Chương 4: Bước đầu kế hoạch
nguyenhongthai3a1991
06/06/2014
Trong ngự thư phòng, thư phòng là cách gọi văn nhã theo kiểu hán, nếu theo
lối thuần việt của ta, liền gọi đây chính là phòng làm việc. Quang Toản
đến đây đọc tấu chương, song khi cầm lên đọc lại chẳng hiểu gì. Đây
không phải là do không biết chữ, đầu nhập vào thân thể Quang Toản, Quang Toản còn thừa hưởng trí nhớ của y. chỉ là do.
Tấu thư viết bằng chữ hán khó hiểu mà thôi. Câu chữ lủng cà lủng củng do dùng quá nhiều từ hán việt. Lúc đọc tấu thư bằng chữ nôm mặc dù có khá hơn chút ít nhưng câu chữ vẫn không khá hơn được bao nhiêu, cứ như đọc truyện covert chưa edit trên mạng và kiếp trước vậy.
Dùng một người hiện đại quen đọc với những câu chữ minh bạch sáng tỏ nghĩa, nay cầm quyển tấu chương còn khó hiểu hơn cả văn tế nghĩa sỹ cần giuộc. Cuối cùng Quang Toản dành phỉa để lại một đống bản tấu ở đó chờ nghĩ cách xử lý sau vậy
Xuyên việt cũng không phải là một lợi thế gì lắm cho cam ngoài chuyện biết trước một tí sự kiện lịch sử đây có nghĩa là không phải sự kiện gì cũng biết bởi vì không phải sự kiện nào cũng được lịch sử ghi lại hoặc ghi lại rõ ràng chi tiết, kiếp trước khi học lịch sử, hắn ngay cả nhứng mốc thời gian của các sự kiện chính còn chẳng nhớ được tí gì gọi là chính xác, việc gì cũng u u mê mê.
Vậy nên có thể nói ưu thế duy nhất của hắn cũng sụp đổ luôn rồi. Kể cả một tiến sĩ khoa học quân sự như hắn cũng phải chịu bó tay bó chân vậy. Ví như để một ông chủ nhà máy sản xuất nước giải khát vào giữa sa mạc vậy, chẳng thể làm được gì khi nền khoa học kĩ thuật của nhà tây sơn vào lúc này có thể nói là bằng không.
Ví như bây giờ quân đội đang phải tham gia chiến tranh, cái cần nhất lúc này đây là vũ khí, đơn giản như muốn làm một khẩu súng trường là cái mà hắn quen thuộc và tìm hiểu kĩ càng nhất, đúng vào chuyên ngành của hắn. Hắn thậm chí có thể đưa ra bản vẽ thiết kế các loại súng bộ binh, pháo binh, tiên tiến nhất thế giới đã được sản xuất ở kiếp trước song lại có thể sản xuất được hay không đó mới là vấn đề.
Vật liệu sắt thép không đạt yêu cầu, máy móc sản xuất gia công lại không có, chẳng lẽ bây giờ hắn đem bản vẽ súng trường cho thợ rèn bắt họ làm. Chuyện này đúng là quá khôi hài rồi.
Nếu như với điều kiện khoa học kỹ thật của nước Anh bây giờ thì đúng là có thể hoàn toàn sản xuất được một số loại súng trường nòng xoáy và thậm chí là pháo cối, song hắn là đang ở việt nam cuối thế kỷ 18 đấy. lúc này việc buôn bán trao đổi giữa phương đông và phương tây còn chưa phải là thời kỳ nhộn nhịp nhất.
Nhà Tây Sơn lại chẳng có ưu thế gì, cả nước làm gì có chiêc tàu nào đủ lớn có thể đủ lớn vượt đại dương. Thương mại do sự trọng nông khinh thương của nhiều thế kỉ nối tiếp nhau để lại, với lại chính bản tính của đa số người việt cũng không có tâm lý coi kinh thương làm mục tiêu, tầng lớp có tiền của như phú nông địa chủ lại càng an phận thà cất tiền để mốc trong nhà chứ không dám mạo hiểm đi buôn bán, có chăng cũng chỉ là buôn bán nhỏ lẻ, làm người bán lẻ cho các thương nhân Nhà Thanh ở các chợ làng.
Công nghiệp thì coi như bằng không rồi, chẳng cần bàn cãi, trong nước ngay cả đồng dùng để đúc tiền cũng thiếu mà phải đi pha kẽm rồi cho tư nhân tự đúc tiền thì thử hỏi còn phát triển nỗi gì. Kim loại gang thép để trong nước cũng vô cùng thiếu thốn, chủ yếu là từ các con đường do buôn lậu từ nhà Thanh qua.
Đó chỉ là một trong những dẫn chứng đơn giản mà thôi. Chưa kể đến hắn liệu có đủ tài chính để duy trì cái đất nước này qua vài lần thiên tai hay không nữa. Nếu như việc ứng dụng khoa học kĩ thuật tạm thời không khả thi vậy việc phát triển kinh tế thương mại cũng được đi đàng này muốn phát triển kinh tế thương mại cũng vô cùng khó khăn nha, thu nhập kinh tế của Nhà Tây Sơn lúc này cũng giống như với các triều đại trước, nông nghiệp gần như chiếm 99,9%, thuế khóa thu được hoàn toàn dựa vào việc thu thuế từ các mẫu ruộng năng suất cực kỳ thấp tính đơn vị bằng chén, mối mẫu ruộng trung bình hằng năm thu được khoảng 50-80 bát thóc, vậy mà đủ để vận hành cái bộ máy nhà nước này mấy năm nay thì thật đúng là quá may mắn rồi chứ đừng nói đến việc dư giả.
Vậy phải phát triển thương nghiệp nhưng người dân ta còn nghèo, nhà nào có vài nghìn lượng là đã giàu nhất huyện rồi, dân mình làm buôn bán chỉ từ vùng này qua vùng khác là đã quá xa rồi.
Vốn kinh doanh buôn bán nhỏ hẹp với gánh hàng rong ra chợ nếu lấy đó mà đánh thuế cao thì khác gì giết gà lấy trứng. Còn mở cửa biển giao thương với nước ngoài mà mình chỉ biết dựa vào các sản vật quý hiếm để trao đổi thì càng không khả thi, đầu tiên việc này không thường xuyên, cùng lắm chỉ làm lợi cho một bộ phận nhỏ thương nhân mà thôi, chủ yếu là thương nhân người hoa, sau lại xét đến trong nước làm gì có nhiều sản vật quý hiếm mà đem bán. Với lại khả năng trốn thuế là chắc chắn rồi, đất nước chẳng thu được lợi ích gì ở đây cả. Nghĩ đến chuyện vượt biển ra khơi buôn bán như người ta lại càng không khả thi.
Thương nhân nước ta lúc này đây vốn ít lấy đâu ra tiền mua thuyền lớn ra khơi, còn thuyền nhỏ lại chẳng phải làm mồi cho sóng biển, với lại dân ta còn nghèo, sức mua có hạn, việc buôn bán thường ngày chỉ dừng lại ở con gà quả trứng, mét vải, lít dầu…vv mà thôi. Đã thế kinh tế nước ta còn bị lũng đoạn. lượng vàng bạc trong dân rất ít đa số bị các thương nhân nhà Thanh dùng thủ đoạn như đúc tiền lậu kém chất lượng (bằng đồng pha kẽm), đưa sang ta tiêu thụ, chủ yếu là đổi ra vàng bạc, vật phẩm quý hiếm đưa trở về nước.
Có thể nói nền kinh tế lúc này bị nạn đúc tiền lậu làm cho nát bấy. Quan lại trong nước thời kì này đâu ai ý thức được sự tai hại của việc này. Vấn đề này lại càng không thể giải quyết ngày một ngày hai được, vì nếu không sử dụng tiền do tư nhân đúc thì nhà nước cũng đâu có đồng mà đúc tiền.
Với lại sau lưng các nơi đúc tiền này đâu thể thiếu bóng dáng của quan lại trong nước, hắn muốn nhanh chóng củng cố nhưng lại sợ nghẹn, nên nhớ hắn mặc dù là hoàng đế nhưng chỉ mới 12 tuổi nha. Quân quyền lại không nắm trong tay đấy. cơm cũng phải ăn từng miếng mà, bởi vậy việc gì cũng phải làm từ từ, không thể ‘duy tân bách nhật’ được. Thế nhưng trong lòng Quang Toản cũng có một chủ ý khác có thể thực hiện được.
Nói ra việc này cũng khá đơn giản, ở nhà Thanh lúc này dùng hai loại tiền chính là tiền đồng pha kẽm, tiền xu có đục lỗ ở giữa, và loại tiền bằng bạc đúc ra thành thỏi dạng hình thuyền hay còn gọi là nguyên bảo, cứ mỗi một nghìn đồng tiền xu như vậy tương đương một lượng bạc.
Bởi vậy Quang Toản định dùng chiêu gậy ông đập lưng ông, đúc tiền lậu đồng tiền xu của nhà Thanh, rồi cũng tương tự qua nhiều con đường đưa vào tiêu thụ ở nhà Thanh, thu gom vàng bạc lấy đó làm tiền tệ giao thương buôn bán với phương tây.
Việc giao thương buôn bán với người tây là điều hoàn toàn không thể tránh khỏi, thậm chí rất cần nữa là dằng khác. Vì do đặc thù giữa hai bên bởi vậy ta và tây không thể dùng tiền tệ của nhau, việc giao thương buôn bán giữa đôi bên lại cần dùng đến vàng bạc làm tiền tệ chung, đương nhiên phương tây vẫn thích dùng vàng hơn dùng bạc.
Quang Toản nghĩ mãi cũng chỉ có cách này là hiệu quả mà thôi, với lại do khoảng cách gần nên việc qua lại với nhà Thanh hoàn toàn có thể đi lại giữa đường bộ và đường biển rất thuận lợi. các thương nhân châu âu coi nhà Thanh như một thị trường béo bở, họ vượt đại dương bao la đến đay chỉ vì miếng bánh ngọt này, nay mình ở gần bên như vậy mà không tận dụng hưởng chút bánh ngon thì đúng là phí của trời.
HĐL quay sang hỏi lão Phúc
- việc đúc tiền do ai quản lý”.
- Dạ bẩm việc đúc tiền là do công bộ quản lý, trong đó có một doanh chuyên đúc tiền” lão phúc thưa
- Vậy ông cho gọi người của doanh đó đến đây đi, ta có chuyện muốn gặp” Quang Toản nói với lão
Chừng một giờ sau trong phòng làm việc của HĐL (đáng lý phải gọi là thư phòng, nhưng vì mình muốn đùng từ thuần việt nên gọi thư phòng là phòng làm việc) có thêm ba người đang khúm núm chờ nghe.
Quang Toản quan sát ba người khá lạ đang đứng trước mặt mình nhưng tai lại chăm chú nghe lão Phúc ở bên cạnh nhắc nhỏ lai lịch từng người, thực tế lão phúc cũng chỉ đọc và nhắc lại từ các bản ghi chép quan lại mà thôi chứ lão cũng mù tịt như hắn vậy.
Theo miêu tả, người đứng đầu trong ba người là chính là Phạm Công Thiệu hiện đang giữa chức công bộ ti thuộc bộ công, nhìn Phạm Công Thiệu khoảng độ tầm 45 tuổi trông khá bình thường nếu đứng chung cùng một đám người thì chẳng có gì nổi bật, thuộc tốp người chỉ nhìn một lần là quên, nếu nói điểm ấn tượng mà Phạm quang Thiệu để lại theo quan sát của Quang Toản chính là làm da ngăm đen, không giống như một ông quan.
Nhưng nếu như vậy mà khinh thường Thiệu thì coi chừng, 45 tuổi không dựa vào bất kì mối quan hệ nào, chỉ dựa vào công trạng của chính mình mà có thể leo lên đến chức công bộ ti ( tương đương với thứ trưởng thời hiện đại) nhất là lại được chính Quang Trung sắc phong thì lại không phải chỉ nhìn vào vẻ bề ngoài mà đánh gía hết được.
Nghe lão Phúc đọc lại một loạt công trạng của y thấy y là người khá rành rẽ trong việc khai thác quặng mỏ.
'Từ những ngày đầu khi chiếm thành quy nhơn, từ một thợ rèn binh khí lại am hiểu việc khai quặng, trong buổi đầu nổi đậy, vũ khí thiếu thốn thì đây đúng như là đưa than sưởi ấm vào ngày tuyết rơi, vì vậy ông nhanh chóng được trọng dụng. Khi Bùi Đắc Tuyên lộng quyền, Thiệu theo bản tính tránh tranh chấp quyền lực nên giữ trung lập không tham gia vào trong đó, ẩn nhẫn không lộ mặt nên mới tránh được sóng gió triều chính.'
Khai thác quặng mỏ là một trong những công việc quan trọng trong thời gian tới, nó ảnh hưởng đến kế hoạch phát triển kinh tế lâu dài, đang chưa biết kiếm được người may sao hôm nay lại gặp đúng Phạm Công Thiệu, Quang Toản đang rất cần một người như Thiệu, vừa có tài lại không tham luyến quyền lực đúng là một đối tượng tốt để bồi dưỡng tay chân.
Đứng phía sau công bộ ti Phạm Công Thiệu chắc là Thư lệnh sử chủ quản việc đúc tiền tên Hồ Đông, và người còn lại là thợ cả Hiếu Hậu rồi.
Chờ nghe Lão Phúc giới thiệu một lượt qua lai lịch của cả 3 người. Quang Toản nhìn về người đứng đầu tiên hỏi. “ Khanh là Phạm Công Thiệu”
- Hạ quan Phạm Công Thiệu xin ra mắt bệ hạ”
Ra hiệu cho Phạm Công Thiệu không cần đa lễ, rồi đưa mắt nhìn về phía hai người còn lại.
- Hạ quan Hồ Đồng xin ra mắt bệ hạ”
- Thảo dân Hiếu Hậu xin ra mắt bệ hạ”
Hồ Độc Lập như trước tỏ vẻ cứ tự nhiên không nên quá câu lệ.
- Hồ Đông! khanh là Thư lệnh chủ quản việc đúc tiền”
Hồ Đồng nghe vậy đầu tiên là nghĩ ‘ Không lẽ Hoàng Thượng định đúc tiền, Quang Trung thông bảo vừa phát hành nay lại đúc thêm tiền sao, việc này chưa nghe phông phanh gì hết’.
-Thần chủ quản việc này . Chưa biết ý của Quang Toản ra sao nên Hồ Đồng chỉ trả lời ngắn gọn mà không đưa ra thêm ý kiến gì.
- Vậy khanh xem có thể bắt theo đúc loại tiền này không.
Vừa nói Hồ Độc Lập vừa đưa ra một số loại tiền đồng của nhà Thanh như Ung Chính Thông bảo và Càn long thông bảo.
Hồ Đông cầm trong tay mấy đồng tiền Nhà Thanh quan sát một chút rồi đưa qua cho người kế bên mình là thợ cả Hiếu Hậu.
Hiếu Hậu sau một hồi quan sát kĩ loại tiền này liền nói
- Hạ dân thấy loại tiền này là loại tốt nhất của nhà Thanh đúc ra có tỉ lệ chênh lệch giữa đồng và kẽm là 7 3 tức là 7 phần là đồng 3 phần là kẽm. Loại này khá ít vì trên thực tế đa số tiền đang lưu thông chỉ có 6 phần đồng và 3 phần kẽm mà thôi, với lại mỏng và nhẹ lắm, chỉ bằng nửa tiền này thôi.
Hiếu Hậu không hổ là thợ cả có kinh nghiệm về việc đúc tiền đồng, Quang Toản khi nghe đến đây cũng không tự chủ được mà gật đầu tỏ ý tán đồng. bởi vì đây là loại tiền năm đó khi đi sứ nhà Thanh ban Thưởng mà có, sau khi về cũng cất trong cung đến hôm nay hắn mới cho người lấy ra. Loại tiền này khác hẳn với loại tiền hiện đang lưu hành ở trên thị trường
- còn việc đúc loại tiền này chăc nghĩ thần hoàn toàn có thể tạo ra loại khuôn đúc của đó. Năm xưa tiên đế trước khi đi sứ qua nhà Thanh cũng từng cho Hạ Dân đúc loại tiền này làm vật cống phẩm, dù không còn khuôn đúc nhưng làm lại thì chẳng tốn mấy công”
Thật không ngờ ngờ lại có chuyện này, thì ra trước đó Quang Trung đã cho người làm khuôn đúc tiền nhà Thanh để làm đồ cống phẩm cho chính nhà thanh, vậy chẳng phải có một lượng nhỏ tiền mà nhà thanh đang sử dụng có xuất xứ made in Đại Việt sao.
- vậy nếu đúc loại tiền này thì tốn kém như thế nào.
Quang Toản ra vẻ chăm chú khách sáo hỏi Hiếu Hậu.
Thấy vua dùng từ ngữ khiêm tốn đi hỏi, Hiếu Hậu cũng không có thời gian để ý mục đích của vua hỏi để làm gì, chỉ chăm chú dựa vào kinh nghiệm lâu năm trong nghề của mình mà trả lời thấu đáo
-Theo như kinh nghiệm, đúc một thiên loại tiền này theo giá ở trong dân cần mất khoảng một lượng bạc nếu tính cả tiền công đúng theo tỉ giá của nhà thanh một thiên tiền đồng bằng một lượng bạc, nhưng thường loại tiền lưu thông trong dân gian càng về sau càng kém chất lượng. Mỏng hơn nhẹ hơn tỉ lệ đồng cũng theo thời gian mà giảm xuống. bởi vậy nếu đúc loại tiền đó, một thiên tiền đồng chỉ mất độ khoảng 5 chỉ bạc mà thôi, tuyệt đối không hơn con số này….”.
Nghe bác thợ cả đúc tiền này giải thích một chặp Quang Toản được khai sáng nhiều điều. Nhà thanh từ thời Ung Chính do nhu cầu về số lượng tiền lưu thông tăng cao mà trữ lượng đồng và bạc ngày càng khan hiếm không đủ nhu cầu phục vụ tiêu dùng, Ung Chính bắt đầu cải cách tiền tệ quy định cho sử dụng tiền đồng pha kẽm theo một tỉ lệ nhất định. Cứ một ngàn đồng thì tương đương một lượng bạc cũng không phải là tự nhiên mà có, mà đã có sự tính toán do chi phí để đúc 1000 đồng trung bình hết khoảng trên dưới một lượng bạc mà ra. Còn ở đại việt do khan hiếm về đồng nhiều hơn nên một lượng bạc có giá trị tương đương 600 đồng.
Quang Toản nghe vậy trong tâm càng hiểu vì sao thương nhân người hoa lại đúc tiền lậu từ nhà Thanh vào Đại Nam tiêu thụ. Đây là do tình trạng khan hiếm tài nguyên mà ra cả. Vậy mà sau này trong sách địa lý nước ta lúc nào cũng viết ‘ nước ta có rừng vàng biển bạc đất đai phì nhiêu tài nguyên đa dạng và phong phú dồi dào’.
xin các bạn đóng góp cho mình một chút ý kiến, hoặc tài liệu có liên quan. mình xin cảm ơn.... cảm ơn các bạn đã ủng hộ mình trong thời gian qua.
Tấu thư viết bằng chữ hán khó hiểu mà thôi. Câu chữ lủng cà lủng củng do dùng quá nhiều từ hán việt. Lúc đọc tấu thư bằng chữ nôm mặc dù có khá hơn chút ít nhưng câu chữ vẫn không khá hơn được bao nhiêu, cứ như đọc truyện covert chưa edit trên mạng và kiếp trước vậy.
Dùng một người hiện đại quen đọc với những câu chữ minh bạch sáng tỏ nghĩa, nay cầm quyển tấu chương còn khó hiểu hơn cả văn tế nghĩa sỹ cần giuộc. Cuối cùng Quang Toản dành phỉa để lại một đống bản tấu ở đó chờ nghĩ cách xử lý sau vậy
Xuyên việt cũng không phải là một lợi thế gì lắm cho cam ngoài chuyện biết trước một tí sự kiện lịch sử đây có nghĩa là không phải sự kiện gì cũng biết bởi vì không phải sự kiện nào cũng được lịch sử ghi lại hoặc ghi lại rõ ràng chi tiết, kiếp trước khi học lịch sử, hắn ngay cả nhứng mốc thời gian của các sự kiện chính còn chẳng nhớ được tí gì gọi là chính xác, việc gì cũng u u mê mê.
Vậy nên có thể nói ưu thế duy nhất của hắn cũng sụp đổ luôn rồi. Kể cả một tiến sĩ khoa học quân sự như hắn cũng phải chịu bó tay bó chân vậy. Ví như để một ông chủ nhà máy sản xuất nước giải khát vào giữa sa mạc vậy, chẳng thể làm được gì khi nền khoa học kĩ thuật của nhà tây sơn vào lúc này có thể nói là bằng không.
Ví như bây giờ quân đội đang phải tham gia chiến tranh, cái cần nhất lúc này đây là vũ khí, đơn giản như muốn làm một khẩu súng trường là cái mà hắn quen thuộc và tìm hiểu kĩ càng nhất, đúng vào chuyên ngành của hắn. Hắn thậm chí có thể đưa ra bản vẽ thiết kế các loại súng bộ binh, pháo binh, tiên tiến nhất thế giới đã được sản xuất ở kiếp trước song lại có thể sản xuất được hay không đó mới là vấn đề.
Vật liệu sắt thép không đạt yêu cầu, máy móc sản xuất gia công lại không có, chẳng lẽ bây giờ hắn đem bản vẽ súng trường cho thợ rèn bắt họ làm. Chuyện này đúng là quá khôi hài rồi.
Nếu như với điều kiện khoa học kỹ thật của nước Anh bây giờ thì đúng là có thể hoàn toàn sản xuất được một số loại súng trường nòng xoáy và thậm chí là pháo cối, song hắn là đang ở việt nam cuối thế kỷ 18 đấy. lúc này việc buôn bán trao đổi giữa phương đông và phương tây còn chưa phải là thời kỳ nhộn nhịp nhất.
Nhà Tây Sơn lại chẳng có ưu thế gì, cả nước làm gì có chiêc tàu nào đủ lớn có thể đủ lớn vượt đại dương. Thương mại do sự trọng nông khinh thương của nhiều thế kỉ nối tiếp nhau để lại, với lại chính bản tính của đa số người việt cũng không có tâm lý coi kinh thương làm mục tiêu, tầng lớp có tiền của như phú nông địa chủ lại càng an phận thà cất tiền để mốc trong nhà chứ không dám mạo hiểm đi buôn bán, có chăng cũng chỉ là buôn bán nhỏ lẻ, làm người bán lẻ cho các thương nhân Nhà Thanh ở các chợ làng.
Công nghiệp thì coi như bằng không rồi, chẳng cần bàn cãi, trong nước ngay cả đồng dùng để đúc tiền cũng thiếu mà phải đi pha kẽm rồi cho tư nhân tự đúc tiền thì thử hỏi còn phát triển nỗi gì. Kim loại gang thép để trong nước cũng vô cùng thiếu thốn, chủ yếu là từ các con đường do buôn lậu từ nhà Thanh qua.
Đó chỉ là một trong những dẫn chứng đơn giản mà thôi. Chưa kể đến hắn liệu có đủ tài chính để duy trì cái đất nước này qua vài lần thiên tai hay không nữa. Nếu như việc ứng dụng khoa học kĩ thuật tạm thời không khả thi vậy việc phát triển kinh tế thương mại cũng được đi đàng này muốn phát triển kinh tế thương mại cũng vô cùng khó khăn nha, thu nhập kinh tế của Nhà Tây Sơn lúc này cũng giống như với các triều đại trước, nông nghiệp gần như chiếm 99,9%, thuế khóa thu được hoàn toàn dựa vào việc thu thuế từ các mẫu ruộng năng suất cực kỳ thấp tính đơn vị bằng chén, mối mẫu ruộng trung bình hằng năm thu được khoảng 50-80 bát thóc, vậy mà đủ để vận hành cái bộ máy nhà nước này mấy năm nay thì thật đúng là quá may mắn rồi chứ đừng nói đến việc dư giả.
Vậy phải phát triển thương nghiệp nhưng người dân ta còn nghèo, nhà nào có vài nghìn lượng là đã giàu nhất huyện rồi, dân mình làm buôn bán chỉ từ vùng này qua vùng khác là đã quá xa rồi.
Vốn kinh doanh buôn bán nhỏ hẹp với gánh hàng rong ra chợ nếu lấy đó mà đánh thuế cao thì khác gì giết gà lấy trứng. Còn mở cửa biển giao thương với nước ngoài mà mình chỉ biết dựa vào các sản vật quý hiếm để trao đổi thì càng không khả thi, đầu tiên việc này không thường xuyên, cùng lắm chỉ làm lợi cho một bộ phận nhỏ thương nhân mà thôi, chủ yếu là thương nhân người hoa, sau lại xét đến trong nước làm gì có nhiều sản vật quý hiếm mà đem bán. Với lại khả năng trốn thuế là chắc chắn rồi, đất nước chẳng thu được lợi ích gì ở đây cả. Nghĩ đến chuyện vượt biển ra khơi buôn bán như người ta lại càng không khả thi.
Thương nhân nước ta lúc này đây vốn ít lấy đâu ra tiền mua thuyền lớn ra khơi, còn thuyền nhỏ lại chẳng phải làm mồi cho sóng biển, với lại dân ta còn nghèo, sức mua có hạn, việc buôn bán thường ngày chỉ dừng lại ở con gà quả trứng, mét vải, lít dầu…vv mà thôi. Đã thế kinh tế nước ta còn bị lũng đoạn. lượng vàng bạc trong dân rất ít đa số bị các thương nhân nhà Thanh dùng thủ đoạn như đúc tiền lậu kém chất lượng (bằng đồng pha kẽm), đưa sang ta tiêu thụ, chủ yếu là đổi ra vàng bạc, vật phẩm quý hiếm đưa trở về nước.
Có thể nói nền kinh tế lúc này bị nạn đúc tiền lậu làm cho nát bấy. Quan lại trong nước thời kì này đâu ai ý thức được sự tai hại của việc này. Vấn đề này lại càng không thể giải quyết ngày một ngày hai được, vì nếu không sử dụng tiền do tư nhân đúc thì nhà nước cũng đâu có đồng mà đúc tiền.
Với lại sau lưng các nơi đúc tiền này đâu thể thiếu bóng dáng của quan lại trong nước, hắn muốn nhanh chóng củng cố nhưng lại sợ nghẹn, nên nhớ hắn mặc dù là hoàng đế nhưng chỉ mới 12 tuổi nha. Quân quyền lại không nắm trong tay đấy. cơm cũng phải ăn từng miếng mà, bởi vậy việc gì cũng phải làm từ từ, không thể ‘duy tân bách nhật’ được. Thế nhưng trong lòng Quang Toản cũng có một chủ ý khác có thể thực hiện được.
Nói ra việc này cũng khá đơn giản, ở nhà Thanh lúc này dùng hai loại tiền chính là tiền đồng pha kẽm, tiền xu có đục lỗ ở giữa, và loại tiền bằng bạc đúc ra thành thỏi dạng hình thuyền hay còn gọi là nguyên bảo, cứ mỗi một nghìn đồng tiền xu như vậy tương đương một lượng bạc.
Bởi vậy Quang Toản định dùng chiêu gậy ông đập lưng ông, đúc tiền lậu đồng tiền xu của nhà Thanh, rồi cũng tương tự qua nhiều con đường đưa vào tiêu thụ ở nhà Thanh, thu gom vàng bạc lấy đó làm tiền tệ giao thương buôn bán với phương tây.
Việc giao thương buôn bán với người tây là điều hoàn toàn không thể tránh khỏi, thậm chí rất cần nữa là dằng khác. Vì do đặc thù giữa hai bên bởi vậy ta và tây không thể dùng tiền tệ của nhau, việc giao thương buôn bán giữa đôi bên lại cần dùng đến vàng bạc làm tiền tệ chung, đương nhiên phương tây vẫn thích dùng vàng hơn dùng bạc.
Quang Toản nghĩ mãi cũng chỉ có cách này là hiệu quả mà thôi, với lại do khoảng cách gần nên việc qua lại với nhà Thanh hoàn toàn có thể đi lại giữa đường bộ và đường biển rất thuận lợi. các thương nhân châu âu coi nhà Thanh như một thị trường béo bở, họ vượt đại dương bao la đến đay chỉ vì miếng bánh ngọt này, nay mình ở gần bên như vậy mà không tận dụng hưởng chút bánh ngon thì đúng là phí của trời.
HĐL quay sang hỏi lão Phúc
- việc đúc tiền do ai quản lý”.
- Dạ bẩm việc đúc tiền là do công bộ quản lý, trong đó có một doanh chuyên đúc tiền” lão phúc thưa
- Vậy ông cho gọi người của doanh đó đến đây đi, ta có chuyện muốn gặp” Quang Toản nói với lão
Chừng một giờ sau trong phòng làm việc của HĐL (đáng lý phải gọi là thư phòng, nhưng vì mình muốn đùng từ thuần việt nên gọi thư phòng là phòng làm việc) có thêm ba người đang khúm núm chờ nghe.
Quang Toản quan sát ba người khá lạ đang đứng trước mặt mình nhưng tai lại chăm chú nghe lão Phúc ở bên cạnh nhắc nhỏ lai lịch từng người, thực tế lão phúc cũng chỉ đọc và nhắc lại từ các bản ghi chép quan lại mà thôi chứ lão cũng mù tịt như hắn vậy.
Theo miêu tả, người đứng đầu trong ba người là chính là Phạm Công Thiệu hiện đang giữa chức công bộ ti thuộc bộ công, nhìn Phạm Công Thiệu khoảng độ tầm 45 tuổi trông khá bình thường nếu đứng chung cùng một đám người thì chẳng có gì nổi bật, thuộc tốp người chỉ nhìn một lần là quên, nếu nói điểm ấn tượng mà Phạm quang Thiệu để lại theo quan sát của Quang Toản chính là làm da ngăm đen, không giống như một ông quan.
Nhưng nếu như vậy mà khinh thường Thiệu thì coi chừng, 45 tuổi không dựa vào bất kì mối quan hệ nào, chỉ dựa vào công trạng của chính mình mà có thể leo lên đến chức công bộ ti ( tương đương với thứ trưởng thời hiện đại) nhất là lại được chính Quang Trung sắc phong thì lại không phải chỉ nhìn vào vẻ bề ngoài mà đánh gía hết được.
Nghe lão Phúc đọc lại một loạt công trạng của y thấy y là người khá rành rẽ trong việc khai thác quặng mỏ.
'Từ những ngày đầu khi chiếm thành quy nhơn, từ một thợ rèn binh khí lại am hiểu việc khai quặng, trong buổi đầu nổi đậy, vũ khí thiếu thốn thì đây đúng như là đưa than sưởi ấm vào ngày tuyết rơi, vì vậy ông nhanh chóng được trọng dụng. Khi Bùi Đắc Tuyên lộng quyền, Thiệu theo bản tính tránh tranh chấp quyền lực nên giữ trung lập không tham gia vào trong đó, ẩn nhẫn không lộ mặt nên mới tránh được sóng gió triều chính.'
Khai thác quặng mỏ là một trong những công việc quan trọng trong thời gian tới, nó ảnh hưởng đến kế hoạch phát triển kinh tế lâu dài, đang chưa biết kiếm được người may sao hôm nay lại gặp đúng Phạm Công Thiệu, Quang Toản đang rất cần một người như Thiệu, vừa có tài lại không tham luyến quyền lực đúng là một đối tượng tốt để bồi dưỡng tay chân.
Đứng phía sau công bộ ti Phạm Công Thiệu chắc là Thư lệnh sử chủ quản việc đúc tiền tên Hồ Đông, và người còn lại là thợ cả Hiếu Hậu rồi.
Chờ nghe Lão Phúc giới thiệu một lượt qua lai lịch của cả 3 người. Quang Toản nhìn về người đứng đầu tiên hỏi. “ Khanh là Phạm Công Thiệu”
- Hạ quan Phạm Công Thiệu xin ra mắt bệ hạ”
Ra hiệu cho Phạm Công Thiệu không cần đa lễ, rồi đưa mắt nhìn về phía hai người còn lại.
- Hạ quan Hồ Đồng xin ra mắt bệ hạ”
- Thảo dân Hiếu Hậu xin ra mắt bệ hạ”
Hồ Độc Lập như trước tỏ vẻ cứ tự nhiên không nên quá câu lệ.
- Hồ Đông! khanh là Thư lệnh chủ quản việc đúc tiền”
Hồ Đồng nghe vậy đầu tiên là nghĩ ‘ Không lẽ Hoàng Thượng định đúc tiền, Quang Trung thông bảo vừa phát hành nay lại đúc thêm tiền sao, việc này chưa nghe phông phanh gì hết’.
-Thần chủ quản việc này . Chưa biết ý của Quang Toản ra sao nên Hồ Đồng chỉ trả lời ngắn gọn mà không đưa ra thêm ý kiến gì.
- Vậy khanh xem có thể bắt theo đúc loại tiền này không.
Vừa nói Hồ Độc Lập vừa đưa ra một số loại tiền đồng của nhà Thanh như Ung Chính Thông bảo và Càn long thông bảo.
Hồ Đông cầm trong tay mấy đồng tiền Nhà Thanh quan sát một chút rồi đưa qua cho người kế bên mình là thợ cả Hiếu Hậu.
Hiếu Hậu sau một hồi quan sát kĩ loại tiền này liền nói
- Hạ dân thấy loại tiền này là loại tốt nhất của nhà Thanh đúc ra có tỉ lệ chênh lệch giữa đồng và kẽm là 7 3 tức là 7 phần là đồng 3 phần là kẽm. Loại này khá ít vì trên thực tế đa số tiền đang lưu thông chỉ có 6 phần đồng và 3 phần kẽm mà thôi, với lại mỏng và nhẹ lắm, chỉ bằng nửa tiền này thôi.
Hiếu Hậu không hổ là thợ cả có kinh nghiệm về việc đúc tiền đồng, Quang Toản khi nghe đến đây cũng không tự chủ được mà gật đầu tỏ ý tán đồng. bởi vì đây là loại tiền năm đó khi đi sứ nhà Thanh ban Thưởng mà có, sau khi về cũng cất trong cung đến hôm nay hắn mới cho người lấy ra. Loại tiền này khác hẳn với loại tiền hiện đang lưu hành ở trên thị trường
- còn việc đúc loại tiền này chăc nghĩ thần hoàn toàn có thể tạo ra loại khuôn đúc của đó. Năm xưa tiên đế trước khi đi sứ qua nhà Thanh cũng từng cho Hạ Dân đúc loại tiền này làm vật cống phẩm, dù không còn khuôn đúc nhưng làm lại thì chẳng tốn mấy công”
Thật không ngờ ngờ lại có chuyện này, thì ra trước đó Quang Trung đã cho người làm khuôn đúc tiền nhà Thanh để làm đồ cống phẩm cho chính nhà thanh, vậy chẳng phải có một lượng nhỏ tiền mà nhà thanh đang sử dụng có xuất xứ made in Đại Việt sao.
- vậy nếu đúc loại tiền này thì tốn kém như thế nào.
Quang Toản ra vẻ chăm chú khách sáo hỏi Hiếu Hậu.
Thấy vua dùng từ ngữ khiêm tốn đi hỏi, Hiếu Hậu cũng không có thời gian để ý mục đích của vua hỏi để làm gì, chỉ chăm chú dựa vào kinh nghiệm lâu năm trong nghề của mình mà trả lời thấu đáo
-Theo như kinh nghiệm, đúc một thiên loại tiền này theo giá ở trong dân cần mất khoảng một lượng bạc nếu tính cả tiền công đúng theo tỉ giá của nhà thanh một thiên tiền đồng bằng một lượng bạc, nhưng thường loại tiền lưu thông trong dân gian càng về sau càng kém chất lượng. Mỏng hơn nhẹ hơn tỉ lệ đồng cũng theo thời gian mà giảm xuống. bởi vậy nếu đúc loại tiền đó, một thiên tiền đồng chỉ mất độ khoảng 5 chỉ bạc mà thôi, tuyệt đối không hơn con số này….”.
Nghe bác thợ cả đúc tiền này giải thích một chặp Quang Toản được khai sáng nhiều điều. Nhà thanh từ thời Ung Chính do nhu cầu về số lượng tiền lưu thông tăng cao mà trữ lượng đồng và bạc ngày càng khan hiếm không đủ nhu cầu phục vụ tiêu dùng, Ung Chính bắt đầu cải cách tiền tệ quy định cho sử dụng tiền đồng pha kẽm theo một tỉ lệ nhất định. Cứ một ngàn đồng thì tương đương một lượng bạc cũng không phải là tự nhiên mà có, mà đã có sự tính toán do chi phí để đúc 1000 đồng trung bình hết khoảng trên dưới một lượng bạc mà ra. Còn ở đại việt do khan hiếm về đồng nhiều hơn nên một lượng bạc có giá trị tương đương 600 đồng.
Quang Toản nghe vậy trong tâm càng hiểu vì sao thương nhân người hoa lại đúc tiền lậu từ nhà Thanh vào Đại Nam tiêu thụ. Đây là do tình trạng khan hiếm tài nguyên mà ra cả. Vậy mà sau này trong sách địa lý nước ta lúc nào cũng viết ‘ nước ta có rừng vàng biển bạc đất đai phì nhiêu tài nguyên đa dạng và phong phú dồi dào’.
xin các bạn đóng góp cho mình một chút ý kiến, hoặc tài liệu có liên quan. mình xin cảm ơn.... cảm ơn các bạn đã ủng hộ mình trong thời gian qua.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.