Chương 39: Cố Nhân
La Thanh Mai
26/05/2021
Đám thương nhân người Hồ sau khi thoát hiểm vội mang hàng hóa rời đi, trước khi đi dâng tạ lễ xin Phật Tử nhận lấy.
Mấy sư tăng ra mặt nhã nhặn từ chối lòng kính hiến của Hồ thương, nhẹ lời an ủi, còn lấy danh nghĩa của Đàm Ma La Già lập tràng cúng cho những người đã chết.
Đám thương nhân cảm động đến rơi nước mắt.
Dao Anh và thân binh tạm thời được thu xếp trong đội binh của Vương Đình.
Ở Tây Vực nàng thấy người Bắc Nhung và các bộ tộc khác đều là xõa tóc vạt áo cài bên trái, còn kỵ binh Vương Đình phần lớn là áo choàng tóc thắt bím, chế tác ăn mặc khác với người Bắc Nhung.
Kỵ binh mặc áo xanh lam, giáp nhẹ, khoác bào trắng, đeo trường đao, cung tên, trên bào trắng có thêu hoa văn phức tạp, hơn nữa mỗi người đều có nô bộc hầu cận làm chân chạy vặt riêng.
Bọn họ không giống mấy binh sĩ dũng mãnh hiếu chiến của Bắc Nhung, có vẻ như biết lễ nghi, dù vô cùng chán ghét Dao Anh trước mặt mọi người khinh bạc Phật Tử của họ, thấy nàng là trợn mắt, nhưng cũng không mắng chửi.
Có điều thái độ của hai thân binh Đàm Ma La Già với Dao Anh rất ác liệt, bảo người dắt ngựa nàng đi, lệnh cho nàng đi cùng với nô lệ hạ đẳng nhất.
Điểm quan trọng nhất: Không cho phép nàng nhắc đến tên của Đàm Ma La Già, không cho phép nàng nhìn Đàm Ma La Già dù một chút.
Kỵ sĩ mặt mũm mĩm chỉ vào mặt Dao Anh la to: “Ngươi là đồ gái Hán mặt dày vô sỉ, ngươi mà nhìn Vương của bọn ta thêm một chút, là sỉ nhục ngài ấy!”
Dao Anh nhìn đội đi đầu, lá cờ tuyết trắng to lớn phần phật bay trong gió, Đàm Ma La Già cưỡi ngựa đi đầu tiên, nàng chỉ có thể thấy một bóng lưng gầy gò.
Trong vạn quân, chỉ có mình ngài mặc một thân cà sa đỏ đậm, vóc người thanh tú lạnh lùng cô tuyệt.
Lại giống như thần.
Kỵ sĩ Trung quân chen chúc đi sau, nhìn bóng lưng ngài cuồng nhiệt mà thành kính.
Kỵ sĩ theo ánh mắt của Dao Anh nhìn sang, tức giận đến đỏ cả mặt, kêu to ngăn trước mặt nàng: “Cô người Hán kia, ai cho phép nhìn Vương của bọn ta! Một tí cũng không thể nhìn! Nhìn nữa ta móc mắt ngươi!”
Dao Anh giật khóe miệng, thu tầm mắt.
Kỵ sĩ bất mãn trừng nàng mấy lần, gọi binh sĩ đến: “Để họ đi theo đội chót! Không cho phép cô gái Hán này tới gần Vương một bước!”
Dao Anh quay nhìn lại sơn cốc. Nơi chân trời cát bụi cuồn cuộn, Hải Đô A Lăng mang binh Bắc Nhung rời đi.
Dao Anh và thân binh đi cuối đội, kỵ sĩ nô lệ đều là đàn ông, thấy nàng là một cô gái nhỏ người Hán xinh đẹp như hoa, tò mò dò xét, đối xử coi như hòa bình. Từ trong miệng họ, Dao Anh biết được nơi đây rất gần Sa Thành, Đàm Ma La Già mới vừa cùng Ngõa Hãn Khả Hãn ký minh ước ở Sa Thành, quân đội chân trước ra Sa Thành, trinh sát báo Hải Đô A Lăng chặn giết đội buôn Vương Đình, ngài lập tức dẫn binh chạy đến uy hiếp người Bắc Nhung.
Dao Anh sợ không thôi. Hải Đô A Lăng đi Sa Thành thì họ mới có cơ hội đào tẩu, kết quả trốn khỏi doanh địa lạc đường thế nào lại đâm đầu chạy tới Sa Thành!
Đúng là tự chui đầu vào lưới. May mà Đàm Ma La Già đã doạ lui Hải Đô A Lăng.
Quân Vương Đình đi rất nhanh, đến màn đêm buông xuống mới nghỉ ngơi dưới một vách đá dựng đứng hoang vu.
Trung quân vây quanh doanh trướng của Đàm Ma La Già, mấy nhánh quân ở vùng ngoài phục sức khác biệt rõ ràng.
Dao Anh chia bánh cứng đến nỗi có thể đập chết người cho những nô lệ khác.
Nô lệ vừa há to miệng gặm bánh, vừa kể, phần lớn kỵ sĩ Trung quân xuất thân là con em quý tộc ở Thánh Thành, trung với Vương thất, coi trọng vinh dự, chỉ nghe lệnh từ Quân chủ, là Cấm Vệ quân của Vương cung và Phật Tử. Mấy nhánh quân kia chia nhau trung với mấy đại quý tộc. Vương Đình có một vị Nhiếp Chính Vương quản lý việc triều chính thế tục cho Phật Tử, quan viên trong triều đều xuất thân từ đại quý tộc. Đàm Ma La Già dù là Quân chủ, đôi khi cũng sẽ bị quý tộc quản thúc.
Nói xong câu cuối, nô lệ tức giận không thôi: “Phật Tử là A Nan hóa thân, lòng mang từ bi, phổ độ chúng sinh, là người chân chính đại thiện, ngài muốn phóng thích mấy nô lệ bị bắt tới như bọn ta thành dân thường nhưng mấy quý tộc không đồng ý.”
Dao Anh cho nô lệ một đồng bạc. Người Trung Nguyên lấy tiền lụa giao dịch, ở Tây Vực thì lưu hành tiền vàng, ngân tệ và tơ lụa.
Nô lệ rất vui mừng, nhận lấy đồng bạc, nghĩ nghĩ, lại căn dặn Dao Anh: “Cô là người Hán, tốt nhất đợi ở chỗ Trung quân thôi, tuyệt đối không nên một mình ra ngoài. Kỵ sĩ Trung quân nghe theo lệnh Vương, sẽ không khi dễ gái Hán.”
Nói xong nhướng mày liếc mặt nàng. “Cô đẹp vậy, quý tộc Vương Đình mà thấy chắc chắn sẽ ưa thích, bộ hạ của họ muốn được khen thưởng tranh thủ có đánh nhau mà cướp mấy mỹ nhân của bộ lạc, cô phải cẩn thận.”
Mắt Dao Anh lộ vẻ kinh ngạc, nhỏ giọng hỏi: “Vương Đình coi người Hán là kẻ thù à?”
Thiên Sơn phía Nam, núi Côn Luân phía bắc, Thông Lĩnh phía Đông, một mảng lớn sa mạc và hoang nguyên mênh mông vô ngần, khí hậu nóng bức khô hạn, gần như là khu vực không người, chỉ có những con sông lớn nhỏ bắt nguồn từ Thiên Sơn chảy qua tạo thành từng tòa ốc đảo. Mỗi chỗ ốc đảo xinh đẹp hoang dại xuất hiện mấy tiểu quốc chật hẹp dọc bờ sông, ở giữa rải rác mấy thành bang bộ lạc, số dân ít nhất chỉ chừng một hai ngàn người, nhiều nhất chừng mấy chục vạn người.
Dao Anh đối với Vương thất Bắc Nhung còn hiểu mấy phần, còn với những bộ lạc Tây Vực lớn nhỏ này nàng hoàn toàn xa lạ, chỉ biết Vương Đình là một Phật quốc tín ngưỡng Phật đạo, không bao lâu bị hủy diệt dưới gót sắt của Bắc Nhung. Nếu không phải biết sơ cuộc đời của Đàm Ma La Già, nàng cũng sẽ không nhớ kỹ cái tên Vương Đình này.
Từ sau khi bị Hải Đô A Lăng bắt đến Tây Vực, nàng luôn bị cầm tù trong doanh địa, chung quanh đều là lính Bắc Nhung, không thể nào thám thính tình hình các nước Tây Vực. Nàng biết người Bắc Nhung coi tất cả người bộ tộc khác mà chúng chinh phục là dân đen, nhưng không biết ở Vương Đình cũng thế, mà nghe nô lệ ám chỉ, người Vương Đình đặc biệt có thù với người Hán.
Nô lệ cúi đầu lau đồng bạc, nói: “Quý tộc và dân chúng Vương Đình đều thù địch người Hán cả. Lúc trước, tụi tôi cũng là thần dân Vương triều Trung Nguyên, sau Trung Nguyên mặc kệ sống chết của tụi tôi, bộ tộc khác thống trị Tây Vực. Ở Tây Vực, người Hán thành dân đen hạ đẳng nhất.”
Dao Anh nhẹ chau mày. Không ngờ sau khi Tây Vực thất thủ, địa vị người Hán bị hạ thấp vậy.
Nói đến, Đàm Ma La Già cũng là quý tộc Vương Đình, ngài là Vương tử Vương thất nên mới có thể đồng thời đảm nhiệm làm chủ Vương Đình thế tục và tôn giáo. Nếu ở Vương Đình từ quý tộc đến bình dân đều thù hằn người Hán, trước mặt mọi người nàng la to mấy câu đó không chỉ không có chút tác dụng nào với ngài mà trái lại còn phạm vào cấm kỵ của Vương Đình.
Vì sao ngài lại giúp nàng nhỉ?
Chỉ có hai cách giải thích:
Một, Đàm Ma La Già muốn kết minh với Ngụy triều.
Hai, người xuất gia lòng dạ từ bi, thân là tăng nhân Đàm Ma La Già không đành lòng thấy nàng bị Hải Đô A Lăng bắt đi.
Dao Anh cân nhắc một hồi, cho dù là thế nào, chỉ cần tạm thời thoát khỏi ma trảo của Hải Đô A Lăng thì nàng có thêm cơ hội về Trung Nguyên. Từ Hà Lũng đến Tây Vực, dù nàng chạy trốn tới chỗ nào, Hải Đô A Lăng đều có thể bắt về, chỉ có trốn tới Vương Đình nàng mới có cơ hội xả hơi.
Đi một bước nhìn một bước vậy.
Đàm Ma La Già như đang vội vã chạy về Thánh Thành, hôm sau trời còn chưa sáng cả đội đã nhổ trại xuất phát, đến đêm cũng phải mãi đến lúc trời hoàn toàn tối mới dừng lại hạ trại.
Đến ngày thứ tư, kỵ binh Trung quân trực tiếp tách các đội khác, bỏ lại quân nhu, tiếp tục xuất phát. Cứ thế liên tiếp đuổi mấy ngày đường, trên đường chỉ gặp một tòa ốc đảo nhỏ, còn lại là sa mạc cát mênh mông, dãy núi sừng sững nơi chân trời càng vĩnh viễn xa xôi, tuyết trên đỉnh núi cả ngày mây mù che phủ.
Càng về phía Bắc, thời tiết ngày càng nóng, Dao Anh và thân binh không có quần áo thay, vẫn phải tiếp tục mặc áo nỉ thật dày.
Nàng dùng bạc đổi lấy thuốc từ kỵ binh Vương Đình không được, thương thế của Tạ Thanh chuyển biết không tốt, ban ngày nóng bức, ban đêm giá rét, vết thương của nàng ấy dần dần có dấu hiệu thối rữa. Dao Anh có phần nóng ruột.
Từ hôm Đàm Ma La Già cứu nàng cứ như quên nàng luôn, không cho người đến xác nhận thân phận của nàng, cũng không nói xử lý nàng thế nào.
Kỵ binh trung quân mỗi ngày mang thức ăn cho nàng, nàng yêu cầu gặp mặt Đàm Ma La Già, kỵ binh lập tức cười lạnh, khiển trách nàng si tâm vọng tưởng: “Sao Phật Tử phải gặp cô gái Hán như ngươi hả?”
Dao Anh phải nghĩ cách khác. Bạc trên người nàng đã sử dụng hết, mà Đàm Ma La Già không hề có ý để ý đến nàng. Xem ra hòa thượng kia không có dự định kết minh với Ngụy triều, chỉ vì lòng từ bi mới cứu nàng.
Dao Anh và thân binh dùng áo nỉ đổi với mấy nô lệ khác được ít thuốc, quần áo, chống chọi vài ngày.
Chạng vạng tối, mặt trời thiêu nửa bầu trời đến đỏ tươi, trên đường đi cả đội đột nhiên bùng nổ từng đợt hoan hô. Nô lệ chỉ vào vách núi cao ngất xa xa, nói cho Dao Anh: “Cô gái Hán à, đấy chính là Thánh Thành của bọn tôi!”
Dao Anh ngẩng đầu nhìn, vốn tưởng là một tòa đô thành hùng vĩ, trước mắt cũng chỉ có một mảng sườn núi đen cao ngất, dưới vách núi có con sông rộng chừng mấy chục trượng, từ phía Bắc chia dòng, uốn lượn quanh sườn núi một vòng, hình thành một tấm chắn thiên nhiên.
Nàng còn chưa kịp nhìn kỹ, có kỵ sĩ cưỡi ngựa vùn vụt từ đội phía trước xuống cuối hàng, lớn tiếng tuyên bố đội ngũ dừng lại nghỉ ngơi.
Dao Anh sửng sốt: Cả mấy ngày nhìn tốc độ di chuyển của cả đội xem ra Đàm Ma La Già rất vội về Thánh Thành, sao đến dưới chân rồi thì lại dừng nghỉ ngơi? Ngài ấy không sợ về đô thành không kịp trời tối sao?
Trung quân không hổ là đội quân trung thành với Vương thất nhất, không ai lên tiếng phàn nàn về lệnh của Đàm Ma La Già, dù Thánh Thành gần ngay trước mắt, dù lòng chỉ muốn về cả đội vẫn lập tức dừng lại.
Vạt nắng vàng óng ánh chiều thu cuối cùng còn sót lại, gió đêm quét đến, bỗng nhiên lạnh buông, Dao Anh và mấy thân binh lạnh run. Ngay lúc nàng nghĩ sẽ ngủ ngoài trời sa mạc đêm nay, thì bỗng cả đội lại bắt đầu di chuyển. Dao Anh và những người khác dưới chỉ dẫn của kỵ sĩ sờ soạng đi, thầm nghĩ: Thì ra Đàm Ma La Già muốn chờ trời tối mới vào thành, hẳn không muốn kinh động dân chúng đô thành nhỉ?
Nàng chưa từng tới Thánh Thành, không phân biệt được đường xá, cảm giác đi rất lâu, tiếp đến giống như đi qua một cầu tàu rất dài, rồi những bậc thang đá dốc đứng, leo lên rất lâu, đến đỉnh núi, lại tới một đoạn đường cát xuống dốc.
Xem ra Thánh Thành dặt trong một lòng chảo sông, sông ngòi bao quanh, tường ngoài thành là sườn núi… Đúng là một địa hình dễ thủ khó công, hèn gì Bắc Nhung từ đầu đến cuối đánh không xong tòa thành trì này.
Trong bóng tối, chỉ có ánh sáng từ đuốc trong tay kỵ binh thả ra ánh sáng mờ nhạt. Dao Anh không thấy rõ được gì, chỉ cảm giác đi đường dốc rất lâu, phía trước sắp có lối thông suốt, gió mạnh thổi cuốn, nghe vù vù.
Kỵ binh dẫn nàng và thân binh rời khỏi nhóm nô lệ, dẫn đến nhà lao bằng đá trông giữ.
Nhà lao bằng đá khô ráo lạnh lẽo, Dao Anh và thân binh trong bóng đêm mắt to mắt nhỏ nhìn nhau thật lâu, nói: “Dù sao cũng còn tốt hơn ngủ ở sa mạc ngoài trời, ngủ trước đi.”
Kỵ binh mặt mũm mĩm ra khỏi nhà đá, chạy về hoàng cung.
Đàm Ma La Già đã lặng lẽ trở về hoàng cung, trong đại điện đã lên đèn, mấy tăng nhân vội vã chạy tới, nói với Đàm Ma La Già một lúc rồi cáo lui.
Kỵ binh cung kính hành lễ với mấy vị sư. Một vị sư mắt nâu hỏi: “Bát Nhã, Phật Tử nói, lần này các người dẫn theo một vị công chúa Ngụy triều theo về à?”
Kỵ binh mặt mũm mĩm lập tức sưng sỉa đỏ thẫm, hừ mấy tiếng: “Vâng, cái cô người Hán mặt dày vô sỉ đó nói mình là Thất công chúa Ngụy triều, phong hào Văn Chiêu.”
Tăng nhân hơi biến sắc, hỏi: “Thất công chúa bây giờ ở đâu?”
Bát Nhã đáp: “Trong nhà lao ấy, nàng dám sỉ nhục Phật Tử, tội ác tày trời, mai tôi phải mời Nhiếp Chính Vương trị tội cô ta!”
Tăng nhân nhíu mày, chắp tay trước ngực: “Thất công chúa là người hữu duyên, không thể đối xử vô lễ.”
Bát Nhã kinh ngạc há to mồm.
Dao Anh vừa mới nằm ngủ, bên ngoài có tiếng bước chân dồn dập.
Mấy binh sĩ Vương Đình mở ra cửa nhà lao, cung kính nói: “Thất công chúa, mời theo chúng tôi, Pháp sư muốn gặp ngài.”
Dao Anh được mang ra lao thất, đi vào một góc thiền điện trong Vương cung. Một lão giả mặc cà sa thông vai đứng trước thềm đá, thấy nàng, chắp tay trước ngực: “Thất công chúa.”
Ánh mắt Dao Anh rơi trên khuôn mặt già nua của lão giả, run run, rốt cục nhận ra cặp mắt màu nâu ấy. Cảm xúc phun trào, thật lâu nàng không nói nên lời, từ từ lấy lại tinh thần, chắp tay trước ngực, cười cười, dù tóc tai bù xù, vẻ ngoài chật vật, trên người là y phục của nô lệ, phong thái vẫn ung dung: “Pháp sư, từ biệt ở Trường An, vẫn khỏe ạ?”
Đề Bà Mông Đạt nhìn người thiếu nữ trong chật vật vẫn khoan thai trước mắt, mỉm cười: “Nhờ phúc của công chúa, đã đạt tâm nguyện.”
Mấy sư tăng ra mặt nhã nhặn từ chối lòng kính hiến của Hồ thương, nhẹ lời an ủi, còn lấy danh nghĩa của Đàm Ma La Già lập tràng cúng cho những người đã chết.
Đám thương nhân cảm động đến rơi nước mắt.
Dao Anh và thân binh tạm thời được thu xếp trong đội binh của Vương Đình.
Ở Tây Vực nàng thấy người Bắc Nhung và các bộ tộc khác đều là xõa tóc vạt áo cài bên trái, còn kỵ binh Vương Đình phần lớn là áo choàng tóc thắt bím, chế tác ăn mặc khác với người Bắc Nhung.
Kỵ binh mặc áo xanh lam, giáp nhẹ, khoác bào trắng, đeo trường đao, cung tên, trên bào trắng có thêu hoa văn phức tạp, hơn nữa mỗi người đều có nô bộc hầu cận làm chân chạy vặt riêng.
Bọn họ không giống mấy binh sĩ dũng mãnh hiếu chiến của Bắc Nhung, có vẻ như biết lễ nghi, dù vô cùng chán ghét Dao Anh trước mặt mọi người khinh bạc Phật Tử của họ, thấy nàng là trợn mắt, nhưng cũng không mắng chửi.
Có điều thái độ của hai thân binh Đàm Ma La Già với Dao Anh rất ác liệt, bảo người dắt ngựa nàng đi, lệnh cho nàng đi cùng với nô lệ hạ đẳng nhất.
Điểm quan trọng nhất: Không cho phép nàng nhắc đến tên của Đàm Ma La Già, không cho phép nàng nhìn Đàm Ma La Già dù một chút.
Kỵ sĩ mặt mũm mĩm chỉ vào mặt Dao Anh la to: “Ngươi là đồ gái Hán mặt dày vô sỉ, ngươi mà nhìn Vương của bọn ta thêm một chút, là sỉ nhục ngài ấy!”
Dao Anh nhìn đội đi đầu, lá cờ tuyết trắng to lớn phần phật bay trong gió, Đàm Ma La Già cưỡi ngựa đi đầu tiên, nàng chỉ có thể thấy một bóng lưng gầy gò.
Trong vạn quân, chỉ có mình ngài mặc một thân cà sa đỏ đậm, vóc người thanh tú lạnh lùng cô tuyệt.
Lại giống như thần.
Kỵ sĩ Trung quân chen chúc đi sau, nhìn bóng lưng ngài cuồng nhiệt mà thành kính.
Kỵ sĩ theo ánh mắt của Dao Anh nhìn sang, tức giận đến đỏ cả mặt, kêu to ngăn trước mặt nàng: “Cô người Hán kia, ai cho phép nhìn Vương của bọn ta! Một tí cũng không thể nhìn! Nhìn nữa ta móc mắt ngươi!”
Dao Anh giật khóe miệng, thu tầm mắt.
Kỵ sĩ bất mãn trừng nàng mấy lần, gọi binh sĩ đến: “Để họ đi theo đội chót! Không cho phép cô gái Hán này tới gần Vương một bước!”
Dao Anh quay nhìn lại sơn cốc. Nơi chân trời cát bụi cuồn cuộn, Hải Đô A Lăng mang binh Bắc Nhung rời đi.
Dao Anh và thân binh đi cuối đội, kỵ sĩ nô lệ đều là đàn ông, thấy nàng là một cô gái nhỏ người Hán xinh đẹp như hoa, tò mò dò xét, đối xử coi như hòa bình. Từ trong miệng họ, Dao Anh biết được nơi đây rất gần Sa Thành, Đàm Ma La Già mới vừa cùng Ngõa Hãn Khả Hãn ký minh ước ở Sa Thành, quân đội chân trước ra Sa Thành, trinh sát báo Hải Đô A Lăng chặn giết đội buôn Vương Đình, ngài lập tức dẫn binh chạy đến uy hiếp người Bắc Nhung.
Dao Anh sợ không thôi. Hải Đô A Lăng đi Sa Thành thì họ mới có cơ hội đào tẩu, kết quả trốn khỏi doanh địa lạc đường thế nào lại đâm đầu chạy tới Sa Thành!
Đúng là tự chui đầu vào lưới. May mà Đàm Ma La Già đã doạ lui Hải Đô A Lăng.
Quân Vương Đình đi rất nhanh, đến màn đêm buông xuống mới nghỉ ngơi dưới một vách đá dựng đứng hoang vu.
Trung quân vây quanh doanh trướng của Đàm Ma La Già, mấy nhánh quân ở vùng ngoài phục sức khác biệt rõ ràng.
Dao Anh chia bánh cứng đến nỗi có thể đập chết người cho những nô lệ khác.
Nô lệ vừa há to miệng gặm bánh, vừa kể, phần lớn kỵ sĩ Trung quân xuất thân là con em quý tộc ở Thánh Thành, trung với Vương thất, coi trọng vinh dự, chỉ nghe lệnh từ Quân chủ, là Cấm Vệ quân của Vương cung và Phật Tử. Mấy nhánh quân kia chia nhau trung với mấy đại quý tộc. Vương Đình có một vị Nhiếp Chính Vương quản lý việc triều chính thế tục cho Phật Tử, quan viên trong triều đều xuất thân từ đại quý tộc. Đàm Ma La Già dù là Quân chủ, đôi khi cũng sẽ bị quý tộc quản thúc.
Nói xong câu cuối, nô lệ tức giận không thôi: “Phật Tử là A Nan hóa thân, lòng mang từ bi, phổ độ chúng sinh, là người chân chính đại thiện, ngài muốn phóng thích mấy nô lệ bị bắt tới như bọn ta thành dân thường nhưng mấy quý tộc không đồng ý.”
Dao Anh cho nô lệ một đồng bạc. Người Trung Nguyên lấy tiền lụa giao dịch, ở Tây Vực thì lưu hành tiền vàng, ngân tệ và tơ lụa.
Nô lệ rất vui mừng, nhận lấy đồng bạc, nghĩ nghĩ, lại căn dặn Dao Anh: “Cô là người Hán, tốt nhất đợi ở chỗ Trung quân thôi, tuyệt đối không nên một mình ra ngoài. Kỵ sĩ Trung quân nghe theo lệnh Vương, sẽ không khi dễ gái Hán.”
Nói xong nhướng mày liếc mặt nàng. “Cô đẹp vậy, quý tộc Vương Đình mà thấy chắc chắn sẽ ưa thích, bộ hạ của họ muốn được khen thưởng tranh thủ có đánh nhau mà cướp mấy mỹ nhân của bộ lạc, cô phải cẩn thận.”
Mắt Dao Anh lộ vẻ kinh ngạc, nhỏ giọng hỏi: “Vương Đình coi người Hán là kẻ thù à?”
Thiên Sơn phía Nam, núi Côn Luân phía bắc, Thông Lĩnh phía Đông, một mảng lớn sa mạc và hoang nguyên mênh mông vô ngần, khí hậu nóng bức khô hạn, gần như là khu vực không người, chỉ có những con sông lớn nhỏ bắt nguồn từ Thiên Sơn chảy qua tạo thành từng tòa ốc đảo. Mỗi chỗ ốc đảo xinh đẹp hoang dại xuất hiện mấy tiểu quốc chật hẹp dọc bờ sông, ở giữa rải rác mấy thành bang bộ lạc, số dân ít nhất chỉ chừng một hai ngàn người, nhiều nhất chừng mấy chục vạn người.
Dao Anh đối với Vương thất Bắc Nhung còn hiểu mấy phần, còn với những bộ lạc Tây Vực lớn nhỏ này nàng hoàn toàn xa lạ, chỉ biết Vương Đình là một Phật quốc tín ngưỡng Phật đạo, không bao lâu bị hủy diệt dưới gót sắt của Bắc Nhung. Nếu không phải biết sơ cuộc đời của Đàm Ma La Già, nàng cũng sẽ không nhớ kỹ cái tên Vương Đình này.
Từ sau khi bị Hải Đô A Lăng bắt đến Tây Vực, nàng luôn bị cầm tù trong doanh địa, chung quanh đều là lính Bắc Nhung, không thể nào thám thính tình hình các nước Tây Vực. Nàng biết người Bắc Nhung coi tất cả người bộ tộc khác mà chúng chinh phục là dân đen, nhưng không biết ở Vương Đình cũng thế, mà nghe nô lệ ám chỉ, người Vương Đình đặc biệt có thù với người Hán.
Nô lệ cúi đầu lau đồng bạc, nói: “Quý tộc và dân chúng Vương Đình đều thù địch người Hán cả. Lúc trước, tụi tôi cũng là thần dân Vương triều Trung Nguyên, sau Trung Nguyên mặc kệ sống chết của tụi tôi, bộ tộc khác thống trị Tây Vực. Ở Tây Vực, người Hán thành dân đen hạ đẳng nhất.”
Dao Anh nhẹ chau mày. Không ngờ sau khi Tây Vực thất thủ, địa vị người Hán bị hạ thấp vậy.
Nói đến, Đàm Ma La Già cũng là quý tộc Vương Đình, ngài là Vương tử Vương thất nên mới có thể đồng thời đảm nhiệm làm chủ Vương Đình thế tục và tôn giáo. Nếu ở Vương Đình từ quý tộc đến bình dân đều thù hằn người Hán, trước mặt mọi người nàng la to mấy câu đó không chỉ không có chút tác dụng nào với ngài mà trái lại còn phạm vào cấm kỵ của Vương Đình.
Vì sao ngài lại giúp nàng nhỉ?
Chỉ có hai cách giải thích:
Một, Đàm Ma La Già muốn kết minh với Ngụy triều.
Hai, người xuất gia lòng dạ từ bi, thân là tăng nhân Đàm Ma La Già không đành lòng thấy nàng bị Hải Đô A Lăng bắt đi.
Dao Anh cân nhắc một hồi, cho dù là thế nào, chỉ cần tạm thời thoát khỏi ma trảo của Hải Đô A Lăng thì nàng có thêm cơ hội về Trung Nguyên. Từ Hà Lũng đến Tây Vực, dù nàng chạy trốn tới chỗ nào, Hải Đô A Lăng đều có thể bắt về, chỉ có trốn tới Vương Đình nàng mới có cơ hội xả hơi.
Đi một bước nhìn một bước vậy.
Đàm Ma La Già như đang vội vã chạy về Thánh Thành, hôm sau trời còn chưa sáng cả đội đã nhổ trại xuất phát, đến đêm cũng phải mãi đến lúc trời hoàn toàn tối mới dừng lại hạ trại.
Đến ngày thứ tư, kỵ binh Trung quân trực tiếp tách các đội khác, bỏ lại quân nhu, tiếp tục xuất phát. Cứ thế liên tiếp đuổi mấy ngày đường, trên đường chỉ gặp một tòa ốc đảo nhỏ, còn lại là sa mạc cát mênh mông, dãy núi sừng sững nơi chân trời càng vĩnh viễn xa xôi, tuyết trên đỉnh núi cả ngày mây mù che phủ.
Càng về phía Bắc, thời tiết ngày càng nóng, Dao Anh và thân binh không có quần áo thay, vẫn phải tiếp tục mặc áo nỉ thật dày.
Nàng dùng bạc đổi lấy thuốc từ kỵ binh Vương Đình không được, thương thế của Tạ Thanh chuyển biết không tốt, ban ngày nóng bức, ban đêm giá rét, vết thương của nàng ấy dần dần có dấu hiệu thối rữa. Dao Anh có phần nóng ruột.
Từ hôm Đàm Ma La Già cứu nàng cứ như quên nàng luôn, không cho người đến xác nhận thân phận của nàng, cũng không nói xử lý nàng thế nào.
Kỵ binh trung quân mỗi ngày mang thức ăn cho nàng, nàng yêu cầu gặp mặt Đàm Ma La Già, kỵ binh lập tức cười lạnh, khiển trách nàng si tâm vọng tưởng: “Sao Phật Tử phải gặp cô gái Hán như ngươi hả?”
Dao Anh phải nghĩ cách khác. Bạc trên người nàng đã sử dụng hết, mà Đàm Ma La Già không hề có ý để ý đến nàng. Xem ra hòa thượng kia không có dự định kết minh với Ngụy triều, chỉ vì lòng từ bi mới cứu nàng.
Dao Anh và thân binh dùng áo nỉ đổi với mấy nô lệ khác được ít thuốc, quần áo, chống chọi vài ngày.
Chạng vạng tối, mặt trời thiêu nửa bầu trời đến đỏ tươi, trên đường đi cả đội đột nhiên bùng nổ từng đợt hoan hô. Nô lệ chỉ vào vách núi cao ngất xa xa, nói cho Dao Anh: “Cô gái Hán à, đấy chính là Thánh Thành của bọn tôi!”
Dao Anh ngẩng đầu nhìn, vốn tưởng là một tòa đô thành hùng vĩ, trước mắt cũng chỉ có một mảng sườn núi đen cao ngất, dưới vách núi có con sông rộng chừng mấy chục trượng, từ phía Bắc chia dòng, uốn lượn quanh sườn núi một vòng, hình thành một tấm chắn thiên nhiên.
Nàng còn chưa kịp nhìn kỹ, có kỵ sĩ cưỡi ngựa vùn vụt từ đội phía trước xuống cuối hàng, lớn tiếng tuyên bố đội ngũ dừng lại nghỉ ngơi.
Dao Anh sửng sốt: Cả mấy ngày nhìn tốc độ di chuyển của cả đội xem ra Đàm Ma La Già rất vội về Thánh Thành, sao đến dưới chân rồi thì lại dừng nghỉ ngơi? Ngài ấy không sợ về đô thành không kịp trời tối sao?
Trung quân không hổ là đội quân trung thành với Vương thất nhất, không ai lên tiếng phàn nàn về lệnh của Đàm Ma La Già, dù Thánh Thành gần ngay trước mắt, dù lòng chỉ muốn về cả đội vẫn lập tức dừng lại.
Vạt nắng vàng óng ánh chiều thu cuối cùng còn sót lại, gió đêm quét đến, bỗng nhiên lạnh buông, Dao Anh và mấy thân binh lạnh run. Ngay lúc nàng nghĩ sẽ ngủ ngoài trời sa mạc đêm nay, thì bỗng cả đội lại bắt đầu di chuyển. Dao Anh và những người khác dưới chỉ dẫn của kỵ sĩ sờ soạng đi, thầm nghĩ: Thì ra Đàm Ma La Già muốn chờ trời tối mới vào thành, hẳn không muốn kinh động dân chúng đô thành nhỉ?
Nàng chưa từng tới Thánh Thành, không phân biệt được đường xá, cảm giác đi rất lâu, tiếp đến giống như đi qua một cầu tàu rất dài, rồi những bậc thang đá dốc đứng, leo lên rất lâu, đến đỉnh núi, lại tới một đoạn đường cát xuống dốc.
Xem ra Thánh Thành dặt trong một lòng chảo sông, sông ngòi bao quanh, tường ngoài thành là sườn núi… Đúng là một địa hình dễ thủ khó công, hèn gì Bắc Nhung từ đầu đến cuối đánh không xong tòa thành trì này.
Trong bóng tối, chỉ có ánh sáng từ đuốc trong tay kỵ binh thả ra ánh sáng mờ nhạt. Dao Anh không thấy rõ được gì, chỉ cảm giác đi đường dốc rất lâu, phía trước sắp có lối thông suốt, gió mạnh thổi cuốn, nghe vù vù.
Kỵ binh dẫn nàng và thân binh rời khỏi nhóm nô lệ, dẫn đến nhà lao bằng đá trông giữ.
Nhà lao bằng đá khô ráo lạnh lẽo, Dao Anh và thân binh trong bóng đêm mắt to mắt nhỏ nhìn nhau thật lâu, nói: “Dù sao cũng còn tốt hơn ngủ ở sa mạc ngoài trời, ngủ trước đi.”
Kỵ binh mặt mũm mĩm ra khỏi nhà đá, chạy về hoàng cung.
Đàm Ma La Già đã lặng lẽ trở về hoàng cung, trong đại điện đã lên đèn, mấy tăng nhân vội vã chạy tới, nói với Đàm Ma La Già một lúc rồi cáo lui.
Kỵ binh cung kính hành lễ với mấy vị sư. Một vị sư mắt nâu hỏi: “Bát Nhã, Phật Tử nói, lần này các người dẫn theo một vị công chúa Ngụy triều theo về à?”
Kỵ binh mặt mũm mĩm lập tức sưng sỉa đỏ thẫm, hừ mấy tiếng: “Vâng, cái cô người Hán mặt dày vô sỉ đó nói mình là Thất công chúa Ngụy triều, phong hào Văn Chiêu.”
Tăng nhân hơi biến sắc, hỏi: “Thất công chúa bây giờ ở đâu?”
Bát Nhã đáp: “Trong nhà lao ấy, nàng dám sỉ nhục Phật Tử, tội ác tày trời, mai tôi phải mời Nhiếp Chính Vương trị tội cô ta!”
Tăng nhân nhíu mày, chắp tay trước ngực: “Thất công chúa là người hữu duyên, không thể đối xử vô lễ.”
Bát Nhã kinh ngạc há to mồm.
Dao Anh vừa mới nằm ngủ, bên ngoài có tiếng bước chân dồn dập.
Mấy binh sĩ Vương Đình mở ra cửa nhà lao, cung kính nói: “Thất công chúa, mời theo chúng tôi, Pháp sư muốn gặp ngài.”
Dao Anh được mang ra lao thất, đi vào một góc thiền điện trong Vương cung. Một lão giả mặc cà sa thông vai đứng trước thềm đá, thấy nàng, chắp tay trước ngực: “Thất công chúa.”
Ánh mắt Dao Anh rơi trên khuôn mặt già nua của lão giả, run run, rốt cục nhận ra cặp mắt màu nâu ấy. Cảm xúc phun trào, thật lâu nàng không nói nên lời, từ từ lấy lại tinh thần, chắp tay trước ngực, cười cười, dù tóc tai bù xù, vẻ ngoài chật vật, trên người là y phục của nô lệ, phong thái vẫn ung dung: “Pháp sư, từ biệt ở Trường An, vẫn khỏe ạ?”
Đề Bà Mông Đạt nhìn người thiếu nữ trong chật vật vẫn khoan thai trước mắt, mỉm cười: “Nhờ phúc của công chúa, đã đạt tâm nguyện.”
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.