Chương 59: Ngôi Nhà Bỏ Trống
Arthur Conan Doyle
03/11/2021
Vào mùa xuân năm 1894, cả thành phố London đều bàn tán xôn xao về vụ ám sát tử tước Ronald Adair trẻ tuổi. Vụ ám sát xẩy ra trong một bối cảnh khác thường và đầy bí ẩn. Đông đảo công úng đều biết đến những tình tiết của vụ án, theo cá đánh giá ủ quan của cảnh sát. Nhưng vì lý do nào đó, phần lớn những tình tiết phải giấu kín. Mười năm trôi qua, hiện giờ tôi mới có khả năng bổ sung thêm những mắt xí còn thiếu trong uỗi sự kiện đầy bí ẩn kia. Bản thân vụ án đã là một điều lý thú; nhưng những hậu quả không lường trước được đối với tôi còn quan trọng hơn gấp nghìn lần. Nhưng hậu quả này, làm o tôi bàng hoàng, ấn động hơn tất cả những gì mà tôi từng gặp trong đời mình; dù cuộc đời của tôi nếu không có sự kiện ấy thì cũng đã ứng kiến nhiều cuộc trinh thám ly kỳ.
Thậm í ngay bây giờ, sau nhiều năm, tôi vẫn còn cảm giác run sợ, khi nghĩ lại câu uyện xa xưa, và tôi vẫn bị một nỗi hoài nghi, thảng thốt, vui buồn lẫn lộn bao trùm và xâm iếm toàn bộ tâm hồn. Tôi mong các bạn độc giả, vẫn thường quan tâm tới những mẩu uyện của tôi về những việc làm và những suy luận của một con người tuyệt vời hãy tha thứ o tôi, vì việc tôi không ia sẻ với các bạn điều khám phá của mình. Tôi tự đặt o mình một nghĩa vụ là phải báo o các bạn tất cả sự thật, một khi tôi không còn bị ràng buộc bởi uyện cấm đoán xuất phát từ ính ý muốn của bạn tôi. Câu uyện ngăn cấm được phát ra cũng vừa mới đây, ngày mồng ba tháng trước.
Trong thời gian tôi và Sherlock Holmes còn gắn bó mật thiết với nhau tôi đã quan tâm một cá sâu sắc tới những uyện hình sự. Kể từ khi anh biệt tăm mất tí, tôi trở thành kẻ thường xuyên theo dõi trên các báo í tất cả các vụ án ưa được khám phá. Đội lúc, để thỏa mãn tính hiếu kỳ, tôi đã có ý định tham gia vào uyện phá án, tôi sử dụng những phương pháp, thủ thuật như của bạn tôi thường làm, mặc dù con lâu tôi mới đạt được trình độ ấy.
Tuy thế, không có vụ án nào lại làm o tôi hồi hộp, lo âu bằng câu uyện tang thương của Ronald Adair . Trong số tài liệu điều tra, có đoạn nói thế này: "Vụ ám sát đã được tính toán từ trước và do một người hoặc một nhóm người lạ thực hiện". Sau khi đọc xong lời nhận xét như vậy, tôi càng thấy thấm thía hơn bao giờ hết rằng cái ết của Sherlock Holmes đã gây o Tổ quốc úng ta một tổn thất to lớn biết nhường nào. Trong uyện này, nhất thiết phải có những tình tiết làm o Sherlock Holmes ú ý; và như vậy hoạt động của cảnh sát sẽ được bổ sung đầy đủ và đạt kết quả hơn nếu như họ có sự giúp sức của bộ óc thông minh và đôi mắt quan sát tinh tế của nhà thám tử sành sỏi nhất âu Âu này.
Sau khi đi thăm bệnh nhân cả ngày về, tôi lại tập trung vào những suy nghĩ làm tôi nhức đầu, đó là câu uyện của Adair , nhưng tôi không thể nào tìm ra được một lời giải đáp thỏa đáng. Tôi đánh bạo lặp lại những gì mà mọi người đã biết, tôi cũng muốn nêu lên những dữ kiện theo dạng đã được thông báo o công úng biết, sau khi kết thúc cuộc điều tra.
Tử tước Ronald Adair là con trai thứ hai của bá tước Maynooth - tổng đốc toàn quyền một khu vực thuộc địa của người Anh ở Úc. Người mẹ của Adair đã từ Úc đến nước Anh để giải phẫu mắt, cắt bỏ cái vây mọc ở mắt; và đã cùng cậu con trai Adair và cô con gái Hilda sống ở Park Lane, số nhà 427. àng thanh niên thường giao du với những người tốt, và hình như không có đị thủ nào; cũng ưa làm gì đáng ê trá. Đã có thời àng đã đính hôn với tiểu thư Edith Woodley ở Carstairs, nhưng trước khi xảy ra vụ án mạng vài tháng thì cả ú rể lẫn cô dâu đã quyết định ia tay nhau: không ai hối hận về uyện này cả. Nói ung, cuộc đời của àng thanh niên trai trẻ ỉ bó hẹp trong quan hệ gia đình và trong giới thượng lưu. Tính tình anh ta điềm đạm, thói quen và sở thí không có gì xấu. Thế nhưng một cõi ết bất ngờ nhất và kỳ lạ nhất đã ợp đi một nhà quý tộc trẻ vô tư uyện đó xảy ra vào khoảng 22 giờ đến 23 giờ 20 phút ngày 30 tháng 3 năm 1894.
Ronald Adair là một người thí cờ bạc, nhưng ưa bao giờ tỏ ra vượt quá giới hạn. Anh ta là thành viên của ba câu lạc bộ - Baldwin, Cavendish và Bagatellele. Người ta đã điều tra và xác định rằng, trong ngày bị giết, sau bữa cơm iều, Ronald đã ơi một ván bài ở câu lạc bộ Bagatelle. Thậm í, trước bữa cơm iều anh ta cũng có ơi ở đấy rồi. Những người cùng ơi với anh ta là: ông Murray; ngài John Hardy và đại tá Moran. Adair bị thua mất 5 bảng. Gia tài của anh ta khá lớn, nên việc thua bạc như vậy không làm o anh ta bận tâm út nào. Anh ta hầu như ngày nào cũng ơi và thường là được bạc.
Những lời khai của các nhân ứng đã làm sáng tỏ thêm một uyện. Là khoảng một tháng rưỡi trước khi bị giết, Adair cùng ơi với ngài đại tá Moran, một buổi tối đã ăn của ông Godfrey Milner và huân tước Balmoral 420 bảng. Đấy là tất cả những gì biết được về những tuần cuối cùng cửa đời anh ta.
Vào buổi tối bất hạnh đó, anh ta từ câu lạc bộ trở về nhà đúng 22 giờ đêm. Mẹ và em gái anh ta đi vắng: họ đi thăm người quen chưa về. Người hầu gái thề rằng, cô ta đã nghe thấy anh ta bước vào phòng của mình. Căn phòng ấy nằm trên tầng hai, cửa sổ hướng ra đường phố, anh dùng làm phòng tiếp khá. Trước khi àng quý tộc trẻ tuổi về, người hầu gái vừa nhóm lò sưởi xong, lò sưởi vẫn còn bốc khói nghi ngút, cô ta phải mở toang các cửa sổ để thoáng khói. Trước 23 giờ 20 phút không hề nghe một động tĩnh nào phát ra từ căn phòng của bá tước. Lúc ấy bà Maynooth và cô con con gái về đến nhà. Bà Maynooth muốn ghé lại ỗ cậu con trai để úc cậu ngủ ngon, nhưng cánh cửa phòng đã được khóa ặt bên trong; mặc o người ta gào thét, đập cửa, không một ai lên tiếng. Thấy vậy người mẹ hô hoán lên, bắt người nhà phải phá cửa. àng thanh niên xấu số đang nằm gục dưới sàn nhà, ngay cạnh iếc bàn. Đầu anh ta bị một viên đạn súng lục bắn thủng, trông thật khủng khiếp. Nhưng rất kỳ lạ là trong phòng không thấy một thứ vũ khí nào hết. Trên bàn có 2 tờ ngân phiếu trị giá 10 bảng và 17 bảng với 10 pence[1], bằng bạc có, bằng vàng có. Những đồng bạc được xếp thành từng ồng nhỏ với từng loại giá trị khác nhau. Bên cạnh những đồng bạc là một tờ giấy có ghi những con số và ngang hàng với những con số đó là tên những người bạn cùng câu lạc bộ của Adair . Từ dữ kiện này có thể rút ra một nhận xét: Trước khi ết, àng trai đã tính toán những ván thua, thắng bạc của mình.
Sau khi nghiên cứu kĩ các dữ kiện, công việc càng trở nên rối rắm, mù mịt hơn. Một điều làm úng ta khó hiểu: vì sao àng trai phải khóa ặt cửa từ bên trong? Thực ra kẻ giết người cũng có thể khóa cửa, rồi trèo qua cửa số để tẩu thoát. Nhưng dưới những cánh cửa sổ là những bồn hoa hồng lại không hề bị dẫm nát; hơn nữa từ cửa sổ đến mặt đất phải đến 20 feet. Không một cây hoa nào bị giầy xéo, làm nát. Ngay cả lớp đất giữa nhà và con đường cũng không hề có một dấu vết nào. Rõ ràng là ính Adair đã tự tay khóa cửa. Nhưng sao cái ết lại đột ngột dội vào đầu anh ta? Cứ giả thiết rằng tên sát nhân đã bắn qua cửa sổ, thì đó phải là một phát súng rất đặc biệt, vì ỉ bằng một viên đạn súng lục đã giết ết àng trai ngay lập tức với một khoảng cá quá xa như vậy thì đâu phải uyện dễ dàng? Hơn nữa, Park Lane là một đường phố nhộn nhịp, đông người qua lại; cá nhà 100 yards có một trạm xe ngựa. Không một người nào nghe thấy tiếng súng nổ. Vậy mà, có một người bị ám hại nằm xuống ỉ với một viên đạn súng lục bắn xuyên thủng đầu? Xét theo vết thương thì ính viên đạn kia là nguyên nhân gây ra tử vong. Bối cảnh vụ án đầy bí ẩn ở Park Lane là như vậy! Một vụ giết người có ẩn số đầy bí hiểm bởi thiếu hoàn toàn những nguyên do xác đáng, logic. Anh bạn trẻ Adair không hề có đị thủ, còn tiền nong cũng như giấy tờ quý giá khác thì không hề suy suyển.
Suốt ngày tôi suy đi, nghĩ lại trong óc tất cả những dữ kiện ấy, với tham vọng cố đặt ra o nó một giả thiết có phần nào phù hợp và đủ sức thuyết phục.
Tôi cố gắng tìm ra "điểm ít khả năng bị bác bỏ nhất" điều mà người bạn xấu số của tôi luôn luôn lấy làm kim ỉ nam o các công cuộc khám phá. Tôi thành thật thú nhận mình hoàn toàn không đạt được ý đồ đó. Buổi iều tôi thơ thẩn, lang thang trong công viên: khoảng 18 giờ, bỗng dưng tôi đi đến góc phố giữa đường Park Lane và đường Oxford không hề có ý định trước. Tôi thấy một nhóm người vô công rồi nghề đang túm năm tụm ba, nhòm ngó vào một iếc cửa sổ ngôi nhà đã xẩy ra vụ án mạng đầy bí ẩn. Một gã đàn ông cao, gầy đeo kính râm to, - tôi nghĩ ắc là một thám tử giả dạng, - đang thử nêu một giả thiết về án mạng, những người tò mò bao quanh ông ta ật cứng, ăm ú lắng nghe. Tôi cũng định xán lại, nhưng khi nghe loáng thoáng những nhận định, phán đoán ngu xuẩn, tôi có cảm giác kinh tởm và thối lui. Vô tình tôi đụng phải một ông già gù lưng đứng phía sau, mấy cuốn sá mà ông ta đang kẹp ná bị rơi ra. Trong lúc cúi xuống nhặt giúp mấy cuốn sá o ông lão, tôi ợt đọc thấy một tên sá "Sự ra đời và việc sùng bái cỏ cây". Tôi thoáng nghĩ: thật là một con mọt sá tội
nghiệp; ắc vì để kiếm sống, hoặc vì yêu thí nghệ thuật, nên đã cố sưu tầm những cuốn sá quý hiếm. Tôi định nói vài câu xin lỗi o sự vô tình của mình đã làm rơi những vật mà chủ nhân của nó nâng niu, trân trọng; nhưng ông già càu nhàu, tức tối và khinh khỉnh quay đi. ỉ một loáng cái lưng gù gù và bộ râu quai nón bạc trắng của ông đã lẩn vào đám đông.
Những quan sát ở ngôi nhà 427 phố Park Lane đã giúp tôi được út ít trong công việc khám phá lời giải đáp mà tôi quan tâm. Ngôi nhà được ngăn cá với đường phố bằng một bức tường thấp, trên tường có ăng dây thép. Dây thép cao chưa đến 5 feet. Mọi người dễ dàng lọt được vào vườn. Nhưng trèo lên cửa số thì khó thực hiện được, vì không có ống thoát nước, không hề có một cái gờ nào nhô ra, o nên ngay cả một nhà thể thao điêu luyện nhất cũng không thể trèo lên theo bức tường được.
Càng thấy mơ hồ hơn, tôi quay về phố Kensington để về nhà. Tôi bước vào phòng mình ưa đầy 5 phút thì người hầu gái đã báo với tôi là có một người khá muốn gặp tôi. Tôi thật sửng sốt và ngạc nhiên, vì đó không phải ai xa lạ, mà ính là ông già gù gù, thí sưu tầm sá quý tôi gặp lúc iều. Bộ tóc bạc phau, trùm gần kín khuôn mặt nhăn nheo, nhọn hoắt của ông. Ông kẹp ở ná có đến một tá những cuốn sá loại quý:
- ắc ngài rất ngạc nhiên vì sự có mặt của tôi? - Ông ta hỏi với giọng the thé rất kì dị.
Tôi thú nhận là ông ta đoán đúng.
- Ngài thấy không, tôi là một người lị sự. Tôi lững thững đi theo con đường mà ngài đi, tôi ợt thấy ngài bước vào ngôi nhà này. Tôi tự nhủ với mình là cần ghé lại gặp con người lị thiệp kia để xin lỗi. Nếu tôi có thô thiển lố bị với ngài, thì thú thật tôi cũng không có ý định làm o ngài bực dọc. Tôi mang ơn ngài rất nhiều, vì ngài đã hạ cố cúi nhặt giúp tôi những cuốn sá.
- uyện nhỏ nhặt ấy, không nên bận tâm làm gì, - Tôi đáp. - Ngài o phép tôi được hỏi, làm sao ngài biết được tôi là người như thế nào?
- Tôi cũng xin mạnh dạn nói với ngài rằng là hàng xóm láng giềng với ngài. Tiệm sá bé nhỏ của tôi nằm ở góc phố Chur, tôi rất hân hạnh nếu được ngài ghé lại ơi. Có lẽ ngài cũng là người ham mê sách? Tôi xin giới thiệu với ngài đây là cuốn "Những giống im ở Anh", "Catullus", "Cuộc iến tranh thần thánh". Ngài mua đi, tôi sẵn sàng bán giá rẻ. Năm tập này, vừa vặn đủ lấp kín chỗ trống ở ngăn thứ hai tủ sách của ngài. Tôi thấy hình như giá sá của ngài không được đẹp mắt lắm thì phải, thưa ngài?
Tôi ngoái cổ để nhìn lại giá sá, khi quay lại thì tôi không thể tin ở mắt mình được nữa: Sherlock Holmes đang đứng ngay bên iếc bàn của tôi và đang cười. Tôi khuỵu xuống vài giây. Tôi ngơ ngác nhìn anh, và sau đó thì, có lẽ đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, tôi đã bị ngất.
Tôi ỉ mang máng nhớ là có một đám mây xám đang nhập nhoà trước mắt. Khi đám mây tan biến đi, tôi thấy cổ áo của mình bị mở phanh ra và tôi ngửi thấy thoang thoảng mùi rượu brandy. Holmes vẫn đứng đấy trên tay cầm ai rượu, đầu hơi cúi xuống.
- Watson thân mến! - Một giọng nói khá thân thuộc cất lên, - nghìn lần tớ xin lỗi cậu. Tớ không ngờ cái ấy lại gây o cậu một xúc động mạnh như vậy.
Tôi nắm lấy tay anh.
- Holmes! - Tôi thốt lên. - Có phải thật cậu không? ẳng lẽ cậu vẫn còn sống ư? Không thể nào tin được, làm sao cậu vượt lên được cái thác nước khủng khiếp ấy?
- Hãy đợi út đã. - Anh nói. - Không biết cậu đã bình tĩnh lại ưa? Rõ ràng sự xuất hiện quả đường đột của tớ đã làm o cậu oáng váng.
- Tớ đã bình tĩnh lại rồi. Nhưng thú thật với cậu, tớ không còn tin vào mắt mình nữa. Thật hú vía! ẳng lẽ ính cậu đấy ư? Không phải ai khác đang đứng trong phòng tớ đấy ứ?
Tôi lại nắm lấy cánh tay anh và bóp nắn cánh tay gân guốc.
- Đúng rồi, ính là cậu rồi, không còn nghi ngờ gì nữa, - Tôi tiếp. - Bạn yêu mến của tôi ơi! Tớ hạnh phúc biết bao khi được gặp lại cậu! Hãy ngồi xuống cái đã, và hãy kể vắn tắt o tớ nghe, bằng cá nào cậu thoát khỏi vực thẳm kia?
Holmes ngồi xuống đối diện với tôi, với dáng điệu quen thuộc như xưa, anh lấy thuốc ra âm hút. Anh vẫn đang mặc iếc áo đã sờn với dạng của người bán sá cũ, nhưng những thứ dùng để cải trang như bím tóc bạc, túi đựng sá cũ... đã nằm trên bàn. Tôi có cảm giác anh gầy hơn xưa, cái nhìn của anh có vẻ sắc sảo hơn. Khuôn mặt trắng xanh nhợt nhạt của anh ứng tỏ trong thời gian qua, anh đã nếm nhiều khổ cực, đã trải qua một ặng đường đời khắc khổ không có lợi o sức khoẻ.
- Watson, được duỗi thẳng người ra thật khoan khoái! - Anh lên tiếng, - Một người cao lớn như tớ, không dễ dàng gì mà rút đi một foot; và bắt buộc giữ tình trạng đó suốt mấy tiếng đồng hồ. Bây giờ, úng ta sẽ đề cập đến những vấn đề cực kỳ nghiêm trọng... Tớ muốn cầu cứu sự giúp đỡ của cậu, nếu cậu không phản đối. Cả hai úng mình sẽ phải thức trắng suốt đêm nay với một công việc nặng nhọc đầy nguy hiểm. Tốt nhất, nên để uyện cuộc phiêu lưu của tớ đến lúc công việc kia giải quyết xong xuôi.
- Nhưng tớ đang áy ruột, áy gan vì tò mò. Holmes, tớ nóng lòng được cậu kể ngay bây giờ.
- Cậu có đồng ý đi với mình đêm nay không?
- Đi bất cứ nơi đâu, bất kỳ lúc nào, tùy cậu.
- Hoàn toàn như ngày xưa. úng ta vẫn còn kịp giải lao o thư thả trước lúc lên đường... Nào, bây giờ tớ bắt đầu câu uyện về cái thác nước. Nguyên nhân đơn giản làm o tớ lên được khỏi vực thẳm, là tớ ưa hề bị rơi xuống đó.
- Cậu không bị rơi xuống vực à!
- Đúng thế, Watson ạ, không hề bị rơi. Thế nhưng, mẩu thư tớ viết o cậu hoàn toàn là sự thật. Khi bóng dáng độc ác của giáo sư Moriarty xuất hiện trên lối mòn ật hẹp, ặn ngăn con đường giải thoát duy nhất của tớ, lúc ấy nghĩ, mọi uyện đối với tớ như vậy đã ấm dứt. Trong đôi mắt màu nâu của hắn, tớ đọc được quyết định không thể nào lay uyển nổi về số phận của tớ. Tớ trao đổi với hắn vài ba câu, hắn lị sự o phép tớ được viết một mẩu tin ngắn ngủi, cậu đã nhận được bức thư. Tớ để lá thư cùng hộp thuốc và cây gậy lại, còn tự mình đi theo lối mòn tiến về phía trước. Moriarty đi theo sau tớ từng bước một. Khi đến đoạn cuối cùng của lối mòn, tớ dừng lại, bởi có đi tiếp cũng không còn đường nào hết. Hắn không thèm lấy ra một thứ vũ khí gì, vội lao vào tớ và hắn dùng đôi tay dài ngoằng của mình ộp lấy tớ. Hắn biết, cuộc đời của hắn đã tới số, hắn ỉ cần thực hiện một việc là trả thù tớ. Không thèm buông ra, tớ với hắn giằng co ngay bên mép vực thẳm. Nhưng, nhờ tớ biết vài miếng võ Nhật Bản, khoản này đã giúp tớ không ít trong công việc, tớ kịp thoát ra khỏi người hắn. Hắn thét lên nghe thật man rợ, loạng oạng vài giây, hai tay ới với trong không trung. Mặc dù hắn cố gắng hết sức, nhưng vẫn không thể giữ nổi thăng bằng và ngã xuống. Đứng trên bờ vực thẳm, tớ nhìn theo rất lâu xem hắn bị rơi xuống vực như thế nào? Tớ thấy hắn va vào gờ của một tảng đá và ìm nghỉm dưới nước.
Tôi lắng nghe Holmes kể với tâm trạng hồi hộp vô cùng. Còn anh vẫn thản nhiên, vừa kể vừa thả khói thuốc một cá khoan thai.
- Nhưng còn các vết ân! - Tôi thốt lên. - ính tớ, bằng mắt mình đã trông thấy rõ rành rành hai dãy bước ân cùng đi lên theo lối mòn, dấu quay lại không hề có.
- uyện ấy xảy ra như thế này. Trong giây phút, khi giáo sư Moriarty rơi xuống vực; tớ hiểu rằng, vận may đã đến với tớ một cá không ngờ. Tớ biết rằng không phải ỉ có một mình Moriarty đang tìm cá giết tớ. Ít nhất phải có ba tên đồng bọn, cái ết của thủ lĩnh sẽ đốt áy trong tim bọn nó một sự khao khát trả thù. Đó là một lũ người cực kỳ nguy hiểm. Trong tương lai, sẽ có một tên nào đó trong bọn úng thực hiện mưu đồ làm hại tớ. Nếu úng nghĩ rằng tớ đã ết, thì úng sẽ hành động trắng trợn hơn, ít đề phòng và dễ dàng để lộ tung tí, lúc ấy, sớm hay muộn rồi tớ cũng có ngày tiêu diệt được úng nó. ỉ đến lúc này, tớ mới thông báo o mọi người biết tớ vẫn còn sống! Bộ não của con người làm việc rất nhanh, Moriarty ưa kịp xuống tới đáy của vực nước Reienba tớ đã nghĩ xong kế hoạ đối phó rồi.
Tớ đứng lên và quan sát bức tường đá sừng sững ở sau lưng. Trong đoạn miêu tả về cái ết tang thương của tớ, mà tớ rất thú vị đọc sau đó vài tháng, cậu o rằng: bức tường đá hoàn toàn dựng đứng và trơn tuột. Không phải đúng hết như vậy. Trên tảng đá có vài ỗ gờ nhô ra, có thể đặt ân, bám vào được. Ngoài ra dựa vào các dấu hiệu, tớ tin sẽ có một cái hốc nào đấy ở trên cao... Mỏm đá khá cao, rõ ràng không thể nào trèo lên đỉnh được, và cũng không thể đi theo lối mòn ẩm ướt mà không để lại dấu vết. Thực ra tớ cũng có thể mang giày o gót lộn ngược cũng được, như tớ đã từng làm trong những trường hợp tương tự; nhưng ba dấu giày cùng đi theo một hướng, không thể tránh khỏi sự nghi ngờ rằng cố ý đánh lừa được. Vì vậy tốt nhất cứ liều leo lên cao. Điều này không phải là dễ, thác nước đang réo ầm ĩ phía dưới. Tớ có cảm giác tiếng nói của Moriarty đang gọi tớ từ đáy vực thẳm vọng đến bên tai. Đôi lúc, khi một nắm cỏ nằm lại trên bàn tay, hoặc bàn ân bị trượt theo cái gờ đá ẩm ướt láng lầy, tớ nghĩ rằng mọi việc đã kết thúc. Nhưng tớ vẫn tiếp tục bò lên, cuối cùng tớ bò lên ỗ nứt lở khá sâu mọc đầy rêu xanh. Ở đây, tớ có thề nằm duỗi tay, duỗi ân mà không sợ ai nhìn thấy, tớ nghỉ một lát o sảng khoái. Tớ đã nằm ở đấy, trong lúc đó, cậu và những người được cậu mời tới, đã hoài công dựng lên bức tranh về cái ết của tớ.
Cuối cùng, sau khi đã rút ra kết luận hoàn toàn sai lầm về những diễn biến đã xẩy ra, cậu quay về khá sạn, còn tớ nằm lại một mình. Tớ hình dung cuộc phiêu lưu của tớ đã kết thúc, nhưng một việc khá bất ngờ đã xảy ra, ứng tỏ là có một uyện không kém phần ly kỳ đang ờ đợi tớ. Có một hòn đá to vỡ ra ợt bay vèo qua đầu tớ, rơi xuống lối mòn rồi rơi xuống vực. Lúc đầu tớ cứ nghĩ đó là một uyện tình cờ. Nhưng, sau khi nhìn lên trên, tớ trông thấy một cái đầu của người đàn ông in trên nền trời đang tắt dần nắng. Đúng giây phút ấy, một hòn đá khác bay tới ngay sát cái hõm mà tớ đang nằm, cá đầu tớ ỉ vài in. Tình thế đối với tớ đã quá rõ. Moriarty không phải ỉ đến một mình. Tên đồng bọn của hắn cũng khá nguy hiểm, thằng này ắc đứng cảnh giới, khi thằng Moriarty xông vào tấn công tớ. Từ xa, hắn đã ứng kiến cái ết của thủ lĩnh mình và thấy kẻ thù của hắn đã thoát nạn. Sau khi ờ đợi một lúc, hắn ạy vòng lên đỉnh bằng hướng khác và mưu toan thực hiện việc mà Moriarty đã không thành công.
Watson, tớ suy tính uyện này rất nhanh. Sau khi nhìn quanh, tớ lại trông thấy bộ mặt dữ tợn của hắn và hiểu rằng, hắn là kẻ đã ném thêm viên đá nữa. Tớ quyết định bò xuống đến lối mòn. Tớ không biết, trong trạng thái bình thường, tớ có làm nổi uyện ấy hay không? Tuột xuống khó gấp cả nghìn lần lúc leo lên. Nhưng không hơi đâu mà đắn đo, suy tính. Khi đó tớ đang treo người, hai tay bám vào mép của khe đá. Một viên đá thứ ba bay vù qua đầu tớ. Tụt được nửa đường, bỗng tớ trượt ân một cái, nhưng dẫu sao, tớ cũng đã đến lối mòn. Người bị rá bươm, thấm đầy máu, ba ân bốn cẳng tớ cắm đầu cắm cổ ạy. Trong đêm tối tớ ạy xuyên rừng, xuyên núi 10 dặm và một tuần sau tớ có mặt ở Florence và tin ắc rằng: không một người nào trên đời này biết được số phận của tớ.
ỉ một người biết được bí mật, đó là anh trai tớ - Mycroft. Nghìn lần xin lỗi cậu, Watson. Nhưng tớ bắt buộc phải làm như vậy, cứ để mọi người tưởng tớ ết thật là được rồi. Nếu không, không bao giờ cậu có thể viết lên những điều khẳng định ắc ắn về cái ết của tớ, nếu cậu tin rằng đó là sự thật. Trong ba năm ấy, đôi lần tớ định viết thư o cậu, nhưng mỗi lần như vậy, tớ đành phải dằn lòng, vì sợ rằng mối mật thiết quá ư ặt chẽ giữa cậu và tớ sẽ dễ làm o cậu có sơ suất, và sẽ lộ điều bí mật của tớ. Vì sao iều nay tớ phải tránh mặt cậu, khi cậu làm rơi sá của tớ? Tớ thật liều lĩnh, nếu như cậu kêu lên vì kinh ngạc hoặc vì vui mừng, mọi người sẽ nhìn ằm ằm vào tớ uyện đó sẽ dẫn đến hậu quả không thể cứu ữa được. Còn phải nói o anh Mycroft, thì cực ẳng đã tớ mới thú thật mà thôi, bởi tớ rất cần một món tiền để tiêu xài.
Công việc ở London giải quyết rất tệ, tệ hơn là tớ mong đợi. Sau khi ra tòa, trong băng của Moriarty, còn hai tên đang nằm ngoài vòng pháp luật. Đó là hai tên cướp rất nguy hiểm, cả hai thằng đều là kẻ tử thù của tớ. Vì thế, tớ đã đi u du trong hai năm ở vùng Tibet, và đến thăm thành phố Lhassa, thậm í còn bỏ cả mấy ngày để đến thăm các Lạt ma. Có lẽ cậu đã đọc bài báo nói về vụ ấn động lớn của một người Na Uy, mang tên Sigerson, nhưng cậu làm sao có thể nghĩ rằng, bài ấy là của bạn mình. Tớ còn đi thăm vài nơi ở vương quốc Arập, uyến đi thăm do tớ đề nghị lên ngài Bộ trưởng Ngoại giao.
Sau khi quay về âu Âu, tớ ở lại thăm nước Pháp vài tháng, ở đây tớ tham dự vào công cuộc nghiên cứu, phân tí những ất lấy từ một vùng than đá. Việc này tớ làm ở một phòng thí nghiệm thuộc miền nam nước Pháp - Montpellier, sau khi kết thúc tốt đẹp thí nghiệm và biết được hiện nay ở London ỉ còn sống sót một kẻ thù không đội trời ung của tớ, tớ suy tính uyện trở về. Lúc đó tớ nghe tin vụ ám sát đầy bí ẩn ở phố Park Lane và nóng lòng ra đi. Tớ cũng đã nghiên cứu kỹ vụ này rồi. Đáp số của vụ án mạng sẽ giúp tớ thực hiện ý định của riêng mình. Thế là, tớ vội vã quay về London. Tự tớ đến phố Baker, và đã làm o bà Hudson bị một phen hoảng sợ, lên cơn thần kinh. Anh trai tớ vẫn trông nom căn phòng và mọi giấy tờ vẫn nguyên vẹn như lúc tớ ra đi. Ngày hôm nay, lúc 14 giờ, tớ đã ghé vào căn phòng cũ của mình, ngồi vào iếc ghế bành thân quen, và ỉ mong ước một điều duy nhất là làm sao o người bạn cũ Watson của mình được cùng ngồi ung dung trong một iếc ghế bành khác mà anh ta vẫn thường ngồi.
Câu uyện kinh hoàng tôi đã được nghe trong buổi tối tháng tư là như vậy đấy. Tôi khó lòng tin đó là sự thật. Mặc dù ính mắt tôi đã trông thấy thân hình cao, gầy và khuôn mặt thông minh, cương nghị của người bạn mà tôi nghĩ rằng, không bao giờ tôi còn gặp lại. Không biết bằng cá nào, Holmes đã rõ cái ết của vợ tôi, sự thương cảm được thể hiện trong giọng nói của anh:
- Làm việc! Đó là cá tốt nhất để khuây khỏa nỗi đau khổ, Watson yêu quý - Anh động viên an ủi tôi - Khuya hôm nay, có công việc đang ờ úng mình. Người có diễm phúc hoàn thành sứ mệnh một cá tốt đẹp có thể mạnh dạn tuyên bố rằng, anh ta đã sống một cuộc đời không phải là uổng phí, vô í.
Tôi đã mất công để thuyết phục anh giải thí o rõ.
- Đến sáng mai, cậu sẽ được nghe, được thấy đầy đủ, - Anh đáp. - Còn bây giờ không cần nói tới úng ta còn khối chuyện để tâm sự. Cậu biết đấy, đã ba năm rồi úng mình không được nhìn thấy nhau. Hy vọng úng ta sẽ tâm sự đến 21 giờ 30, rồi sẽ lên đường, đón nhận một cuộc phiêu lưu đầy thú vị trong một ngôi nhà bỏ trống.
Như ngày xưa, khi tôi ngồi cùng với anh trong một cỗ xe đúng giờ đã định, tôi sờ soạng khẩu súng ngắn nằm trong túi, tim đập liên hồi vì hồi hộp đón ờ những sự kiện ưa lường trước được.
Holmes thì trầm ngâm, đăm chiêu suy nghĩ. Khi ánh sáng của ngọn đèn đường hắt vào khuôn mặt khắc khổ của anh, tôi thấy anh khẽ ngước đôi lông mày, còn cặp môi mỏng thì mím ặt, ứng tỏ anh đang suy nghĩ rất căng thẳng. Tôi không biết, úng tôi đang săn đuổi con thú ranh mãnh nào đây trong khu rừng rậm của thế giới tội phạm tại London. Nhưng tất cả dáng điệu của một người thợ săn đầy lão luyện như báo o tôi rằng, cuộc trinh thám này sẽ là cuộc trinh thám nguy hiểm nhất, ác liệt nhất. Nụ cười mỉa mai thường xuyên xuất hiện trên gương mặt đăm iêu của bạn tôi không hứa hẹn một điều gì tốt đẹp o con thú úng tôi đang săn đuổi.
Tôi đinh ninh rằng, thế nào úng tôi cũng ghé về phố Baker, nhưng Holmes lại ra lệnh cho người xà í dừng xe ở góc phố Cavendish. Trong lúc bước xuống xe, anh cẩn thận quan sát, nhìn soi mói vào từng ngóc ngá; kiểm lại xem có cái đuôi nào bám sau không. úng tôi bước vào một cái ngá trông rất lạ. Holmes luôn luôn làm o tôi thán phục về sự hiểu biết tường tận khá nhiều góc hẻm ở London. Anh ung dung tự tin bước vào một góc tối đầy uồng ngựa, đi qua những cái sân hôi hám, nhớp nhúa; tôi không thể tin sự tồn tại có mặt của những thứ ấy. Cuối cùng úng tôi lọt vào một cái hẻm ật hẹp, có hai dãy nhà cũ kỹ, tối tăm ở hai bên. Đường này dẫn úng tôi ra phố Manester, rồi đến phố Blandford. Holmes nhanh nhẹn nhảy sang một lối hẹp khác, đi qua một hộc cửa bằng gỗ, lọt vào cái sân vắng vẻ. Anh dùng ìa khóa mở cửa sau một ngôi nhà. úng tôi bước vào, ngay lập tức anh khóa trái cửa lại.
Dù trời rất tối, nhưng tôi hiểu ngay là ngôi nhà này không có người ở. Nền nhà không lót thảm, kêu lên răng rác; lạo xạo dưới phân, tôi vô ý ạm phải những bức tường, nhiều tờ giấy dán tường bị bong ra treo trên đầu úng tôi. Những ngón tay gầy, lạnh lẽo của Holmes bóp ặt bàn tay tôi, anh dẫn tôi theo một hành lang dài, cuối cùng trước mắt úng tôi hiện ra một cái vòm cửa sổ nửa cong, nửa thẳng đứng kín đáo, nằm trên ỗ cửa ra vào. Bỗng dưng Holmes quay về bên phải, và úng tôi lọt vào một căn phòng hình vuông rộng lớn nhưng bị bỏ hoang; các góc, xó hoàn toàn tối om, nhưng ở giữa phòng thì được lờ mờ ánh sáng ngọn đèn đường. Cạnh cửa sổ không có một ngọn đèn nào, còn tấm kính trên cửa sổ thì bị một lớp bụi dày bao phủ. úng tôi nhận ra nhau khá ật vật.
Holmes đặt tay lên vai tôi, và cúi sát môi vào tai tôi.
- Cậu có biết úng ta đang ở đâu không? - Anh thầm thì hỏi.
- Dường như trong phố Baker, - Tôi vừa nhìn vào tấm kính mờ đục vừa nói.
- Đúng như vậy, úng ta đang đứng ở nhà Camden, đối diện với căn buồng trước kia của úng mình.
- úng mình đến đây làm gì?
- Đến đây để nhìn hình dạng tuyệt vời của ngôi nhà kia. Không biết có nên tiến sát vào cánh cửa sổ không? Nhưng hãy thật thận trọng, đừng để ai phát hiện ra cậu. Cậu thử nhìn vào cửa sổ của buồng cũ úng mình đi, nơi đó đang mở ra những cuộc trinh thám đầy thú vị. Cậu thử xem, tớ đã mất khả năng làm cậu kinh ngạc ưa, sau ba năm trời phiêu bạt?
Tôi nhẹ nhàng, cẩn tắc tiến về phía trước, nhìn vào khung cửa sổ vô cùng thân thuộc... Bỗng nhiên tôi thốt lên một tiếng kinh ngạc, bức rèm được buông xuống, đèn sáng rực rỡ, có một người ngồi trên iếc ghế bành kê ở giữa phòng, hắt bóng rất rõ lên nền sáng của cánh cửa sổ. Từ đầu, đến đôi vai rộng, o đến khuôn mặt xương xương, cái đầu hơi xoay nghiêng, tạo nên một dáng dấp mờ ảo, những bà cụ rất thí được vẽ kiểu ấy... Không còn gì nghi ngờ, đấy ính là một bản sao hoàn hảo ính xác con người Sherlock Holmes. Tôi kinh ngạc đến nỗi phải đưa tay lên sờ vào người anh để khẳng định anh vẫn đứng bên cạnh tôi.
Holmes cười không thành tiếng.
- Thế nào? - Anh hỏi.
- uyện này khó tin được! - Tôi thì thầm nói.
- Dường như, năm tháng không cướp đi khả năng sáng tạo của mình, còn thói quen cũng không vì thế bị khô mòn, - Anh nói.
Tôi cũng bắt gặp trong giọng nói anh một niềm vui sướng, kiêu hãnh của nhà họa sỹ đang thưởng thức công trình tuyệt tác của mình.
- Cậu thấy có thật giống mình không?
- Tớ nghĩ rằng, đây ính là cậu đang ngồi. Vinh dự này thuộc về ngài Meunier[2] ở Grenoble. Ông ta đã tạc tượng tớ trong vòng có vài ba ngày. Nó được làm bằng sáp. Những phần còn lại tớ tự sắp đặt khi tớ quay về hẻm Baker sáng sớm hôm nay.
- Nhưng cậu làm thế nhằm mục đí gì?
- Tớ có nguyên nhân ính đáng. Tớ muốn một số người nào đó cứ đinh ninh là tớ đang ngồi ở nhà, trong khi ấy, thực tế tớ lại ngồi ở một nơi khác.
- Có nghĩa là cậu nghĩ rằng, có một bọn nào đó đang rình mò căn hộ ư?
- Tớ biết, có kẻ đang rình mò căn nhà.
- Kẻ đó là ai?
- Những kẻ thù của tớ. Cái băng đầy hấp dẫn mà tên thủ lĩnh đã vĩnh viễn nằm ôn vùi dưới đáy thác nước Reienba. Cậu biết đấy, ỉ có bọn nó mới biết ính xác là tớ vẫn còn sống. úng nó tin ắc, dù sớm hay muộn rồi tớ cũng quay về căn phòng cũ của mình. Tụi nó ưa ịu từ bỏ ý định theo dõi rình rập để hại tớ. Sáng nay úng đã thấy tớ quay về nhà.
- Làm sao cậu đoán được điều đó?
- Trong lúc nhìn qua cửa sổ, tớ nhận ra một thằng thám thính của úng. Tên của hắn là Parker, uyên ăn cướp, giết người, đồng thời còn là một nhà tổ ức thiên tài. Tớ ú ý đến thằng này ít thôi. Một thằng khác làm cho tớ ú ý nhiều hơn, đáng gờm hơn là thằng núp sau lưng tên Parker. Đó là kẻ thân cận nhất của tay Moriarty. ính hắn đã dùng đá ném tới tấp vào tớ từ ngọn núi đá. Hắn là một tên tội phạm ranh ma, xảo quyệt nhất, nguy hiểm nhất hiện nay ở London. ính hắn đêm nay sẽ đi săn tớ, và hắn đâu ngờ rằng, úng ta lại săn hắn.
Kế hoạ của Holmes dần dần làm o tôi sáng tỏ. Từ ỗ ẩn nấp thuận tiện này, úng tôi có khả năng theo dõi tất cả những ai có ý đồ theo dõi úng tôi. Dáng dấp bóng người thấp thoáng bên cửa sổ là một miếng mồi, còn úng tôi là những tay thợ săn.
Vai kề vai, úng tôi đứng lặng im trong bóng tối ăm ú ngắm nhìn những bóng người lượn qua lượn lại. Đêm ấy, thời tiết rất xấu, trời trở lạnh tê tái, gió thổi dọc theo dãy phố một cá dữ dội, gay gắt. Người đi lại ngoài đường khá đông, hầu như ai bước đi cũng rất vội, họ đều cố kéo cơm áo hoặc mũ e kín mũi o đỡ lạnh.
Tôi có cảm giác một người nào đó cứ đi qua đi lại sát ngôi nhà, đặc biệt có hai người làm o tôi nghi ngờ hơn cả. Họ làm như thể tránh gió, nên bước vào một cánh cổng cá úng tôi không xa. Tôi định bụng sẽ báo o Holmes biết, nhưng anh trả lời tôi với một giọng bực bội rồi tiếp tục theo dõi động tĩnh ngoài đường. Thỉnh thoảng anh đổi ân cho đỡ mỏi hoặc lấy ngón tay gõ gõ vào bức tường. Tôi thấy anh có vẻ không vui, hình như sự việc xảy ra không hoàn toàn đúng như kế hoạ. Trời uyển về khuya, đường phố tĩnh mị vắng vẻ Holmes đi lại trong phòng, anh bồn ồn lo lắng, hồi hộp. Vừa máy miệng định nói một điều gì nhưng tôi lại một lần nữa sửng sốt, kinh ngạc.
- Bức tượng cử động kìa! - Tôi thốt lên.
Rất rõ, bóng hình kia quay về phía úng tôi, không phải bên hông, mà là quay hẳn lưng lại.
Năm tháng không làm cho tính cách của Holmes thay đổi út nào, anh vẫn là người điềm đạm, nhẫn nại, luôn thể hiện trí thông minh, đầu óc suy luận sắc sảo, nhìn nhận rất tinh tế.
- Phải làm như thật, - Anh đáp. - ẳng lẽ tớ lại là một kẻ ngu ngốc không có bộ não hay sao? Đặt trong phòng một hình nộm bất động không xua được ruồi thì quả là rất lộ liễu, phải ăng nhờ nó mà có thể đánh lừa được những kẻ ranh ma nhất âu Âu ư? úng mình thu lu trong xó xỉnh này đã hai giờ đồng hồ, trong lúc đó bà Hudson đã thay đổi vị trí bức tượng tám lần. Cứ mười lăm phút một lần, với điều kiện là bà sẽ không để in bóng mình o người ngoài trông thấy.
Bỗng nhiên anh im lặng, nín thở. Trong cảnh nhá nhem, tôi trông thấy anh dướn cổ lên trong tư thế ờ đợi rất căng thẳng.
Đường phố đã hoàn toàn vắng ngắt. Có lẽ, hai tên đứng nấp trong hẻm vẫn còn. Nhưng tôi không tài nào nhìn thấy úng. Xung quanh tôi một màn đen và sự im ắng bao trùm. Trong bóng đêm, màu vàng của cánh cửa sổ được iếu sáng rực cùng với bóng của hình người ngồi giữa phòng, càng nổi bật rõ nét. Không gian im ắng đáng sợ, tôi nghe thấy iếng thở khò khè của Sherlock, ắc anh rất hồi hộp o kế hoạ của mình. Bỗng nhiên anh ấn sâu tôi vào góc căn phòng, ỗ tối nhất, và lấy tay bịt miệng tôi lại, bằng cá này anh muốn nhủ tôi phải tuyệt đối im lặng. Lúc này, tôi thấy những ngón tay của anh run run. ưa bao giờ tôi được ứng kiến anh bị kí động, căng thẳng đến tột độ như vậy. Đường phố vẫn tạnh ngắt, yên ả không có gì xẩy ra hết. Bỗng nhiên, tôi nghe thấy một âm thanh khe khẽ, rì rầm vang đến tai tôi, âm thanh mà đôi tai cực nhậy của Holmes đã nghe thấy trước. Tiếng động không phải phát ra từ phố Baker, mà ính trong ngôi nhà úng tôi đang nấp. Cửa ra vào được mở ra, rồi đóng lại. Có tiếng bước ân rón rén vang lên khe khẽ ngoài hành lang. Người đi cố giữ o bước ân khỏi kêu to, nhưng trong căn nhà hoang này nó vẫn dội lên những âm thanh khá to.
Holmes đứng dựa sát vào tường, tôi cũng làm theo và nắm ặt khẩu súng ngắn, căng mắt nhìn vào bóng tối. Tôi nhận ra lờ mờ bóng dáng một người đàn ông, bóng đen hơi sẫm hơn so với tấm khung hình ữ nhật của cánh cửa đã mở. Hắn đứng im ở đó ừng một phút, rồi nhẩy xuống và rón rén tiến về phía trước. Mọi cử ỉ hành động của hắn đều chứa đựng một mối đe dọa. Thân hình dữ tợn của hắn đứng cá úng tôi có ba bước. Tôi lên gân cốt, uẩn bị đối phó với cuộc tấn công. Nhưng hắn không hề biết có úng tôi ở đây.
Hắn đi ngang qua ỗ úng tôi đứng, suýt nữa thì ạm phải nhau. Hắn rón rén tiến đến gần cửa sổ rất thận trọng không hề một tiếng động, hắn nhấc cánh cửa lên cao nửa foot. Khi hắn trèo lên để mở chốt cửa, ánh sáng đèn đường hắt qua tấm kính bẩn thỉu soi rõ bộ mặt hắn, một bộ mặt dễ làm o úng ta kí động cao độ. Cặp mắt áy lên một cá man rợ, nét mặt biến dạng kinh khủng.
Hắn không còn trẻ trung gì nữa, có một iếc mũi quặp như mỏ diều hâu, trán hói khá cao, bộ râu bạc trắng rất dài. Mũ của hắn được kéo xuống tận gáy, iếc áo bành tô hở cúc, để hở ra một khoảng trắng trước ngực - iếc yếm hồ trắng. Bộ mặt rám nắng, đen đủi hằn đầy những vết nhăn sâu hoắm. Trong tay hắn cầm một vật đại loại như cây batoong, nhưng khi hắn đặt xuống nền nhà, nó phát ra một tiếng kêu "keng" của kim khí. Hắn lôi từ trong túi ra một vật gì đó khá lớn: hắn loay hoay với đồ ấy ừng vài phút; o đến khi một âm thanh kim khí phát ra, có lẽ, hắn kéo một iếc lò xo hay cái then ốt. Ngồi bằng đầu gối, hắn tiến về phía trước và với tất cả sức nặng của bản thân, hắn đè lên một đòn bẩy. úng tôi nghe thấy một âm thanh dài dữ dội, có phần kêu to hơn lúc trước. Hắn đứng thẳng người lên, tôi trông thấy trong tay hắn không phải cái gì xa lạ mà là khẩu súng săn, có cái báng kỳ lạ, xấu xí. Hắn mở khoá, kéo cò bấm và đặt một vật gì vào bên trong xong cài ốt lại. Hắn quỳ xuống, đặt đầu nòng súng lên bệ cửa sổ, bộ râu dài của hắn ấm sát tận nòng, cặp mắt hắn long lanh dữ tợn. Hắn đặt súng tỳ vào vai và thở ra khoan khoái: tấm bia đang đứng trước mặt hắn - tấm bia kỳ lạ, bóng dáng đen đen soi rõ trên nền sáng. Hắn lưỡng lự một lát sau đó đặt tay lên cò súng, một tiếng "vù" là lạ phát ra, tiếp theo là tiếng kính vỡ loảng xoảng.
Ngay lúc đó Holmes bỗng nhảy bổ ra như một con hổ, anh ộp ngay lưng kẻ vừa bắn và quật hắn ta úp mặt xuống sàn. Nhưng một giây sau, kẻ bị quật ngã đã đứng dậy được, với một sức mạnh không ngờ hắn tóm lấy cổ Holmes. Tức thì, tôi dùng báng súng nện mạnh vào đầu kẻ hành hung, hắn ngã xuống, tôi nằm đè lên. Lúc đó Holmes thổi còi. Ngoài đường một tốp người đã ạy tới, có hai cảnh sát quân phục đầy đủ, cùng một vị thám tử, từ cổng ính bước vào phòng.
- Có phải Lestrade đó không? - Holmes hỏi.
- Tôi đây, thưa ngài Holmes. Tôi định tự mình sẽ giải quyết việc này. Rất vui mừng lại được gặp ngài ở London.
- Sự giúp đỡ nhỏ mọn, không đáng kể của úng tôi ắc không cản trở các ngài? Trong một năm có ba vụ án mạng không được phát hiện, cũng hơi nhiều đấy Lestrade ạ. Nhưng câu uyện bí mật ở Molesey, ngài tiến hành không đến nỗi nào... nghĩa là ngài giải quyết vụ ấy không đến nỗi tồi.
úng tôi đứng lên. Còn tên hung thủ thì thở hổn hển trong cánh tay của hai viên cảnh sát lực lưỡng. Một đám đông những kẻ rỗi việc bắt đầu tụ tập ngoài đường. Holmes tiến đến bên cửa sổ, đóng lại. Lestrade âm hai ngọn nến vừa mang tới, còn các vị cảnh sát thì bật công tắc đèn Pile bỏ túi. Tôi có dịp quan sát kẻ sát nhân kỹ càng hơn.
Hắn có bộ mặt rất đàn ông, trông rất đáng ghét. Vầng trán như một triết gia, cái cằm như của một người thí nói những lời ngọt ngào, êm dịu. Những cái đó, ứng tỏ con người hắn cũng có một khả năng làm những điều tốt lành, cũng như làm những điều ác độc. Nhưng cặp mắt dữ dằn màu ánh thép, bộ lông mi rậm cái nhìn trâng tráo, iếc mũi quặp ác thú và những nếp hằn sâu trên trán đã tự tố cáo lên bản ất của hắn, những dấu hiệu báo trước o xã hội biết những dã tâm nguy hiểm. Hắn không thèm nhìn lên bất cứ người nào trong số úng tôi. Cái nhìn của hắn như cắm ặt vào khuôn mặt của Sherlock Holmes, hắn nhìn với một sự kinh ngạc và hằn học.
- Con quỷ! - Hắn lẩm bẩm. - Một con quỷ ranh ma, xảo quyệt!
- Đại tá, - Holmes nói, và sửa lại cổ áo bị nhàu, - Những người bạn chí cốt lại gặp nhau, như lời người xưa thường nói. Tôi ưa có dịp gặp lại ngài sau lần ngài đã theo dõi tôi một cá trắng trợn. Ngài hẳn còn nhớ, khi tôi nằm ở khe hở của núi đá tại thác nước Reienba.
Ngài đại tá có lẽ đang bị thôi miên, hắn không thể nào bứt cái nhìn ra khỏi Sherlock Holmes.
- Con quỷ, con quỷ có thật! - Hắn cứ lặp đi, lặp lại câu nói đó.
- Tôi ưa kịp giới thiệu o các vị - Holmes lên tiếng. – Các vị biết không, đây là ngài đại tá Sebastian Moran, một cựu sĩ quan trong đội quân của hoàng gia đóng ở Ấn Độ, và là một thợ săn thú dữ tài ba, có một thời nổi tiếng oanh liệt ở những vùng thuộc địa Đông phương. Tôi nghĩ, tôi không nhầm ngài đại tá ạ, có phải về số hổ báo săn bắn được, hiện nay ngài đang giữ kỷ lục phải không?
Tên tù binh thật vất vả lắm mới kìm được cơn phẫn nộ, hắn tiếp tục nín thinh. ính hắn cũng đã giống một con hổ rồi, cặp mắt của hắn long lên dữ tợn, ria mép cũng xù lên.
- Tôi rất ngạc nhiên vì sự đánh lừa quá ư đơn giản đã đưa một thợ săn dày dạn kinh nghiệm vào tròng, - Holmes tiếp tục, - Đối với ngài điều này đâu còn là mới mẻ. ẳng lẽ, ưa bao giờ ngài buộc một con dê dưới một gốc cây, còn ngài thì leo lên cây rậm rạp với khẩu súng săn hoặc carbine trong tay, để ờ con cọp dẫn xác đến con mồi hay sao? Ngôi nhà bỏ trống này là cái cây của tôi, còn ngài là con hổ của tôi. Tôi nghĩ rằng, đôi khi ngài cũng phải dùng những phát đạn dự trữ trong trường hợp, cùng một lúc có nhiều con hổ xuất hiện, hoặc hãn hữu cũng có đôi lúc ngài bắn trượt ứ. Mấy vị này, - Anh nói và ỉ vào úng tôi, - là những phát súng dự phòng của tôi. Sự so sánh của tôi ính xác đấy ứ?
Bất thình lình, đại tá Moran tức tối ồm lên phía trước, nhưng hai người cảnh sát đã kịp giữ hắn lại. Bộ mật của hắn thể hiện nỗi hằn học, nhìn vào đó chúng tôi thấy kinh khủng, gớm ghiếc.
- Thú thật, ngài đã mang đến cho tôi một món quà nho nhỏ, - Holmes tiếp tục công kí. - Tôi không ngờ, ính ngài cũng muốn sử dụng ngôi nhà bỏ trống này, quả thật thuận lợi. Tôi nghĩ thế nào ngài cũng hành động từ ngoài phố, ở đấy có anh bạn Lestrade của tôi cùng những thủ hạ của anh ta đã đợi ờ ngài sẵn. Trừ i tiết ấy ra, còn mọi việc đều tiến triển đúng như tôi dự định.
Đại tá Moran quay sang phía Lestrade.
- Không kể những cái ấy, ngài có đủ ứng cớ, cơ sở để bắt tôi, hay là ngài không có đủ cơ sở? - Hắn ta nói, - Tôi không thể nào ịu đựng nổi những lời lẽ nhạo báng của con người kia. Nếu tôi ở trong tay luật pháp, thì cứ để pháp luật giải quyết.
- Điều này công bằng thôi, - Lestrade nhận xét. - Trước khi úng tôi ra về, ngài còn muốn nói điều gì nữa không, thưa ngài Holmes.
Holmes nhặt khẩu súng hơi đồ sộ lên, và quan sát cơ cấu của khẩu súng.
- Khẩu súng có một không hai này mới tuyệt làm sao - Anh thốt lên. - Bắn không nghe tiếng kêu, nhưng có sức công phá và hủy diệt rất lớn. Tôi biết một nhà cơ khí người Đức, tên là Von Herder. Ông ta đã thiết kế khẩu súng này theo đơn đặt hàng của ngài giáo sư Moriarty. Từ lâu tôi đã nghe tiếng tăm khẩu súng, nhưng ưa bao giờ có vinh dự được cầm nó trên tay. Tôi đặc biệt lưu ý ngài về khẩu súng này, và cả cá nạp đạn o nó nữa, thưa ngài Lestrade.
- Ngài không phải bận tâm, thưa ngài Holmes, úng ta còn dịp quay lại vấn đề này. - Khi tất cả mọi người tiến sát đến cánh cửa ra vào, Lestrade đáp - Đó là tất cả những gì ngài muốn nói?
- Vâng, tất cả, nhưng ngài định khép tên này vào tội gì?
- Còn tội gì nữa, thưa ngài? ẳng hạn như tội mưu sát ngài Sherlock Holmes.
- Ôi! Không phải như vậy đâu! Tôi không muốn dính líu vào vụ này. ỉ có ngài mới được lãnh trọng trá làm công việc bắt bớ tuyệt vời này, ngài đã tốn công sức đề tiến hành. Xin úc mừng ngài Lestrade! Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa khả năng hiếm có và lòng quả cảm, đầy mưu lược, cuối cùng ngài đã bắt được kẻ kia.
- Người kia là ai vậy? Hắn ta là ai, thưa ngài Holmes.
- Người mà, cả ngành cảnh sát đã hoài công tìm kiếm, truy nã. Đại tá Sebastian Moran, kẻ mà vào đêm 30 tháng trước đã bắn ết ngài Ronald Adair bằng khẩu súng hơi, bắn qua cửa sổ tầng hai ngôi nhà 427, phố Park Lane. úng ta cần lời buộc tội như vậy... Còn bây giờ, Watson, nếu cậu không sợ gió lùa từ cánh cửa sổ bị vỡ kính, thì úng ta sẽ cùng nhau ngồi trong phòng tớ, và hút với nhau điếu thuốc. Tớ hy vọng sẽ làm o cậu khuây khỏa phần nào.
* * *
Sự quan tâm thường xuyên của anh Mycroft Holmes và sự ăm sóc tận tụy của bà Hudson, căn hộ của úng tôi vẫn như xưa, không hề có gì thay đổi. Thú thật, khi bước vào, tôi lấy làm ngạc nhiên vì sự tươm tất hiếm có, mọi thứ thân thuộc quen biết đều nằm ở vị trí cũ. Ở góc dành riêng o những thí nghiệm hóa học, một iếc tủ bằng gỗ thông vẫn như xưa, vẫn những vết ố do acide mạnh. Trên giá những ồng sá tra cứu, những mẩu tin cắt từ các tờ báo vẫn được sắp xếp ngay hàng thẳng lối. Ôi, tôi ỉ muốn ném hết những thứ ết tiệt kia vào lửa o rảnh! Khi tôi nhìn hết một lượt, thì những bản biểu đồ, hộp đựng đàn violone, iếc hộp Ba tư đựng thuốc lá lại hiện lên trước mắt tôi. Hai người có mặt trong phòng. Một là bà Hudson ạy vồn vã đón mừng úng tôi với nụ cười lấp láy trên môi. Người thứ hai, người mặc đồ màu cũ kĩ, đã đóng một vai rất quan trọng trong những sự kiện đêm hôm qua. Đó là bức tượng bằng sáp của bạn tôi, đã được tô màu, được tạc thật khéo léo do một bàn tay điêu luyện nhào nặn, trông giống như thật.
Bức tượng được đặt trên một iếc ghế đẩu không cao, được khoác iếc áo bành tô cũ của Sherlock Holmes trông rõ khéo, từ ngoài đường nhìn vào thì khó ai tưởng đó là tượng.
- Bà đã thực hiện tất cả ỉ dẫn của tôi một cá tuyệt vời. - Holmes nói.
- Tôi phải bò bằng đầu gối để tiến sát bức tượng, như ngài ỉ bảo thưa ngài.
- Tốt, bà đã làm việc đó không thể ê vào đâu được Bà có thấy viên đạn đâm vào đâu không?
- Có thưa ngài. Tôi sợ viên đạn làm hỏng mất bức tượng đẹp đẽ của ngài. Nó xuyên qua đầu và cắm vào tường. Tôi nhặt nó lên từ tấm thảm. Nó đây.
Holmes ìa o tôi xem đầu đạn.
- Đầu đạn súng lục mềm mại, Watson, cậu hãy nhìn xem. Thật là cự phá! Có ai dám nghĩ viên đạn này lại được bắn ra từ khẩu súng hơi? Rất tuyệt, bà Hudson, xin cảm ơn bà vì sự giúp đỡ... Còn bây giờ, Watson, cậu hãy ngồi vào vị trí cũ của mình như thuở nào. Tớ muốn tâm sự với cậu đôi điều.
Anh cởi iếc áo khoác ra, rồi lấy iếc áo oàng trên bức tượng khoác vào. Trước mặt tôi lại xuất hiện một Sherlock Holmes ngày xưa.
- Thần kinh của người thợ săn già vẫn còn vững, cặp mắt vẫn còn tinh. - Anh nói và cười, vừa nhìn cái sọ của bức tượng bằng sáp bị bắn thủng. - Bắn trúng ính giữa gáy và làm ảy não. Đúng là một tay thiện xạ của rừng nhiệt đới ở Ấn Độ. Tớ nghĩ rằng, ở London này đị thủ của hắn không phải là nhiều. Trước kia cậu có bao giờ nghe tên hắn hay ưa?
- Không, tớ ưa từng nghe.
- Ừ nhỉ, thế mà tớ quên! Cá đây không lâu, cậu đã thú nhận, thậm í cậu còn ưa nghe đến tên giáo sư James Moriarty, đó là một bộ óc của thế kỷ úng ta. May quá, cậu lấy giúp cặp đựng tài liệu theo dõi tiểu sử...
Sau khi ngồi lại ngay ngắn, thả người thoải mái trong iếc ghế bành và khoan khoái thở ra từng đụn khói thuốc, Holmes lơ đễnh lật từng trang giấy.
- Vần ữ "M", tớ có một bộ sưu tầm khá hoàn ỉnh, - Anh nói. - ỉ một cái tên Moriarty, cũng đủ làm o vần "M" trở nên nổi tiếng. Còn cái tên Morgan là một tên ghê tởm. Tên Merridew, có một trí nhớ khó ai sánh kịp. Tên Mathews - ính là tên làm gẫy iếc răng nanh bên trái của tớ ở phòng đợi nhà ga aring Cross. Còn đây là anh bạn của úng mình ngày hôm nay.
Anh đưa o tôi tập tài liệu, tôi đọc:
"Moran Sebastian, đại tá nghỉ hưu. Từng phục vụ trong trung đoàn biệt kí số một ở Bangalore. Sinh năm 1840 tại London. Con trai của ngài Augutus Moran người - được thưởng huân ương Banhi, từng công tác tại dinh toàn quyền Anh tại Persia. Tốt nghiệp trường trung học Eton và đại học tổng hợp Oxford. Từng tham gia các iến dị Jowaki, Afghan, arasiab, Sherpur, Cabul. Là tác giả của các cuốn sá "Cuộc đi săn mãnh thú ở miền Tây Himalayas" (1881); và "Ba tháng sống trong rừng nhiệt đới" (1884). Địa ỉ Phố Conduit. Tham gia các câu lạc bộ: Anh - Ấn, Tankerville, câu lạc bộ ơi bài Bagatelle".
Ngoài lề được ghi bằng nét ữ của Holmes:
"Một tên nguy hiểm nhất của London, đứng sau Moriarty".
- Thật kỳ lạ! - Tôi lên tiếng, và đưa trả Holmes cặp tài liệu. - Dường như cuộc đời của hắn là bước đường của một người lính trung thành.
- Cậu nói đúng. - Holmes đáp. - Trước kia hắn không hề làm việc gì xấu xa. Hắn là con người có bộ thần kinh bằng thép, ở Ấn Độ đến bây giờ vẫn lưu truyền một huyền thoại kể rằng: Hắn ta đã bò trong lòng một con sông cạn, đã cứu thoát một người khỏi những móng vuốt của một con hổ bị thương. Có những cây gỗ, lúc đầu mọc, phát triển bình thường, rồi đến một độ cao xác định nào đó, bỗng nhiên phát hiện trong quá trình phát triển của mình một sự biến đổi kỳ quặc so với mức bình thường. Đối với con người cũng xẩy ra điều tương tự. Theo thuyết của tớ, mỗi cá nhân trong quá trình phát triển, đều lặp lại lị sử phát triển của tất cả tổ tiên. Tớ o rằng, mỗi một biến động bất ngờ về phía lương thiện hay độc ác đều phụ thuộc vào điều kiện khá quan tác động rất mạnh; muốn biết được quá khứ của một người, cần phải lục xem trong gia phả người ấy; và suy luận rộng ra, tiểu sử của một con người, đó như là một mẩu nhỏ trong tiểu phẩm cả tiểu sử của toàn bộ gia đình.
- Thôi được, nhưng tớ thấy cái, thuyết lý của cậu hơi viển vông.
- Tớ sẽ ấm dứt câu uyện. Có những nguyên nhân này, hoặc nguyên nhân khác, đã đẩy đại tá Moran đi theo con đường ngu xuẩn. Khi còn ở Ấn Độ có một kẻ đê tiện đã dựng lên câu uyện nào đó gây căng thẳng o ông ta, nhằm ống ông ta một cá kị liệt, đến nỗi ông ta không thể nào ở lại được nữa. Ông ta xin về hưu, trở lại đất London, và tại đây ông ta đã bước vào con đường tội lỗi. Giáo sư Moriarty đã phát hiện ra ông ta, trong một thời gian dài ông ta là cánh tay phải của Moriarty. Thằng giáo sư này cung cấp tiền nong o ngài đại tá tiêu xài một cá phóng khoáng. Nhưng rất hãn hữu mới cần tới sự giúp đỡ của hắn. ỉ trong hai hoặc ba trường hợp khó khăn mà những tên tội phạm bình thường không thể đảm đương nổi. Có lẽ, cậu còn nhớ cái ết kỳ quặc của bà Stewart ở Lauder năm 1887? Không nhớ à? Tớ ắc ắn uyện này không thể không có tay Moran nhúng vào, mặc dù không có ứng cớ để buộc tội hắn ta. Ngài đại tá có nghệ thuật giấu mình một cá tài tình. Khi cả băng của Moriarty bị tóm hết, thì ỉ riêng hắn là không làm sao lôi cổ ra tòa được.
Watson, cậu còn nhớ buổi tối, khi tớ đến ỗ cậu, tớ phải kéo rèm cẩn thận không? Tớ sợ phát súng bắn ra từ khẩu súng hơi đặc biệt. Lúc bấy giờ cậu o tớ là kỳ quặc, nhưng tớ biết mình cần phải làm gì. Tớ đã nghe nói về khẩu súng đặc biệt kia rồi. Hơn nữa, tớ biết khẩu súng đang nằm trong tay một nhà thiện xạ. Khi tớ với cậu đi sang Thụy Điển, Moran và Moriarty đã đuổi theo úng ta, và ính hắn đã làm o tớ bàng hoàng trong mấy phút ở khe lở của thác Reienba.
Cậu biết không, khi còn ở bên Pháp tớ vẫn thường xuyên theo dõi tin tức trên báo í Anh, tớ hy vọng sẽ tìm ra đầu mối nào đó để bắt hắn ta phải ngồi vào lồng sắt. Khi hắn còn nhởn nhơ dạo ơi trên đất London thì tớ ưa thể tính uyện về được. Cả ngày lẫn đêm, mối đe dọa kia cứ ám ảnh tớ, dứt khoát hắn sẽ tìm mọi cá để giết tớ. Tớ phải làm gì? ẳng lẽ gặp trực tiếp và bắn ết hắn? Tớ không thể làm như vậy được. Vì lúc ấy, ính tớ sẽ bị ngồi vào ghế bị cáo. Trực tiếp đến báo với tòa? Không í lợi gì, vì tòa sẽ không đủ ứng cớ để xét xử, ẳng lẽ xử hắn bằng những vấn đề nghi vấn? Tớ bất lực hoàn toàn, không có cá nào để giải thoát được. Tớ đã trải qua một quá trình kiên trì không mệt mỏi theo dõi hắn bằng tin tức các vụ án, bởi tớ tin như đinh đóng cột rằng dù sớm hay muộn tớ cũng phanh phui ra hắn.
Vụ ám sát đầy bí ẩn anh àng Ronald Adair đã dẫn đến sự ín muồi của những ngày kiên trì mong đợi, giờ khởi hành đã đến. Không biết tớ có dám khẳng định Moran đã bắn ết àng Ronald hay không? Hắn ta đã cùng ơi bài với àng thanh niên, và bám gót anh ta từ câu lạc bộ về nhà, sau đó bắn ết àng trai quá cửa sổ đã mở. Đúng, không còn nghi ngờ gì nữa. ỉ một đầu đạn, cũng đủ ứng cớ để ngài đại tá Moran ui vào giá treo cổ. Ngay lập tức tớ quay về London. Tên cận vệ của Moran đã phát hiện ra tớ, hắn kịp thời thông báo o Moran. Thằng này thế nào cũng biết mối liên hệ giữa vụ án mạng và sự quay về của tớ, hắn sẽ lo lắng mất ăn mất ngủ. Tớ tin, hắn sẽ khử tớ ngay lập tức, không ậm trễ. ắc ắn hắn sẽ dùng thứ vũ khí giết người độc đáo - khẩu súng hơi. Tớ phải uẩn bị đón hắn, thế là bức tượng bằng sáp được ra đời không ê vào đâu được. Tớ báo trước o bên cảnh sát, để họ giúp một tay (với con mắt tinh ranh cậu đã phát hiện ra hai viên cảnh sát thấp thoáng ỗ cổng ra vào). Tớ ọn địa điểm rất thuận tiện o việc quan sát, nhưng thú thật tớ không ngờ đối thủ của tớ cũng chọn đúng vị trì ấy để tấn công. Tất cả ỉ có thế, Watson. Chắc cậu đã hiểu mọi uyện.
- ưa hết, - Tôi nói. - Cậu chưa giải thí o tớ uyện vì sao ngài đại tá Moran lại bắt buộc phải thủ tiêu anh àng Adair ?
- Anh bạn của tôi ơi, úng ta lại rơi vào lĩnh vực đoán mò rồi, trong lĩnh vực này i có logic không thì quả là quá ít ỏi. Mỗi người có thể xây dựng riêng o mình một giả thuyết, dựa trên cơ sở những dữ kiện đang tồn tại. Giả thuyết của cậu cũng có khả năng trùng với giả thuyết của tớ.
- Có nghĩa là, cậu đã nghĩ ra giả thuyết?
- Theo tớ nghĩ, giải thí những dữ kiện đã có không khó. Qua điều tra, người ta đã xác lập là trước lúc xảy ra vụ án không lâu, đại tá Moran và anh àng Adair đã cùng ở một hội ơi bài và ăn được một món tiền khá lớn. Nhưng Moran đã ơi không trung thực. Từ lâu, tớ được biết hắn là một tay cờ bạc gian lận. Có lẽ, trong ngày xảy ra vụ án, Adair đã cảnh cáo Moran vì những trò gian lận. Anh àng Adair đã giáp mặt với đại tá, ắc có dọa sẽ tố cáo hắn, nếu như hắn không tự nguyện rời bỏ câu lạc bộ và từ nay về sau không được ơi cái trò ma cô ma cậu nữa. Một àng trai miệng còn hơi sữa như Adair , lại dám công khai dọa tố cáo buộc tội một con người đáng tuổi a ú của anh ta, hơn nữa đang iếm một địa vị sang trọng trong xã hội! Có lẽ, đúng hơn, anh ta đã nói riêng với Moran, không có người làm ứng. Nhưng với Moran, một con người uyên sống bằng bạc bịp, nếu bị khai trừ ra khỏi câu lạc, bộ thì khác nào bị cắt đường sinh sống? Đó là nguyên nhân để hắn giết Adair , và giết vào ính thời điểm anh àng trai trẻ ưa kịp sử dụng kết quả cuộc ơi không trung thực; ưa kịp tính phần thắng của anh ta là bao nhiêu và anh ta cần phải trả lại những người thua cuộc là bao nhiêu. Anh ta đã khóa ặt cửa lại để không muốn mẹ và em gái thấy anh ta đang tính toán và thắc mắc về những cái tên ghi trong tờ giấy và những ồng tiền đặt trên bàn. Sao, theo cậu, lời giải thí của tớ có phù hợp hay không?
- Tớ o rằng, cậu đã nói trúng tim đen hắn.
- Cuộc điều tra xét hỏi sẽ ứng minh o lời giải thí của tớ đúng hay sai. Từ đây đại tá Moran không còn là mối lo ngại o úng ta, và khẩu súng hơi kỳ diệu của Von Herder sẽ trang điểm o bộ sưu tập của Viện bảo tàng Scotland Yard. Từ nay, không còn ai quấy rầy ngài Sherlock Holmes tham gia vào công việc giải quyết những câu uyện bí ẩn, nhưng đầy lý thú. Cuộc sống phức tạp ở London trở nên phong phú và bình yên, êm ả hơn.
Hết
---
[1] Đơn vị tiền tệ Anh: 1 penny = 1/100 pound
[2] Nguyên văn: Monsieur Oscar Meunier (Ông Oscar Meunier-tiếng Pháp)
Thậm í ngay bây giờ, sau nhiều năm, tôi vẫn còn cảm giác run sợ, khi nghĩ lại câu uyện xa xưa, và tôi vẫn bị một nỗi hoài nghi, thảng thốt, vui buồn lẫn lộn bao trùm và xâm iếm toàn bộ tâm hồn. Tôi mong các bạn độc giả, vẫn thường quan tâm tới những mẩu uyện của tôi về những việc làm và những suy luận của một con người tuyệt vời hãy tha thứ o tôi, vì việc tôi không ia sẻ với các bạn điều khám phá của mình. Tôi tự đặt o mình một nghĩa vụ là phải báo o các bạn tất cả sự thật, một khi tôi không còn bị ràng buộc bởi uyện cấm đoán xuất phát từ ính ý muốn của bạn tôi. Câu uyện ngăn cấm được phát ra cũng vừa mới đây, ngày mồng ba tháng trước.
Trong thời gian tôi và Sherlock Holmes còn gắn bó mật thiết với nhau tôi đã quan tâm một cá sâu sắc tới những uyện hình sự. Kể từ khi anh biệt tăm mất tí, tôi trở thành kẻ thường xuyên theo dõi trên các báo í tất cả các vụ án ưa được khám phá. Đội lúc, để thỏa mãn tính hiếu kỳ, tôi đã có ý định tham gia vào uyện phá án, tôi sử dụng những phương pháp, thủ thuật như của bạn tôi thường làm, mặc dù con lâu tôi mới đạt được trình độ ấy.
Tuy thế, không có vụ án nào lại làm o tôi hồi hộp, lo âu bằng câu uyện tang thương của Ronald Adair . Trong số tài liệu điều tra, có đoạn nói thế này: "Vụ ám sát đã được tính toán từ trước và do một người hoặc một nhóm người lạ thực hiện". Sau khi đọc xong lời nhận xét như vậy, tôi càng thấy thấm thía hơn bao giờ hết rằng cái ết của Sherlock Holmes đã gây o Tổ quốc úng ta một tổn thất to lớn biết nhường nào. Trong uyện này, nhất thiết phải có những tình tiết làm o Sherlock Holmes ú ý; và như vậy hoạt động của cảnh sát sẽ được bổ sung đầy đủ và đạt kết quả hơn nếu như họ có sự giúp sức của bộ óc thông minh và đôi mắt quan sát tinh tế của nhà thám tử sành sỏi nhất âu Âu này.
Sau khi đi thăm bệnh nhân cả ngày về, tôi lại tập trung vào những suy nghĩ làm tôi nhức đầu, đó là câu uyện của Adair , nhưng tôi không thể nào tìm ra được một lời giải đáp thỏa đáng. Tôi đánh bạo lặp lại những gì mà mọi người đã biết, tôi cũng muốn nêu lên những dữ kiện theo dạng đã được thông báo o công úng biết, sau khi kết thúc cuộc điều tra.
Tử tước Ronald Adair là con trai thứ hai của bá tước Maynooth - tổng đốc toàn quyền một khu vực thuộc địa của người Anh ở Úc. Người mẹ của Adair đã từ Úc đến nước Anh để giải phẫu mắt, cắt bỏ cái vây mọc ở mắt; và đã cùng cậu con trai Adair và cô con gái Hilda sống ở Park Lane, số nhà 427. àng thanh niên thường giao du với những người tốt, và hình như không có đị thủ nào; cũng ưa làm gì đáng ê trá. Đã có thời àng đã đính hôn với tiểu thư Edith Woodley ở Carstairs, nhưng trước khi xảy ra vụ án mạng vài tháng thì cả ú rể lẫn cô dâu đã quyết định ia tay nhau: không ai hối hận về uyện này cả. Nói ung, cuộc đời của àng thanh niên trai trẻ ỉ bó hẹp trong quan hệ gia đình và trong giới thượng lưu. Tính tình anh ta điềm đạm, thói quen và sở thí không có gì xấu. Thế nhưng một cõi ết bất ngờ nhất và kỳ lạ nhất đã ợp đi một nhà quý tộc trẻ vô tư uyện đó xảy ra vào khoảng 22 giờ đến 23 giờ 20 phút ngày 30 tháng 3 năm 1894.
Ronald Adair là một người thí cờ bạc, nhưng ưa bao giờ tỏ ra vượt quá giới hạn. Anh ta là thành viên của ba câu lạc bộ - Baldwin, Cavendish và Bagatellele. Người ta đã điều tra và xác định rằng, trong ngày bị giết, sau bữa cơm iều, Ronald đã ơi một ván bài ở câu lạc bộ Bagatelle. Thậm í, trước bữa cơm iều anh ta cũng có ơi ở đấy rồi. Những người cùng ơi với anh ta là: ông Murray; ngài John Hardy và đại tá Moran. Adair bị thua mất 5 bảng. Gia tài của anh ta khá lớn, nên việc thua bạc như vậy không làm o anh ta bận tâm út nào. Anh ta hầu như ngày nào cũng ơi và thường là được bạc.
Những lời khai của các nhân ứng đã làm sáng tỏ thêm một uyện. Là khoảng một tháng rưỡi trước khi bị giết, Adair cùng ơi với ngài đại tá Moran, một buổi tối đã ăn của ông Godfrey Milner và huân tước Balmoral 420 bảng. Đấy là tất cả những gì biết được về những tuần cuối cùng cửa đời anh ta.
Vào buổi tối bất hạnh đó, anh ta từ câu lạc bộ trở về nhà đúng 22 giờ đêm. Mẹ và em gái anh ta đi vắng: họ đi thăm người quen chưa về. Người hầu gái thề rằng, cô ta đã nghe thấy anh ta bước vào phòng của mình. Căn phòng ấy nằm trên tầng hai, cửa sổ hướng ra đường phố, anh dùng làm phòng tiếp khá. Trước khi àng quý tộc trẻ tuổi về, người hầu gái vừa nhóm lò sưởi xong, lò sưởi vẫn còn bốc khói nghi ngút, cô ta phải mở toang các cửa sổ để thoáng khói. Trước 23 giờ 20 phút không hề nghe một động tĩnh nào phát ra từ căn phòng của bá tước. Lúc ấy bà Maynooth và cô con con gái về đến nhà. Bà Maynooth muốn ghé lại ỗ cậu con trai để úc cậu ngủ ngon, nhưng cánh cửa phòng đã được khóa ặt bên trong; mặc o người ta gào thét, đập cửa, không một ai lên tiếng. Thấy vậy người mẹ hô hoán lên, bắt người nhà phải phá cửa. àng thanh niên xấu số đang nằm gục dưới sàn nhà, ngay cạnh iếc bàn. Đầu anh ta bị một viên đạn súng lục bắn thủng, trông thật khủng khiếp. Nhưng rất kỳ lạ là trong phòng không thấy một thứ vũ khí nào hết. Trên bàn có 2 tờ ngân phiếu trị giá 10 bảng và 17 bảng với 10 pence[1], bằng bạc có, bằng vàng có. Những đồng bạc được xếp thành từng ồng nhỏ với từng loại giá trị khác nhau. Bên cạnh những đồng bạc là một tờ giấy có ghi những con số và ngang hàng với những con số đó là tên những người bạn cùng câu lạc bộ của Adair . Từ dữ kiện này có thể rút ra một nhận xét: Trước khi ết, àng trai đã tính toán những ván thua, thắng bạc của mình.
Sau khi nghiên cứu kĩ các dữ kiện, công việc càng trở nên rối rắm, mù mịt hơn. Một điều làm úng ta khó hiểu: vì sao àng trai phải khóa ặt cửa từ bên trong? Thực ra kẻ giết người cũng có thể khóa cửa, rồi trèo qua cửa số để tẩu thoát. Nhưng dưới những cánh cửa sổ là những bồn hoa hồng lại không hề bị dẫm nát; hơn nữa từ cửa sổ đến mặt đất phải đến 20 feet. Không một cây hoa nào bị giầy xéo, làm nát. Ngay cả lớp đất giữa nhà và con đường cũng không hề có một dấu vết nào. Rõ ràng là ính Adair đã tự tay khóa cửa. Nhưng sao cái ết lại đột ngột dội vào đầu anh ta? Cứ giả thiết rằng tên sát nhân đã bắn qua cửa sổ, thì đó phải là một phát súng rất đặc biệt, vì ỉ bằng một viên đạn súng lục đã giết ết àng trai ngay lập tức với một khoảng cá quá xa như vậy thì đâu phải uyện dễ dàng? Hơn nữa, Park Lane là một đường phố nhộn nhịp, đông người qua lại; cá nhà 100 yards có một trạm xe ngựa. Không một người nào nghe thấy tiếng súng nổ. Vậy mà, có một người bị ám hại nằm xuống ỉ với một viên đạn súng lục bắn xuyên thủng đầu? Xét theo vết thương thì ính viên đạn kia là nguyên nhân gây ra tử vong. Bối cảnh vụ án đầy bí ẩn ở Park Lane là như vậy! Một vụ giết người có ẩn số đầy bí hiểm bởi thiếu hoàn toàn những nguyên do xác đáng, logic. Anh bạn trẻ Adair không hề có đị thủ, còn tiền nong cũng như giấy tờ quý giá khác thì không hề suy suyển.
Suốt ngày tôi suy đi, nghĩ lại trong óc tất cả những dữ kiện ấy, với tham vọng cố đặt ra o nó một giả thiết có phần nào phù hợp và đủ sức thuyết phục.
Tôi cố gắng tìm ra "điểm ít khả năng bị bác bỏ nhất" điều mà người bạn xấu số của tôi luôn luôn lấy làm kim ỉ nam o các công cuộc khám phá. Tôi thành thật thú nhận mình hoàn toàn không đạt được ý đồ đó. Buổi iều tôi thơ thẩn, lang thang trong công viên: khoảng 18 giờ, bỗng dưng tôi đi đến góc phố giữa đường Park Lane và đường Oxford không hề có ý định trước. Tôi thấy một nhóm người vô công rồi nghề đang túm năm tụm ba, nhòm ngó vào một iếc cửa sổ ngôi nhà đã xẩy ra vụ án mạng đầy bí ẩn. Một gã đàn ông cao, gầy đeo kính râm to, - tôi nghĩ ắc là một thám tử giả dạng, - đang thử nêu một giả thiết về án mạng, những người tò mò bao quanh ông ta ật cứng, ăm ú lắng nghe. Tôi cũng định xán lại, nhưng khi nghe loáng thoáng những nhận định, phán đoán ngu xuẩn, tôi có cảm giác kinh tởm và thối lui. Vô tình tôi đụng phải một ông già gù lưng đứng phía sau, mấy cuốn sá mà ông ta đang kẹp ná bị rơi ra. Trong lúc cúi xuống nhặt giúp mấy cuốn sá o ông lão, tôi ợt đọc thấy một tên sá "Sự ra đời và việc sùng bái cỏ cây". Tôi thoáng nghĩ: thật là một con mọt sá tội
nghiệp; ắc vì để kiếm sống, hoặc vì yêu thí nghệ thuật, nên đã cố sưu tầm những cuốn sá quý hiếm. Tôi định nói vài câu xin lỗi o sự vô tình của mình đã làm rơi những vật mà chủ nhân của nó nâng niu, trân trọng; nhưng ông già càu nhàu, tức tối và khinh khỉnh quay đi. ỉ một loáng cái lưng gù gù và bộ râu quai nón bạc trắng của ông đã lẩn vào đám đông.
Những quan sát ở ngôi nhà 427 phố Park Lane đã giúp tôi được út ít trong công việc khám phá lời giải đáp mà tôi quan tâm. Ngôi nhà được ngăn cá với đường phố bằng một bức tường thấp, trên tường có ăng dây thép. Dây thép cao chưa đến 5 feet. Mọi người dễ dàng lọt được vào vườn. Nhưng trèo lên cửa số thì khó thực hiện được, vì không có ống thoát nước, không hề có một cái gờ nào nhô ra, o nên ngay cả một nhà thể thao điêu luyện nhất cũng không thể trèo lên theo bức tường được.
Càng thấy mơ hồ hơn, tôi quay về phố Kensington để về nhà. Tôi bước vào phòng mình ưa đầy 5 phút thì người hầu gái đã báo với tôi là có một người khá muốn gặp tôi. Tôi thật sửng sốt và ngạc nhiên, vì đó không phải ai xa lạ, mà ính là ông già gù gù, thí sưu tầm sá quý tôi gặp lúc iều. Bộ tóc bạc phau, trùm gần kín khuôn mặt nhăn nheo, nhọn hoắt của ông. Ông kẹp ở ná có đến một tá những cuốn sá loại quý:
- ắc ngài rất ngạc nhiên vì sự có mặt của tôi? - Ông ta hỏi với giọng the thé rất kì dị.
Tôi thú nhận là ông ta đoán đúng.
- Ngài thấy không, tôi là một người lị sự. Tôi lững thững đi theo con đường mà ngài đi, tôi ợt thấy ngài bước vào ngôi nhà này. Tôi tự nhủ với mình là cần ghé lại gặp con người lị thiệp kia để xin lỗi. Nếu tôi có thô thiển lố bị với ngài, thì thú thật tôi cũng không có ý định làm o ngài bực dọc. Tôi mang ơn ngài rất nhiều, vì ngài đã hạ cố cúi nhặt giúp tôi những cuốn sá.
- uyện nhỏ nhặt ấy, không nên bận tâm làm gì, - Tôi đáp. - Ngài o phép tôi được hỏi, làm sao ngài biết được tôi là người như thế nào?
- Tôi cũng xin mạnh dạn nói với ngài rằng là hàng xóm láng giềng với ngài. Tiệm sá bé nhỏ của tôi nằm ở góc phố Chur, tôi rất hân hạnh nếu được ngài ghé lại ơi. Có lẽ ngài cũng là người ham mê sách? Tôi xin giới thiệu với ngài đây là cuốn "Những giống im ở Anh", "Catullus", "Cuộc iến tranh thần thánh". Ngài mua đi, tôi sẵn sàng bán giá rẻ. Năm tập này, vừa vặn đủ lấp kín chỗ trống ở ngăn thứ hai tủ sách của ngài. Tôi thấy hình như giá sá của ngài không được đẹp mắt lắm thì phải, thưa ngài?
Tôi ngoái cổ để nhìn lại giá sá, khi quay lại thì tôi không thể tin ở mắt mình được nữa: Sherlock Holmes đang đứng ngay bên iếc bàn của tôi và đang cười. Tôi khuỵu xuống vài giây. Tôi ngơ ngác nhìn anh, và sau đó thì, có lẽ đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, tôi đã bị ngất.
Tôi ỉ mang máng nhớ là có một đám mây xám đang nhập nhoà trước mắt. Khi đám mây tan biến đi, tôi thấy cổ áo của mình bị mở phanh ra và tôi ngửi thấy thoang thoảng mùi rượu brandy. Holmes vẫn đứng đấy trên tay cầm ai rượu, đầu hơi cúi xuống.
- Watson thân mến! - Một giọng nói khá thân thuộc cất lên, - nghìn lần tớ xin lỗi cậu. Tớ không ngờ cái ấy lại gây o cậu một xúc động mạnh như vậy.
Tôi nắm lấy tay anh.
- Holmes! - Tôi thốt lên. - Có phải thật cậu không? ẳng lẽ cậu vẫn còn sống ư? Không thể nào tin được, làm sao cậu vượt lên được cái thác nước khủng khiếp ấy?
- Hãy đợi út đã. - Anh nói. - Không biết cậu đã bình tĩnh lại ưa? Rõ ràng sự xuất hiện quả đường đột của tớ đã làm o cậu oáng váng.
- Tớ đã bình tĩnh lại rồi. Nhưng thú thật với cậu, tớ không còn tin vào mắt mình nữa. Thật hú vía! ẳng lẽ ính cậu đấy ư? Không phải ai khác đang đứng trong phòng tớ đấy ứ?
Tôi lại nắm lấy cánh tay anh và bóp nắn cánh tay gân guốc.
- Đúng rồi, ính là cậu rồi, không còn nghi ngờ gì nữa, - Tôi tiếp. - Bạn yêu mến của tôi ơi! Tớ hạnh phúc biết bao khi được gặp lại cậu! Hãy ngồi xuống cái đã, và hãy kể vắn tắt o tớ nghe, bằng cá nào cậu thoát khỏi vực thẳm kia?
Holmes ngồi xuống đối diện với tôi, với dáng điệu quen thuộc như xưa, anh lấy thuốc ra âm hút. Anh vẫn đang mặc iếc áo đã sờn với dạng của người bán sá cũ, nhưng những thứ dùng để cải trang như bím tóc bạc, túi đựng sá cũ... đã nằm trên bàn. Tôi có cảm giác anh gầy hơn xưa, cái nhìn của anh có vẻ sắc sảo hơn. Khuôn mặt trắng xanh nhợt nhạt của anh ứng tỏ trong thời gian qua, anh đã nếm nhiều khổ cực, đã trải qua một ặng đường đời khắc khổ không có lợi o sức khoẻ.
- Watson, được duỗi thẳng người ra thật khoan khoái! - Anh lên tiếng, - Một người cao lớn như tớ, không dễ dàng gì mà rút đi một foot; và bắt buộc giữ tình trạng đó suốt mấy tiếng đồng hồ. Bây giờ, úng ta sẽ đề cập đến những vấn đề cực kỳ nghiêm trọng... Tớ muốn cầu cứu sự giúp đỡ của cậu, nếu cậu không phản đối. Cả hai úng mình sẽ phải thức trắng suốt đêm nay với một công việc nặng nhọc đầy nguy hiểm. Tốt nhất, nên để uyện cuộc phiêu lưu của tớ đến lúc công việc kia giải quyết xong xuôi.
- Nhưng tớ đang áy ruột, áy gan vì tò mò. Holmes, tớ nóng lòng được cậu kể ngay bây giờ.
- Cậu có đồng ý đi với mình đêm nay không?
- Đi bất cứ nơi đâu, bất kỳ lúc nào, tùy cậu.
- Hoàn toàn như ngày xưa. úng ta vẫn còn kịp giải lao o thư thả trước lúc lên đường... Nào, bây giờ tớ bắt đầu câu uyện về cái thác nước. Nguyên nhân đơn giản làm o tớ lên được khỏi vực thẳm, là tớ ưa hề bị rơi xuống đó.
- Cậu không bị rơi xuống vực à!
- Đúng thế, Watson ạ, không hề bị rơi. Thế nhưng, mẩu thư tớ viết o cậu hoàn toàn là sự thật. Khi bóng dáng độc ác của giáo sư Moriarty xuất hiện trên lối mòn ật hẹp, ặn ngăn con đường giải thoát duy nhất của tớ, lúc ấy nghĩ, mọi uyện đối với tớ như vậy đã ấm dứt. Trong đôi mắt màu nâu của hắn, tớ đọc được quyết định không thể nào lay uyển nổi về số phận của tớ. Tớ trao đổi với hắn vài ba câu, hắn lị sự o phép tớ được viết một mẩu tin ngắn ngủi, cậu đã nhận được bức thư. Tớ để lá thư cùng hộp thuốc và cây gậy lại, còn tự mình đi theo lối mòn tiến về phía trước. Moriarty đi theo sau tớ từng bước một. Khi đến đoạn cuối cùng của lối mòn, tớ dừng lại, bởi có đi tiếp cũng không còn đường nào hết. Hắn không thèm lấy ra một thứ vũ khí gì, vội lao vào tớ và hắn dùng đôi tay dài ngoằng của mình ộp lấy tớ. Hắn biết, cuộc đời của hắn đã tới số, hắn ỉ cần thực hiện một việc là trả thù tớ. Không thèm buông ra, tớ với hắn giằng co ngay bên mép vực thẳm. Nhưng, nhờ tớ biết vài miếng võ Nhật Bản, khoản này đã giúp tớ không ít trong công việc, tớ kịp thoát ra khỏi người hắn. Hắn thét lên nghe thật man rợ, loạng oạng vài giây, hai tay ới với trong không trung. Mặc dù hắn cố gắng hết sức, nhưng vẫn không thể giữ nổi thăng bằng và ngã xuống. Đứng trên bờ vực thẳm, tớ nhìn theo rất lâu xem hắn bị rơi xuống vực như thế nào? Tớ thấy hắn va vào gờ của một tảng đá và ìm nghỉm dưới nước.
Tôi lắng nghe Holmes kể với tâm trạng hồi hộp vô cùng. Còn anh vẫn thản nhiên, vừa kể vừa thả khói thuốc một cá khoan thai.
- Nhưng còn các vết ân! - Tôi thốt lên. - ính tớ, bằng mắt mình đã trông thấy rõ rành rành hai dãy bước ân cùng đi lên theo lối mòn, dấu quay lại không hề có.
- uyện ấy xảy ra như thế này. Trong giây phút, khi giáo sư Moriarty rơi xuống vực; tớ hiểu rằng, vận may đã đến với tớ một cá không ngờ. Tớ biết rằng không phải ỉ có một mình Moriarty đang tìm cá giết tớ. Ít nhất phải có ba tên đồng bọn, cái ết của thủ lĩnh sẽ đốt áy trong tim bọn nó một sự khao khát trả thù. Đó là một lũ người cực kỳ nguy hiểm. Trong tương lai, sẽ có một tên nào đó trong bọn úng thực hiện mưu đồ làm hại tớ. Nếu úng nghĩ rằng tớ đã ết, thì úng sẽ hành động trắng trợn hơn, ít đề phòng và dễ dàng để lộ tung tí, lúc ấy, sớm hay muộn rồi tớ cũng có ngày tiêu diệt được úng nó. ỉ đến lúc này, tớ mới thông báo o mọi người biết tớ vẫn còn sống! Bộ não của con người làm việc rất nhanh, Moriarty ưa kịp xuống tới đáy của vực nước Reienba tớ đã nghĩ xong kế hoạ đối phó rồi.
Tớ đứng lên và quan sát bức tường đá sừng sững ở sau lưng. Trong đoạn miêu tả về cái ết tang thương của tớ, mà tớ rất thú vị đọc sau đó vài tháng, cậu o rằng: bức tường đá hoàn toàn dựng đứng và trơn tuột. Không phải đúng hết như vậy. Trên tảng đá có vài ỗ gờ nhô ra, có thể đặt ân, bám vào được. Ngoài ra dựa vào các dấu hiệu, tớ tin sẽ có một cái hốc nào đấy ở trên cao... Mỏm đá khá cao, rõ ràng không thể nào trèo lên đỉnh được, và cũng không thể đi theo lối mòn ẩm ướt mà không để lại dấu vết. Thực ra tớ cũng có thể mang giày o gót lộn ngược cũng được, như tớ đã từng làm trong những trường hợp tương tự; nhưng ba dấu giày cùng đi theo một hướng, không thể tránh khỏi sự nghi ngờ rằng cố ý đánh lừa được. Vì vậy tốt nhất cứ liều leo lên cao. Điều này không phải là dễ, thác nước đang réo ầm ĩ phía dưới. Tớ có cảm giác tiếng nói của Moriarty đang gọi tớ từ đáy vực thẳm vọng đến bên tai. Đôi lúc, khi một nắm cỏ nằm lại trên bàn tay, hoặc bàn ân bị trượt theo cái gờ đá ẩm ướt láng lầy, tớ nghĩ rằng mọi việc đã kết thúc. Nhưng tớ vẫn tiếp tục bò lên, cuối cùng tớ bò lên ỗ nứt lở khá sâu mọc đầy rêu xanh. Ở đây, tớ có thề nằm duỗi tay, duỗi ân mà không sợ ai nhìn thấy, tớ nghỉ một lát o sảng khoái. Tớ đã nằm ở đấy, trong lúc đó, cậu và những người được cậu mời tới, đã hoài công dựng lên bức tranh về cái ết của tớ.
Cuối cùng, sau khi đã rút ra kết luận hoàn toàn sai lầm về những diễn biến đã xẩy ra, cậu quay về khá sạn, còn tớ nằm lại một mình. Tớ hình dung cuộc phiêu lưu của tớ đã kết thúc, nhưng một việc khá bất ngờ đã xảy ra, ứng tỏ là có một uyện không kém phần ly kỳ đang ờ đợi tớ. Có một hòn đá to vỡ ra ợt bay vèo qua đầu tớ, rơi xuống lối mòn rồi rơi xuống vực. Lúc đầu tớ cứ nghĩ đó là một uyện tình cờ. Nhưng, sau khi nhìn lên trên, tớ trông thấy một cái đầu của người đàn ông in trên nền trời đang tắt dần nắng. Đúng giây phút ấy, một hòn đá khác bay tới ngay sát cái hõm mà tớ đang nằm, cá đầu tớ ỉ vài in. Tình thế đối với tớ đã quá rõ. Moriarty không phải ỉ đến một mình. Tên đồng bọn của hắn cũng khá nguy hiểm, thằng này ắc đứng cảnh giới, khi thằng Moriarty xông vào tấn công tớ. Từ xa, hắn đã ứng kiến cái ết của thủ lĩnh mình và thấy kẻ thù của hắn đã thoát nạn. Sau khi ờ đợi một lúc, hắn ạy vòng lên đỉnh bằng hướng khác và mưu toan thực hiện việc mà Moriarty đã không thành công.
Watson, tớ suy tính uyện này rất nhanh. Sau khi nhìn quanh, tớ lại trông thấy bộ mặt dữ tợn của hắn và hiểu rằng, hắn là kẻ đã ném thêm viên đá nữa. Tớ quyết định bò xuống đến lối mòn. Tớ không biết, trong trạng thái bình thường, tớ có làm nổi uyện ấy hay không? Tuột xuống khó gấp cả nghìn lần lúc leo lên. Nhưng không hơi đâu mà đắn đo, suy tính. Khi đó tớ đang treo người, hai tay bám vào mép của khe đá. Một viên đá thứ ba bay vù qua đầu tớ. Tụt được nửa đường, bỗng tớ trượt ân một cái, nhưng dẫu sao, tớ cũng đã đến lối mòn. Người bị rá bươm, thấm đầy máu, ba ân bốn cẳng tớ cắm đầu cắm cổ ạy. Trong đêm tối tớ ạy xuyên rừng, xuyên núi 10 dặm và một tuần sau tớ có mặt ở Florence và tin ắc rằng: không một người nào trên đời này biết được số phận của tớ.
ỉ một người biết được bí mật, đó là anh trai tớ - Mycroft. Nghìn lần xin lỗi cậu, Watson. Nhưng tớ bắt buộc phải làm như vậy, cứ để mọi người tưởng tớ ết thật là được rồi. Nếu không, không bao giờ cậu có thể viết lên những điều khẳng định ắc ắn về cái ết của tớ, nếu cậu tin rằng đó là sự thật. Trong ba năm ấy, đôi lần tớ định viết thư o cậu, nhưng mỗi lần như vậy, tớ đành phải dằn lòng, vì sợ rằng mối mật thiết quá ư ặt chẽ giữa cậu và tớ sẽ dễ làm o cậu có sơ suất, và sẽ lộ điều bí mật của tớ. Vì sao iều nay tớ phải tránh mặt cậu, khi cậu làm rơi sá của tớ? Tớ thật liều lĩnh, nếu như cậu kêu lên vì kinh ngạc hoặc vì vui mừng, mọi người sẽ nhìn ằm ằm vào tớ uyện đó sẽ dẫn đến hậu quả không thể cứu ữa được. Còn phải nói o anh Mycroft, thì cực ẳng đã tớ mới thú thật mà thôi, bởi tớ rất cần một món tiền để tiêu xài.
Công việc ở London giải quyết rất tệ, tệ hơn là tớ mong đợi. Sau khi ra tòa, trong băng của Moriarty, còn hai tên đang nằm ngoài vòng pháp luật. Đó là hai tên cướp rất nguy hiểm, cả hai thằng đều là kẻ tử thù của tớ. Vì thế, tớ đã đi u du trong hai năm ở vùng Tibet, và đến thăm thành phố Lhassa, thậm í còn bỏ cả mấy ngày để đến thăm các Lạt ma. Có lẽ cậu đã đọc bài báo nói về vụ ấn động lớn của một người Na Uy, mang tên Sigerson, nhưng cậu làm sao có thể nghĩ rằng, bài ấy là của bạn mình. Tớ còn đi thăm vài nơi ở vương quốc Arập, uyến đi thăm do tớ đề nghị lên ngài Bộ trưởng Ngoại giao.
Sau khi quay về âu Âu, tớ ở lại thăm nước Pháp vài tháng, ở đây tớ tham dự vào công cuộc nghiên cứu, phân tí những ất lấy từ một vùng than đá. Việc này tớ làm ở một phòng thí nghiệm thuộc miền nam nước Pháp - Montpellier, sau khi kết thúc tốt đẹp thí nghiệm và biết được hiện nay ở London ỉ còn sống sót một kẻ thù không đội trời ung của tớ, tớ suy tính uyện trở về. Lúc đó tớ nghe tin vụ ám sát đầy bí ẩn ở phố Park Lane và nóng lòng ra đi. Tớ cũng đã nghiên cứu kỹ vụ này rồi. Đáp số của vụ án mạng sẽ giúp tớ thực hiện ý định của riêng mình. Thế là, tớ vội vã quay về London. Tự tớ đến phố Baker, và đã làm o bà Hudson bị một phen hoảng sợ, lên cơn thần kinh. Anh trai tớ vẫn trông nom căn phòng và mọi giấy tờ vẫn nguyên vẹn như lúc tớ ra đi. Ngày hôm nay, lúc 14 giờ, tớ đã ghé vào căn phòng cũ của mình, ngồi vào iếc ghế bành thân quen, và ỉ mong ước một điều duy nhất là làm sao o người bạn cũ Watson của mình được cùng ngồi ung dung trong một iếc ghế bành khác mà anh ta vẫn thường ngồi.
Câu uyện kinh hoàng tôi đã được nghe trong buổi tối tháng tư là như vậy đấy. Tôi khó lòng tin đó là sự thật. Mặc dù ính mắt tôi đã trông thấy thân hình cao, gầy và khuôn mặt thông minh, cương nghị của người bạn mà tôi nghĩ rằng, không bao giờ tôi còn gặp lại. Không biết bằng cá nào, Holmes đã rõ cái ết của vợ tôi, sự thương cảm được thể hiện trong giọng nói của anh:
- Làm việc! Đó là cá tốt nhất để khuây khỏa nỗi đau khổ, Watson yêu quý - Anh động viên an ủi tôi - Khuya hôm nay, có công việc đang ờ úng mình. Người có diễm phúc hoàn thành sứ mệnh một cá tốt đẹp có thể mạnh dạn tuyên bố rằng, anh ta đã sống một cuộc đời không phải là uổng phí, vô í.
Tôi đã mất công để thuyết phục anh giải thí o rõ.
- Đến sáng mai, cậu sẽ được nghe, được thấy đầy đủ, - Anh đáp. - Còn bây giờ không cần nói tới úng ta còn khối chuyện để tâm sự. Cậu biết đấy, đã ba năm rồi úng mình không được nhìn thấy nhau. Hy vọng úng ta sẽ tâm sự đến 21 giờ 30, rồi sẽ lên đường, đón nhận một cuộc phiêu lưu đầy thú vị trong một ngôi nhà bỏ trống.
Như ngày xưa, khi tôi ngồi cùng với anh trong một cỗ xe đúng giờ đã định, tôi sờ soạng khẩu súng ngắn nằm trong túi, tim đập liên hồi vì hồi hộp đón ờ những sự kiện ưa lường trước được.
Holmes thì trầm ngâm, đăm chiêu suy nghĩ. Khi ánh sáng của ngọn đèn đường hắt vào khuôn mặt khắc khổ của anh, tôi thấy anh khẽ ngước đôi lông mày, còn cặp môi mỏng thì mím ặt, ứng tỏ anh đang suy nghĩ rất căng thẳng. Tôi không biết, úng tôi đang săn đuổi con thú ranh mãnh nào đây trong khu rừng rậm của thế giới tội phạm tại London. Nhưng tất cả dáng điệu của một người thợ săn đầy lão luyện như báo o tôi rằng, cuộc trinh thám này sẽ là cuộc trinh thám nguy hiểm nhất, ác liệt nhất. Nụ cười mỉa mai thường xuyên xuất hiện trên gương mặt đăm iêu của bạn tôi không hứa hẹn một điều gì tốt đẹp o con thú úng tôi đang săn đuổi.
Tôi đinh ninh rằng, thế nào úng tôi cũng ghé về phố Baker, nhưng Holmes lại ra lệnh cho người xà í dừng xe ở góc phố Cavendish. Trong lúc bước xuống xe, anh cẩn thận quan sát, nhìn soi mói vào từng ngóc ngá; kiểm lại xem có cái đuôi nào bám sau không. úng tôi bước vào một cái ngá trông rất lạ. Holmes luôn luôn làm o tôi thán phục về sự hiểu biết tường tận khá nhiều góc hẻm ở London. Anh ung dung tự tin bước vào một góc tối đầy uồng ngựa, đi qua những cái sân hôi hám, nhớp nhúa; tôi không thể tin sự tồn tại có mặt của những thứ ấy. Cuối cùng úng tôi lọt vào một cái hẻm ật hẹp, có hai dãy nhà cũ kỹ, tối tăm ở hai bên. Đường này dẫn úng tôi ra phố Manester, rồi đến phố Blandford. Holmes nhanh nhẹn nhảy sang một lối hẹp khác, đi qua một hộc cửa bằng gỗ, lọt vào cái sân vắng vẻ. Anh dùng ìa khóa mở cửa sau một ngôi nhà. úng tôi bước vào, ngay lập tức anh khóa trái cửa lại.
Dù trời rất tối, nhưng tôi hiểu ngay là ngôi nhà này không có người ở. Nền nhà không lót thảm, kêu lên răng rác; lạo xạo dưới phân, tôi vô ý ạm phải những bức tường, nhiều tờ giấy dán tường bị bong ra treo trên đầu úng tôi. Những ngón tay gầy, lạnh lẽo của Holmes bóp ặt bàn tay tôi, anh dẫn tôi theo một hành lang dài, cuối cùng trước mắt úng tôi hiện ra một cái vòm cửa sổ nửa cong, nửa thẳng đứng kín đáo, nằm trên ỗ cửa ra vào. Bỗng dưng Holmes quay về bên phải, và úng tôi lọt vào một căn phòng hình vuông rộng lớn nhưng bị bỏ hoang; các góc, xó hoàn toàn tối om, nhưng ở giữa phòng thì được lờ mờ ánh sáng ngọn đèn đường. Cạnh cửa sổ không có một ngọn đèn nào, còn tấm kính trên cửa sổ thì bị một lớp bụi dày bao phủ. úng tôi nhận ra nhau khá ật vật.
Holmes đặt tay lên vai tôi, và cúi sát môi vào tai tôi.
- Cậu có biết úng ta đang ở đâu không? - Anh thầm thì hỏi.
- Dường như trong phố Baker, - Tôi vừa nhìn vào tấm kính mờ đục vừa nói.
- Đúng như vậy, úng ta đang đứng ở nhà Camden, đối diện với căn buồng trước kia của úng mình.
- úng mình đến đây làm gì?
- Đến đây để nhìn hình dạng tuyệt vời của ngôi nhà kia. Không biết có nên tiến sát vào cánh cửa sổ không? Nhưng hãy thật thận trọng, đừng để ai phát hiện ra cậu. Cậu thử nhìn vào cửa sổ của buồng cũ úng mình đi, nơi đó đang mở ra những cuộc trinh thám đầy thú vị. Cậu thử xem, tớ đã mất khả năng làm cậu kinh ngạc ưa, sau ba năm trời phiêu bạt?
Tôi nhẹ nhàng, cẩn tắc tiến về phía trước, nhìn vào khung cửa sổ vô cùng thân thuộc... Bỗng nhiên tôi thốt lên một tiếng kinh ngạc, bức rèm được buông xuống, đèn sáng rực rỡ, có một người ngồi trên iếc ghế bành kê ở giữa phòng, hắt bóng rất rõ lên nền sáng của cánh cửa sổ. Từ đầu, đến đôi vai rộng, o đến khuôn mặt xương xương, cái đầu hơi xoay nghiêng, tạo nên một dáng dấp mờ ảo, những bà cụ rất thí được vẽ kiểu ấy... Không còn gì nghi ngờ, đấy ính là một bản sao hoàn hảo ính xác con người Sherlock Holmes. Tôi kinh ngạc đến nỗi phải đưa tay lên sờ vào người anh để khẳng định anh vẫn đứng bên cạnh tôi.
Holmes cười không thành tiếng.
- Thế nào? - Anh hỏi.
- uyện này khó tin được! - Tôi thì thầm nói.
- Dường như, năm tháng không cướp đi khả năng sáng tạo của mình, còn thói quen cũng không vì thế bị khô mòn, - Anh nói.
Tôi cũng bắt gặp trong giọng nói anh một niềm vui sướng, kiêu hãnh của nhà họa sỹ đang thưởng thức công trình tuyệt tác của mình.
- Cậu thấy có thật giống mình không?
- Tớ nghĩ rằng, đây ính là cậu đang ngồi. Vinh dự này thuộc về ngài Meunier[2] ở Grenoble. Ông ta đã tạc tượng tớ trong vòng có vài ba ngày. Nó được làm bằng sáp. Những phần còn lại tớ tự sắp đặt khi tớ quay về hẻm Baker sáng sớm hôm nay.
- Nhưng cậu làm thế nhằm mục đí gì?
- Tớ có nguyên nhân ính đáng. Tớ muốn một số người nào đó cứ đinh ninh là tớ đang ngồi ở nhà, trong khi ấy, thực tế tớ lại ngồi ở một nơi khác.
- Có nghĩa là cậu nghĩ rằng, có một bọn nào đó đang rình mò căn hộ ư?
- Tớ biết, có kẻ đang rình mò căn nhà.
- Kẻ đó là ai?
- Những kẻ thù của tớ. Cái băng đầy hấp dẫn mà tên thủ lĩnh đã vĩnh viễn nằm ôn vùi dưới đáy thác nước Reienba. Cậu biết đấy, ỉ có bọn nó mới biết ính xác là tớ vẫn còn sống. úng nó tin ắc, dù sớm hay muộn rồi tớ cũng quay về căn phòng cũ của mình. Tụi nó ưa ịu từ bỏ ý định theo dõi rình rập để hại tớ. Sáng nay úng đã thấy tớ quay về nhà.
- Làm sao cậu đoán được điều đó?
- Trong lúc nhìn qua cửa sổ, tớ nhận ra một thằng thám thính của úng. Tên của hắn là Parker, uyên ăn cướp, giết người, đồng thời còn là một nhà tổ ức thiên tài. Tớ ú ý đến thằng này ít thôi. Một thằng khác làm cho tớ ú ý nhiều hơn, đáng gờm hơn là thằng núp sau lưng tên Parker. Đó là kẻ thân cận nhất của tay Moriarty. ính hắn đã dùng đá ném tới tấp vào tớ từ ngọn núi đá. Hắn là một tên tội phạm ranh ma, xảo quyệt nhất, nguy hiểm nhất hiện nay ở London. ính hắn đêm nay sẽ đi săn tớ, và hắn đâu ngờ rằng, úng ta lại săn hắn.
Kế hoạ của Holmes dần dần làm o tôi sáng tỏ. Từ ỗ ẩn nấp thuận tiện này, úng tôi có khả năng theo dõi tất cả những ai có ý đồ theo dõi úng tôi. Dáng dấp bóng người thấp thoáng bên cửa sổ là một miếng mồi, còn úng tôi là những tay thợ săn.
Vai kề vai, úng tôi đứng lặng im trong bóng tối ăm ú ngắm nhìn những bóng người lượn qua lượn lại. Đêm ấy, thời tiết rất xấu, trời trở lạnh tê tái, gió thổi dọc theo dãy phố một cá dữ dội, gay gắt. Người đi lại ngoài đường khá đông, hầu như ai bước đi cũng rất vội, họ đều cố kéo cơm áo hoặc mũ e kín mũi o đỡ lạnh.
Tôi có cảm giác một người nào đó cứ đi qua đi lại sát ngôi nhà, đặc biệt có hai người làm o tôi nghi ngờ hơn cả. Họ làm như thể tránh gió, nên bước vào một cánh cổng cá úng tôi không xa. Tôi định bụng sẽ báo o Holmes biết, nhưng anh trả lời tôi với một giọng bực bội rồi tiếp tục theo dõi động tĩnh ngoài đường. Thỉnh thoảng anh đổi ân cho đỡ mỏi hoặc lấy ngón tay gõ gõ vào bức tường. Tôi thấy anh có vẻ không vui, hình như sự việc xảy ra không hoàn toàn đúng như kế hoạ. Trời uyển về khuya, đường phố tĩnh mị vắng vẻ Holmes đi lại trong phòng, anh bồn ồn lo lắng, hồi hộp. Vừa máy miệng định nói một điều gì nhưng tôi lại một lần nữa sửng sốt, kinh ngạc.
- Bức tượng cử động kìa! - Tôi thốt lên.
Rất rõ, bóng hình kia quay về phía úng tôi, không phải bên hông, mà là quay hẳn lưng lại.
Năm tháng không làm cho tính cách của Holmes thay đổi út nào, anh vẫn là người điềm đạm, nhẫn nại, luôn thể hiện trí thông minh, đầu óc suy luận sắc sảo, nhìn nhận rất tinh tế.
- Phải làm như thật, - Anh đáp. - ẳng lẽ tớ lại là một kẻ ngu ngốc không có bộ não hay sao? Đặt trong phòng một hình nộm bất động không xua được ruồi thì quả là rất lộ liễu, phải ăng nhờ nó mà có thể đánh lừa được những kẻ ranh ma nhất âu Âu ư? úng mình thu lu trong xó xỉnh này đã hai giờ đồng hồ, trong lúc đó bà Hudson đã thay đổi vị trí bức tượng tám lần. Cứ mười lăm phút một lần, với điều kiện là bà sẽ không để in bóng mình o người ngoài trông thấy.
Bỗng nhiên anh im lặng, nín thở. Trong cảnh nhá nhem, tôi trông thấy anh dướn cổ lên trong tư thế ờ đợi rất căng thẳng.
Đường phố đã hoàn toàn vắng ngắt. Có lẽ, hai tên đứng nấp trong hẻm vẫn còn. Nhưng tôi không tài nào nhìn thấy úng. Xung quanh tôi một màn đen và sự im ắng bao trùm. Trong bóng đêm, màu vàng của cánh cửa sổ được iếu sáng rực cùng với bóng của hình người ngồi giữa phòng, càng nổi bật rõ nét. Không gian im ắng đáng sợ, tôi nghe thấy iếng thở khò khè của Sherlock, ắc anh rất hồi hộp o kế hoạ của mình. Bỗng nhiên anh ấn sâu tôi vào góc căn phòng, ỗ tối nhất, và lấy tay bịt miệng tôi lại, bằng cá này anh muốn nhủ tôi phải tuyệt đối im lặng. Lúc này, tôi thấy những ngón tay của anh run run. ưa bao giờ tôi được ứng kiến anh bị kí động, căng thẳng đến tột độ như vậy. Đường phố vẫn tạnh ngắt, yên ả không có gì xẩy ra hết. Bỗng nhiên, tôi nghe thấy một âm thanh khe khẽ, rì rầm vang đến tai tôi, âm thanh mà đôi tai cực nhậy của Holmes đã nghe thấy trước. Tiếng động không phải phát ra từ phố Baker, mà ính trong ngôi nhà úng tôi đang nấp. Cửa ra vào được mở ra, rồi đóng lại. Có tiếng bước ân rón rén vang lên khe khẽ ngoài hành lang. Người đi cố giữ o bước ân khỏi kêu to, nhưng trong căn nhà hoang này nó vẫn dội lên những âm thanh khá to.
Holmes đứng dựa sát vào tường, tôi cũng làm theo và nắm ặt khẩu súng ngắn, căng mắt nhìn vào bóng tối. Tôi nhận ra lờ mờ bóng dáng một người đàn ông, bóng đen hơi sẫm hơn so với tấm khung hình ữ nhật của cánh cửa đã mở. Hắn đứng im ở đó ừng một phút, rồi nhẩy xuống và rón rén tiến về phía trước. Mọi cử ỉ hành động của hắn đều chứa đựng một mối đe dọa. Thân hình dữ tợn của hắn đứng cá úng tôi có ba bước. Tôi lên gân cốt, uẩn bị đối phó với cuộc tấn công. Nhưng hắn không hề biết có úng tôi ở đây.
Hắn đi ngang qua ỗ úng tôi đứng, suýt nữa thì ạm phải nhau. Hắn rón rén tiến đến gần cửa sổ rất thận trọng không hề một tiếng động, hắn nhấc cánh cửa lên cao nửa foot. Khi hắn trèo lên để mở chốt cửa, ánh sáng đèn đường hắt qua tấm kính bẩn thỉu soi rõ bộ mặt hắn, một bộ mặt dễ làm o úng ta kí động cao độ. Cặp mắt áy lên một cá man rợ, nét mặt biến dạng kinh khủng.
Hắn không còn trẻ trung gì nữa, có một iếc mũi quặp như mỏ diều hâu, trán hói khá cao, bộ râu bạc trắng rất dài. Mũ của hắn được kéo xuống tận gáy, iếc áo bành tô hở cúc, để hở ra một khoảng trắng trước ngực - iếc yếm hồ trắng. Bộ mặt rám nắng, đen đủi hằn đầy những vết nhăn sâu hoắm. Trong tay hắn cầm một vật đại loại như cây batoong, nhưng khi hắn đặt xuống nền nhà, nó phát ra một tiếng kêu "keng" của kim khí. Hắn lôi từ trong túi ra một vật gì đó khá lớn: hắn loay hoay với đồ ấy ừng vài phút; o đến khi một âm thanh kim khí phát ra, có lẽ, hắn kéo một iếc lò xo hay cái then ốt. Ngồi bằng đầu gối, hắn tiến về phía trước và với tất cả sức nặng của bản thân, hắn đè lên một đòn bẩy. úng tôi nghe thấy một âm thanh dài dữ dội, có phần kêu to hơn lúc trước. Hắn đứng thẳng người lên, tôi trông thấy trong tay hắn không phải cái gì xa lạ mà là khẩu súng săn, có cái báng kỳ lạ, xấu xí. Hắn mở khoá, kéo cò bấm và đặt một vật gì vào bên trong xong cài ốt lại. Hắn quỳ xuống, đặt đầu nòng súng lên bệ cửa sổ, bộ râu dài của hắn ấm sát tận nòng, cặp mắt hắn long lanh dữ tợn. Hắn đặt súng tỳ vào vai và thở ra khoan khoái: tấm bia đang đứng trước mặt hắn - tấm bia kỳ lạ, bóng dáng đen đen soi rõ trên nền sáng. Hắn lưỡng lự một lát sau đó đặt tay lên cò súng, một tiếng "vù" là lạ phát ra, tiếp theo là tiếng kính vỡ loảng xoảng.
Ngay lúc đó Holmes bỗng nhảy bổ ra như một con hổ, anh ộp ngay lưng kẻ vừa bắn và quật hắn ta úp mặt xuống sàn. Nhưng một giây sau, kẻ bị quật ngã đã đứng dậy được, với một sức mạnh không ngờ hắn tóm lấy cổ Holmes. Tức thì, tôi dùng báng súng nện mạnh vào đầu kẻ hành hung, hắn ngã xuống, tôi nằm đè lên. Lúc đó Holmes thổi còi. Ngoài đường một tốp người đã ạy tới, có hai cảnh sát quân phục đầy đủ, cùng một vị thám tử, từ cổng ính bước vào phòng.
- Có phải Lestrade đó không? - Holmes hỏi.
- Tôi đây, thưa ngài Holmes. Tôi định tự mình sẽ giải quyết việc này. Rất vui mừng lại được gặp ngài ở London.
- Sự giúp đỡ nhỏ mọn, không đáng kể của úng tôi ắc không cản trở các ngài? Trong một năm có ba vụ án mạng không được phát hiện, cũng hơi nhiều đấy Lestrade ạ. Nhưng câu uyện bí mật ở Molesey, ngài tiến hành không đến nỗi nào... nghĩa là ngài giải quyết vụ ấy không đến nỗi tồi.
úng tôi đứng lên. Còn tên hung thủ thì thở hổn hển trong cánh tay của hai viên cảnh sát lực lưỡng. Một đám đông những kẻ rỗi việc bắt đầu tụ tập ngoài đường. Holmes tiến đến bên cửa sổ, đóng lại. Lestrade âm hai ngọn nến vừa mang tới, còn các vị cảnh sát thì bật công tắc đèn Pile bỏ túi. Tôi có dịp quan sát kẻ sát nhân kỹ càng hơn.
Hắn có bộ mặt rất đàn ông, trông rất đáng ghét. Vầng trán như một triết gia, cái cằm như của một người thí nói những lời ngọt ngào, êm dịu. Những cái đó, ứng tỏ con người hắn cũng có một khả năng làm những điều tốt lành, cũng như làm những điều ác độc. Nhưng cặp mắt dữ dằn màu ánh thép, bộ lông mi rậm cái nhìn trâng tráo, iếc mũi quặp ác thú và những nếp hằn sâu trên trán đã tự tố cáo lên bản ất của hắn, những dấu hiệu báo trước o xã hội biết những dã tâm nguy hiểm. Hắn không thèm nhìn lên bất cứ người nào trong số úng tôi. Cái nhìn của hắn như cắm ặt vào khuôn mặt của Sherlock Holmes, hắn nhìn với một sự kinh ngạc và hằn học.
- Con quỷ! - Hắn lẩm bẩm. - Một con quỷ ranh ma, xảo quyệt!
- Đại tá, - Holmes nói, và sửa lại cổ áo bị nhàu, - Những người bạn chí cốt lại gặp nhau, như lời người xưa thường nói. Tôi ưa có dịp gặp lại ngài sau lần ngài đã theo dõi tôi một cá trắng trợn. Ngài hẳn còn nhớ, khi tôi nằm ở khe hở của núi đá tại thác nước Reienba.
Ngài đại tá có lẽ đang bị thôi miên, hắn không thể nào bứt cái nhìn ra khỏi Sherlock Holmes.
- Con quỷ, con quỷ có thật! - Hắn cứ lặp đi, lặp lại câu nói đó.
- Tôi ưa kịp giới thiệu o các vị - Holmes lên tiếng. – Các vị biết không, đây là ngài đại tá Sebastian Moran, một cựu sĩ quan trong đội quân của hoàng gia đóng ở Ấn Độ, và là một thợ săn thú dữ tài ba, có một thời nổi tiếng oanh liệt ở những vùng thuộc địa Đông phương. Tôi nghĩ, tôi không nhầm ngài đại tá ạ, có phải về số hổ báo săn bắn được, hiện nay ngài đang giữ kỷ lục phải không?
Tên tù binh thật vất vả lắm mới kìm được cơn phẫn nộ, hắn tiếp tục nín thinh. ính hắn cũng đã giống một con hổ rồi, cặp mắt của hắn long lên dữ tợn, ria mép cũng xù lên.
- Tôi rất ngạc nhiên vì sự đánh lừa quá ư đơn giản đã đưa một thợ săn dày dạn kinh nghiệm vào tròng, - Holmes tiếp tục, - Đối với ngài điều này đâu còn là mới mẻ. ẳng lẽ, ưa bao giờ ngài buộc một con dê dưới một gốc cây, còn ngài thì leo lên cây rậm rạp với khẩu súng săn hoặc carbine trong tay, để ờ con cọp dẫn xác đến con mồi hay sao? Ngôi nhà bỏ trống này là cái cây của tôi, còn ngài là con hổ của tôi. Tôi nghĩ rằng, đôi khi ngài cũng phải dùng những phát đạn dự trữ trong trường hợp, cùng một lúc có nhiều con hổ xuất hiện, hoặc hãn hữu cũng có đôi lúc ngài bắn trượt ứ. Mấy vị này, - Anh nói và ỉ vào úng tôi, - là những phát súng dự phòng của tôi. Sự so sánh của tôi ính xác đấy ứ?
Bất thình lình, đại tá Moran tức tối ồm lên phía trước, nhưng hai người cảnh sát đã kịp giữ hắn lại. Bộ mật của hắn thể hiện nỗi hằn học, nhìn vào đó chúng tôi thấy kinh khủng, gớm ghiếc.
- Thú thật, ngài đã mang đến cho tôi một món quà nho nhỏ, - Holmes tiếp tục công kí. - Tôi không ngờ, ính ngài cũng muốn sử dụng ngôi nhà bỏ trống này, quả thật thuận lợi. Tôi nghĩ thế nào ngài cũng hành động từ ngoài phố, ở đấy có anh bạn Lestrade của tôi cùng những thủ hạ của anh ta đã đợi ờ ngài sẵn. Trừ i tiết ấy ra, còn mọi việc đều tiến triển đúng như tôi dự định.
Đại tá Moran quay sang phía Lestrade.
- Không kể những cái ấy, ngài có đủ ứng cớ, cơ sở để bắt tôi, hay là ngài không có đủ cơ sở? - Hắn ta nói, - Tôi không thể nào ịu đựng nổi những lời lẽ nhạo báng của con người kia. Nếu tôi ở trong tay luật pháp, thì cứ để pháp luật giải quyết.
- Điều này công bằng thôi, - Lestrade nhận xét. - Trước khi úng tôi ra về, ngài còn muốn nói điều gì nữa không, thưa ngài Holmes.
Holmes nhặt khẩu súng hơi đồ sộ lên, và quan sát cơ cấu của khẩu súng.
- Khẩu súng có một không hai này mới tuyệt làm sao - Anh thốt lên. - Bắn không nghe tiếng kêu, nhưng có sức công phá và hủy diệt rất lớn. Tôi biết một nhà cơ khí người Đức, tên là Von Herder. Ông ta đã thiết kế khẩu súng này theo đơn đặt hàng của ngài giáo sư Moriarty. Từ lâu tôi đã nghe tiếng tăm khẩu súng, nhưng ưa bao giờ có vinh dự được cầm nó trên tay. Tôi đặc biệt lưu ý ngài về khẩu súng này, và cả cá nạp đạn o nó nữa, thưa ngài Lestrade.
- Ngài không phải bận tâm, thưa ngài Holmes, úng ta còn dịp quay lại vấn đề này. - Khi tất cả mọi người tiến sát đến cánh cửa ra vào, Lestrade đáp - Đó là tất cả những gì ngài muốn nói?
- Vâng, tất cả, nhưng ngài định khép tên này vào tội gì?
- Còn tội gì nữa, thưa ngài? ẳng hạn như tội mưu sát ngài Sherlock Holmes.
- Ôi! Không phải như vậy đâu! Tôi không muốn dính líu vào vụ này. ỉ có ngài mới được lãnh trọng trá làm công việc bắt bớ tuyệt vời này, ngài đã tốn công sức đề tiến hành. Xin úc mừng ngài Lestrade! Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa khả năng hiếm có và lòng quả cảm, đầy mưu lược, cuối cùng ngài đã bắt được kẻ kia.
- Người kia là ai vậy? Hắn ta là ai, thưa ngài Holmes.
- Người mà, cả ngành cảnh sát đã hoài công tìm kiếm, truy nã. Đại tá Sebastian Moran, kẻ mà vào đêm 30 tháng trước đã bắn ết ngài Ronald Adair bằng khẩu súng hơi, bắn qua cửa sổ tầng hai ngôi nhà 427, phố Park Lane. úng ta cần lời buộc tội như vậy... Còn bây giờ, Watson, nếu cậu không sợ gió lùa từ cánh cửa sổ bị vỡ kính, thì úng ta sẽ cùng nhau ngồi trong phòng tớ, và hút với nhau điếu thuốc. Tớ hy vọng sẽ làm o cậu khuây khỏa phần nào.
* * *
Sự quan tâm thường xuyên của anh Mycroft Holmes và sự ăm sóc tận tụy của bà Hudson, căn hộ của úng tôi vẫn như xưa, không hề có gì thay đổi. Thú thật, khi bước vào, tôi lấy làm ngạc nhiên vì sự tươm tất hiếm có, mọi thứ thân thuộc quen biết đều nằm ở vị trí cũ. Ở góc dành riêng o những thí nghiệm hóa học, một iếc tủ bằng gỗ thông vẫn như xưa, vẫn những vết ố do acide mạnh. Trên giá những ồng sá tra cứu, những mẩu tin cắt từ các tờ báo vẫn được sắp xếp ngay hàng thẳng lối. Ôi, tôi ỉ muốn ném hết những thứ ết tiệt kia vào lửa o rảnh! Khi tôi nhìn hết một lượt, thì những bản biểu đồ, hộp đựng đàn violone, iếc hộp Ba tư đựng thuốc lá lại hiện lên trước mắt tôi. Hai người có mặt trong phòng. Một là bà Hudson ạy vồn vã đón mừng úng tôi với nụ cười lấp láy trên môi. Người thứ hai, người mặc đồ màu cũ kĩ, đã đóng một vai rất quan trọng trong những sự kiện đêm hôm qua. Đó là bức tượng bằng sáp của bạn tôi, đã được tô màu, được tạc thật khéo léo do một bàn tay điêu luyện nhào nặn, trông giống như thật.
Bức tượng được đặt trên một iếc ghế đẩu không cao, được khoác iếc áo bành tô cũ của Sherlock Holmes trông rõ khéo, từ ngoài đường nhìn vào thì khó ai tưởng đó là tượng.
- Bà đã thực hiện tất cả ỉ dẫn của tôi một cá tuyệt vời. - Holmes nói.
- Tôi phải bò bằng đầu gối để tiến sát bức tượng, như ngài ỉ bảo thưa ngài.
- Tốt, bà đã làm việc đó không thể ê vào đâu được Bà có thấy viên đạn đâm vào đâu không?
- Có thưa ngài. Tôi sợ viên đạn làm hỏng mất bức tượng đẹp đẽ của ngài. Nó xuyên qua đầu và cắm vào tường. Tôi nhặt nó lên từ tấm thảm. Nó đây.
Holmes ìa o tôi xem đầu đạn.
- Đầu đạn súng lục mềm mại, Watson, cậu hãy nhìn xem. Thật là cự phá! Có ai dám nghĩ viên đạn này lại được bắn ra từ khẩu súng hơi? Rất tuyệt, bà Hudson, xin cảm ơn bà vì sự giúp đỡ... Còn bây giờ, Watson, cậu hãy ngồi vào vị trí cũ của mình như thuở nào. Tớ muốn tâm sự với cậu đôi điều.
Anh cởi iếc áo khoác ra, rồi lấy iếc áo oàng trên bức tượng khoác vào. Trước mặt tôi lại xuất hiện một Sherlock Holmes ngày xưa.
- Thần kinh của người thợ săn già vẫn còn vững, cặp mắt vẫn còn tinh. - Anh nói và cười, vừa nhìn cái sọ của bức tượng bằng sáp bị bắn thủng. - Bắn trúng ính giữa gáy và làm ảy não. Đúng là một tay thiện xạ của rừng nhiệt đới ở Ấn Độ. Tớ nghĩ rằng, ở London này đị thủ của hắn không phải là nhiều. Trước kia cậu có bao giờ nghe tên hắn hay ưa?
- Không, tớ ưa từng nghe.
- Ừ nhỉ, thế mà tớ quên! Cá đây không lâu, cậu đã thú nhận, thậm í cậu còn ưa nghe đến tên giáo sư James Moriarty, đó là một bộ óc của thế kỷ úng ta. May quá, cậu lấy giúp cặp đựng tài liệu theo dõi tiểu sử...
Sau khi ngồi lại ngay ngắn, thả người thoải mái trong iếc ghế bành và khoan khoái thở ra từng đụn khói thuốc, Holmes lơ đễnh lật từng trang giấy.
- Vần ữ "M", tớ có một bộ sưu tầm khá hoàn ỉnh, - Anh nói. - ỉ một cái tên Moriarty, cũng đủ làm o vần "M" trở nên nổi tiếng. Còn cái tên Morgan là một tên ghê tởm. Tên Merridew, có một trí nhớ khó ai sánh kịp. Tên Mathews - ính là tên làm gẫy iếc răng nanh bên trái của tớ ở phòng đợi nhà ga aring Cross. Còn đây là anh bạn của úng mình ngày hôm nay.
Anh đưa o tôi tập tài liệu, tôi đọc:
"Moran Sebastian, đại tá nghỉ hưu. Từng phục vụ trong trung đoàn biệt kí số một ở Bangalore. Sinh năm 1840 tại London. Con trai của ngài Augutus Moran người - được thưởng huân ương Banhi, từng công tác tại dinh toàn quyền Anh tại Persia. Tốt nghiệp trường trung học Eton và đại học tổng hợp Oxford. Từng tham gia các iến dị Jowaki, Afghan, arasiab, Sherpur, Cabul. Là tác giả của các cuốn sá "Cuộc đi săn mãnh thú ở miền Tây Himalayas" (1881); và "Ba tháng sống trong rừng nhiệt đới" (1884). Địa ỉ Phố Conduit. Tham gia các câu lạc bộ: Anh - Ấn, Tankerville, câu lạc bộ ơi bài Bagatelle".
Ngoài lề được ghi bằng nét ữ của Holmes:
"Một tên nguy hiểm nhất của London, đứng sau Moriarty".
- Thật kỳ lạ! - Tôi lên tiếng, và đưa trả Holmes cặp tài liệu. - Dường như cuộc đời của hắn là bước đường của một người lính trung thành.
- Cậu nói đúng. - Holmes đáp. - Trước kia hắn không hề làm việc gì xấu xa. Hắn là con người có bộ thần kinh bằng thép, ở Ấn Độ đến bây giờ vẫn lưu truyền một huyền thoại kể rằng: Hắn ta đã bò trong lòng một con sông cạn, đã cứu thoát một người khỏi những móng vuốt của một con hổ bị thương. Có những cây gỗ, lúc đầu mọc, phát triển bình thường, rồi đến một độ cao xác định nào đó, bỗng nhiên phát hiện trong quá trình phát triển của mình một sự biến đổi kỳ quặc so với mức bình thường. Đối với con người cũng xẩy ra điều tương tự. Theo thuyết của tớ, mỗi cá nhân trong quá trình phát triển, đều lặp lại lị sử phát triển của tất cả tổ tiên. Tớ o rằng, mỗi một biến động bất ngờ về phía lương thiện hay độc ác đều phụ thuộc vào điều kiện khá quan tác động rất mạnh; muốn biết được quá khứ của một người, cần phải lục xem trong gia phả người ấy; và suy luận rộng ra, tiểu sử của một con người, đó như là một mẩu nhỏ trong tiểu phẩm cả tiểu sử của toàn bộ gia đình.
- Thôi được, nhưng tớ thấy cái, thuyết lý của cậu hơi viển vông.
- Tớ sẽ ấm dứt câu uyện. Có những nguyên nhân này, hoặc nguyên nhân khác, đã đẩy đại tá Moran đi theo con đường ngu xuẩn. Khi còn ở Ấn Độ có một kẻ đê tiện đã dựng lên câu uyện nào đó gây căng thẳng o ông ta, nhằm ống ông ta một cá kị liệt, đến nỗi ông ta không thể nào ở lại được nữa. Ông ta xin về hưu, trở lại đất London, và tại đây ông ta đã bước vào con đường tội lỗi. Giáo sư Moriarty đã phát hiện ra ông ta, trong một thời gian dài ông ta là cánh tay phải của Moriarty. Thằng giáo sư này cung cấp tiền nong o ngài đại tá tiêu xài một cá phóng khoáng. Nhưng rất hãn hữu mới cần tới sự giúp đỡ của hắn. ỉ trong hai hoặc ba trường hợp khó khăn mà những tên tội phạm bình thường không thể đảm đương nổi. Có lẽ, cậu còn nhớ cái ết kỳ quặc của bà Stewart ở Lauder năm 1887? Không nhớ à? Tớ ắc ắn uyện này không thể không có tay Moran nhúng vào, mặc dù không có ứng cớ để buộc tội hắn ta. Ngài đại tá có nghệ thuật giấu mình một cá tài tình. Khi cả băng của Moriarty bị tóm hết, thì ỉ riêng hắn là không làm sao lôi cổ ra tòa được.
Watson, cậu còn nhớ buổi tối, khi tớ đến ỗ cậu, tớ phải kéo rèm cẩn thận không? Tớ sợ phát súng bắn ra từ khẩu súng hơi đặc biệt. Lúc bấy giờ cậu o tớ là kỳ quặc, nhưng tớ biết mình cần phải làm gì. Tớ đã nghe nói về khẩu súng đặc biệt kia rồi. Hơn nữa, tớ biết khẩu súng đang nằm trong tay một nhà thiện xạ. Khi tớ với cậu đi sang Thụy Điển, Moran và Moriarty đã đuổi theo úng ta, và ính hắn đã làm o tớ bàng hoàng trong mấy phút ở khe lở của thác Reienba.
Cậu biết không, khi còn ở bên Pháp tớ vẫn thường xuyên theo dõi tin tức trên báo í Anh, tớ hy vọng sẽ tìm ra đầu mối nào đó để bắt hắn ta phải ngồi vào lồng sắt. Khi hắn còn nhởn nhơ dạo ơi trên đất London thì tớ ưa thể tính uyện về được. Cả ngày lẫn đêm, mối đe dọa kia cứ ám ảnh tớ, dứt khoát hắn sẽ tìm mọi cá để giết tớ. Tớ phải làm gì? ẳng lẽ gặp trực tiếp và bắn ết hắn? Tớ không thể làm như vậy được. Vì lúc ấy, ính tớ sẽ bị ngồi vào ghế bị cáo. Trực tiếp đến báo với tòa? Không í lợi gì, vì tòa sẽ không đủ ứng cớ để xét xử, ẳng lẽ xử hắn bằng những vấn đề nghi vấn? Tớ bất lực hoàn toàn, không có cá nào để giải thoát được. Tớ đã trải qua một quá trình kiên trì không mệt mỏi theo dõi hắn bằng tin tức các vụ án, bởi tớ tin như đinh đóng cột rằng dù sớm hay muộn tớ cũng phanh phui ra hắn.
Vụ ám sát đầy bí ẩn anh àng Ronald Adair đã dẫn đến sự ín muồi của những ngày kiên trì mong đợi, giờ khởi hành đã đến. Không biết tớ có dám khẳng định Moran đã bắn ết àng Ronald hay không? Hắn ta đã cùng ơi bài với àng thanh niên, và bám gót anh ta từ câu lạc bộ về nhà, sau đó bắn ết àng trai quá cửa sổ đã mở. Đúng, không còn nghi ngờ gì nữa. ỉ một đầu đạn, cũng đủ ứng cớ để ngài đại tá Moran ui vào giá treo cổ. Ngay lập tức tớ quay về London. Tên cận vệ của Moran đã phát hiện ra tớ, hắn kịp thời thông báo o Moran. Thằng này thế nào cũng biết mối liên hệ giữa vụ án mạng và sự quay về của tớ, hắn sẽ lo lắng mất ăn mất ngủ. Tớ tin, hắn sẽ khử tớ ngay lập tức, không ậm trễ. ắc ắn hắn sẽ dùng thứ vũ khí giết người độc đáo - khẩu súng hơi. Tớ phải uẩn bị đón hắn, thế là bức tượng bằng sáp được ra đời không ê vào đâu được. Tớ báo trước o bên cảnh sát, để họ giúp một tay (với con mắt tinh ranh cậu đã phát hiện ra hai viên cảnh sát thấp thoáng ỗ cổng ra vào). Tớ ọn địa điểm rất thuận tiện o việc quan sát, nhưng thú thật tớ không ngờ đối thủ của tớ cũng chọn đúng vị trì ấy để tấn công. Tất cả ỉ có thế, Watson. Chắc cậu đã hiểu mọi uyện.
- ưa hết, - Tôi nói. - Cậu chưa giải thí o tớ uyện vì sao ngài đại tá Moran lại bắt buộc phải thủ tiêu anh àng Adair ?
- Anh bạn của tôi ơi, úng ta lại rơi vào lĩnh vực đoán mò rồi, trong lĩnh vực này i có logic không thì quả là quá ít ỏi. Mỗi người có thể xây dựng riêng o mình một giả thuyết, dựa trên cơ sở những dữ kiện đang tồn tại. Giả thuyết của cậu cũng có khả năng trùng với giả thuyết của tớ.
- Có nghĩa là, cậu đã nghĩ ra giả thuyết?
- Theo tớ nghĩ, giải thí những dữ kiện đã có không khó. Qua điều tra, người ta đã xác lập là trước lúc xảy ra vụ án không lâu, đại tá Moran và anh àng Adair đã cùng ở một hội ơi bài và ăn được một món tiền khá lớn. Nhưng Moran đã ơi không trung thực. Từ lâu, tớ được biết hắn là một tay cờ bạc gian lận. Có lẽ, trong ngày xảy ra vụ án, Adair đã cảnh cáo Moran vì những trò gian lận. Anh àng Adair đã giáp mặt với đại tá, ắc có dọa sẽ tố cáo hắn, nếu như hắn không tự nguyện rời bỏ câu lạc bộ và từ nay về sau không được ơi cái trò ma cô ma cậu nữa. Một àng trai miệng còn hơi sữa như Adair , lại dám công khai dọa tố cáo buộc tội một con người đáng tuổi a ú của anh ta, hơn nữa đang iếm một địa vị sang trọng trong xã hội! Có lẽ, đúng hơn, anh ta đã nói riêng với Moran, không có người làm ứng. Nhưng với Moran, một con người uyên sống bằng bạc bịp, nếu bị khai trừ ra khỏi câu lạc, bộ thì khác nào bị cắt đường sinh sống? Đó là nguyên nhân để hắn giết Adair , và giết vào ính thời điểm anh àng trai trẻ ưa kịp sử dụng kết quả cuộc ơi không trung thực; ưa kịp tính phần thắng của anh ta là bao nhiêu và anh ta cần phải trả lại những người thua cuộc là bao nhiêu. Anh ta đã khóa ặt cửa lại để không muốn mẹ và em gái thấy anh ta đang tính toán và thắc mắc về những cái tên ghi trong tờ giấy và những ồng tiền đặt trên bàn. Sao, theo cậu, lời giải thí của tớ có phù hợp hay không?
- Tớ o rằng, cậu đã nói trúng tim đen hắn.
- Cuộc điều tra xét hỏi sẽ ứng minh o lời giải thí của tớ đúng hay sai. Từ đây đại tá Moran không còn là mối lo ngại o úng ta, và khẩu súng hơi kỳ diệu của Von Herder sẽ trang điểm o bộ sưu tập của Viện bảo tàng Scotland Yard. Từ nay, không còn ai quấy rầy ngài Sherlock Holmes tham gia vào công việc giải quyết những câu uyện bí ẩn, nhưng đầy lý thú. Cuộc sống phức tạp ở London trở nên phong phú và bình yên, êm ả hơn.
Hết
---
[1] Đơn vị tiền tệ Anh: 1 penny = 1/100 pound
[2] Nguyên văn: Monsieur Oscar Meunier (Ông Oscar Meunier-tiếng Pháp)
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.