún vai chẳng quan tâm. Tâm trí gã bây giờ chỉ biết lảm nhảm hai chữ “gái đẹp”. Suốt đêm ấy, gã kể đủ điều xung quanh cô gái và cả chiếc chuông gió mà nàng mua. Đám khách hàng lúc đầu chẳng tin, sau lặng thinh nghe gã luyên thuyên. Để rồi sáng ngày mai, dân chúng khắp các thị trấn sẽ đồn đại về mỹ nữ mắt xanh thẫm vừa đặt chân xuống Hồi Đằng.
Trong khi ấy, Lục Châu vẫn chưa biết cái đầu mình được treo giá ba mươi ba thùng quang tố. Nàng cũng chẳng ngờ những con kền kền đang vỗ cánh bay về Kim Ngân, càng lúc càng đông.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.