Quyển 4 - Chương 134: Giương Cung Phải Trái
Nguyệt Quan
26/03/2013
Dọc dường y đi, đám gia đinh nô bộc kinh ngạc liếc nhìn khâm sai đại nhân đang vội vã trở về khu nhà ngang ở phía tây với vẻ mặt đầy bi phẫn, không biết là đã xảy ra chuyện gì.
Vừa bước vào trong sân, vẻ mặt Dương Lăng chợt trở lại bình thường như làm ảo thuật. Nghĩ đến nét kinh ngạc, thương hại, khinh thường lẫn chán ghét trong đôi mắt của vị Mạc phu nhân quyến rũ vô ngần kia, y muốn cất tiếng cười lớn.
Dương Lăng vừa mới bước vào trong sảnh với nụ cười xấu xa trên mặt thì Cao Văn Tâm đã giống hệt như một con chim én vui vẻ lao vụt tới nghênh đón, hớn hở gọi to:
- Lão gia!
Dương Lăng kinh ngạc liếc nhìn nàng, tò mò hỏi:
- Chân cô khỏi rồi sao? Cớ gì lại vui vẻ như vậy?
Cao Văn Tâm hai tay nắm chặt, cười tươi đáp:
- Dạ! Chân đã hết sưng rồi, cũng không có gì vui vẻ cả, hì hì hì…
Dương Lăng nhìn khuôn mặt rạng rỡ của nàng lại nhớ đến cái khổ nhục kế của mình khi nãy, cũng không kìm được bật cười mấy tiếng, sau đó căn dặn Cao Văn Tâm:
- Văn Tâm! Nếu có người dò hỏi cô về tình hình sức khỏe của ta, cô hãy trả lời qua loa, mơ hồ một chút. Cô nói như thế nào không quan trọng, nhưng hãy tỏ ra ngập ngùng ấp úng, càng thần bí càng tốt.
Cao Văn Tâm ngẩn người, ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao? Ai muốn dò hỏi về sức khỏe của lão gia vậy?
Dương Lăng cười hà hà đáp:
- Thiên cơ không thể tiết lộ. Chưa chắc y đã dám hỏi, có điều không thể không đề phòng. Ôi… Hôm nay đi dự tiệc uống cũng hơi nhiều rồi, tôi đi nghỉ đây. Đúng rồi, hãy pha giúp tôi một bình trà nhé!
Vừa bước được hai bước, chợt y dừng chân cười hì hì liếc nhìn cái miệng đỏ tươi nhỏ nhắn của Cao Văn Tâm, hỏi:
- Cô có biết nên uống loại trà cực phẩm trong cực phẩm như thế nào không?
Tròng mắt hơi xoay chuyển, nàng đáp:
- Về trà đạo thì… nô tì cũng hơi hiểu biết, có điều quan trọng là sự chuẩn bị và quá trình pha chế, còn về cách uống… dường như chẳng được nhắc đến nhiều lắm. Không phải là đều dùng miệng uống sao?
Dương Lăng khẽ cười, nói:
- Không có gì! Cứ pha nhạt một chút, tôi về phòng trước đây.
Dương Lăng vừa đi vừa nghĩ: “Cách này cũng hay thật, khi trở về mình phải tìm Ấu Nương thử xem sao. Nàng hay xấu hổ nhất nên trêu đùa mới càng thú vị.”
Nghĩ đến đây, y lại bất giác nhớ lại dáng vẻ tràn ngập phong tình của vị Mạc phu nhân kia, trái tim không kìm được cơn rung động: ”Không thể không thừa nhận, nếu chỉ xét đến phong vận, ả thật sự là tuyệt thế vô… Không đúng, còn có một người, đó chính là Liên Nhi…
Liên Nhi không những tướng mạo xinh đẹp, mà ngay cả thân hình cũng không có chỗ nào là không quyến rũ, nếu nàng lớn thêm chút nữa…
Ôi! Không biết bây giờ nàng có khỏe không? Ta đến Giang Nam gây ra những sự kiện chấn động lớn như vậy, nhất định nàng đã nghe nói tới rồi, liệu nàng có trách ta vì sao chưa đến thăm nàng không?”
Nghĩ đến đây, bước chân Dương Lăng bất giác trở nên nặng nề, sự vui vẻ vừa rồi lập tức tan biến sạch.
***
Ba ngày liền liên tục bày tiệc đãi khách, Mạc Thanh Hà một mực đi theo bên cạnh Dương Lăng. Từ sau lần thăm dò cuối cùng đó, Mạc Thanh Hà đã thật sự yên tâm hoàn toàn nên sáng sớm hôm sau đã bắt đầu cho chuyển bạc thuế về kinh thành.
Đội thuyền chở bạc khổng lồ khởi hành đi về kinh sư, cờ xí rộn ràng lại có quan binh hộ tống nên chẳng mấy chốc tin tức đã lan truyền đi khắp đất nước. Vị thái giám quản lý việc dệt may ở Tô Châu là Lý Đại Tường vừa được khoái mã báo tin, lập tức dứt khoát sai người vận chuyển bạc thuế đến kinh sư, tốc độ đội thuyền của Tô Châu còn nhanh hơn Hàng Châu một chút. Việc nịnh hót đã chậm hơn Mã Thanh Hà rồi, thuyền bạc nhất định phải đến kinh sư sớm hơn mới được, như vậy cũng coi như là gã đã tỏ rõ lòng trung với xưởng đốc đại nhân rồi.
Đến ngày thứ ba, mượn cớ mấy ngày nay uống rượu quá nhiều nên tửu lượng suy giảm, trên bàn tiệc Dương Lăng chỉ uống chút ít mà thôi. Mọi người đều biết ba ngày nay y liên tục thết tiệc đãi khách nên cũng chẳng nghi ngờ gì, vì vậy phần lớn mọi người đều chỉ kính rượu Mạc công công và Dương tri phủ, chuốc cho hai người say mèm.
Dương Lăng về phủ, chờ cho đám người Lý quản gia khiêng Mạc công công vào trong xong y mới đi nhanh về phía khu nhà ngang của mình. Vừa vào cửa gặp Cao Văn Tâm y đã hỏi:
- Liễu Bưu đã về chưa?
Cao Văn Tâm hơi ngớ người, đáp:
- Liễu thiên hộ vẫn chưa về. Có điều Hoàng chưởng ban đã từ Tô Châu trở về rồi, vẫn đang đợi lão gia đấy.
Dương Lăng hơi bất ngờ:
- Nhanh vậy sao? Tốt lắm, hãy đưa hắn tới gặp ta!
Dương Lăng đi đến cạnh chiếc chậu đồng ở góc phòng rửa tay rửa mặt. Đang lúc y lau rửa, hai hán tử mặc áo xanh đội mũ nồi theo lối nha sai chợt bước vào, quỳ một chân thưa:
- Tham kiến Xưởng đốc đại nhân!
Dương Lăng ngoảnh đầu lại, nhìn thấy một người là Hoàng chưởng ban còn người kia là Liễu Bưu, bèn bật cười:
- Khéo thật đấy, vừa mới trở về sao?
Liễu Bưu đáp vâng một tiếng. Đợi Cao Văn Tâm đón chiếc khăn bông từ trong tay Dương Lăng rồi bưng chiếc chậu đồng ra ngoài, hắn mới bước tới cười nói:
- Đại nhân, mọi việc đều ổn thỏa. Mẫn đại nhân nghe nói ngài muốn ông ấy cầm quân đi bắt người, lập tức vỗ vai thuộc hạ mà khen đại nhân nghĩa khí, có việc tốt thế này liền nghĩ tới ông ấy ngay.
Dương Lăng bật cười:
-Chắc hẳn Mẫn đại nhân làm quan văn rất đau khổ nên vừa thấy có đánh trận là lập tức hào hứng như vậy. Hà hà, chỗ Chủng thiên tổng thì sao?
Liễu Bưu đáp:
- Nhóm diêm binh đi theo đại nhân đánh thắng giặc đều được lợi rất nhiều, sớm đã khiến đám quan binh vệ sở kia thèm đến đỏ mắt. Tuy rằng tin tức hiện giờ chỉ có Mẫn đại nhân và Chủng thiên tổng biết, nhưng chắc hẳn tối nay sau khi hạ lệnh xuống, vệ quân sẽ không có ai là không vui mừng cả.
Hiện giờ nhuệ khí bọn họ cao vọt. Tuy rằng việc huấn luyện còn nhiều thiếu sót, đối phó với đám cướp biển khát máu thiện chiến kia có lẽ chưa được nhưng dùng để đối phó với đám quan binh Long Sơn vệ cũng bất tài y như thế thì nhất định là không có vấn đề gì.
Dương Lăng cười cười:
- Chớ nên sơ suất! Ta từng gặp Tất đô ty rồi, người này quả thực là một tướng tài, tuy rằng quân của y rất đỗi hủ bại, chiến lực thấp kém, nhưng thân binh của y ai nấy đều kiêu dũng thiện chiến, hơn nữa gần như là tư binh của y, tuyệt đối trung thành đối với y. Những người lính này tuy nhân số chưa đầy ba trăm, nhưng nếu để bọn chúng chó cùng rứt giậu gây ra tổn thất nặng nề thì cũng không phải là chuyện hay.
Liễu Bưu gật đầu đáp:
- Vâng! Ti chức cũng đã nghĩ tới điều này, nên mặc dù Mẫn đại nhân ba lần xin đánh, nhưng ti chức đều nói với ông ta rằng diêm binh và vệ binh chỉ phụ trách việc bao vây để dọa dẫm và gây uy hiếp với quan binh ở vệ sở Long Sơn. Còn về thân binh của Tất Xuân… đã có ba trăm nha sai của chúng ta, việc đó còn chẳng phải là dễ như chẻ tre sao?
Dương Lăng nhớ lại cái khí thế không gì sánh nổi khi tám mươi tay đao kia càn quét trên bờ biển, không khỏi gật gật đầu, ngay sau đó lại nghiêm nghị hỏi:
- Đúng rồi! Trong vệ quân có tên nặng không? Đã giao cho diêm binh sử dụng chưa?
Thể lực của vệ quân thông thường đều rất yếu, hoàn toàn không thể kéo căng được cung cứng nên tên nặng thì chẳng bắn nổi ra xa, do đó bọn họ mới dùng đến cái loại tên nhẹ tênh để dối gạt cấp trên khi diễn tập.
Diêm binh không giỏi bắn tên, nhưng cả ngày phải xông pha nam bắc ứng phó với đám giặc cướp trên sông trên núi, do đó sức chiến đấu khá mạnh. Giao cung tên cho bọn họ thì cũng chẳng cần họ phải bắn chuẩn gì cả, cứ bắn tràn ra một lượt. Để đối phó với đám thủ hạ liều mạng của Viên Hùng thì nhất định loạt tên bắn bừa này cũng sẽ có hiệu quả đặc biệt.
Cũng khó trách Dương Lăng cẩn thận như vậy. Vốn y tưởng rằng bắt Tất Xuân sẽ khá khó khăn, còn Viên Hùng chẳng qua chỉ là đề đốc thái giám quản lý việc thuế quan ở Giang Nam, đến lúc đó cứ trực tiếp đến tận cửa bắt người là được. Chẳng ngờ tin tình báo do Liễu Bưu thăm dò được lại khiến y cả kinh.
Thủ hạ của Viên Hùng có tất cả là bao nhiêu người? Đến tận năm nghìn! Ngoài đám tay chân được phái đi khắp các nơi, lũ ngồi không kiếm miếng cơm trong nha môn thuế giám cũng còn lại tới hai nghìn, hơn nữa phần lớn đám này đều là dân lưu manh vô lại hoặc là tội phạm đang lẩn trốn, trong lòng căn bản chẳng có triều đình, cũng chẳng có vương pháp. Do vậy việc bắt giữ Viên Hùng đâm ra còn khó hơn cả bắt Tất Xuân.
Cho nên Dương Lăng mới muốn lặng lẽ giải quyết Tất Xuân, sau đó thì toàn lực đối phó với Viên Hùng.
Nhớ lúc xưa vị tổng giám thuế quan này rời kinh chỉ mang theo mười gã tùy tùng. Hắn muốn nắm quyền thu thuế nhưng lại không thể sử dụng người của quan phủ, vì thế chỉ đành chiêu binh mãi mã, thu nạp một đám côn đồ vong mạng vào dưới trướng.
Mười người mà hắn đem tới mỗi người chiêu nạp chừng hơn trăm tên thủ hạ, mỗi tên thủ hạ lại có ít nhất năm gã tùy tùng. Cứ tựa như là quả cầu tuyết càng lăn càng lớn, tất cả đám lưu manh vô lại, cướp của giết người ở vùng Tô Châu đều được bọn hắn thu nạp. Dù sao bọn chúng cũng là khâm sai, “miệng hô luật pháp, tay nắm kỷ cương”, nên quan lại địa phương cũng chẳng làm gì được.
Liễu Bưu gật đầu đáp:
- Tên quân dụng thì có, chỉ là trong vệ quân ngoài thân binh của Chủng thiên tổng ra chẳng còn mấy ai có thể sử dụng được; thuộc hạ đã kêu y đem cung tên phát hết cho người của Mẫn đại nhân rồi, đại nhân bất tất phải lo lắng nữa! Theo ti chức thấy, Viên Hùng vị tất đã dám phản kháng, người của hắn đều do hắn dùng tiền thu nạp lại, ai lại chịu thật lòng bán mạng cho hắn chứ? Chỉ cần một loạt tên bắn ào tới, hiểu được sự lợi hại của chúng ta thì bọn chúng sẽ tan vỡ ngay thôi.
Dương Lăng trầm ngâm:
- Mong là như vậy! Sáng sớm ngày mai giải quyết Tất Xuân xong sẽ lập tức đưa quân đi bao vây nha môn thuế giám.
Dứt lời y lại quay đầu qua hỏi Hoàng chưởng ban:
- Chuyện ở Tô Châu tra xét thế nào rồi?
Hoàng chưởng ban vội đáp:
- Đại nhân! Ti chức đã điều tra kỹ càng về Lý Quý. Những cô nhi đó sau khi rời khỏi thành Hàng Châu thì chẳng rõ tung tích, chưa từng xuất hiện tại Tô Châu, tựa như là đã hoàn toàn biến mất khỏi thế gian này, không còn ai biết bọn chúng đang ở đâu.
Hắn liếc nhìn ánh mắt của Dương Lăng, lại kể tiếp:
- Ti chức phụng mệnh điều tra lai lịch của gã Lý Quý kia, nhưng lại chẳng ai có thể nói ra rõ ràng. Ti chức hết cách chỉ đành phải công khai lộ diện, mượn cớ rằng có nha sai do Nội Xưởng chiêu mộ tại địa phương đã mang bạc bỏ trốn, sau đó đến chỗ quan phủ tra rõ tình hình hộ tịch, ngầm đọc tài liệu về Lý Quý… Lý Quý có nhà có đất, còn có một hãng thuyền buôn dùng để vận chuyển lúa gạo mua thấp bán cao, có lúc còn thay triều đình vận chuyển gạch vàng để tu sửa hoàng cung và đế lăng, lợi nhuận thu được khá lớn. Mà chủ nhân thật sự của tất cả những thứ ấy đều không phải là Lý Quý, mà là đại phú thương Đỗ Thanh Giang ở Kim Lăng.
Dương Lăng ngớ người:
- Thì ra là phú hào Kim Lăng muốn phát triển sản nghiệp tại Tô Châu sao? Vậy hắn hà tất phải giấu đầu hở đuôi, phái một con rối ra ứng phó với người đời như thế?
Hoàng chưởng ban thưa tiếp:
- Chuyện này có rất nhiều điều kỳ lạ. Khi đó ti chức đã lập tức phái người đến Kim Lăng điều tra, vừa hay người của chúng ta từ kinh sư tới đã đứng vững được ở Kim Lăng, nắm rõ tình hình của người này.
Việc làm ăn của Đỗ Thanh Giang cực lớn, nào là tiệm tơ lụa, tiềm cầm đồ, tiệm vàng bạc, tiệm lương thực, còn có mấy hãng xe ngựa và đội thuyền buôn lớn. Thậm chí ngay đến việc vận chuyển lương thực cho triều đình, vận chuyển các loại vật phẩm cấm kị để xây dựng hoàng cung và đế lăng như gạch vàng…, tất cả cũng đều thường tìm đến nhờ hắn vận chuyển.
Người của chúng ta đã từng thử liên lạc để bắt tay làm ăn với bọn họ. Có điều thế lực của Đỗ gia khá lớn, khi vận chuyển bọn họ hoàn toàn không phải lo lắng bị quan binh làm khó dễ nên họ cũng chẳng cần người của chúng ta ra mặt; do đó bọn họ bèn lên tiếng cự tuyệt thẳng thừng.
Nghe nói đại nhân muốn tra hỏi về căn cơ của Đỗ gia, người ở Kim Lăng bèn lập tức điều tra kỹ càng về Đỗ gia. Vị Đỗ Thanh Hà này vốn nghèo rớt mùng tơi, thời thiếu niên từng làm thuê tại một tiệm vịt muối, sau đó cưới người con gái tàn tật của chủ tiệm nên cuộc sống mới đở hơn một chút, có điều tại Kim Lăng vẫn chưa thể được coi là một nhân vật thực sự.
Về sau Đỗ Thanh Hà đột nhiên trở nên giàu có, mua nhà mua đất phát triển cực nhanh. Mọi người đồn rằng Đỗ Thanh Hà đã đào được bảo tàng mà năm xưa Thẩm Vạn Tam chôn giấu nên mới phát tài.
Tuy nhiên, có một lần Đỗ Thanh Hà mở tiệc sinh nhật mời các bậc danh lưu ở đất Kim Lăng, nhưng Nam Kinh tả đô ngự sự Kim đại nhân đã trả lại thiệp mời và không đến dự. Đỗ Thanh Hà thẹn quá hóa giận, trong lúc uống rượu đã mở miệng mắng lớn, vô ý lỡ lời, tiết lộ rằng huynh đệ của hắn ở ti Lễ Giám ghê gớm như thế nào, chỉ là quan lớn một tỉnh mà cũng dám không nể mặt hắn, Kim lão thất phu hiếp người quá đáng, sau này nhất định phải khiến cho lão ta biết mặt. Từ đó ở Kim Lăng mới bắt đầu lưu truyền rằng hắn có một người anh em ruột, là công công nắm quyền trong ti Lễ Giám.
Ti chức đã điều tra về hộ tịch của Đỗ Thanh Giang, lại tìm được người vợ cũ tàn tật đã bị Đỗ Thanh Giang bỏ, được biết hắn ta còn có một người anh em, năm mười hai tuổi vì gia cảnh bần hàn nên người này đã tự thiến mình nhập cung. Vì việc này mà người đó cảm thấy xấu hổ với liệt tổ liệt tông, nên chỉ giữ tên mà không giữ họ, đổi thành họ Mạc, chính là Mạc Thanh Hà!
Dương Lăng nghe đến đây thì lập tức ngẩn người ra, hồi lâu sau mới hỏi với giọng khó tin:
- Mạc Thanh Hà? Thái giám nắm quyền ở ti Lễ Giám? Mạc Thanh Hà… Chính là Mạc Thanh Hà này… Thì ra là thế… Thì ra là thế…
Liễu Bưu biết rõ rằng lần này Dương Lăng tới Giang Nam chính là để giải quyết việc ba đại thái giám trấn thủ đất này, khiến các thuế giám trong thiên hạ nhìn thấy rõ thủ đoạn của Nội Xưởng, cũng là cho bọn họ một viên thuốc an thần.
Hôm nay vừa trở về gã liền nghe nói về việc Mạc Thanh Hà đã cho vận chuyển bạc thuế về kinh, hiển nhiên hắn đã ngả về phía Dương Lăng rồi. Nếu quá hà khắc với hắn, thuế giám các nơi sẽ cho rằng Xưởng đốc khắt khe quá đáng, nhất định sẽ có người nảy dị tâm, do đó Liễu Bưu vội khuyên:
- Đại nhân! Thực ra quan viên và thuế giám các nơi lợi dụng chức quyền để mưu lợi cho gia tộc cũng là lẽ thường tình. Có câu rằng “nước quá trong thì không có cá”, thêm vào đó hắn còn cố gắng che giấu, lại cũng không phải loại người ngông nghênh kiêu ngạo, không biết nặng nhẹ. Chỉ cần hắn thành tâm làm việc cho đại nhân, đại nhân bất tất phải suy nghĩ quá nhiều làm gì!
Dương Lăng chậm rãi ngồi trở lại ghế, cười cay đắng:
- Hắn chỉ muốn kiếm tiền thì ta có thể không tính toán, nhưng còn những người kia thì sao? Những đứa nhỏ kia đã đi đâu mất rồi? Chuyện này mà không tra rõ, ta khó mà yên lòng được…
Nói tới đây y đột ngột nhảy bật dậy, hỏi Hoàng chưởng ban:
- Đứa nhỏ mấy hôm trước đâu? Chính là đứa nhỏ được đưa từ vườn trà về Cao phủ vào mấy hôm trước ấy, bây giờ nó thế nào rồi?
Hoàng chưởng ban gian nan nuốt một ngụm nước bọt, ngập ngọng:
- Đại nhân! Hôm trước ti chức đã báo cáo rồi… Những đứa nhỏ mà Mạc công công thu nhận hiện giờ đều đã biến mất, đứa nhỏ kia cũng…
Dương Lăng vỗ bàn đánh bộp, cười lạnh:
- Thật là to gan! Nếu không phải ngày đó bản quan ra ngoài tình cờ gặp được đứa nhỏ kia, có lẽ sẽ chẳng nghi ngờ chút nào. Rốt cuộc hắn đã làm gì những đứa cô nhi không cha không mẹ, không có ai hỏi đến kia chứ?
Liễu Bưu và Hoàng chưởng ban cùng đưa mắt nhìn nhau, nhưng chẳng ai có thể trả lời.
Cho dù Dương Lăng là kẻ ngốc thì cũng biết rằng chuyện này nhất định là có quan hệ với Mạc Thanh Hà, y chỉ tay về phía Hoàng chưởng ban hạ lệnh:
- Hơn ba mươi mạng người! Tung tích của hơn ba mươi đứa nhỏ chưa thể làm rõ, bản quan làm sao mà yên lòng bỏ qua cho Mạc Thanh Hà được đây? Ngươi hãy tìm người đóng giả họ hàng xa của đứa nhỏ đó, làm khổ chủ tố cáo Lý Quý, lấy đó làm nguyên cớ để tra xét hắn.
Liễu Bưu do dự một hồi, cung tay thưa:
- Đại nhân đã quyết ý muốn tra xét, vậy xin hãy nghe lấy một lời của ti chức chứ cứ thế này mà tra xét nhất định sẽ chẳng tra ra được gì đâu. Nếu Lý Quý cứ một mực khẳng định rằng đã đem bán đứa nhỏ ấy cho người khác, sau đó lại khai bừa ra mấy vùng đất hoang vu. Chúng ta muốn tìm chứng cứ thì phải cần tới mấy tháng, mà nếu đến lúc đó người chúng ta tìm được kia lại dùng lại kế cũ thì chẳng biết phải tra xét đến năm nào tháng nào đây…
Vừa nghe, Dương Lăng lập tức nhớ đến kế kéo dài thời gian mà khi xưa mình đã bày cho Mẫn huyện lệnh để đối phó với bọn chủ tiệm nhạc khí Vương Đại, Vương Nhị. Tuy rằng khá thô thiển, nhưng trong thời đại giao thông bất tiện này lại rất hữu hiệu. Y không khỏi chau mày hỏi:
- Vậy ngươi có kế hay gì không?
Liễu Bưu hơi nhếch miệng, cười lạnh:
- Gạch vàng của triều đình đều được sản xuất tại thôn Ngự Dao, trấn Nguyên Hòa ở ngoài thành Tô Châu, hãng thuyền của Đỗ gia chẳng phải chuyên môn thay triều đình vận chuyển thứ nguyên liệu cấm kị này sao? Vụ làm ăn này sao có thể thiếu phần của Lý Quý chứ? Chúng ta hãy phái người đến thôn Ngự Dao kiếm lấy một viên gạch mẫu về đây, sau đó trực tiếp đến lục soát Lý phủ, nói rằng có người tố cáo hắn cất giấu vật cấm. Nếu mà tìm được đứa nhỏ thì thôi, còn nếu không tìm được thì hãy vứt viên gạch kia vào trong nhà hắn, vu cho hắn tội khi quân. Trọng tội đó là phải chém đầu, đến khi ấy hắn lại chẳng ngoan ngoãn mà khai toàn bộ chân tướng sao?
Dương Lăng nghe vậy thì hơi do dự. Y chắp tay sau lưng chậm rãi đi lại trong phòng một lát, nhưng nhớ đến đứa nhỏ gầy khô như que củi nhưng lại thông minh đáng yêu mình đã gặp kia, cuối cùng y nghiến răng gật đầu quyết định:
- Hoàng chưởng ban hãy cứ làm như vậy đi! Không hành động thì thôi, hành động thì phải nhanh, phải độc! Mạc Thanh Hà là địa đầu xà ở đây, Viên Hùng có thể có đến năm ngàn nanh vuốt sao Mạc Thanh Hà lại chịu kém được? Không thể để hắn kịp phản ứng!
Kế đó y ngoảnh đầu qua bảo Liễu Bưu:
- Đêm nay sẽ xuất binh bắt giữ Tất Xuân, Viên Hùng. Khi trở về cần lấy cớ đề phòng nanh vuốt của hai kẻ này nổi loạn, tăng cường phòng vệ khu nhà ngang phía tây, không phải người của Nội xưởng quyết không cho phép tiến vào, đặc biệt phải phòng bị…
Y liếc nhìn qua phía Liễu Bưu, gã hiểu ý gật gật đầu, ôm quyền bẩm:
- Ti chức xin vâng lệnh!
***
Đội diêm binh và vệ binh Hải Ninh hành quân cực nhanh, dãy đuốc dài liên miên như rồng rắn uốn lượn. Thỉnh thoảng khi đi qua thôn trấn bọn họ lại gặp những phu tuần điểm canh hay là gã sắc lang vừa từ trong kỹ viện đi ra đang nheo mắt hồi tưởng cảm giác tiêu hồn vừa nãy, có lúc còn gặp con bạc bị đá ra khỏi sòng bạc. Tất cả bọn họ đều ngây người nhìn đại đội binh mã đeo cung cầm đao đang giơ cao ngọn đuốc lặng lẽ đi qua bên cạnh mình, một mảng sát khí ập thẳng vào mặt.
Nam quận có rất ít đội kỵ binh hoàn chỉnh, muốn gom đủ ngựa quân dụng thì khó vô cùng nhưng để kiếm được mấy trăm con ngựa mà cưỡi thì chỉ cần mượn từ phủ của các đại phú hào, đại diêm thương là được.
Mẫn Văn Kiến vừa chỉ huy toàn quân hành quân vừa ngầm chú ý hành vi của Chủng thiên tổng. Dương Lăng đã gửi mật thư nếu Chung thiên tổng lâm trận mà có hành động khả nghi thì lập tức giết không tha. Nhưng dọc đường ông thấy Chung thiên tổng có thần thái ung dung, dường như gã cảm thấy được làm việc cho khâm sai đại nhân là một điều cực kỳ vinh dự, còn hăng hái, hào hứng hơn ông mấy phần, gần như chẳng thể nhìn ra có gì khác lạ.
Lúc này Mạc Thanh Hà vốn say túy lúy vừa mới tỉnh lại trong Mạc phủ. Hắn vươn vai, day day cái trán vẫn còn hơi nằng nặng rồi ngồi dậy, vừa lúc một đôi tay nõn nà đưa tới một chén trà. Ngẩng đầu nhìn lên, đôi mắt kia vẫn nguyên nét dịu dàng như làn nước mùa xuân; chỉ cần nữ nhân này muốn, bất cứ lúc nào thị cũng có thể nở một nụ cười quyến rũ khiến nam nhân phải động lòng.
Mạc Thanh Hà cười bảo:
- Đã lâu lắm rồi chưa uống say đến mức này! Mấy ngày nay giải được nỗi lo, uống rượu cũng thấy sảng khoái.
Hắn đón lấy chén trà. Lúc này trà đã hơi lành lạnh, có điều đối với tình trạng khô miệng nóng người của hắn lúc này thì vừa hay có thể giải khát. Mạc phu nhân dịu dàng:
- Phu quân thì sảng khoái uống say túy lúy. Nhưng chàng có biết sắc trời vừa tối Dương đại nhân đã không từ mà biệt, vất vả dẫn hết đám nha sai đi mất, hiện giờ trong khu nhà ngang phía tây ngoài một tì nữ và hai mươi nha sai thì đã chẳng còn người nào khác nữa không?
Mạc Thanh Hà lập tức bị sặc trà. Hắn ho mấy tiếng, sau đó mới ngẩng đầu lên bừng bừng giận dữ hỏi:
- Khâm sai đại nhân đi đâu vậy? Chuyện lớn như vậy, sao nàng không gọi ta dậy chứ?
Mạc phu nhân chẳng hề sợ hãi, ả khẽ nở nụ cười, nháy nháy mắt với Mạc Thanh Hà, làm bộ tinh nghịch nói:
- Thiếp thân vốn cũng muốn hỏi y, chỉ là sợ vị khâm sai đại nhân đó không dám gặp thiếp… Thiếp kêu người nhà đi xem thử rồi, y dẫn người ra khỏi cổng thành phía tây, sát khí đằng đằng. Do đó thiếp nghĩ… tin tức này… Đợi sau khi lão gia tỉnh rượu nghe được liệu có phải là càng sảng khoái hơn không?
Mạc Thanh Hà lặng yên một lát rồi đột nhiên ngẩng đầu lên trời cười rộ. Hắn phát mạnh lên bờ mông đầy đặn của Mạc phu nhân, cười ha hả:
- Người hiểu ta chính là Tiểu Lâu! Ừm… Ta và Viên gia cộng sự nhiều năm, không thể không niệm tình xưa. Nàng hãy kêu người đi thu dọn phòng chứa củi ở nhà sau đi, trước khi khâm sai đại nhân về kinh chúng ta cũng phải tìm cho Viên gia một chỗ ở chứ, ha ha ha ha…
Khi cưỡi ngựa tới trấn Phong Diệp ở trước thung lũng Long Sơn, Mẫn Văn Kiến hạ lệnh cho toàn quân dập đuốc đi vòng qua trấn. Rời khỏi trấn đi tiếp ba dặm chính là thung lũng Long Sơn, bên trong thung lũng chính là nơi đóng trại của Long Sơn vệ sở. Cửa vào thung lũng có hình chữ “chi” (Tương tự chữ Z - ND.), Liễu Bưu đã qua lại nơi này nhiều lần, lại có viên chỉ huy thiêm sự Đinh Lâm làm nội ứng, sớm đã biết khi rẽ đến lần thứ hai thì mới có trạm gác, hơn nữa bình thường người ở bên trong đều không ra ngoài, do đó thân vệ của Dương Lăng vẫn ung dung yên lặng chờ đợi ở chỗ rẽ thứ nhất.
Sắc trời lúc này đã biến thành màu trắng đục. Khi Mẫn Văn Kiến và Chủng thiên tổng dẫn theo sáu trăm binh sỹ đến nơi, các nha sai mặc áo xanh đội mũ đỏ, hông mang đao dài, lưng đeo trường cung sớm đã xếp thành ba phương trận (đội ngũ hình vuông). Bọn họ đứng nghiêm chẳng hề động đậy tựa như bị đinh ghim xuống đất, hơn nữa lưng mọi người đều thẳng tắp.
Hạng mục biểu diễn sở trường của những quan binh vốn là người của Thần Cơ doanh này chính là xếp hàng bày trận biễu diễn; bây giờ đã có kinh nghiệm chém giết trên chiến trường thì đội hình của bọn họ càng oai phong lẫm liệt, uy nghiêm vô cùng.
Sự trang nghiêm lạnh như băng sương, sự huấn luyện khiến toàn thể đội hình chỉnh tề như nhất này lập tức khiến khoảng không giữa bọn họ lan tràn những luồng sát khí đằng đằng, tuy nhìn không thấy nhưng lại có thể cảm giác được.
Đám diêm binh lưu manh sớm đã được thấy thủ đoạn lạnh lùng tàn khốc như tay đồ tề của tám mươi đao thủ nên lập tức thu lại dáng vẻ cười đùa cợt nhả, trở nên nghiêm túc vô cùng. Diêm binh bị tử thương nặng nề trong trận chiến vừa rồi, trước mắt vẫn chưa kịp bổ sung thêm người, nên ngoại trừ một bộ phận ở lại giữ nhà, lần này bọn họ chỉ phái ra một trăm người.
Một trăm diêm binh này đã được rèn luyện qua cuộc tử chiến với giặc lùn ở bên bờ sông Tiền Đường, tuy rằng thần thái bước đi vẫn còn hơi lỏng lẻo nhưng đã có được loại sát khí kinh người mà chỉ các chiến sỹ thường xuyên chinh chiến ở vùng biên giới phía bắc mới có.
Không khí trang nghiêm ấy cũng làm ảnh hưởng tới cả vệ quân, sắc mặt bọn họ đều trở thành nghiêm trọng. Trong thung lũng lúc này tập trung chừng chín trăm quan binh nhưng lại tĩnh lặng vô cùng, chỉ thỉnh thoảng mới có tiếng thở nhẹ của chiến mã vang ra.
Mẫn đại nhân và Chủng thiên tổng bước tới gặp gỡ khâm sai đại nhân trong bộ quan bào xưởng đốc, hai bên khẽ rì rầm với nhau vài câu. Sau đó ba trăm nha sai liền giữ nguyên hàng ngũ tiến vào thung lũng, ai nấy đều im lặng, chỉ nghe thấy tiếng bước chân loạt xoạt vang lên.
Tướng lĩnh các cấp lần lượt truyền xuống mệnh lệnh của xưởng đốc:
- Hai mươi người ở lại trông coi ngựa, những người khác hãy bám theo, không được phát ra âm thanh nào.
Trước trạm gác, bốn viên binh sỹ trực đêm đang đứng thẳng tắp, chỉ là khóe mắt lại lén liếc nhìn về phía thiêm sự đại nhân đang không ngừng đi đi lại lại, trong lòng cảm thấy hơi kỳ lạ.
Quân doanh này được đặt trong thung lũng, hơn nữa bây giờ không phải là thời chiến nên quyết không thể nào xảy ra việc quân địch tập kích được. Gọi là trạm gác chẳng qua cũng chỉ là cho có mà thôi, tối đến các binh sỹ trực gác đều chỉ ở trong nhà gỗ ngủ hoặc trò chuyện. Nhưng hôm nay còn chưa tới canh tư thiêm sự Đinh Lâm lại đột nhiên xuất hiện nói kiểm tra việc canh gác gì gì đó rồi lại còn không chịu rời đi, hại bọn họ cứ phải ngoan ngoãn đứng yên tại chỗ.
Đúng lúc đó, ngay chỗ rẽ trước mặt đột nhiên xuất hiện một đội nhân mã, một binh sỹ kinh hãi buột miệng kêu lên:
- Kẻ nào? Đứng lại! Không được đi tiếp!
Hai viên binh sỹ bên cạnh hoang mang cầm trường thương lên, một người khác thì đưa tay vớ lấy chiếc kèn lệnh bên hông. Lúc này sắc trời đã hơi sáng, vừa nhìn thấy lối ăn mặc của các binh tốt đang tiến đến Đinh thiêm sự không khỏi thở phào một hơi, gã cuối cùng cũng có thể yên tâm được rồi.
Đinh Lâm lập tức nghiêm giọng quát bảo:
- Hoang mang cái gì? Tất cả đứng trở lại cho ta, đây là binh mã của Dương đại nhân - thống lĩnh thân quân thị vệ của Hoàng thượng, tổng đốc Nội xưởng, phụng chỉ khâm sai. Bản quan đã nhận được mệnh lệnh nên tới đây nghênh đón, các ngươi chớ có vô lễ!
Một loạt quân hàm khiến bốn binh sỹ đó ngây ra, tướng lĩnh cao cấp trong quân đã nói như thế rồi, chẳng lẽ còn sai được sao? Thế là bọn họ chỉ đành chĩa mũi thương xuống đất, tránh qua một bên.
Đinh Lâm vội vàng bước tới nghênh đón, quỳ một chân xuống thực hiện quân lễ với Dương Lăng:
- Hạ quan Đinh Lâm khấu kiến khâm sai đại nhân.
Dương Lăng vội vàng bước lên phía trước đỡ lấy gã, mỉm cười bảo:
- Đinh thiêm sự đúng là người đáng tin, rất tốt! Hôm nay ngươi giúp bản khâm sai bắt được lũ quan lại phạm pháp, sau khi về kinh bản quan nhất định sẽ bẩm báo với thánh thượng, xin ngài ban thưởng cho ngươi.
Đinh Lâm đã nghe nói về sự tích Dương Lăng đánh bại giặc lùn nên cực kỳ tin tưởng sức chiến đấu của đội thân quân của y. Lúc này gã vừa thấy đội quân trước mặt có tới mấy trăm nha sai Nội xương, đằng sau lại còn có một lượng lớn quan binh không biết là được điều từ đâu tới nữa, không khỏi cảm thấy hoàn toàn yên tâm, thần sắc cũng trở nên ung dung hơn nhiều.
Gã mừng rỡ trả lời:
- Đại nhân khoan hồng đại lượng, cho ti chức có cơ hội lập công chuộc tội làm sao ti chức dám không dốc hết toàn lực chứ.
Dương Lăng chỉ khẽ mỉm cười, cũng không khách sáo với y nữa mà đi thẳng vào việc:
- Tình hình trong quân thế nào?
Đinh Lâm đáp:
- Đại nhân đi tuần tra phương nam chủ yếu là vì vấn đề bạc thuế. Tuy Viên Hùng kiêm nhiệm chức giám quân Long Sơn vệ nhưng đại nhân lấy đó làm lý do đi thanh tra Long Sơn vệ thì không khỏi hơi khiên cưỡng, hạ quan vốn còn lo Tất đô… Tất Xuân nghi ngờ. May mà tin đại nhân ở Hải Ninh dựa vào tám mươi tay đao đại chiến với hơn ngàn tên giặc lùn, còn năm trăm vệ quân tại địa phương thì lại hoang mang bỏ chạy đã lan ra khắp nơi. Tất Xuân cho rằng đại nhân giận dữ vì sức chiến đấu của vệ quân quá kém nên mới tới thanh tra, chẳng hề nghi ngờ gì cả.
Đã tới bên cạnh Dương Lăng, Chủng thiên tổng nghe thấy lời của Đinh Lâm thì cảm thấy xấu hổ vô cùng nhưng đồng thời cũng cảm thấy còn may mắn: “Khi vệ quân tan vỡ bỏ chạy có bao nhiêu đôi mắt nhìn vào, hoàn toàn chẳng thể che giấu ai được. Tuy bản thân mình dẫn theo thân quân tử chiến không lùi nhưng cũng chẳng bù được cái tội trị quân không nghiêm, sau này ti đô chỉ huy sứ nhất định sẽ truy cứu chuyện này. Hôm nay có thể đi theo Dương đại nhân tới bắt Tất Xuân, Viên Hùng, lập được công lao, có Dương đại nhân nói giúp cho mình một câu thì nhất định sẽ có thể biến nguy thành an.”
Dương Lăng gật gật đầu hỏi:
- Ngươi đã thu xếp ổn thỏa cả rồi chứ?
Đinh Lâm đáp:
- Vâng, vì sợ rò rỉ tin tức nên ti chức không dám dùng quá nhiều người. Ti chức chỉ tìm tới năm người đều do một tay ti chức đề bạt; trong đó có hai người còn là thân thích của ti chức, tuyệt đối đáng tin.
Dương Lăng gật đầu nói:
- Tốt, lát nữa cứ y kế hành sự! Kêu người của ngươi dẫn nhân mã của Chủng thiên tổng khống chế vòng ngoài, bắt lấy binh sỹ trong tất cả các trạm gác, gây áp lực với sỹ tốt trong quân, đề phòng sinh biến! Ta sẽ phái hai trăm thân quân và một trăm diêm binh tập kích trung quân, nhân lúc đám quan binh trong năm cái lều lớn còn ngủ say chưa tỉnh mà tước vũ khí rồi bắt giữ bọn chúng! Ngươi thì theo ta dẫn một trăm thân quân tiến thẳng vào lều soái, đi gặp người bạn cũ kia!
Dứt lời y lại liếc nhìn bốn viên binh sỹ đứng không xa sau lưng Đinh Lâm, hỏi:
- Bọn họ là người của ngươi sao?
Đinh Lâm vội lắc đầu đáp:
- Bọn họ không phải là người của ti chức. Vì sợ kẻ khác hoài nghi, ti chức không dám dẫn người tới. Có điều bọn họ đều đang đợi ở gần đây, ti chức có thể gọi bọn họ ra dẫn đường bất cứ lúc nào.
Dương Lăng gật gật đầu, đưa mắt ra hiệu cho Trịnh bách hộ. Trịnh bách hộ lập tức dẫn theo bốn người bước tới, cười hì hì bảo:
- Bốn vị huynh đệ vất vả rồi. Trước mắt nơi này đã có bọn ta tiếp quản, các ngươi có thể đi nghỉ ngơi một chút rồi!
- A?
Bốn binh sỹ đó nghe thế thì ngẩn người, còn chưa kịp trả lời thì trên cổ đã bị một thanh đao sáng loáng kề sát. Nụ cười trên mặt Trịnh bách hộ thu lại, hắn lạnh lùng hạ lệnh:
- Trói lại, vứt qua một bên!
Tất đô ti vốn đã đón người mỹ thiếp được sủng ái nhất tới an bài tại trấn Phong Diệp ở phía trước, thường ngày đều ngủ lại trong trấn. Vì nhận được tin trong vài ngày nữa khâm sai Dương Lăng sẽ tuần tra Long Sơn vệ nên gã mới dọn trở vào ngủ trong doanh trại.
Dương Lăng chính là viên dịch thừa nhỏ bé ở trạm Kê Minh khi xưa, chuyện này tất nhiên gã sớm đã biết. Ngày đó tại Kê Minh mọi người đều biết gã vừa ý con gái của Mã dịch thừa, nhưng Mã Liên Nhi lại chẳng thèm để ý tới thể diện của gã, giục ngựa đuổi theo Dương Lăng đang phụng chỉ tiến kinh, khiến gã mất hết mặt mũi. Không những gã vô cùng căm ghét Mã Liên Nhi mà đồng thời còn cực kỳ thù hận Dương Lăng nữa.
Tiếc rằng trời chẳng thỏa lòng người. Sau khi vào kinh Dương Lăng liền đi theo bên cạnh thái tử, nhân cơ duyên này mà trở thành tân sủng bên cạnh thánh thượng, hiện giờ đã như mặt trời chính ngọ, trở thành đề đốc Nội xưởng. Ngoài việc thầm căm hận trong lòng ra thì gã cũng chẳng còn cách nào khác, chỉ đành thở dài than rằng trời cao không có mắt.
Có điều gã cũng chưa từng nghĩ rằng Dương Lăng sẽ gây bất lợi gì cho bản thân gã. Dương Lăng tới đây là để tra xét việc bạc thuế, chẳng liên quan gì tới gã, hơn nữa hai người vốn không thù không oán. Gã làm sao có thể nghĩ tới việc giám quân của hắn - đồng thời cũng là thái giám trấn thủ thuế quan Giang Nam Viên Hùng - phạm tội, do vậy mà đối phương mò ra việc tham ô của hắn.
“Tu… Tu tu…” Tiếng kèn hiệu đột nhiên vang lên, sau đó là tiếng trống vang trời. Tất đô ti từ trong mộng giật mình tỉnh dậy, bừng bừng nổi giận:
- Ai gõ trống thổi kèn vậy? Chán sống rồi hay sao?
Thân binh Trịnh Đại Bằng vốn ngủ tại phòng ngoài, nghe thấy tiếng gầm của Tất đô ti liền hoang mang bò dậy, vội khoác áo chạy ra ngoài xem thử.
Lều soái ở trung quân là một khu vuông vắn, bốn phía được bao quanh bởi hàng rào gỗ cao bằng nửa thân người, ba phía phải, trái, sau bên ngoài hàng rào là năm ngôi lều lớn bao quanh lều soái tựa như quần tinh ủng nguyệt, ở trong đó là ba trăm thân quân được Tất Xuân đích thân đề bạt, tận bên ngoài nữa mới là nơi ở của các binh sỹ bình thường.
Trịnh Đại Bằng thấy năm cái lều lớn đều không có động tĩnh gì, còn đám binh sỹ canh gác xung quanh lều soái ở phía trước lều riêng của đô ti đang đứng trước ánh dương đầu tiên từ đằng đông chiếu tới mà chẳng hề động đậy, xem ra cũng chẳng có vấn đề gì. Hắn bèn vội vàng chạy vào báo:
- Bẩm đô ti đại nhân, bên ngoài không có dị trạng gì, binh sỹ trước lều soái vẫn canh gác cẩn mật…
Lời của hắn còn chưa dứt, đội trưởng đội thân binh Quan Thụ Anh đã vội vàng từ bên ngoài chạy vào. Lúc này Tất Xuân đang mặc quần áo, thấy hắn tiến vào bèn hừ lạnh một tiếng, vừa khoác chiến bào lên người vừa giận dữ trừng cặp mắt tam giác lên quát bảo:
- Đám khốn kiếp đó cả ngày ăn không chờ chết, ngay cả một chút kỹ luật quân đội cũng không hiểu nổi phải không? Không phải ta đã nói ngày kia khi khâm sai đại nhân tới thì mới có thể thổi kèn hiệu, gõ trống trận tập trung binh mã sao? Lũ khốn ngủ nhiều quá thành bệnh rồi chắc?
Quan Thụ Anh sắc mặt trắng bệnh thưa:
- Đại nhân, khâm sai đại nhân đã tới rồi.
- A?
Tất Xuân cả kinh, chiếc áo giáp vừa cầm lên rơi đánh bộp xuống đất, gã nghi ngờ hỏi:
- Y đến lúc nào? Sao ta lại không nghe thấy chút tin tức nào thế? Bây giờ y đang ở đâu?
Quan Thụ Anh đáp:
- Thuộc hạ cũng không biết y tiến vào quân doanh từ lúc nào, hiện giờ y đang ở trong soái trướng chờ đại nhân đấy!
Trong mắt Tất Xuân thoáng qua thần sắc kinh ngạc, sau đó gã chậm rãi khom người nhặt chiếc áo giáp lên, cẩn thận mặc vào người, trầm giọng cất tiếng:
- Tập hợp thân quân, xếp hàng chờ đợi trước lều soái, giờ bản quan sẽ đi gặp vị Dương đại khâm sai này.
Quan Thụ Anh cười nhưng còn khó coi hơn khóc, lắp bắp:
- Đại nhân! Khâm sai đại nhân dẫn người tới, không cho phân bua gì cả đã tước hết vũ khí của các huynh đệ, bây giờ mọi người đều bị giam giữ trong lều, ai dám phản kháng đều giết không tha. Dương… Dương đại nhân còn nhận ra thuộc hạ, do đó mởi thả cho ra, nói là kêu thuộc hạ đi mời đại nhân đến lều soái gặp mặt.
Tất Xuân tức giận đến nỗi sắc mặt lúc xanh lúc trắng, nghĩ bụng: “Mình tốt xấu gì cũng là chủ tướng trong quân, Dương Lăng làm vậy là có ý gì chứ? Muốn thể hiện oai phong? Có cần phải làm lớn như vậy không? Muốn bắt mình? Tội danh gì chứ?”
Tất Xuân căng thẳng suy nghĩ một lúc lâu. Tất nhiên bản thân gã đã từng làm những chuyện phi pháp, hơn nữa còn không ít, nhưng Dương Lăng phụng chỉ xuống Giang Nam không phải là để điều tra việc bạc thuế sao? Vệ sở ở Giang Nam vốn đã tệ như vậy rồi, y dựa vào cái gì mà đem gã ra khai đao, lại dựa vào cái gì mà vượt quyền làm vậy chứ?
Tất Xuân suy nghĩ hồi lâu mà vẫn chẳng thể nào hiểu rõ được vấn đề, thanh đao bên hông đeo lên rồi lại bỏ xuống, bỏ xuống rồi lại đeo lên. Đang lúc gã hoang mang lo lắng, bên ngoài cửa đã có người hô lớn:
- Ti chức là bách hộ Trịnh An Đức của Nội xưởng phụng lệnh khâm sai đại nhân kính mời Tất đô ti đến lều soái gặp gỡ!
Tất Xuân nghiến răng, vứt thanh đao lại lên bàn, rảo bước ra ngoài.
Trước lều soái là hơn hai mươi tướng tá ăn mặc chỉnh tề, khôi giáp mới tinh đang băn khoăn do dự từ từ đi vào lều soái, trong mắt bọn họ lúc này lều soái cứ tựa như là một con mãnh hổ đang há cái miệng to như chậu máu ra. Vừa bước vào, nhìn thấy mấy chục người ăn mặc theo lối nha sai của xưởng vệ đang đặt tay trên cán đao sát khí đằng đằng, người người đều không khỏi cảm thấy run sợ.
Họ thấy những nha sai đang tay giữ cán đao đó đều mang trường cung trên lưng hoặc là súng ngắn bên hông, có người còn có cả nỏ liên hoàn, loại Gia Cát thần nỗ có thể bắn ra năm phát liên tiếp, ở cự ly gần chắc hẳn không thể tránh nổi.
Năm thân tín mà Đinh Lâm tìm tới đều là những quan chức cấp thấp trong quân. Tuy phẩm hàm của họ không cao nhưng so với đám binh sỹ phải đứng gác đêm thì vẫn cao hơn nhiều; có bọn họ dẫn đường, đội quân của Dương Lăng tiến dễ như chẻ tre, tất cả mọi trạm gác đều bị xóa sạch. Đợi đến khi có tiếng kèn lệnh, trống lệnh tập hợp vang lên, các tướng sỹ hoang mang bò dậy thì những binh sỹ lạ mặt có trang phục giống hệt bọn họ đã canh giữ chắc chắn bên ngoài mỗi ngôi lều rồi.
Cùng là binh sỹ, nhưng lại có thể quát bảo ra lệnh cho đội quân khác kể cả một số viên quan chỉ huy, khiến đám sỹ tốt thuộc vệ sở Hải Ninh đều cảm thấy đắc ý vô cùng. Bọn họ không tin rằng đám sỹ tốt và tướng tá kia lúc này đã ở vào thế kém rồi mà còn dám tạo phản làm loạn, nên lại càng oai phong vô cùng, chẳng để ai vào trong mắt. Cái loại khí thế đó lại càng khiến người ta chẳng thể nhìn ra thực lực và gốc gác của bọn họ thế nào, lại càng khiến không ai dám khinh động.
Vệ quân Hải Ninh vừa tuần tra vừa cao giọng tuyên bố mệnh lệnh của khâm sai:
- Tất cả sỹ tốt phải ở trong lều chờ lệnh; những sĩ quan từ cấp bả tổng trở lên phải lập tức đến lều soái nghênh đón đại giá của khâm sai đại nhân. Kẻ nào dám không tuân lệnh, giết! Sỹ tốt nào dám tự tiện rời lều, giết! Kẻ nào dám phản kháng bỏ chạy, giết!
Đến khi vệ quân hô tới lần thứ ba, bắt đầu có những tướng tá lớn mật ăn mặc chỉnh tề lục tục bước ra ngoài lều, có điều để tránh hiểu lầm tất cả đều không dám mang theo binh khí. Khi hô đến lần thứ năm thì tất cả mọi tướng tá đều đã tập trung đến trước hành dinh của đô ti ở trung quân, dựa theo quan chức cao thấp mà run rẩy bước vào trong lều khấu kiến khâm sai đại nhân.
Trong lều soái bắt đầu từ chỗ soái án, mỗi bên đứng một hàng nha sai gồm bốn chục người, vươn dài xuống hai bên theo hình cánh nhạn, bao quanh khâm sai đại nhân đang ngồi sau soái án vào giữa. Giữa các nha sai là hai hàng người, hai vị tướng lĩnh đứng đầu là Lục Quý Vân, chỉ huy phó sứ Long Sơn vệ và chỉ huy thiêm sự Đinh Lâm.
Lục Quý Vân là người thân tín của Tất Xuân, hắn không biết khâm sai đại nhân sáng sớm đến tập kích, khống chế tam quân rồi tập trung tất cả các tướng tá vào trong lều soái là có ý gì, trong lòng cực kỳ sợ hãi. Đinh Lâm thấy đại cục đã định, cả doanh trại đã nằm trong sự khống chế của khâm sai đại nhân nên trên mặt đầy vẻ đắc ý, còn mang theo nét cười nhàn nhạt.
Trên soái án có bày văn phòng tứ bảo, nơi góc bàn còn có một cái hộp làm bằng gỗ đàn hương, bên trong có cắm hai mươi cái hỏa bài lệnh tiễn.
Khâm sai đại nhân phong lưu anh tuấn đang ngồi trên chiếc ghế sau soái án, nghịch ngợm chiếc bút lông trong tay. Y không nói gì, trong lều soái cũng vô cùng tĩnh lặng. Hơn sáu chục người ở trong lều soái mà chỉ nghe thấy có những tiếng hô hấp nặng nhọc do bị kềm nén vang lên, khiến áp lực trong lòng mỗi người càng lúc càng nặng nề.
Đúng vào lúc này, bên ngoài lều soái có người hô vang:
- Bẩm khâm sai đại nhân, chỉ huy sứ Long Sơn vệ là Tất Xuân đô ti đã đến!
Lời vừa mới dứt, một vị tướng lĩnh mặc giáp nghiêm trang rảo bước vào, ngang nhiên đi tới trước soái án. Khi gã chỉ còn cách soái án không xa, hai viên nha sai ở bên cạnh lập tức bước ra giơ đao ngăn cản, miệng quát lớn:
- Phải hành lễ, chờ lệnh; không được đến gần!
Cơ thịt trên đôi má gầy khô của viên tướng lĩnh khẽ co giật, đôi mắt tam giác nhiều lòng trắng ít lòng đen hơi nhướng lên, dường như gã đã bừng bừng nổi giận. Đôi mắt ấy vừa nhướng lên gặp cặp mắt ung dung của Dương Lăng thì không khỏi run sợ cúi xuống. Sau một lúc do dự, gã bèn đưa tay kéo vạt dưới của chiến bào qua một bên, quỳ gối làm lễ:
- Hạ quan Tất Xuân, khấu kiến khâm sai đại nhân!
Chiếc bút lông đang xoay tròn trong tay Dương Lăng chợt dừng lại. Y đưa mắt liếc nhìn vị tướng quân giáp trụ đường hoàng đang quỳ trước mặt kia, chợt nhớ lại cái ngày mùa đông lúc hai người lần đầu gặp mặt.
Khi đó y đang ở giếng nước ven đường múc nước uống, nước giếng lạnh băng, trong gàu còn có những mảnh băng phập phù trôi nổi; một vị tướng quân khôi giáp chỉnh tề cưỡi chiến mã đi đến bên cạnh y, vênh mặt hất hàm chỉa roi ngựa vào mặt y mà hò hét.
Thời gian thấm thoắt thế sự vô thường, vừa chia tay chẳng bao lâu thì hiện giờ gã đã phải quỳ xuống dưới chân mình rồi. Dương Lăng cảm khái thở dài một tiếng, chậm rãi đứng dậy:
- Xin Tất tướng quân đứng dậy. Ngày đó chia tay ở Kê Minh, vốn tưởng ngài và ta sẽ chẳng có ngày gặp lại, không ngờ hôm nay trùng phùng lại ở trong hoàn cảnh thế này.
Vừa bước vào trong sân, vẻ mặt Dương Lăng chợt trở lại bình thường như làm ảo thuật. Nghĩ đến nét kinh ngạc, thương hại, khinh thường lẫn chán ghét trong đôi mắt của vị Mạc phu nhân quyến rũ vô ngần kia, y muốn cất tiếng cười lớn.
Dương Lăng vừa mới bước vào trong sảnh với nụ cười xấu xa trên mặt thì Cao Văn Tâm đã giống hệt như một con chim én vui vẻ lao vụt tới nghênh đón, hớn hở gọi to:
- Lão gia!
Dương Lăng kinh ngạc liếc nhìn nàng, tò mò hỏi:
- Chân cô khỏi rồi sao? Cớ gì lại vui vẻ như vậy?
Cao Văn Tâm hai tay nắm chặt, cười tươi đáp:
- Dạ! Chân đã hết sưng rồi, cũng không có gì vui vẻ cả, hì hì hì…
Dương Lăng nhìn khuôn mặt rạng rỡ của nàng lại nhớ đến cái khổ nhục kế của mình khi nãy, cũng không kìm được bật cười mấy tiếng, sau đó căn dặn Cao Văn Tâm:
- Văn Tâm! Nếu có người dò hỏi cô về tình hình sức khỏe của ta, cô hãy trả lời qua loa, mơ hồ một chút. Cô nói như thế nào không quan trọng, nhưng hãy tỏ ra ngập ngùng ấp úng, càng thần bí càng tốt.
Cao Văn Tâm ngẩn người, ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao? Ai muốn dò hỏi về sức khỏe của lão gia vậy?
Dương Lăng cười hà hà đáp:
- Thiên cơ không thể tiết lộ. Chưa chắc y đã dám hỏi, có điều không thể không đề phòng. Ôi… Hôm nay đi dự tiệc uống cũng hơi nhiều rồi, tôi đi nghỉ đây. Đúng rồi, hãy pha giúp tôi một bình trà nhé!
Vừa bước được hai bước, chợt y dừng chân cười hì hì liếc nhìn cái miệng đỏ tươi nhỏ nhắn của Cao Văn Tâm, hỏi:
- Cô có biết nên uống loại trà cực phẩm trong cực phẩm như thế nào không?
Tròng mắt hơi xoay chuyển, nàng đáp:
- Về trà đạo thì… nô tì cũng hơi hiểu biết, có điều quan trọng là sự chuẩn bị và quá trình pha chế, còn về cách uống… dường như chẳng được nhắc đến nhiều lắm. Không phải là đều dùng miệng uống sao?
Dương Lăng khẽ cười, nói:
- Không có gì! Cứ pha nhạt một chút, tôi về phòng trước đây.
Dương Lăng vừa đi vừa nghĩ: “Cách này cũng hay thật, khi trở về mình phải tìm Ấu Nương thử xem sao. Nàng hay xấu hổ nhất nên trêu đùa mới càng thú vị.”
Nghĩ đến đây, y lại bất giác nhớ lại dáng vẻ tràn ngập phong tình của vị Mạc phu nhân kia, trái tim không kìm được cơn rung động: ”Không thể không thừa nhận, nếu chỉ xét đến phong vận, ả thật sự là tuyệt thế vô… Không đúng, còn có một người, đó chính là Liên Nhi…
Liên Nhi không những tướng mạo xinh đẹp, mà ngay cả thân hình cũng không có chỗ nào là không quyến rũ, nếu nàng lớn thêm chút nữa…
Ôi! Không biết bây giờ nàng có khỏe không? Ta đến Giang Nam gây ra những sự kiện chấn động lớn như vậy, nhất định nàng đã nghe nói tới rồi, liệu nàng có trách ta vì sao chưa đến thăm nàng không?”
Nghĩ đến đây, bước chân Dương Lăng bất giác trở nên nặng nề, sự vui vẻ vừa rồi lập tức tan biến sạch.
***
Ba ngày liền liên tục bày tiệc đãi khách, Mạc Thanh Hà một mực đi theo bên cạnh Dương Lăng. Từ sau lần thăm dò cuối cùng đó, Mạc Thanh Hà đã thật sự yên tâm hoàn toàn nên sáng sớm hôm sau đã bắt đầu cho chuyển bạc thuế về kinh thành.
Đội thuyền chở bạc khổng lồ khởi hành đi về kinh sư, cờ xí rộn ràng lại có quan binh hộ tống nên chẳng mấy chốc tin tức đã lan truyền đi khắp đất nước. Vị thái giám quản lý việc dệt may ở Tô Châu là Lý Đại Tường vừa được khoái mã báo tin, lập tức dứt khoát sai người vận chuyển bạc thuế đến kinh sư, tốc độ đội thuyền của Tô Châu còn nhanh hơn Hàng Châu một chút. Việc nịnh hót đã chậm hơn Mã Thanh Hà rồi, thuyền bạc nhất định phải đến kinh sư sớm hơn mới được, như vậy cũng coi như là gã đã tỏ rõ lòng trung với xưởng đốc đại nhân rồi.
Đến ngày thứ ba, mượn cớ mấy ngày nay uống rượu quá nhiều nên tửu lượng suy giảm, trên bàn tiệc Dương Lăng chỉ uống chút ít mà thôi. Mọi người đều biết ba ngày nay y liên tục thết tiệc đãi khách nên cũng chẳng nghi ngờ gì, vì vậy phần lớn mọi người đều chỉ kính rượu Mạc công công và Dương tri phủ, chuốc cho hai người say mèm.
Dương Lăng về phủ, chờ cho đám người Lý quản gia khiêng Mạc công công vào trong xong y mới đi nhanh về phía khu nhà ngang của mình. Vừa vào cửa gặp Cao Văn Tâm y đã hỏi:
- Liễu Bưu đã về chưa?
Cao Văn Tâm hơi ngớ người, đáp:
- Liễu thiên hộ vẫn chưa về. Có điều Hoàng chưởng ban đã từ Tô Châu trở về rồi, vẫn đang đợi lão gia đấy.
Dương Lăng hơi bất ngờ:
- Nhanh vậy sao? Tốt lắm, hãy đưa hắn tới gặp ta!
Dương Lăng đi đến cạnh chiếc chậu đồng ở góc phòng rửa tay rửa mặt. Đang lúc y lau rửa, hai hán tử mặc áo xanh đội mũ nồi theo lối nha sai chợt bước vào, quỳ một chân thưa:
- Tham kiến Xưởng đốc đại nhân!
Dương Lăng ngoảnh đầu lại, nhìn thấy một người là Hoàng chưởng ban còn người kia là Liễu Bưu, bèn bật cười:
- Khéo thật đấy, vừa mới trở về sao?
Liễu Bưu đáp vâng một tiếng. Đợi Cao Văn Tâm đón chiếc khăn bông từ trong tay Dương Lăng rồi bưng chiếc chậu đồng ra ngoài, hắn mới bước tới cười nói:
- Đại nhân, mọi việc đều ổn thỏa. Mẫn đại nhân nghe nói ngài muốn ông ấy cầm quân đi bắt người, lập tức vỗ vai thuộc hạ mà khen đại nhân nghĩa khí, có việc tốt thế này liền nghĩ tới ông ấy ngay.
Dương Lăng bật cười:
-Chắc hẳn Mẫn đại nhân làm quan văn rất đau khổ nên vừa thấy có đánh trận là lập tức hào hứng như vậy. Hà hà, chỗ Chủng thiên tổng thì sao?
Liễu Bưu đáp:
- Nhóm diêm binh đi theo đại nhân đánh thắng giặc đều được lợi rất nhiều, sớm đã khiến đám quan binh vệ sở kia thèm đến đỏ mắt. Tuy rằng tin tức hiện giờ chỉ có Mẫn đại nhân và Chủng thiên tổng biết, nhưng chắc hẳn tối nay sau khi hạ lệnh xuống, vệ quân sẽ không có ai là không vui mừng cả.
Hiện giờ nhuệ khí bọn họ cao vọt. Tuy rằng việc huấn luyện còn nhiều thiếu sót, đối phó với đám cướp biển khát máu thiện chiến kia có lẽ chưa được nhưng dùng để đối phó với đám quan binh Long Sơn vệ cũng bất tài y như thế thì nhất định là không có vấn đề gì.
Dương Lăng cười cười:
- Chớ nên sơ suất! Ta từng gặp Tất đô ty rồi, người này quả thực là một tướng tài, tuy rằng quân của y rất đỗi hủ bại, chiến lực thấp kém, nhưng thân binh của y ai nấy đều kiêu dũng thiện chiến, hơn nữa gần như là tư binh của y, tuyệt đối trung thành đối với y. Những người lính này tuy nhân số chưa đầy ba trăm, nhưng nếu để bọn chúng chó cùng rứt giậu gây ra tổn thất nặng nề thì cũng không phải là chuyện hay.
Liễu Bưu gật đầu đáp:
- Vâng! Ti chức cũng đã nghĩ tới điều này, nên mặc dù Mẫn đại nhân ba lần xin đánh, nhưng ti chức đều nói với ông ta rằng diêm binh và vệ binh chỉ phụ trách việc bao vây để dọa dẫm và gây uy hiếp với quan binh ở vệ sở Long Sơn. Còn về thân binh của Tất Xuân… đã có ba trăm nha sai của chúng ta, việc đó còn chẳng phải là dễ như chẻ tre sao?
Dương Lăng nhớ lại cái khí thế không gì sánh nổi khi tám mươi tay đao kia càn quét trên bờ biển, không khỏi gật gật đầu, ngay sau đó lại nghiêm nghị hỏi:
- Đúng rồi! Trong vệ quân có tên nặng không? Đã giao cho diêm binh sử dụng chưa?
Thể lực của vệ quân thông thường đều rất yếu, hoàn toàn không thể kéo căng được cung cứng nên tên nặng thì chẳng bắn nổi ra xa, do đó bọn họ mới dùng đến cái loại tên nhẹ tênh để dối gạt cấp trên khi diễn tập.
Diêm binh không giỏi bắn tên, nhưng cả ngày phải xông pha nam bắc ứng phó với đám giặc cướp trên sông trên núi, do đó sức chiến đấu khá mạnh. Giao cung tên cho bọn họ thì cũng chẳng cần họ phải bắn chuẩn gì cả, cứ bắn tràn ra một lượt. Để đối phó với đám thủ hạ liều mạng của Viên Hùng thì nhất định loạt tên bắn bừa này cũng sẽ có hiệu quả đặc biệt.
Cũng khó trách Dương Lăng cẩn thận như vậy. Vốn y tưởng rằng bắt Tất Xuân sẽ khá khó khăn, còn Viên Hùng chẳng qua chỉ là đề đốc thái giám quản lý việc thuế quan ở Giang Nam, đến lúc đó cứ trực tiếp đến tận cửa bắt người là được. Chẳng ngờ tin tình báo do Liễu Bưu thăm dò được lại khiến y cả kinh.
Thủ hạ của Viên Hùng có tất cả là bao nhiêu người? Đến tận năm nghìn! Ngoài đám tay chân được phái đi khắp các nơi, lũ ngồi không kiếm miếng cơm trong nha môn thuế giám cũng còn lại tới hai nghìn, hơn nữa phần lớn đám này đều là dân lưu manh vô lại hoặc là tội phạm đang lẩn trốn, trong lòng căn bản chẳng có triều đình, cũng chẳng có vương pháp. Do vậy việc bắt giữ Viên Hùng đâm ra còn khó hơn cả bắt Tất Xuân.
Cho nên Dương Lăng mới muốn lặng lẽ giải quyết Tất Xuân, sau đó thì toàn lực đối phó với Viên Hùng.
Nhớ lúc xưa vị tổng giám thuế quan này rời kinh chỉ mang theo mười gã tùy tùng. Hắn muốn nắm quyền thu thuế nhưng lại không thể sử dụng người của quan phủ, vì thế chỉ đành chiêu binh mãi mã, thu nạp một đám côn đồ vong mạng vào dưới trướng.
Mười người mà hắn đem tới mỗi người chiêu nạp chừng hơn trăm tên thủ hạ, mỗi tên thủ hạ lại có ít nhất năm gã tùy tùng. Cứ tựa như là quả cầu tuyết càng lăn càng lớn, tất cả đám lưu manh vô lại, cướp của giết người ở vùng Tô Châu đều được bọn hắn thu nạp. Dù sao bọn chúng cũng là khâm sai, “miệng hô luật pháp, tay nắm kỷ cương”, nên quan lại địa phương cũng chẳng làm gì được.
Liễu Bưu gật đầu đáp:
- Tên quân dụng thì có, chỉ là trong vệ quân ngoài thân binh của Chủng thiên tổng ra chẳng còn mấy ai có thể sử dụng được; thuộc hạ đã kêu y đem cung tên phát hết cho người của Mẫn đại nhân rồi, đại nhân bất tất phải lo lắng nữa! Theo ti chức thấy, Viên Hùng vị tất đã dám phản kháng, người của hắn đều do hắn dùng tiền thu nạp lại, ai lại chịu thật lòng bán mạng cho hắn chứ? Chỉ cần một loạt tên bắn ào tới, hiểu được sự lợi hại của chúng ta thì bọn chúng sẽ tan vỡ ngay thôi.
Dương Lăng trầm ngâm:
- Mong là như vậy! Sáng sớm ngày mai giải quyết Tất Xuân xong sẽ lập tức đưa quân đi bao vây nha môn thuế giám.
Dứt lời y lại quay đầu qua hỏi Hoàng chưởng ban:
- Chuyện ở Tô Châu tra xét thế nào rồi?
Hoàng chưởng ban vội đáp:
- Đại nhân! Ti chức đã điều tra kỹ càng về Lý Quý. Những cô nhi đó sau khi rời khỏi thành Hàng Châu thì chẳng rõ tung tích, chưa từng xuất hiện tại Tô Châu, tựa như là đã hoàn toàn biến mất khỏi thế gian này, không còn ai biết bọn chúng đang ở đâu.
Hắn liếc nhìn ánh mắt của Dương Lăng, lại kể tiếp:
- Ti chức phụng mệnh điều tra lai lịch của gã Lý Quý kia, nhưng lại chẳng ai có thể nói ra rõ ràng. Ti chức hết cách chỉ đành phải công khai lộ diện, mượn cớ rằng có nha sai do Nội Xưởng chiêu mộ tại địa phương đã mang bạc bỏ trốn, sau đó đến chỗ quan phủ tra rõ tình hình hộ tịch, ngầm đọc tài liệu về Lý Quý… Lý Quý có nhà có đất, còn có một hãng thuyền buôn dùng để vận chuyển lúa gạo mua thấp bán cao, có lúc còn thay triều đình vận chuyển gạch vàng để tu sửa hoàng cung và đế lăng, lợi nhuận thu được khá lớn. Mà chủ nhân thật sự của tất cả những thứ ấy đều không phải là Lý Quý, mà là đại phú thương Đỗ Thanh Giang ở Kim Lăng.
Dương Lăng ngớ người:
- Thì ra là phú hào Kim Lăng muốn phát triển sản nghiệp tại Tô Châu sao? Vậy hắn hà tất phải giấu đầu hở đuôi, phái một con rối ra ứng phó với người đời như thế?
Hoàng chưởng ban thưa tiếp:
- Chuyện này có rất nhiều điều kỳ lạ. Khi đó ti chức đã lập tức phái người đến Kim Lăng điều tra, vừa hay người của chúng ta từ kinh sư tới đã đứng vững được ở Kim Lăng, nắm rõ tình hình của người này.
Việc làm ăn của Đỗ Thanh Giang cực lớn, nào là tiệm tơ lụa, tiềm cầm đồ, tiệm vàng bạc, tiệm lương thực, còn có mấy hãng xe ngựa và đội thuyền buôn lớn. Thậm chí ngay đến việc vận chuyển lương thực cho triều đình, vận chuyển các loại vật phẩm cấm kị để xây dựng hoàng cung và đế lăng như gạch vàng…, tất cả cũng đều thường tìm đến nhờ hắn vận chuyển.
Người của chúng ta đã từng thử liên lạc để bắt tay làm ăn với bọn họ. Có điều thế lực của Đỗ gia khá lớn, khi vận chuyển bọn họ hoàn toàn không phải lo lắng bị quan binh làm khó dễ nên họ cũng chẳng cần người của chúng ta ra mặt; do đó bọn họ bèn lên tiếng cự tuyệt thẳng thừng.
Nghe nói đại nhân muốn tra hỏi về căn cơ của Đỗ gia, người ở Kim Lăng bèn lập tức điều tra kỹ càng về Đỗ gia. Vị Đỗ Thanh Hà này vốn nghèo rớt mùng tơi, thời thiếu niên từng làm thuê tại một tiệm vịt muối, sau đó cưới người con gái tàn tật của chủ tiệm nên cuộc sống mới đở hơn một chút, có điều tại Kim Lăng vẫn chưa thể được coi là một nhân vật thực sự.
Về sau Đỗ Thanh Hà đột nhiên trở nên giàu có, mua nhà mua đất phát triển cực nhanh. Mọi người đồn rằng Đỗ Thanh Hà đã đào được bảo tàng mà năm xưa Thẩm Vạn Tam chôn giấu nên mới phát tài.
Tuy nhiên, có một lần Đỗ Thanh Hà mở tiệc sinh nhật mời các bậc danh lưu ở đất Kim Lăng, nhưng Nam Kinh tả đô ngự sự Kim đại nhân đã trả lại thiệp mời và không đến dự. Đỗ Thanh Hà thẹn quá hóa giận, trong lúc uống rượu đã mở miệng mắng lớn, vô ý lỡ lời, tiết lộ rằng huynh đệ của hắn ở ti Lễ Giám ghê gớm như thế nào, chỉ là quan lớn một tỉnh mà cũng dám không nể mặt hắn, Kim lão thất phu hiếp người quá đáng, sau này nhất định phải khiến cho lão ta biết mặt. Từ đó ở Kim Lăng mới bắt đầu lưu truyền rằng hắn có một người anh em ruột, là công công nắm quyền trong ti Lễ Giám.
Ti chức đã điều tra về hộ tịch của Đỗ Thanh Giang, lại tìm được người vợ cũ tàn tật đã bị Đỗ Thanh Giang bỏ, được biết hắn ta còn có một người anh em, năm mười hai tuổi vì gia cảnh bần hàn nên người này đã tự thiến mình nhập cung. Vì việc này mà người đó cảm thấy xấu hổ với liệt tổ liệt tông, nên chỉ giữ tên mà không giữ họ, đổi thành họ Mạc, chính là Mạc Thanh Hà!
Dương Lăng nghe đến đây thì lập tức ngẩn người ra, hồi lâu sau mới hỏi với giọng khó tin:
- Mạc Thanh Hà? Thái giám nắm quyền ở ti Lễ Giám? Mạc Thanh Hà… Chính là Mạc Thanh Hà này… Thì ra là thế… Thì ra là thế…
Liễu Bưu biết rõ rằng lần này Dương Lăng tới Giang Nam chính là để giải quyết việc ba đại thái giám trấn thủ đất này, khiến các thuế giám trong thiên hạ nhìn thấy rõ thủ đoạn của Nội Xưởng, cũng là cho bọn họ một viên thuốc an thần.
Hôm nay vừa trở về gã liền nghe nói về việc Mạc Thanh Hà đã cho vận chuyển bạc thuế về kinh, hiển nhiên hắn đã ngả về phía Dương Lăng rồi. Nếu quá hà khắc với hắn, thuế giám các nơi sẽ cho rằng Xưởng đốc khắt khe quá đáng, nhất định sẽ có người nảy dị tâm, do đó Liễu Bưu vội khuyên:
- Đại nhân! Thực ra quan viên và thuế giám các nơi lợi dụng chức quyền để mưu lợi cho gia tộc cũng là lẽ thường tình. Có câu rằng “nước quá trong thì không có cá”, thêm vào đó hắn còn cố gắng che giấu, lại cũng không phải loại người ngông nghênh kiêu ngạo, không biết nặng nhẹ. Chỉ cần hắn thành tâm làm việc cho đại nhân, đại nhân bất tất phải suy nghĩ quá nhiều làm gì!
Dương Lăng chậm rãi ngồi trở lại ghế, cười cay đắng:
- Hắn chỉ muốn kiếm tiền thì ta có thể không tính toán, nhưng còn những người kia thì sao? Những đứa nhỏ kia đã đi đâu mất rồi? Chuyện này mà không tra rõ, ta khó mà yên lòng được…
Nói tới đây y đột ngột nhảy bật dậy, hỏi Hoàng chưởng ban:
- Đứa nhỏ mấy hôm trước đâu? Chính là đứa nhỏ được đưa từ vườn trà về Cao phủ vào mấy hôm trước ấy, bây giờ nó thế nào rồi?
Hoàng chưởng ban gian nan nuốt một ngụm nước bọt, ngập ngọng:
- Đại nhân! Hôm trước ti chức đã báo cáo rồi… Những đứa nhỏ mà Mạc công công thu nhận hiện giờ đều đã biến mất, đứa nhỏ kia cũng…
Dương Lăng vỗ bàn đánh bộp, cười lạnh:
- Thật là to gan! Nếu không phải ngày đó bản quan ra ngoài tình cờ gặp được đứa nhỏ kia, có lẽ sẽ chẳng nghi ngờ chút nào. Rốt cuộc hắn đã làm gì những đứa cô nhi không cha không mẹ, không có ai hỏi đến kia chứ?
Liễu Bưu và Hoàng chưởng ban cùng đưa mắt nhìn nhau, nhưng chẳng ai có thể trả lời.
Cho dù Dương Lăng là kẻ ngốc thì cũng biết rằng chuyện này nhất định là có quan hệ với Mạc Thanh Hà, y chỉ tay về phía Hoàng chưởng ban hạ lệnh:
- Hơn ba mươi mạng người! Tung tích của hơn ba mươi đứa nhỏ chưa thể làm rõ, bản quan làm sao mà yên lòng bỏ qua cho Mạc Thanh Hà được đây? Ngươi hãy tìm người đóng giả họ hàng xa của đứa nhỏ đó, làm khổ chủ tố cáo Lý Quý, lấy đó làm nguyên cớ để tra xét hắn.
Liễu Bưu do dự một hồi, cung tay thưa:
- Đại nhân đã quyết ý muốn tra xét, vậy xin hãy nghe lấy một lời của ti chức chứ cứ thế này mà tra xét nhất định sẽ chẳng tra ra được gì đâu. Nếu Lý Quý cứ một mực khẳng định rằng đã đem bán đứa nhỏ ấy cho người khác, sau đó lại khai bừa ra mấy vùng đất hoang vu. Chúng ta muốn tìm chứng cứ thì phải cần tới mấy tháng, mà nếu đến lúc đó người chúng ta tìm được kia lại dùng lại kế cũ thì chẳng biết phải tra xét đến năm nào tháng nào đây…
Vừa nghe, Dương Lăng lập tức nhớ đến kế kéo dài thời gian mà khi xưa mình đã bày cho Mẫn huyện lệnh để đối phó với bọn chủ tiệm nhạc khí Vương Đại, Vương Nhị. Tuy rằng khá thô thiển, nhưng trong thời đại giao thông bất tiện này lại rất hữu hiệu. Y không khỏi chau mày hỏi:
- Vậy ngươi có kế hay gì không?
Liễu Bưu hơi nhếch miệng, cười lạnh:
- Gạch vàng của triều đình đều được sản xuất tại thôn Ngự Dao, trấn Nguyên Hòa ở ngoài thành Tô Châu, hãng thuyền của Đỗ gia chẳng phải chuyên môn thay triều đình vận chuyển thứ nguyên liệu cấm kị này sao? Vụ làm ăn này sao có thể thiếu phần của Lý Quý chứ? Chúng ta hãy phái người đến thôn Ngự Dao kiếm lấy một viên gạch mẫu về đây, sau đó trực tiếp đến lục soát Lý phủ, nói rằng có người tố cáo hắn cất giấu vật cấm. Nếu mà tìm được đứa nhỏ thì thôi, còn nếu không tìm được thì hãy vứt viên gạch kia vào trong nhà hắn, vu cho hắn tội khi quân. Trọng tội đó là phải chém đầu, đến khi ấy hắn lại chẳng ngoan ngoãn mà khai toàn bộ chân tướng sao?
Dương Lăng nghe vậy thì hơi do dự. Y chắp tay sau lưng chậm rãi đi lại trong phòng một lát, nhưng nhớ đến đứa nhỏ gầy khô như que củi nhưng lại thông minh đáng yêu mình đã gặp kia, cuối cùng y nghiến răng gật đầu quyết định:
- Hoàng chưởng ban hãy cứ làm như vậy đi! Không hành động thì thôi, hành động thì phải nhanh, phải độc! Mạc Thanh Hà là địa đầu xà ở đây, Viên Hùng có thể có đến năm ngàn nanh vuốt sao Mạc Thanh Hà lại chịu kém được? Không thể để hắn kịp phản ứng!
Kế đó y ngoảnh đầu qua bảo Liễu Bưu:
- Đêm nay sẽ xuất binh bắt giữ Tất Xuân, Viên Hùng. Khi trở về cần lấy cớ đề phòng nanh vuốt của hai kẻ này nổi loạn, tăng cường phòng vệ khu nhà ngang phía tây, không phải người của Nội xưởng quyết không cho phép tiến vào, đặc biệt phải phòng bị…
Y liếc nhìn qua phía Liễu Bưu, gã hiểu ý gật gật đầu, ôm quyền bẩm:
- Ti chức xin vâng lệnh!
***
Đội diêm binh và vệ binh Hải Ninh hành quân cực nhanh, dãy đuốc dài liên miên như rồng rắn uốn lượn. Thỉnh thoảng khi đi qua thôn trấn bọn họ lại gặp những phu tuần điểm canh hay là gã sắc lang vừa từ trong kỹ viện đi ra đang nheo mắt hồi tưởng cảm giác tiêu hồn vừa nãy, có lúc còn gặp con bạc bị đá ra khỏi sòng bạc. Tất cả bọn họ đều ngây người nhìn đại đội binh mã đeo cung cầm đao đang giơ cao ngọn đuốc lặng lẽ đi qua bên cạnh mình, một mảng sát khí ập thẳng vào mặt.
Nam quận có rất ít đội kỵ binh hoàn chỉnh, muốn gom đủ ngựa quân dụng thì khó vô cùng nhưng để kiếm được mấy trăm con ngựa mà cưỡi thì chỉ cần mượn từ phủ của các đại phú hào, đại diêm thương là được.
Mẫn Văn Kiến vừa chỉ huy toàn quân hành quân vừa ngầm chú ý hành vi của Chủng thiên tổng. Dương Lăng đã gửi mật thư nếu Chung thiên tổng lâm trận mà có hành động khả nghi thì lập tức giết không tha. Nhưng dọc đường ông thấy Chung thiên tổng có thần thái ung dung, dường như gã cảm thấy được làm việc cho khâm sai đại nhân là một điều cực kỳ vinh dự, còn hăng hái, hào hứng hơn ông mấy phần, gần như chẳng thể nhìn ra có gì khác lạ.
Lúc này Mạc Thanh Hà vốn say túy lúy vừa mới tỉnh lại trong Mạc phủ. Hắn vươn vai, day day cái trán vẫn còn hơi nằng nặng rồi ngồi dậy, vừa lúc một đôi tay nõn nà đưa tới một chén trà. Ngẩng đầu nhìn lên, đôi mắt kia vẫn nguyên nét dịu dàng như làn nước mùa xuân; chỉ cần nữ nhân này muốn, bất cứ lúc nào thị cũng có thể nở một nụ cười quyến rũ khiến nam nhân phải động lòng.
Mạc Thanh Hà cười bảo:
- Đã lâu lắm rồi chưa uống say đến mức này! Mấy ngày nay giải được nỗi lo, uống rượu cũng thấy sảng khoái.
Hắn đón lấy chén trà. Lúc này trà đã hơi lành lạnh, có điều đối với tình trạng khô miệng nóng người của hắn lúc này thì vừa hay có thể giải khát. Mạc phu nhân dịu dàng:
- Phu quân thì sảng khoái uống say túy lúy. Nhưng chàng có biết sắc trời vừa tối Dương đại nhân đã không từ mà biệt, vất vả dẫn hết đám nha sai đi mất, hiện giờ trong khu nhà ngang phía tây ngoài một tì nữ và hai mươi nha sai thì đã chẳng còn người nào khác nữa không?
Mạc Thanh Hà lập tức bị sặc trà. Hắn ho mấy tiếng, sau đó mới ngẩng đầu lên bừng bừng giận dữ hỏi:
- Khâm sai đại nhân đi đâu vậy? Chuyện lớn như vậy, sao nàng không gọi ta dậy chứ?
Mạc phu nhân chẳng hề sợ hãi, ả khẽ nở nụ cười, nháy nháy mắt với Mạc Thanh Hà, làm bộ tinh nghịch nói:
- Thiếp thân vốn cũng muốn hỏi y, chỉ là sợ vị khâm sai đại nhân đó không dám gặp thiếp… Thiếp kêu người nhà đi xem thử rồi, y dẫn người ra khỏi cổng thành phía tây, sát khí đằng đằng. Do đó thiếp nghĩ… tin tức này… Đợi sau khi lão gia tỉnh rượu nghe được liệu có phải là càng sảng khoái hơn không?
Mạc Thanh Hà lặng yên một lát rồi đột nhiên ngẩng đầu lên trời cười rộ. Hắn phát mạnh lên bờ mông đầy đặn của Mạc phu nhân, cười ha hả:
- Người hiểu ta chính là Tiểu Lâu! Ừm… Ta và Viên gia cộng sự nhiều năm, không thể không niệm tình xưa. Nàng hãy kêu người đi thu dọn phòng chứa củi ở nhà sau đi, trước khi khâm sai đại nhân về kinh chúng ta cũng phải tìm cho Viên gia một chỗ ở chứ, ha ha ha ha…
Khi cưỡi ngựa tới trấn Phong Diệp ở trước thung lũng Long Sơn, Mẫn Văn Kiến hạ lệnh cho toàn quân dập đuốc đi vòng qua trấn. Rời khỏi trấn đi tiếp ba dặm chính là thung lũng Long Sơn, bên trong thung lũng chính là nơi đóng trại của Long Sơn vệ sở. Cửa vào thung lũng có hình chữ “chi” (Tương tự chữ Z - ND.), Liễu Bưu đã qua lại nơi này nhiều lần, lại có viên chỉ huy thiêm sự Đinh Lâm làm nội ứng, sớm đã biết khi rẽ đến lần thứ hai thì mới có trạm gác, hơn nữa bình thường người ở bên trong đều không ra ngoài, do đó thân vệ của Dương Lăng vẫn ung dung yên lặng chờ đợi ở chỗ rẽ thứ nhất.
Sắc trời lúc này đã biến thành màu trắng đục. Khi Mẫn Văn Kiến và Chủng thiên tổng dẫn theo sáu trăm binh sỹ đến nơi, các nha sai mặc áo xanh đội mũ đỏ, hông mang đao dài, lưng đeo trường cung sớm đã xếp thành ba phương trận (đội ngũ hình vuông). Bọn họ đứng nghiêm chẳng hề động đậy tựa như bị đinh ghim xuống đất, hơn nữa lưng mọi người đều thẳng tắp.
Hạng mục biểu diễn sở trường của những quan binh vốn là người của Thần Cơ doanh này chính là xếp hàng bày trận biễu diễn; bây giờ đã có kinh nghiệm chém giết trên chiến trường thì đội hình của bọn họ càng oai phong lẫm liệt, uy nghiêm vô cùng.
Sự trang nghiêm lạnh như băng sương, sự huấn luyện khiến toàn thể đội hình chỉnh tề như nhất này lập tức khiến khoảng không giữa bọn họ lan tràn những luồng sát khí đằng đằng, tuy nhìn không thấy nhưng lại có thể cảm giác được.
Đám diêm binh lưu manh sớm đã được thấy thủ đoạn lạnh lùng tàn khốc như tay đồ tề của tám mươi đao thủ nên lập tức thu lại dáng vẻ cười đùa cợt nhả, trở nên nghiêm túc vô cùng. Diêm binh bị tử thương nặng nề trong trận chiến vừa rồi, trước mắt vẫn chưa kịp bổ sung thêm người, nên ngoại trừ một bộ phận ở lại giữ nhà, lần này bọn họ chỉ phái ra một trăm người.
Một trăm diêm binh này đã được rèn luyện qua cuộc tử chiến với giặc lùn ở bên bờ sông Tiền Đường, tuy rằng thần thái bước đi vẫn còn hơi lỏng lẻo nhưng đã có được loại sát khí kinh người mà chỉ các chiến sỹ thường xuyên chinh chiến ở vùng biên giới phía bắc mới có.
Không khí trang nghiêm ấy cũng làm ảnh hưởng tới cả vệ quân, sắc mặt bọn họ đều trở thành nghiêm trọng. Trong thung lũng lúc này tập trung chừng chín trăm quan binh nhưng lại tĩnh lặng vô cùng, chỉ thỉnh thoảng mới có tiếng thở nhẹ của chiến mã vang ra.
Mẫn đại nhân và Chủng thiên tổng bước tới gặp gỡ khâm sai đại nhân trong bộ quan bào xưởng đốc, hai bên khẽ rì rầm với nhau vài câu. Sau đó ba trăm nha sai liền giữ nguyên hàng ngũ tiến vào thung lũng, ai nấy đều im lặng, chỉ nghe thấy tiếng bước chân loạt xoạt vang lên.
Tướng lĩnh các cấp lần lượt truyền xuống mệnh lệnh của xưởng đốc:
- Hai mươi người ở lại trông coi ngựa, những người khác hãy bám theo, không được phát ra âm thanh nào.
Trước trạm gác, bốn viên binh sỹ trực đêm đang đứng thẳng tắp, chỉ là khóe mắt lại lén liếc nhìn về phía thiêm sự đại nhân đang không ngừng đi đi lại lại, trong lòng cảm thấy hơi kỳ lạ.
Quân doanh này được đặt trong thung lũng, hơn nữa bây giờ không phải là thời chiến nên quyết không thể nào xảy ra việc quân địch tập kích được. Gọi là trạm gác chẳng qua cũng chỉ là cho có mà thôi, tối đến các binh sỹ trực gác đều chỉ ở trong nhà gỗ ngủ hoặc trò chuyện. Nhưng hôm nay còn chưa tới canh tư thiêm sự Đinh Lâm lại đột nhiên xuất hiện nói kiểm tra việc canh gác gì gì đó rồi lại còn không chịu rời đi, hại bọn họ cứ phải ngoan ngoãn đứng yên tại chỗ.
Đúng lúc đó, ngay chỗ rẽ trước mặt đột nhiên xuất hiện một đội nhân mã, một binh sỹ kinh hãi buột miệng kêu lên:
- Kẻ nào? Đứng lại! Không được đi tiếp!
Hai viên binh sỹ bên cạnh hoang mang cầm trường thương lên, một người khác thì đưa tay vớ lấy chiếc kèn lệnh bên hông. Lúc này sắc trời đã hơi sáng, vừa nhìn thấy lối ăn mặc của các binh tốt đang tiến đến Đinh thiêm sự không khỏi thở phào một hơi, gã cuối cùng cũng có thể yên tâm được rồi.
Đinh Lâm lập tức nghiêm giọng quát bảo:
- Hoang mang cái gì? Tất cả đứng trở lại cho ta, đây là binh mã của Dương đại nhân - thống lĩnh thân quân thị vệ của Hoàng thượng, tổng đốc Nội xưởng, phụng chỉ khâm sai. Bản quan đã nhận được mệnh lệnh nên tới đây nghênh đón, các ngươi chớ có vô lễ!
Một loạt quân hàm khiến bốn binh sỹ đó ngây ra, tướng lĩnh cao cấp trong quân đã nói như thế rồi, chẳng lẽ còn sai được sao? Thế là bọn họ chỉ đành chĩa mũi thương xuống đất, tránh qua một bên.
Đinh Lâm vội vàng bước tới nghênh đón, quỳ một chân xuống thực hiện quân lễ với Dương Lăng:
- Hạ quan Đinh Lâm khấu kiến khâm sai đại nhân.
Dương Lăng vội vàng bước lên phía trước đỡ lấy gã, mỉm cười bảo:
- Đinh thiêm sự đúng là người đáng tin, rất tốt! Hôm nay ngươi giúp bản khâm sai bắt được lũ quan lại phạm pháp, sau khi về kinh bản quan nhất định sẽ bẩm báo với thánh thượng, xin ngài ban thưởng cho ngươi.
Đinh Lâm đã nghe nói về sự tích Dương Lăng đánh bại giặc lùn nên cực kỳ tin tưởng sức chiến đấu của đội thân quân của y. Lúc này gã vừa thấy đội quân trước mặt có tới mấy trăm nha sai Nội xương, đằng sau lại còn có một lượng lớn quan binh không biết là được điều từ đâu tới nữa, không khỏi cảm thấy hoàn toàn yên tâm, thần sắc cũng trở nên ung dung hơn nhiều.
Gã mừng rỡ trả lời:
- Đại nhân khoan hồng đại lượng, cho ti chức có cơ hội lập công chuộc tội làm sao ti chức dám không dốc hết toàn lực chứ.
Dương Lăng chỉ khẽ mỉm cười, cũng không khách sáo với y nữa mà đi thẳng vào việc:
- Tình hình trong quân thế nào?
Đinh Lâm đáp:
- Đại nhân đi tuần tra phương nam chủ yếu là vì vấn đề bạc thuế. Tuy Viên Hùng kiêm nhiệm chức giám quân Long Sơn vệ nhưng đại nhân lấy đó làm lý do đi thanh tra Long Sơn vệ thì không khỏi hơi khiên cưỡng, hạ quan vốn còn lo Tất đô… Tất Xuân nghi ngờ. May mà tin đại nhân ở Hải Ninh dựa vào tám mươi tay đao đại chiến với hơn ngàn tên giặc lùn, còn năm trăm vệ quân tại địa phương thì lại hoang mang bỏ chạy đã lan ra khắp nơi. Tất Xuân cho rằng đại nhân giận dữ vì sức chiến đấu của vệ quân quá kém nên mới tới thanh tra, chẳng hề nghi ngờ gì cả.
Đã tới bên cạnh Dương Lăng, Chủng thiên tổng nghe thấy lời của Đinh Lâm thì cảm thấy xấu hổ vô cùng nhưng đồng thời cũng cảm thấy còn may mắn: “Khi vệ quân tan vỡ bỏ chạy có bao nhiêu đôi mắt nhìn vào, hoàn toàn chẳng thể che giấu ai được. Tuy bản thân mình dẫn theo thân quân tử chiến không lùi nhưng cũng chẳng bù được cái tội trị quân không nghiêm, sau này ti đô chỉ huy sứ nhất định sẽ truy cứu chuyện này. Hôm nay có thể đi theo Dương đại nhân tới bắt Tất Xuân, Viên Hùng, lập được công lao, có Dương đại nhân nói giúp cho mình một câu thì nhất định sẽ có thể biến nguy thành an.”
Dương Lăng gật gật đầu hỏi:
- Ngươi đã thu xếp ổn thỏa cả rồi chứ?
Đinh Lâm đáp:
- Vâng, vì sợ rò rỉ tin tức nên ti chức không dám dùng quá nhiều người. Ti chức chỉ tìm tới năm người đều do một tay ti chức đề bạt; trong đó có hai người còn là thân thích của ti chức, tuyệt đối đáng tin.
Dương Lăng gật đầu nói:
- Tốt, lát nữa cứ y kế hành sự! Kêu người của ngươi dẫn nhân mã của Chủng thiên tổng khống chế vòng ngoài, bắt lấy binh sỹ trong tất cả các trạm gác, gây áp lực với sỹ tốt trong quân, đề phòng sinh biến! Ta sẽ phái hai trăm thân quân và một trăm diêm binh tập kích trung quân, nhân lúc đám quan binh trong năm cái lều lớn còn ngủ say chưa tỉnh mà tước vũ khí rồi bắt giữ bọn chúng! Ngươi thì theo ta dẫn một trăm thân quân tiến thẳng vào lều soái, đi gặp người bạn cũ kia!
Dứt lời y lại liếc nhìn bốn viên binh sỹ đứng không xa sau lưng Đinh Lâm, hỏi:
- Bọn họ là người của ngươi sao?
Đinh Lâm vội lắc đầu đáp:
- Bọn họ không phải là người của ti chức. Vì sợ kẻ khác hoài nghi, ti chức không dám dẫn người tới. Có điều bọn họ đều đang đợi ở gần đây, ti chức có thể gọi bọn họ ra dẫn đường bất cứ lúc nào.
Dương Lăng gật gật đầu, đưa mắt ra hiệu cho Trịnh bách hộ. Trịnh bách hộ lập tức dẫn theo bốn người bước tới, cười hì hì bảo:
- Bốn vị huynh đệ vất vả rồi. Trước mắt nơi này đã có bọn ta tiếp quản, các ngươi có thể đi nghỉ ngơi một chút rồi!
- A?
Bốn binh sỹ đó nghe thế thì ngẩn người, còn chưa kịp trả lời thì trên cổ đã bị một thanh đao sáng loáng kề sát. Nụ cười trên mặt Trịnh bách hộ thu lại, hắn lạnh lùng hạ lệnh:
- Trói lại, vứt qua một bên!
Tất đô ti vốn đã đón người mỹ thiếp được sủng ái nhất tới an bài tại trấn Phong Diệp ở phía trước, thường ngày đều ngủ lại trong trấn. Vì nhận được tin trong vài ngày nữa khâm sai Dương Lăng sẽ tuần tra Long Sơn vệ nên gã mới dọn trở vào ngủ trong doanh trại.
Dương Lăng chính là viên dịch thừa nhỏ bé ở trạm Kê Minh khi xưa, chuyện này tất nhiên gã sớm đã biết. Ngày đó tại Kê Minh mọi người đều biết gã vừa ý con gái của Mã dịch thừa, nhưng Mã Liên Nhi lại chẳng thèm để ý tới thể diện của gã, giục ngựa đuổi theo Dương Lăng đang phụng chỉ tiến kinh, khiến gã mất hết mặt mũi. Không những gã vô cùng căm ghét Mã Liên Nhi mà đồng thời còn cực kỳ thù hận Dương Lăng nữa.
Tiếc rằng trời chẳng thỏa lòng người. Sau khi vào kinh Dương Lăng liền đi theo bên cạnh thái tử, nhân cơ duyên này mà trở thành tân sủng bên cạnh thánh thượng, hiện giờ đã như mặt trời chính ngọ, trở thành đề đốc Nội xưởng. Ngoài việc thầm căm hận trong lòng ra thì gã cũng chẳng còn cách nào khác, chỉ đành thở dài than rằng trời cao không có mắt.
Có điều gã cũng chưa từng nghĩ rằng Dương Lăng sẽ gây bất lợi gì cho bản thân gã. Dương Lăng tới đây là để tra xét việc bạc thuế, chẳng liên quan gì tới gã, hơn nữa hai người vốn không thù không oán. Gã làm sao có thể nghĩ tới việc giám quân của hắn - đồng thời cũng là thái giám trấn thủ thuế quan Giang Nam Viên Hùng - phạm tội, do vậy mà đối phương mò ra việc tham ô của hắn.
“Tu… Tu tu…” Tiếng kèn hiệu đột nhiên vang lên, sau đó là tiếng trống vang trời. Tất đô ti từ trong mộng giật mình tỉnh dậy, bừng bừng nổi giận:
- Ai gõ trống thổi kèn vậy? Chán sống rồi hay sao?
Thân binh Trịnh Đại Bằng vốn ngủ tại phòng ngoài, nghe thấy tiếng gầm của Tất đô ti liền hoang mang bò dậy, vội khoác áo chạy ra ngoài xem thử.
Lều soái ở trung quân là một khu vuông vắn, bốn phía được bao quanh bởi hàng rào gỗ cao bằng nửa thân người, ba phía phải, trái, sau bên ngoài hàng rào là năm ngôi lều lớn bao quanh lều soái tựa như quần tinh ủng nguyệt, ở trong đó là ba trăm thân quân được Tất Xuân đích thân đề bạt, tận bên ngoài nữa mới là nơi ở của các binh sỹ bình thường.
Trịnh Đại Bằng thấy năm cái lều lớn đều không có động tĩnh gì, còn đám binh sỹ canh gác xung quanh lều soái ở phía trước lều riêng của đô ti đang đứng trước ánh dương đầu tiên từ đằng đông chiếu tới mà chẳng hề động đậy, xem ra cũng chẳng có vấn đề gì. Hắn bèn vội vàng chạy vào báo:
- Bẩm đô ti đại nhân, bên ngoài không có dị trạng gì, binh sỹ trước lều soái vẫn canh gác cẩn mật…
Lời của hắn còn chưa dứt, đội trưởng đội thân binh Quan Thụ Anh đã vội vàng từ bên ngoài chạy vào. Lúc này Tất Xuân đang mặc quần áo, thấy hắn tiến vào bèn hừ lạnh một tiếng, vừa khoác chiến bào lên người vừa giận dữ trừng cặp mắt tam giác lên quát bảo:
- Đám khốn kiếp đó cả ngày ăn không chờ chết, ngay cả một chút kỹ luật quân đội cũng không hiểu nổi phải không? Không phải ta đã nói ngày kia khi khâm sai đại nhân tới thì mới có thể thổi kèn hiệu, gõ trống trận tập trung binh mã sao? Lũ khốn ngủ nhiều quá thành bệnh rồi chắc?
Quan Thụ Anh sắc mặt trắng bệnh thưa:
- Đại nhân, khâm sai đại nhân đã tới rồi.
- A?
Tất Xuân cả kinh, chiếc áo giáp vừa cầm lên rơi đánh bộp xuống đất, gã nghi ngờ hỏi:
- Y đến lúc nào? Sao ta lại không nghe thấy chút tin tức nào thế? Bây giờ y đang ở đâu?
Quan Thụ Anh đáp:
- Thuộc hạ cũng không biết y tiến vào quân doanh từ lúc nào, hiện giờ y đang ở trong soái trướng chờ đại nhân đấy!
Trong mắt Tất Xuân thoáng qua thần sắc kinh ngạc, sau đó gã chậm rãi khom người nhặt chiếc áo giáp lên, cẩn thận mặc vào người, trầm giọng cất tiếng:
- Tập hợp thân quân, xếp hàng chờ đợi trước lều soái, giờ bản quan sẽ đi gặp vị Dương đại khâm sai này.
Quan Thụ Anh cười nhưng còn khó coi hơn khóc, lắp bắp:
- Đại nhân! Khâm sai đại nhân dẫn người tới, không cho phân bua gì cả đã tước hết vũ khí của các huynh đệ, bây giờ mọi người đều bị giam giữ trong lều, ai dám phản kháng đều giết không tha. Dương… Dương đại nhân còn nhận ra thuộc hạ, do đó mởi thả cho ra, nói là kêu thuộc hạ đi mời đại nhân đến lều soái gặp mặt.
Tất Xuân tức giận đến nỗi sắc mặt lúc xanh lúc trắng, nghĩ bụng: “Mình tốt xấu gì cũng là chủ tướng trong quân, Dương Lăng làm vậy là có ý gì chứ? Muốn thể hiện oai phong? Có cần phải làm lớn như vậy không? Muốn bắt mình? Tội danh gì chứ?”
Tất Xuân căng thẳng suy nghĩ một lúc lâu. Tất nhiên bản thân gã đã từng làm những chuyện phi pháp, hơn nữa còn không ít, nhưng Dương Lăng phụng chỉ xuống Giang Nam không phải là để điều tra việc bạc thuế sao? Vệ sở ở Giang Nam vốn đã tệ như vậy rồi, y dựa vào cái gì mà đem gã ra khai đao, lại dựa vào cái gì mà vượt quyền làm vậy chứ?
Tất Xuân suy nghĩ hồi lâu mà vẫn chẳng thể nào hiểu rõ được vấn đề, thanh đao bên hông đeo lên rồi lại bỏ xuống, bỏ xuống rồi lại đeo lên. Đang lúc gã hoang mang lo lắng, bên ngoài cửa đã có người hô lớn:
- Ti chức là bách hộ Trịnh An Đức của Nội xưởng phụng lệnh khâm sai đại nhân kính mời Tất đô ti đến lều soái gặp gỡ!
Tất Xuân nghiến răng, vứt thanh đao lại lên bàn, rảo bước ra ngoài.
Trước lều soái là hơn hai mươi tướng tá ăn mặc chỉnh tề, khôi giáp mới tinh đang băn khoăn do dự từ từ đi vào lều soái, trong mắt bọn họ lúc này lều soái cứ tựa như là một con mãnh hổ đang há cái miệng to như chậu máu ra. Vừa bước vào, nhìn thấy mấy chục người ăn mặc theo lối nha sai của xưởng vệ đang đặt tay trên cán đao sát khí đằng đằng, người người đều không khỏi cảm thấy run sợ.
Họ thấy những nha sai đang tay giữ cán đao đó đều mang trường cung trên lưng hoặc là súng ngắn bên hông, có người còn có cả nỏ liên hoàn, loại Gia Cát thần nỗ có thể bắn ra năm phát liên tiếp, ở cự ly gần chắc hẳn không thể tránh nổi.
Năm thân tín mà Đinh Lâm tìm tới đều là những quan chức cấp thấp trong quân. Tuy phẩm hàm của họ không cao nhưng so với đám binh sỹ phải đứng gác đêm thì vẫn cao hơn nhiều; có bọn họ dẫn đường, đội quân của Dương Lăng tiến dễ như chẻ tre, tất cả mọi trạm gác đều bị xóa sạch. Đợi đến khi có tiếng kèn lệnh, trống lệnh tập hợp vang lên, các tướng sỹ hoang mang bò dậy thì những binh sỹ lạ mặt có trang phục giống hệt bọn họ đã canh giữ chắc chắn bên ngoài mỗi ngôi lều rồi.
Cùng là binh sỹ, nhưng lại có thể quát bảo ra lệnh cho đội quân khác kể cả một số viên quan chỉ huy, khiến đám sỹ tốt thuộc vệ sở Hải Ninh đều cảm thấy đắc ý vô cùng. Bọn họ không tin rằng đám sỹ tốt và tướng tá kia lúc này đã ở vào thế kém rồi mà còn dám tạo phản làm loạn, nên lại càng oai phong vô cùng, chẳng để ai vào trong mắt. Cái loại khí thế đó lại càng khiến người ta chẳng thể nhìn ra thực lực và gốc gác của bọn họ thế nào, lại càng khiến không ai dám khinh động.
Vệ quân Hải Ninh vừa tuần tra vừa cao giọng tuyên bố mệnh lệnh của khâm sai:
- Tất cả sỹ tốt phải ở trong lều chờ lệnh; những sĩ quan từ cấp bả tổng trở lên phải lập tức đến lều soái nghênh đón đại giá của khâm sai đại nhân. Kẻ nào dám không tuân lệnh, giết! Sỹ tốt nào dám tự tiện rời lều, giết! Kẻ nào dám phản kháng bỏ chạy, giết!
Đến khi vệ quân hô tới lần thứ ba, bắt đầu có những tướng tá lớn mật ăn mặc chỉnh tề lục tục bước ra ngoài lều, có điều để tránh hiểu lầm tất cả đều không dám mang theo binh khí. Khi hô đến lần thứ năm thì tất cả mọi tướng tá đều đã tập trung đến trước hành dinh của đô ti ở trung quân, dựa theo quan chức cao thấp mà run rẩy bước vào trong lều khấu kiến khâm sai đại nhân.
Trong lều soái bắt đầu từ chỗ soái án, mỗi bên đứng một hàng nha sai gồm bốn chục người, vươn dài xuống hai bên theo hình cánh nhạn, bao quanh khâm sai đại nhân đang ngồi sau soái án vào giữa. Giữa các nha sai là hai hàng người, hai vị tướng lĩnh đứng đầu là Lục Quý Vân, chỉ huy phó sứ Long Sơn vệ và chỉ huy thiêm sự Đinh Lâm.
Lục Quý Vân là người thân tín của Tất Xuân, hắn không biết khâm sai đại nhân sáng sớm đến tập kích, khống chế tam quân rồi tập trung tất cả các tướng tá vào trong lều soái là có ý gì, trong lòng cực kỳ sợ hãi. Đinh Lâm thấy đại cục đã định, cả doanh trại đã nằm trong sự khống chế của khâm sai đại nhân nên trên mặt đầy vẻ đắc ý, còn mang theo nét cười nhàn nhạt.
Trên soái án có bày văn phòng tứ bảo, nơi góc bàn còn có một cái hộp làm bằng gỗ đàn hương, bên trong có cắm hai mươi cái hỏa bài lệnh tiễn.
Khâm sai đại nhân phong lưu anh tuấn đang ngồi trên chiếc ghế sau soái án, nghịch ngợm chiếc bút lông trong tay. Y không nói gì, trong lều soái cũng vô cùng tĩnh lặng. Hơn sáu chục người ở trong lều soái mà chỉ nghe thấy có những tiếng hô hấp nặng nhọc do bị kềm nén vang lên, khiến áp lực trong lòng mỗi người càng lúc càng nặng nề.
Đúng vào lúc này, bên ngoài lều soái có người hô vang:
- Bẩm khâm sai đại nhân, chỉ huy sứ Long Sơn vệ là Tất Xuân đô ti đã đến!
Lời vừa mới dứt, một vị tướng lĩnh mặc giáp nghiêm trang rảo bước vào, ngang nhiên đi tới trước soái án. Khi gã chỉ còn cách soái án không xa, hai viên nha sai ở bên cạnh lập tức bước ra giơ đao ngăn cản, miệng quát lớn:
- Phải hành lễ, chờ lệnh; không được đến gần!
Cơ thịt trên đôi má gầy khô của viên tướng lĩnh khẽ co giật, đôi mắt tam giác nhiều lòng trắng ít lòng đen hơi nhướng lên, dường như gã đã bừng bừng nổi giận. Đôi mắt ấy vừa nhướng lên gặp cặp mắt ung dung của Dương Lăng thì không khỏi run sợ cúi xuống. Sau một lúc do dự, gã bèn đưa tay kéo vạt dưới của chiến bào qua một bên, quỳ gối làm lễ:
- Hạ quan Tất Xuân, khấu kiến khâm sai đại nhân!
Chiếc bút lông đang xoay tròn trong tay Dương Lăng chợt dừng lại. Y đưa mắt liếc nhìn vị tướng quân giáp trụ đường hoàng đang quỳ trước mặt kia, chợt nhớ lại cái ngày mùa đông lúc hai người lần đầu gặp mặt.
Khi đó y đang ở giếng nước ven đường múc nước uống, nước giếng lạnh băng, trong gàu còn có những mảnh băng phập phù trôi nổi; một vị tướng quân khôi giáp chỉnh tề cưỡi chiến mã đi đến bên cạnh y, vênh mặt hất hàm chỉa roi ngựa vào mặt y mà hò hét.
Thời gian thấm thoắt thế sự vô thường, vừa chia tay chẳng bao lâu thì hiện giờ gã đã phải quỳ xuống dưới chân mình rồi. Dương Lăng cảm khái thở dài một tiếng, chậm rãi đứng dậy:
- Xin Tất tướng quân đứng dậy. Ngày đó chia tay ở Kê Minh, vốn tưởng ngài và ta sẽ chẳng có ngày gặp lại, không ngờ hôm nay trùng phùng lại ở trong hoàn cảnh thế này.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.