Chương 4
Barbara Cartland
06/04/2016
Nevada thầm nghĩ ngồi lắc lư trên lưng lạc đà sao mà giống y như ngồi trên ngọn sóng. Cô khó mà tưởng tượng được những chuyện đang diễn ra là sự thật, giờ đây cô đang ngồi ngất ngưởng trong kiệu trên lưng lạc đà. Kiệu được bện bằng sợi gai nhuộm màu, có màn che phía trên.
Loại kiệu này chỉ những phụ nữ thuộc đẳng cấp cao nhất trong xã hội Saharan mới được sử dụng. Phụ nữ các giới tầng khác ra đường phải đi bộ, choàng khăn che mặt màu xanh dương hay theo kiểu Hồi giáo phủ kín toàn thân bằng áo choàng haik. Nhờ vào mấy quyển sách đọc trên tàu cô biết được tên loại áo choàng làm bằng vải giống như vải lều này.
Nhưng mớ sách vở đó đâu có giúp cô chuẩn bị tinh thần đón nhận một chuyến khởi hành kỳ thú đến thế sau khi xuống tàu. Dường như trong chuyến đi này cô không còn là cô nữa mà chỉ là một vật sở hữu của Tyrone. Khi tàu đi dọc theo miền duyên hải Ma Rốc, cô phải hạ mình hỏi mượn anh vài quyển sách. Cô đã quá chán với cảnh ngồi hờn giận trong cabin mà dường như càng lúc càng chật chội tù túng với hàng lô rương quần áo mở tang hoang, hay là đi qua đi lại trên boong mà không ai đoái hoài đến mình.
Cái nhịp điệu đơn độc đó chỉ gián đoạn khi cô phải xuống bếp nấu nướng. Thật không còn gì khổ bằng đứng nhìn những món ngon lành nấu nướng riêng cho Tyrone trong khi phần chừa cho cô thì toàn là đồ sống, phải tự nấu lấy.
“Tôi ghét nấu nướng quá!” Nevada cứ lập đi lập lại không biết bao nhiêu lần.
Thế mà khi xem ông bếp người Hoa làm việc, ít lâu sau mấy món cô nấu cũng không đến nỗi nào so với lần đầu. Nhưng mỗi lần muốn ăn lại phải vào bếp làm cô tự ái hơn làm bất cứ chuyện nào khác trên Moulay.
Sáng nay khi sau khi ăn sáng xong cô lên boong tàu ngắm cảnh bờ biển trong nắng sớm thì rất ngạc nhiên khi thấy Tyrone đã ở đấy đang nhìn vào bờ. Dù không muốn bắt chuyện trước, nhưng không hiểu sao có điều gì đấy ở anh khiến cô phải lên tiếng.
“Chúng ta đang ở đâu vậy?”
“Nơi mình vừa qua là Agadir, là chỗ mà rặng High Atlas tiếp giáp với biển.”
Dù không muốn thừa nhận nhưng đỉnh núi nâu đồ sộ sắc nét vươn lên sừng sững trên nền xanh dương cuộn sóng của Đại Tây Dương đã gây cho cô ấn tượng vô cùng mạnh mẽ. Những vách đá khổng lồ sóng bủa tới tấp xen kẽ giữa những thung lũng xanh tươi trồng đầy chuối và bắp. Kế đến là một vịnh hình bán nguyệt viền cát vàng, đằng sau là thành phố với những ngôi nhà mái bằng mà cô đoán là Agadir.
Thành phố ẩn trong thung lũng bao quanh bởi cơ man là cây, khung cảnh đẹp đến nao lòng Nevada ước phải chi được chia sẻ cùng với ai đó, nhưng lại không muốn cắt đứt vẻ tĩnh mịch đơn điệu khi người mình muốn nói lại là Tyrone.
Giờ đây cô còn ghét anh dữ dội hơn là những ngày đầu tiên của chuyến hành trình, có lẽ thời gian duy nhất cô quên tạm quên người đã hành hạ mình là lúc cô đắm mình trong sách vở. Cô không để ý trước đó là tủ sách trong phòng khách có rất nhiều sách, đa số nói về Phi châu và đặc biệt là Ma Rốc. Phần lớn sách viết bằng tiếng Pháp, và cô thầm cảm kích nền giáo dục mà ba cô đã tốn gần cả gia tài nhỏ để đào luyện cô thành thạo thứ ngôn ngữ này.
Lúc đầu cô không nghĩ có thứ tài liệu nào trong tủ sách đó có thể thu hút được cô, nhưng sau khi đọc chút ít về lịch sử Ma Rốc, cô càng muốn biết nhiều hơn nữa. Ngay cả cuộc chiến giữa các bộ lạc cũng làm cô mê mẩn.
Vì muốn tránh mặt Tyrone, cô thường vào phòng khách khi anh lên đài điều khiển hay tập thể thao trên boong. Không những anh đi bộ rất lâu mà còn rèn luyện thể lực, thảo nào thân pháp anh rất nhanh nhẹn. Nhưng hễ nghĩ đến chuyện này là mặt cô nóng lên vì giận - Tyrone đã đoạt đi súng của cô trong lúc cô cứ nghĩ là mình khống chế được anh.
Cả hai đều im lặng sau khi Tyrone bảo với cô họ đã vượt qua Agadir, nhưng rồi lại không nén nổi thắc mắc cô lại hỏi.
“Mình đang đi đâu?”
“Tôi cũng định nói với cô chuyện này.
Anh dựa vào thành tàu nhìn về hướng bờ biển. Nevada liếc sang anh nhưng không quay đầu lại, lòng thầm nghĩ không những anh đẹp trai đến điên lên được nhưng còn có vẻ gì đấy thật khó chịu, chắc lại sắp nói điều gì không hay ho đây.
“Chỉ lát nữa thôi chúng ta sẽ rời tàu, vì mình đang đi ngang qua vùng đất trên thế giới gần như không thấy người Âu, cô phải trang phục như một phụ nữ Berber và mang litham.”
Đây là tiếng Ả Rập mà, trong sách có nói nó được gọi là mạng che mặt đối với dân Âu Mỹ.
“Tôi không muốn.” Cô đáp gọn.
Cô đang cảm thấy phấn khích thám hiểm vùng đất mới, nhưng lại không muốn thừa nhận mình hứng thú bất kỳ điều gì trước âm mưu đen tối của Tyrone. Cô phải chống đối anh ta đến hơi thở cuối cùng.
“Tôi đã giải thích rồi.” Anh nói với cô như đang cắt nghĩa cho một đứa bé con. “Nơi mình sắp đến có lẽ sẽ nguy hiểm, nên tốt hơn hết là phải thận trọng theo đúng phong tục địa phương.”
“Tôi không muốn đi bất cứ nơi đâu với ông, ông Strome.” Nevada trả lời. “Tôi thích cái gì thì mặc cái đó. Nếu ông không thích, thì biện pháp duy nhất là đưa tôi trở lại u châu và chấm dứt hành vi man di mọi rợ đó đi.”
“Nếu tôi mà là quân man rợ, cô đã phải than phiền kiểu khác khi ở một thân một mình trên tàu với tôi.”
Trong một lúc cô tròn mắt nhìn anh, rồi khi thấy nét mặt cùng đôi môi nhếch lên chế giễu cô vội nhìn sang hướng khác, tim thót lại sợ hãi.
“Đồ của cô để sẵn trong cabin rồi, vào đó thay đi. Đây là lệnh!”
Không muốn bị áp bức đồng thời muốn tỏ ra là mình quả quyết dù có khó khăn đến đâu, Nevada nghênh mặt lên.
“Nếu tôi từ chối thì sao?”
“Thì cô sẽ thấy tôi là một người hầu áo thành thạo lắm.” Tyrone chậm rãi trả lời, kéo dài từng chữ một. “Thật ra trong chuyện này tôi có rất nhiều kinh nghiệm!”
Trước lời nói đầy ngụ ý ám chỉ, Nevada đỏ bừng mặt rồi quay ngoắt đi xuống bên dưới, người run lên vì giận.
Vào cabin cô nhìn chăm chăm sửng sốt, toàn bộ đồ đạc của cô đã bay biến đi đằng nào.
Mọi vật đều biến mất, ngoại trừ một chiềc giỏ gai đựng áo ngủ, một chiếc lược và bàn chải tóc không phải là đồ của cô. Trên bàn phấn hộp đồ trang điểm cẩn vàng của cô cũng không còn ở đó, thay vào đó là một lô những lọ nhỏ và hộp bé xíu đựng mỹ phẩm địa phương. Cái thì đựng khol, phụ nữ đông phương dùng để viền mắt. Cái thì chứa henna, một loại mực đỏ để nhuộm lòng bàn tay và gót chân. Và có cả son màu để thoa môi.
Cô nhìn đăm đăm mớ mỹ phẩm ngạc nhiên, rồi xoay qua giường cô thấy một chiếc áo thụng caftan trắng thêu chỉ vàng rực rỡ, một litham hai lớp, và kế bên là áo khoác ngoài haik màu trắng. Loại y phục như vải lều được phụ nữ Hồi giáo mặc khi ra ngoài, trong bộ áo cải trang này không một ai sẽ nhận ra cô.
Trên giường cũng để sẵn một số nữ trang bằng vàng: dây đeo cổ, hoa tai kiểu buông dài xuống, xuyến, và băng đeo tóc - được đeo vòng qua trán, trang trí bằng lam ngọc và kim cương.
Toàn bộ nữ trang và tiền bạc của cô cũng không còn, suýt chút nữa là cô nhào lên boong buộc tội cướp bóc cho Tyrone, nhưng nghĩ đi nghĩ lại thế nào thì anh cũng làm ngơ sự chống đối của cô thôi. Hơn nữa, cô có cảm giác bực bội là anh không hề nói đùa khi dọa thay áo cho cô nếu cô không tuân lời.
“Sao chuyện này lại xảy ra cho mình cơ chứ?” Nevada lớn tiếng hỏi.
Vì sợ anh, cho dù không muốn thừa nhận điều này, Nevada chậm chạp trút bỏ y phục rồi mặc chiếc caftan vào. Mặc áo xong thì cô không biết phải làm tóc ra sao, kiểu tóc thời trang cô thường chải chắc chắn là kỳ dị không đi đôi với bộ đồ này rồi. Cô tháo hết kẹp trên tóc ra, để tóc xõa xuống vai.
Ngắm mình trong gương cô phải công nhận là bộ caftan trắng thêu chỉ vàng đã góp phần làm cho mái tóc đỏ như ánh lửa càng thêm nổi trội. Nhưng rồi cô lại buồn bã tự hỏi mình “ăn mặc quyến rũ cho người đàn ông này ngắm để làm gì khi mà anh ta ghét mình cay đắng cũng như mình ghét anh ta?”
Thời gian không còn nhiều Nevada mang băng tóc, chỉnh cho viên lam ngọc buông xuống ngay giữa trán, lòng ngán ngẩm cô nhấc lấy tấm litham - tấm khăn báo hiệu sự đầu hàng triệt để trước uy quyền của Tyrone Strome.
Có tiếng gõ cửa bên ngoài, không đợi cho cô trả lời Tyrone bước ngay vào phòng.
“Cô sẵn sàng chưa?”
“Tôi không biết làm sao mang cái này.” Cô chìa tấm litham ra.
Anh cầm lấy litham nhìn vào mái tóc buông dài xuống lưng cô.
“Trước hết đeo hoa tai vào.”
Cô nhặt đôi hoa lên đeo vào tai, lòng thầm nghĩ chắc đến tối chúng làm nặng tai lắm. Xong rồi lại phải mang cả lô vòng và nhẫn vào tay.
“Thoa henna lên tay đi.” Tyrone ra lệnh, “sơn luôn móng tay nữa.”
Cô muốn chống lại không làm, nhưng trong căn phòng nhỏ dáng dấp anh dường như quá to lớn, đầy áp đảo khiến cô phải tuân lời ngay. Phải mất ít thời giờ để làm những việc lỉnh kỉnh này. Tyrone vẫn đứng bên cạnh cô, tuy không nói năng gì nhưng cô vẫn cảm nhận được sự hiện diện của anh thật nặng nề.
“Bây giờ thì dùng khol tô viền mắt.”
Một lần nữa Nevada muốn phản kháng, nhưng cô biết cũng là vô dụng. Viền đen quanh mí mắt làm cho mắt cô dường như to hơn, màu xanh lục thắm hơn.
Tyrone nhấc tấm litham choàng ngang mặt cho cô, phía trên mũi, bàn tay anh chạm vào mặt cô thật dửng dưng.
“Mình sao giống như búp bê hay một khúc gỗ quá.” Nevada cáu kỉnh nghĩ thầm.
Tyrone với chiếc haik trên giường, đợi cô đứng lên để phủ áo lên người cho cô, rồi quay người bước ra cửa.
“Mười phút nữa chúng ta sẽ lên bờ. Tiếp viên sẽ chỉ đường cho cô lên bến đến chỗ tôi đợi cô. Cô không được nói gì với tôi cho đến khi tôi dẫn cô đi lấy lạc đà.”
Nói xong anh bước hẳn ra khỏi cabin.
Chân cô như quá yếu đứng không vững nữa, Nevada ngồi xụp xuống ghế và ngắm mình trong gương.
“Có thể nào cái mớ lùng xùng chỉ chừa có cặp mắt thật sự là cô không?”
Cô có cảm giác kinh hoàng là đã bỏ lại Nevada Van Arden đằng sau, thân thế cô hoàn toàn biến mất và cô sẽ không bao giờ được trở lại thế giới cô từng quen biết nữa. Nhưng vốn lạc quan cô tự an ủi là cô chỉ khéo tưởng tượng thôi, chuyến phiêu lưu này chắc chắn có nhiều điều thú vị để kể lại sau này, có lẽ sẽ được lưu lại trong nhật ký nữa.
Khi người tiếp viên đến gọi cô và lấy cái rổ gai, cô bước hiên ngang trước mặt anh ta lên boong, quyết không để cho Tyrone nhận ra nếu cô có sợ hãi bất cứ điều gì.
Khi thấy anh cô giật mình sửng sốt vì đã quên anh cũng phải ăn mặc theo người địa phương giống như cô. Bộ y phục của Tyrone toàn trắng, trong chiếc áo thụng như một vị Sheik (tù trưởng bộ lạc Ả Rập), quần serwal bó lại ngay ống chân và ủng da đi ngựa màu đỏ, trông anh rất oai phong. Đầu anh quấn khăn turban trắng, loại khăn chỉ được mang bởi các thủ lĩnh Berber. Bên hông trái anh đeo dao găm đựng trong vỏ cẩn đá qúy.
Nếu không quá ghét Tyrone, Nevada phải công nhận chiếc áo thụng này làm cho anh to lớn, uy nghi hơn trong y phục tây phương.
Với làn da rám nắng và đường nét sắc cạnh người ta dễ lầm tưởng anh thuộc về một trong những bộ tộc cổ xưa của miền nam Ma Rốc.
Anh không nói một lời nào với cô, khi cô xuất hiện anh đi xuống ván cầu dẫn lên một cầu tàu nhỏ, nơi tàu đang thả neo. Cô chắc là bến này không phải là bến thường xuyên hoạt động, vì phía trên bến có rất ít nhà lớn. Nhà cửa ở đó đều xây bằng đất nhỏ hẹp, xiêu vẹo cũ kỹ.
Nhưng ngay khi bước lên bờ Nevada không lưu tâm nhiều đến các tòa nhà hay sa mạc chung quanh, thay vì thế cô chỉ để mắt đến chú lừa đang đứng đợi họ và còn nhận ra cả một chiếc xe thồ chở bằng lạc đà.
Đám lạc đà đang qùy trên đất, cần cổ dài ngoằng như rắn đang ngoảnh qua ngoảnh lại. Chúng kêu lên những tiếng lạ lùng ghe giống như gầm gừ nghẹn ngào hay òng ọc thật kỳ dị.
Tyrone được đón tiếp bởi những người đàn ông mặc áo thụng xanh dương, đầu đội khăn turban đen. Bọn người này ai nấy cao lớn, uyển chuyển, vạm vỡ. Tóc họ dài đen bóng như lụa, mắt đen, mũi thon. Nevada hiếu kỳ lưu ý là bàn tay họ trông rất mềm mại.
Cô đoán chừng, và nóng lòng muốn hỏi xem họ có phải là những người được gọi là “người-xanh” hay không, những người được biết như dân du mục sa mạc trong truyền thuyết của miền nam Ma Rốc - hậu duệ Ả Rập và Berber chính thống từ những bộ tộc Regeibat.
Biệt danh của họ xuất phát từ những bộ y phục nhuộm xanh dương. Vì màu nhuộm không chắc nên đôi khi dây lên cả mặt mũi và thân thể. Dù thâm tâm đối kháng Tyrone đến cùng, Nevada không thể không hứng thú với nhóm người xanh này cùng đám lạc đà của họ.
Yên lạc đà được trang trí với những đường riềm đính mã não, và đính tua gắn hột đá đủ màu. Nevada cảm thấy những hột đá này hình như làm bằng cách mảnh sứ, nhưng cô cũng không chắc lắm.
Cô chỉ có chút ít thời gian nhìn ngắm vòng quanh. Khi Tyrone vẫy tay chỉ vào con lạc đà đang tải chiếc kiệu đen, cô biết giờ khởi hành đã đến.
Một người xanh giúp cô lên kiệu, anh tránh nhìn vào mặt cô dù mặt cô che kín mít chỉ còn chừa cặp mắt. Nevada bám chặt vào thành kiệu, con lạc đà lóng ngóng trỗi dậy. Đoàn người bắt đầu cuộc hành trình.
Tyrone đi trước dẫn đầu, bọn người xanh cưỡi lừa hay lạc đà chở những kiện hành lý nặng trĩu nối đuôi phía sau.
Nevada bực bội không biết anh ta đưa cô đi đâu, cô ước phải chi lúc nãy có thể hỏi anh nhiều hơn. Chung quanh họ toàn là sa mạc, nhưng không có cát, mặt đất toàn là đá trải dài hết dặm này hết dặm khác thật hoang vu không hề có bóng dáng cây cỏ. Tuy thế, sa mạc vẫn có nét đẹp riêng, nền đá đổi những tông màu khác nhau từ xám đen, qua màu đồng thau ửng sắc cam, hay từ màu đồng nâu sang màu son tàu. Giờ đây cô chỉ cảm nhận được không gian bao la và bầu trời cao thăm thẳm phía trên.
Họ đã đi gần hai tiếng, cảnh sắc không thay đổi gì nhiều, chỉ thỉnh thoảng Nevada thấy những tòa nhà thấp thoáng xa xa mà cô đoán là kasbah. Nhà cửa ở đó nhỏ nhưng được xây bằng đất ngay chỗ dựng nhà nên màu sắc cũng biến đổi khác nhau. Chỉ có một lần cô thấy được màu nâu sữa của café-au-let, nhìn quanh cô thấy thì ra là những thân dừa và cây ăn trái bao quanh.
Tyrone không có ý dừng lại dọc đường nên họ vẫn đi tiếp, chậm rãi, không hề nao núng. Thân hình Nevada lắc qua lắc lại theo mỗi bước đi của lạc đà, cô thầm cảm ơn đi kiểu lắc lư này mà cô không bị chóng mặt. Bỗng thình lình Tyrone đưa tay ra hiệu cho đoàn người dừng lại. Nevada cũng ngạc nhiên không hiểu chuyện gì xảy ra. Cảnh sắc vẫn không thay đổi và họ cũng chưa đi đến đâu.
Cho ngựa quay đầu, Tyrone đi ngược lại dọc theo đoàn lừa và lạc đà cho đến khi gặp Nevada. Anh ra lệnh bằng tiếng Ả Rập, người cưỡi lạc đà của Nevada trả lời và cho con vật qùy xuống.
Nevada nhìn Tyrone thắc mắc.
“Xuống đây!”
Nevada nửa phân vân nửa mừng thoát khỏi cảnh kiệu bị lắc lư không ngừng, cô vịn tay người nài bước xuống đất. Chân đang mang hài babouches thêu chỉ vàng, đôi hài mỏng làm chân cô đau nhói bước đi trên nền đá cứng.
“Tôi chỉ cho cô coi cái này.”
Cô nhìn anh ngạc nhiên vì chẳng thấy có gì chung quanh họ. Anh dẫn cô đi thêm một đoạn đến một ụ cao. Khi họ đến gần, Nevada không nghĩ gì nhiều chỉ quan tân đến bàn chân đang đau của mình, rồi cô thấy những khúc xương lớn và một cái đầu lâu.
Đến đây thì Tyrone ngừng hẳn lại.
“Cô nghĩ thấy xác chết rất là thú vị. Được, ở đây có một cái. Người này đã bị giết, phong tục Moorish cấm tuyệt không cho chôn cất nạn nhân cho đến lúc thù của anh ta được trả.”
Nevada thở hắt ra.
Đến giờ thì cô thấy toàn thể bộ xương nằm trên cát nơi anh ta đã ngã xuống. Diều hâu đã rỉa hết thịt chỉ còn trơ lại xương, hàm răng như đang cười trong chiếc sọ chỉ còn hốc mắt. Xương lóng tay nằm lăn lóc kế bên. Mặt trời, hay có lẽ diều hâu đã phá hủy đi bộ trang phục, nay chỉ còn lại mớ giẻ rách tả tơi đã từng là áo choàng djellaba và khăn turban.
Cô thở gấp gáp muốn quay đầu bỏ đi nhưng Tyrone với tay nắm chặt lấy cổ tay cô giữ cô lại.
“Tôi muốn cô nhìn người này.” Giọng anh cứng rắn khinh bỉ. “Hãy nghĩ đến anh ta cũng từng một thời tuổi trẻ, rắn rỏi sống động, lạc quan, có lẽ có tham vọng, và có lẽ đang yêu nữa.”
Anh kéo cô lại gần hơn.
“Bây giờ anh ta đã chết, hãy nhìn xem anh ta còn lại cái gì.”
“Để tôi... đi!”
Cô ráng giật tay mình ra khỏi gọng kềm của anh nhưng vô hiệu.
“Cô thấy ý tưởng chết chóc vui sướng lắm à.” Tyrone tiếp tục. “Đối với tôi chết là một sự phí phạm đáng thương khi nó đến quá mau. Một sự uổng phí khi một thanh niên trẻ trung phải chết vì lòng tham của tên sát nhân hay vì sự tàn nhẫn của người đàn bà.”
Nevada nhắm mắt lại.
Cô không thể nào chịu đựng nhìn vào bộ xương đó nữa. Cô thấy như thể lời kết tội của Tyrone cũng kinh khủng như bộ xương không còn chút thịt và hai hốc mắt sâu, nơi đó đã từng là đôi mắt một thời nhìn đời với bao hiếu kỳ.
Đột nhiên cô thấy mình như sắp ngất, người khẽ chao đi. Tyrone hình như nhận thấy chuyện gì sắp xảy ra, anh buông tay Nevada ra. Cảnh tượng này đã quá sức cô, Nevada xoay người quờ quạng vấp váp đi trở về kiệu.
Không biết bằng cách nào mà cô đi được tới kiệu. Đoàn người lại tiếp tục lên đường, Tyrone vẫn dẫn đầu phía trước. Nevada đưa tay ôm lấy mặt mình.
“Cô thật đã chế giễu cái chết như vậy ư? Có thật là cô đã xúi David kết thúc tính mạng như thế?”
Mọi chuyện dường như xảy ra đã quá lâu. Tuy nhiên, nếu anh ấy chết, bây giờ cô hiểu ra cô sẽ không thể nào tự tha thứ cho mình... hay lãng quên được.
Họ tiếp tục đi thêm một giờ nữa, khi đến gần một nơi trồng rất nhiều dừa đoàn lữ hành dừng lại.
Xuống tới đầt, Nevada nhận ra họ đã tới một ốc đảo. Cô thầm cám ơn những tán lá dừa to bản tỏa bóng mát trong thời tiết nóng bức này. Chiếc khăn che mặt giờ đây nóng chịu không nổi, cô chỉ muốn vén qua một bên, nhưng sợ phản ứng của Tyrone cô đành thôi.
Tuốt phía cuối ốc đảo, một người cưỡi lạc đà đã lấy trong đám hành lý ra một miếng thảm màu sắc rực rỡ và trải xuống đất. Tyrone bước lại hướng tấm thảm, cô đoán chắc anh ta sẽ nghỉ chân ở đó.
Còn đang phân vân không biết mình phải đi đâu thì Tyrone quay lại vẫy tay ra hiệu cho cô. Nevada đi theo anh, lòng hăng hái hơn bao giờ vì đã quá khát và ít ra trong giữa cái sa mạc mênh mông này cô không cần nấu nướng. Tyrone ngồi khoanh chân trên thảm như kiểu ngồi phương đông, Nevada cũng muốn bắt chước nhưng chiếc caftan lại hẹp nên cô phải qùy xuống.
Thức ăn được dọn ra trước mặt họ. Người hầu đem tới một bao da dê dùng để đựng nước, rồi rót ra những chiếc ly thủy tinh. Nevada chỉ muốn uống ngay nhưng cảm thấy mở mạng ra trước mặt người hầu không đúng với phép tắc nên đành phải đợi.
Cuối cùng thì hai người hầu cũng bỏ đi sang nơi khác. Nevada lưu ý rằng mặc dù những người cưỡi lạc đà và các người khác trong đoàn ngồi ở cuối ốc đảo, họ đều quay lưng lại để tỏ ra tôn trọng tư ẩn của chủ nhân.
“Giờ thì cô uống được rồi.” Tyrone nói với cô.
Nevada cảm kích biết bao, cô vén mạng ngay qua một bên uống một hơi không ngừng. Nước có vị hơi mằn mặn, nhưng lúc này cô chỉ cần có gì uống là được.
“Cô không sao chứ?”
Đó là lần đầu tiên anh ta tỏ ra đôi chút quan tâm đến cô. Cô đoán anh ta chắc không nghĩ đến phản ứng của cô với xác chết, mà chỉ lo cô bị xây xẩm với kiểu ngồi lắc lư đó.
“Tôi không sao, chúng ta đang đi đâu thế?”
“Tối nay mình sẽ lưu lại kasbah tại tư thất của một trong những vị Sheik có thế lực nhất ở miền nam Ma Rốc. Có lẽ sẽ không tiện cho cô lắm, vì cô phải ở bên biệt thất của phụ nữ.”
Nevada tròn xoe mắt nhìn anh.
“Ông muốn nói là... hậu cung?”
“Ý nghĩa hậu cung ở Ma Rốc không hẳn giống như ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng cô sẽ không nhận ra sự khác biệt nào đâu.”
Nevada im lặng không nói lên lời.
Cô đột nhiên cảm thấy sợ hãi hơn bao giờ. Cái vùng đất xa lạ này kinh hãi quá, cô lại không có một chút kiến thức nào, ở đây thân thế cô không quan trọng ngoại trừ cô thuộc về Tyrone.
Như đọc được cảm tưởng của cô anh nói.
“Mình chỉ ở đó một đêm thôi, nhưng việc hệ trọng là tôi phải tiếp kiến không những Sheik Hassam El Zigli là chủ nhà chúng ta sắp đến, mà còn gặp các vị Sheik và Caid (thủ lĩnh địa phương) khác ở các vùng lân cận.
“Tại sao ông muốn gặp họ?” Nevada thắc mắc.
Cô hoài nghi không biết Tyrone có nói thật với mình không hay có đang có điều gì đó liên quan đến những khám phá bí mật của anh ta.
Nhưng cô vô cùng ngạc nhiên khi nghe anh trả lời.
“Tôi đang viết sách.”
“Sách?”
Qủa thật cô không bao giờ tưởng tượng sẽ nghe anh ta nói như thế này.
“Điều đó làm cô ngạc nhiên lắm sao? Ma Rốc bao giờ cũng là một đất nước đầy bí ẩn, rất ít người biết được, và người ta lại càng biết ít hơn về dân cư sống trong đó.”
Nevada vẫn chăm chú nhìn anh.
Mặc kệ là mình đang ở trong hoàn cảnh nào, cô rất hứng thú, vô cùng hứng thú và chỉ sợ anh sẽ ngưng không nói tiếp những điều cô ao ước muốn biết.
“Khoảng 86% dân số Marocco là Berber hay Ả Rập, giống dân Berber thì tuyệt vời, họ là cột trụ huyền bí cổ xưa nhất của vùng bắc Phi.
Anh bật cười trước lời lẽ lãng mạn của chính mình đoạn nói tiếp.
“Họ là người miền Địa Trung Hải, không phải dân da đen hay người Semitic. Thật ra chỉ có Chúa biết họ đến từ nơi nào.”
“Ông định viết về họ à?”
“Tôi đang gặp khó khăn tìm tất cả tài liệu cần thiết để viết sách. Họ sống ở bắc Phi trong những vùng núi non từ thuở khai thiên lập địa. Những vị Phraohs của Ai Cập bị thu hút bởi nét huyền bí của họ, gọi họ là Lebu. Người Hy Lạp thì cũng cùng mức độ bí ẩn như sắc dân này thì được gọi là Nomade. Không một ai biết từ Berber xuất phát từ đâu.”
“Ông thích họ sao?”
“Tôi cảm thấy thu hút bởi giống người này. Họ không hề bị hủy hoại bởi nền văn minh hiện đại.”
Anh bật cười.
“Có nơi nào trên thế giới cô sẽ tìm thấy tình trạng nô lệ được xem như một vấn đề tất nhiên, đàn ông sẵn sàng sống trên đầu gươm mũi súng, còn phụ nữ thì thuần khiết phục tùng.”
Bốn chữ cuối chứa đầy ẩn ý nhắm vào cô, cho cô biết rằng anh đang mỉa mai cô, nhưng một lần nữa Nevada không cảm thấy phiền hà.
“Nói cho tôi nghe nữa đi.” Cô nài nỉ.
“Rồi cô sẽ thấy thế giới này đáng để học hỏi và khám phá, nhưng nếu muốn đến đó sớm tôi đề nghị cô ăn nhanh lên.
Vì quá đói Nevada nghe lời anh ngay. Cả hai cùng yên lặng dùng bữa. Cô có cảm tưởng đây là bữa ăn tây phương chót mà còn lâu lắm mới ăn lại được, lòng hoang mang không biết chuyện gì sẽ xảy ra nay mai.
Ngay khi họ ăn xong, mọi người lại lên đường. Cảnh vật chung quanh bắt đầu thay đổi, mặt đất trở nên gập ghềnh khó đi hơn. Thình lình đằng trước dường như xuất hiện một thành trì khổng lồ, kiên cố. Nevada sửng sốt vì kiến trúc quá lớn, bao quanh bởi những lớp thành lũy phòng thủ đủ kích cỡ khác nhau.
Đầu thành hơi vượt lên một chút, các tòa nhà được bao quanh bởi những lớp lũy rất cao tua tủa lỗ châu mai, đó đây trên mặt lũy những ngọn tháp đồ sộ vươn lên sừng sững.
Khi đến gần thành trì dường như hùng vĩ hơn gấp bội lần, Nevada nhanh chóng nhớ lại những điều cô đọc được trong sách về kasbah.
Thành kasbahs cũng tương tự như một lâu đài lớn thời trung cổ, là nơi cư trú của tù trưởng bộ tộc cùng với tất cả thuộc hạ và người ăn kẻ ở, và mọi người trung thành dưới trướng của ông ta.
Ngoại trừ người, gia súc của tù trưởng đều được trú ngụ trong thành. Vào ban ngày mọi súc vật đều được lùa ra ngoài để làm lụng hoặc tự kiếm ăn, đến tối bọn chúng lại được lùa trở vào thành. Thật ra kasbah không phải nơi cư trú mà là một lãnh địa, một dinh cơ tự túc. Cư dân trong lãnh địa tự cung cấp chế biến những sản phẩm dùng trong đời sống hàng ngày ngoại trừ trà, café, và đường.
Giờ đây Tyrone đã đến trước cánh cổng gỗ khảm đồng đồ sộ, một nhóm những người mặc áo thụng trắng chạy mở cửa chào đón anh. Họ đưa mọi người vào bên trong, Nevada thấy hàng loạt những hàng lang ngoằn ngoèo kế tiếp nhau, thỉnh thoảng cô liếc thấy những khoảng sân và hồ phun nước xen kẽ.
Vẫn ngồi trên kiệu, cô được dẫn qua những lối đi vòng vèo như trong một mê cung đầy những người, trẻ con, gia súc cho đến khi họ đến một nơi mà cô đoán chắc là trung tâm của kasbah, chỗ ở của tù trưởng.
Ở đây mọi vật đều khác hẳn với bên ngoài. Cô đi theo Tyrone qua một cánh cửa được trạm trổ cầu kỳ đến một nơi mà cách trần thiết có thể mô tả như một cung điện. Nhìn từ bên ngoài, cung điện trông nặng nề ảm đạm, không có một cửa sổ nào. Nhưng thật lạ kỳ bên trong là sàn nhà được ghép đá tinh vi, tường trổ hoa văn hay cẩn gạch màu hình thù cầu kỳ. Trần nhà lót gỗ cũng được chạm khắc tỉ mỉ và sơn màu đậm. Những hàng cột được chạm trổ trên đỉnh dùng để ngăn các phòng. Và đó đây là những bình phong mắt cáo tuyệt đẹp.
Sàn nhà được phủ bằng những miếng thảm đủ màu High Atlas, trên đó cơ man là những chiếc gối dùng để qùy bằng lụa thêu - đỏ, lục, trắng, còn gối vàng thì làm bằng da dê. Đèn lồng bằng lụa được treo khắp nơi. Cả cung điện bàng bạc vẻ huyền bí đông phương mà Nevada không sao diễn tả được.
Sheik Hassan El Zigli là một người đàn ông lớn tuổi râu tóc bạc phơ, thắt lưng gắn đoản kiếm vỏ cẩn đá qúy. Thấy Tyrone ông ta vội bước ra chào rất cung kính, nhưng lại tảng lờ Nevada đang đứng phía sau Tyrone. Chỉ đến khi hai người đàn ông trò chuyện một hồi, Tyrone mới nhắc đến sự hiện diện của Nevada. Hiểu ra, vị Sheik búng tay ra lệnh.
Một người hầu xuất hiện và ra dấu cho Nevada đi theo anh ta.
Cô đột nhiên cảm thấy lo sợ phải rời Tyrone khi bước vào hành cung to lớn này, mà dường như là kết hợp nửa cung điện, nửa là khu ổ chuột. Nhưng rồi cô tự nhủ tỏ ra sợ hãi thì càng làm cho anh ta coi thường mình hơn thôi. Không quay đầu lại nhìn anh, cô bước theo người hầu. Một lần nữa họ lại đi vòng qua những lối đi ngoắt nghoéo dường như rất dài.
Cuối cùng thì họ đến trước một cánh cửa nguy nga được chạm trổ và trang trí theo kiểu Moorish, người hầu gõ lên cửa vài tiếng. Từ bên trong một người phụ nữ che mạng bước ra mở cửa. Dù cô không hiểu hai người nói gì với nhau, nhưng cô đoán biết anh ta đang giới thiệu cô là ai.
Người phụ nữ ra hiệu cho cô vào trong và đóng ngay cửa lại, Nevada bỗng dưng cảm thấy mình cô độc hơn bao giờ hết. Bà ta nói một thôi một hồi với cô nhưng cô chỉ lắc đầu tỏ ý không hiểu. Rồi cô lại được dẫn theo một lối khác đưa đến một căn phòng lớn, có một số các bà các cô đã ở sẵn trong đó. Họ không che mạng, người thì ngồi trên sàn, kẻ thì ngồi trên những tấm thảm màu hay trên trường kỷ thấp bọc nhung đỏ. Trong số họ, có vài người còn trẻ còn lại phần lớn là phụ nữ đứng tuổi tóc bạc da mồi. Ai nấy đều mang đầy trang sức, Nevada đoán họ là họ hàng của vị Sheik. Tất cả đàn bà trong gia đình hay họ hàng của tù trưởng đều ở cung riêng dành cho phụ nữ.
Có ai đó cởi áo choàng haik cho cô, khi mọi người thấy chiếc caftan của cô ai nấy đều trầm trồ. Nhiều người trong số họ mặc caftan thêu như cô, còn lại thì mặc thêm lớp mansouria mỏng bên ngoài. Bộ y phục này làm cho họ giống như đang khoác một lớp khói sương màu nhạt.
Một bà tóc bạc vẫy tay gọi Nevada đến ngồi trên trường kỷ cạnh bà. Liền sau đó một phụ nữ khác trẻ hơn, ăn mặc rất đơn giản mà Nevada đoán là nô tì, đem đến cho cô một ly trà bạc hà. Trà tuy ngọt và nóng, nhưng là một thức giải khát rất tuyệt mà cô chưa từng uống bao giờ. Ngay sau khi uống xong, người nô lệ lại rót cho cô một lượt nữa. Lần này cô uống chậm rãi, nhìn quanh phòng cô cảm thấy thú vị - ngồi trong hậu cung là cả một tao ngộ kỳ thú mà chỉ rất ít phụ nữ tây phương mới hân hạnh có được kinh nghiệm này.
Dùng tay ra dấu các bà tỏ ý ngưỡng mộ bộ nữ trang cô đang mang, rồi cho cô xem đồ của họ. Vài người mang vòng đeo cổ bằng mã não nặng trĩu, số khác mang vàng hay bạc cẩn thạch anh tím lấy từ rặng núi High Atlas, hay cẩn lam ngọc, san hô, và các loại đá khác Nevada không thể nhận ra hết, nhưng cô đoán lấy từ các mỏ trong các vùng lân cận.
Nevada quá hào hứng, cảm thấy có biết bao điều muốn biết, muốn hỏi. Cô uớc phải chi thay vì gây với Tyrone trên tàu cô có thêm cơ hội để học tiếng Ả Rập. Khi cô gần như cạn kiệt mớ ngôn ngữ bằng tay này một người đàn bà nữa xuất hiện trên tay bế một đứa bé. Các bà kia chỉ vào Nevada và giải thích cho người mới tới cô là ai.
“Vous parlez Francais?” (cô nói được tiếng Pháp không?) Người mới tới nói tiếng Pháp bằng giọng rất nặng, khiến tiếng Pháp của bà ta nghe rất khó hiểu.
“Oui, oui,” (vâng) Nevada hăng hái trả lời.
Quả thật là khó để hiểu được bà ta nói gì, phần vì tiếng Pháp của bà ta rất hạn chế, phần vì phát âm quá tệ, nhưng họ cũng ráng trao đổi với nhau. Qua người phụ nữ này Nevada hiểu được các bà lớn tuổi là mẹ, bà, chị em, và cô dì của tù trưởng. Ông ta có tất cả 4 bà vợ chính thức như luật Hồi giáo cho phép, và các thiếu nữ trẻ hơn là cung phi. Nước da của họ có màu tái, nhạt hơn màu café một chút, đường nét thanh tú, khuôn mặt họ rất thu hút. Tóc để dài, đen mướt như lụa. Người nào cũng có dáng dấp uy nghi đường bệ khiến cho họ rất nổi trội trong bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Có hai người trong số họ đẹp đến nỗi nếu ở New York hay London, họ sẽ nổi danh nhanh chóng.
Điểm thêm trên khuôn mặt xinh đẹp là đôi mắt đen rất to, mũi ngắn, hai cánh môi cong đầy đặn, nhưng nét nổi bật hơn hết chính là vẻ tự tin của họ. Các bà các cô ở đây không ai cười khúc khích ngượng ngùng như các cô học trò ở New York, hay tỏ vẻ thẹn thùng, hoặc nhìn đăm đăm vào cô như cô nghĩ họ sẽ làm vậy với khách lạ.
Nụ cười của họ khả ái và thân thiện. Lúc mọi người ngồi xuống dùng bữa, dù ngôn ngữ bất đồng thái độ của họ làm cô không còn cảm thấy sợ hãi. Họ chia nhau ra ngồi trên thảm hay trên những tấm đệm, các nô tì tiếp cho họ món soup cũng là món chính gọi là harira. Soup này được nấu bằng gà, thịt cừu khô, chick peas, ngò, gừng, hành và nghệ.
Khi mọi vật liệu chín kỹ, người ta cho thêm gạo và các gia vị vào. Ăn chung với món này là cà chua, bánh mì và trứng. Hai tô soup harira là quá đủ cho Nevada, đặc biệt là còn kèm theo món kẹo truyền thống của dân Moorish được làm bằng hạnh nhân ngào mật ong rất thơm ngon.
Sau bữa ăn là thế nào cũng có thức uống là trà bạc hà. Khi bữa ăn kết thúc, tất cả các bà các cô đều nhổm dậy với lấy litham, và y như là ảo thuật mạng che nhanh chóng xuất hiện ngay trên mặt họ.
Nevada nhìn người đàn bà nói tiếng Pháp một cách dò hỏi.
“Có biểu diễn ca múa,” bà ta giải thích. “Chúng ta đi xem ca múa.”
“Ở đâu thế?”
Bà ta không biết cách nào để giải thích nên đành nắm lấy tay Nevada dắt cô đi theo những người khác đến một khoảng sân rộng bao quanh bằng các tấm bình phong lưới mắt cáo. Bên dưới cô thấy các vị tù trưởng mặc áo thụng trắng ngồi trên những tấm đệm, chân gác lên những tấm thảm màu rực rỡ. Ngay ở trung tâm và phía bên tay phải của vị chủ nhà là Tyrone!
Anh ta trông kiêu hãnh ngạo mạn, Nevada thầm nghĩ, nhưng đồng thời thần thái vẫn ung dung.
Khoảng sân được thắp sáng bằng bầu trời đêm nạm đầy sao và hai đống lửa lớn đốt bằng lá dừa đặt hai bên cạnh sân.
Nghĩ đến tình cảnh mình bị đối xử như vậy, lòng Nevada ào lên cơn chống đối căm phẫn. Sao anh ta lại có thể ép buộc cô, một phụ nữ da trắng, người Mỹ, giàu có quyền thế trong xã hội thượng lưu chỉ được phép nhìn hé anh ta qua khe lưới mắt cáo!
Chỉ trong vài giây cô băng qua khoảng sân trống tiến đến chỗ tù trưởng. Cô hiên ngang đứng giáp mặt với họ, ánh lửa bập bùng soi sáng trên mái tóc đỏ và đôi mắt giận dữ của cô.
“Messieurs,” Nevada kêu lớn, khi mọi tù trưởng đều quay đầu về phía cô ai nấy đều ngạc nhiên, cô nói tiếp bằng tiếng Pháp.
“Tôi bị ép buộc đến đây. Nếu một trong các ông hộ tống tôi đến tòa Đại sứ Anh hay Pháp gần nhất tôi sẽ trọng thưởng, bất cứ điều gì các ông yêu cầu!”
Cô ngưng lại, các vị Sheik nhìn cô chăm chăm khiến cô nghĩ rằng họ chắc hiểu được cô đang nói gì.
“Tôi giàu lắm... rất giàu.” Cô nói tiếp. “Hãy giúp tôi... làm ơn giúp tôi đi.” Giọng cô vang lộng khắp trong sân.
Sheik Hassan quay qua nói với một người Moor kế bên, một vị Sheik khác ngồi bên tay trái Tyrone nghiêng đầu thì thầm vào tai anh. Nevada nhìn hết người này đến người khác. Chắc chắn phải có người sẽ giúp cô chứ!
Tyrone nói tiếng Anh với cô.
“Không ai ở đây hiểu cô nói gì đâu.” Anh lạnh lùng nói. “Họ chỉ nói tiếng Berber thôi. Nhưng người bên cạnh tôi đang ra giá một con lạc đà và bốn con cừu để đổi lấy cô. Ông ta nói rằng ông ta rất hứng thú với phụ nữ đầy nhiệt tình như vậy, tính khí đó làm cho ông hứng thú muốn đập dẹp nó ra.”
Tim Nevada đập dồn trong lồng ngực, nhưng mắt vẫn nhìn anh thách thức.
“Tôi có nên nhận lời ông ta không? Đối với đàn bà vùng này thì giá đó khá lắm đó.”
“Ông dám sao!”
Trong khoảnh khắc cô hoàn toàn quên béng các tù trưởng, mọi cảnh vật chung quanh, trong mắt cô giờ đây chỉ còn Tyrone và trận chiến quyết liệt giữa hai người.
“Quyết định là ở cô đấy!” Anh khăng khăng nói tiếp. “Chuyện này không liên quan đến tôi.”
Cô thở sâu, kinh hoảng với ý nghĩ là anh ta sẽ trao cô cho người tù trưởng kia, thế là đời cô sẽ tàn. Tuy nhiên lòng tự trọng giúp cô đứng thẳng nhìn đăm đăm vào anh ta, mắt rực lên căm hờn. Nhưng rồi cô bỏ cuộc. Khóc nấc lên tuyệt vọng cô bỏ chạy ra ngoài.
Khi chạy đến hàng hiên cô còn nghe tiếng cười của các vị Sheik đuổi theo. Trên hiên tất cả phụ nữ đều kinh hoảng nhìn cô. Nhưng vì lịch sự không muốn làm cô bối rối, họ lại tỏ ra tập trung xuống khoảng sân bên dưới.
Nhạc bắt đầu trổi lên, các bà di chuyển sang phía trên chỗ ngồi của các Sheik.
Hai mươi nhạc công ngồi ở đằng cuối sân, họ đang chơi trống được phụ họa thêm bằng sáo và berdirs, một loại lục lạc.
m nhạc có tiết tấu mạnh mẽ dồn dập, chừng một giây sau một đoàn vũ công xuất hiện trong sân. Tất cả vũ công đều mặc hàng muslin và lụa, trang sức đầy người.
“Đây là các vũ công Tiznet.” Phụ nữ nói tiếng Pháp thì thầm vào tai Nevada. “Rất nổi tiếng, kích động lắm.”
Nevada nhớ lại sách của Tyrone có nói vũ công Tiznet có thể đối đầu với các vũ công toàn vùng bắc Phi, bao gồm cả Ouled Nails là các vũ nữ lừng danh về các điệu múa nhục thể rất lạ lùng.
Vũ điệu các cô gái Tiznet trình diễn cũng tương tự như kiểu múa lắc bụng của Thổ Nhĩ Kỳ. Họ vẫn đứng yên một chỗ, nhưng toàn thân lắc lư uốn lượn. Trong ánh lửa vàng những cái bóng khổng lồ của họ hiện ra chập chờn làm cho khung cảnh thêm vẻ kỳ bí, âm u.
Trong lúc họ múa, từ nơi nào đó trong sân vang lên giọng ngân nga cao vút quyện lấy tiếng nhạc. Khi điệu múa chấm dứt các vũ công xếp hàng thành hình vòng cung trên sân khấu. Ngay chính giữa bọn họ, một cô gái bước ra khiến Nevada muốn nín thở.
Cô ta còn rất trẻ và thân hình thì tuyệt mỹ, tóc buông dài gắn nhiều châu báu và được bao phủ bằng khăn mỏng màu xanh dương.
“Cô ta sắp múa điệu la Guedra,” bà nói tiếng Pháp lại thì thào với Nevada.
Người vũ công qùy xuống, mắt nhắm lại, điệu vũ bắt đầu khi cô ta rung rung cổ tay, rồi cánh tay, cổ, đầu, thân trên, hông, và cuối cùng là toàn thân. Dường như có ngọn lửa nào đấy đang xuyên qua người cô ta, rực lên, tỏa rộng ra cho đến khi hoàn toàn thiêu hủy cô.
Khi cô ta di chuyển chiếc mạng che màu xanh tuột xuống phô bày nửa thân trần. Uốn éo buông thả theo điệu trống dồn dập, thân thể uyển chuyển xoáy lượn nhịp nhàng cô ta giờ đây đúng là một hiện thân của nhục thể.
Nevada chỉ còn biết đứng đấy nhìn, nhận ra cô gái dưới kia càng lúc càng trở nên lả lơi, các động tác nhanh hơn, cánh tay quằn quại như rắn, mắt lim dim, hai cánh môi hé mở cho đến khi người cô ta như đạt đến trạng thái thăng hoa.
Cô ta qủa thật quyến rũ, khêu gợi, nồng nàn không những khơi dậy được lòng rạo rực nơi các vị Sheik mà còn ở toàn thể phụ nữ đang thưởng ngoạn nơi đây. Khán giả ai nấy đều thở gấp gáp, gần như bị thôi miên thân hình họ cũng uốn lượn lắc lư theo từng điệu trống.
Rồi thình lình vũ điệu chấm dứt. Vũ công đã vươn đến đỉnh cao của vũ điệu người xoay tròn kỳ ảo rồi đột nhiên sụp xuống. Tiếng trống cũng ngưng bặt để lại không gian tịch mịch chỉ còn lại tiếng tim đập dồn dập của người xem.
Mọi người dường như bị mê man bởi sự im lặng lạ thường cho đến khi Sheik Hassan giơ tay ra hiệu cho nhóm vũ công đến gần.
Các cô gái chạy túa lại phủ phục dưới chân ông ta, đầu cúi sát xuống đất, tay chắp lại trong tư thế kẻ tôi đòi khuất phục bề trên.
Trong lúc Nevada còn đang ngơ ngác đứng ngắm sự việc diễn ra trước mắt mình, cô gái vũ công mở mắt ra. Sheik Hassan đỡ cô ta đứng dậy và dắt cô ta về hướng Tyrone.
Nevada thấy anh ta ngước lên nhìn cô gái, môi nở nụ cười. Trong lòng dâng lên cảm giác hãi hùng ghê tởm, cô quay ngoắt đi!
Loại kiệu này chỉ những phụ nữ thuộc đẳng cấp cao nhất trong xã hội Saharan mới được sử dụng. Phụ nữ các giới tầng khác ra đường phải đi bộ, choàng khăn che mặt màu xanh dương hay theo kiểu Hồi giáo phủ kín toàn thân bằng áo choàng haik. Nhờ vào mấy quyển sách đọc trên tàu cô biết được tên loại áo choàng làm bằng vải giống như vải lều này.
Nhưng mớ sách vở đó đâu có giúp cô chuẩn bị tinh thần đón nhận một chuyến khởi hành kỳ thú đến thế sau khi xuống tàu. Dường như trong chuyến đi này cô không còn là cô nữa mà chỉ là một vật sở hữu của Tyrone. Khi tàu đi dọc theo miền duyên hải Ma Rốc, cô phải hạ mình hỏi mượn anh vài quyển sách. Cô đã quá chán với cảnh ngồi hờn giận trong cabin mà dường như càng lúc càng chật chội tù túng với hàng lô rương quần áo mở tang hoang, hay là đi qua đi lại trên boong mà không ai đoái hoài đến mình.
Cái nhịp điệu đơn độc đó chỉ gián đoạn khi cô phải xuống bếp nấu nướng. Thật không còn gì khổ bằng đứng nhìn những món ngon lành nấu nướng riêng cho Tyrone trong khi phần chừa cho cô thì toàn là đồ sống, phải tự nấu lấy.
“Tôi ghét nấu nướng quá!” Nevada cứ lập đi lập lại không biết bao nhiêu lần.
Thế mà khi xem ông bếp người Hoa làm việc, ít lâu sau mấy món cô nấu cũng không đến nỗi nào so với lần đầu. Nhưng mỗi lần muốn ăn lại phải vào bếp làm cô tự ái hơn làm bất cứ chuyện nào khác trên Moulay.
Sáng nay khi sau khi ăn sáng xong cô lên boong tàu ngắm cảnh bờ biển trong nắng sớm thì rất ngạc nhiên khi thấy Tyrone đã ở đấy đang nhìn vào bờ. Dù không muốn bắt chuyện trước, nhưng không hiểu sao có điều gì đấy ở anh khiến cô phải lên tiếng.
“Chúng ta đang ở đâu vậy?”
“Nơi mình vừa qua là Agadir, là chỗ mà rặng High Atlas tiếp giáp với biển.”
Dù không muốn thừa nhận nhưng đỉnh núi nâu đồ sộ sắc nét vươn lên sừng sững trên nền xanh dương cuộn sóng của Đại Tây Dương đã gây cho cô ấn tượng vô cùng mạnh mẽ. Những vách đá khổng lồ sóng bủa tới tấp xen kẽ giữa những thung lũng xanh tươi trồng đầy chuối và bắp. Kế đến là một vịnh hình bán nguyệt viền cát vàng, đằng sau là thành phố với những ngôi nhà mái bằng mà cô đoán là Agadir.
Thành phố ẩn trong thung lũng bao quanh bởi cơ man là cây, khung cảnh đẹp đến nao lòng Nevada ước phải chi được chia sẻ cùng với ai đó, nhưng lại không muốn cắt đứt vẻ tĩnh mịch đơn điệu khi người mình muốn nói lại là Tyrone.
Giờ đây cô còn ghét anh dữ dội hơn là những ngày đầu tiên của chuyến hành trình, có lẽ thời gian duy nhất cô quên tạm quên người đã hành hạ mình là lúc cô đắm mình trong sách vở. Cô không để ý trước đó là tủ sách trong phòng khách có rất nhiều sách, đa số nói về Phi châu và đặc biệt là Ma Rốc. Phần lớn sách viết bằng tiếng Pháp, và cô thầm cảm kích nền giáo dục mà ba cô đã tốn gần cả gia tài nhỏ để đào luyện cô thành thạo thứ ngôn ngữ này.
Lúc đầu cô không nghĩ có thứ tài liệu nào trong tủ sách đó có thể thu hút được cô, nhưng sau khi đọc chút ít về lịch sử Ma Rốc, cô càng muốn biết nhiều hơn nữa. Ngay cả cuộc chiến giữa các bộ lạc cũng làm cô mê mẩn.
Vì muốn tránh mặt Tyrone, cô thường vào phòng khách khi anh lên đài điều khiển hay tập thể thao trên boong. Không những anh đi bộ rất lâu mà còn rèn luyện thể lực, thảo nào thân pháp anh rất nhanh nhẹn. Nhưng hễ nghĩ đến chuyện này là mặt cô nóng lên vì giận - Tyrone đã đoạt đi súng của cô trong lúc cô cứ nghĩ là mình khống chế được anh.
Cả hai đều im lặng sau khi Tyrone bảo với cô họ đã vượt qua Agadir, nhưng rồi lại không nén nổi thắc mắc cô lại hỏi.
“Mình đang đi đâu?”
“Tôi cũng định nói với cô chuyện này.
Anh dựa vào thành tàu nhìn về hướng bờ biển. Nevada liếc sang anh nhưng không quay đầu lại, lòng thầm nghĩ không những anh đẹp trai đến điên lên được nhưng còn có vẻ gì đấy thật khó chịu, chắc lại sắp nói điều gì không hay ho đây.
“Chỉ lát nữa thôi chúng ta sẽ rời tàu, vì mình đang đi ngang qua vùng đất trên thế giới gần như không thấy người Âu, cô phải trang phục như một phụ nữ Berber và mang litham.”
Đây là tiếng Ả Rập mà, trong sách có nói nó được gọi là mạng che mặt đối với dân Âu Mỹ.
“Tôi không muốn.” Cô đáp gọn.
Cô đang cảm thấy phấn khích thám hiểm vùng đất mới, nhưng lại không muốn thừa nhận mình hứng thú bất kỳ điều gì trước âm mưu đen tối của Tyrone. Cô phải chống đối anh ta đến hơi thở cuối cùng.
“Tôi đã giải thích rồi.” Anh nói với cô như đang cắt nghĩa cho một đứa bé con. “Nơi mình sắp đến có lẽ sẽ nguy hiểm, nên tốt hơn hết là phải thận trọng theo đúng phong tục địa phương.”
“Tôi không muốn đi bất cứ nơi đâu với ông, ông Strome.” Nevada trả lời. “Tôi thích cái gì thì mặc cái đó. Nếu ông không thích, thì biện pháp duy nhất là đưa tôi trở lại u châu và chấm dứt hành vi man di mọi rợ đó đi.”
“Nếu tôi mà là quân man rợ, cô đã phải than phiền kiểu khác khi ở một thân một mình trên tàu với tôi.”
Trong một lúc cô tròn mắt nhìn anh, rồi khi thấy nét mặt cùng đôi môi nhếch lên chế giễu cô vội nhìn sang hướng khác, tim thót lại sợ hãi.
“Đồ của cô để sẵn trong cabin rồi, vào đó thay đi. Đây là lệnh!”
Không muốn bị áp bức đồng thời muốn tỏ ra là mình quả quyết dù có khó khăn đến đâu, Nevada nghênh mặt lên.
“Nếu tôi từ chối thì sao?”
“Thì cô sẽ thấy tôi là một người hầu áo thành thạo lắm.” Tyrone chậm rãi trả lời, kéo dài từng chữ một. “Thật ra trong chuyện này tôi có rất nhiều kinh nghiệm!”
Trước lời nói đầy ngụ ý ám chỉ, Nevada đỏ bừng mặt rồi quay ngoắt đi xuống bên dưới, người run lên vì giận.
Vào cabin cô nhìn chăm chăm sửng sốt, toàn bộ đồ đạc của cô đã bay biến đi đằng nào.
Mọi vật đều biến mất, ngoại trừ một chiềc giỏ gai đựng áo ngủ, một chiếc lược và bàn chải tóc không phải là đồ của cô. Trên bàn phấn hộp đồ trang điểm cẩn vàng của cô cũng không còn ở đó, thay vào đó là một lô những lọ nhỏ và hộp bé xíu đựng mỹ phẩm địa phương. Cái thì đựng khol, phụ nữ đông phương dùng để viền mắt. Cái thì chứa henna, một loại mực đỏ để nhuộm lòng bàn tay và gót chân. Và có cả son màu để thoa môi.
Cô nhìn đăm đăm mớ mỹ phẩm ngạc nhiên, rồi xoay qua giường cô thấy một chiếc áo thụng caftan trắng thêu chỉ vàng rực rỡ, một litham hai lớp, và kế bên là áo khoác ngoài haik màu trắng. Loại y phục như vải lều được phụ nữ Hồi giáo mặc khi ra ngoài, trong bộ áo cải trang này không một ai sẽ nhận ra cô.
Trên giường cũng để sẵn một số nữ trang bằng vàng: dây đeo cổ, hoa tai kiểu buông dài xuống, xuyến, và băng đeo tóc - được đeo vòng qua trán, trang trí bằng lam ngọc và kim cương.
Toàn bộ nữ trang và tiền bạc của cô cũng không còn, suýt chút nữa là cô nhào lên boong buộc tội cướp bóc cho Tyrone, nhưng nghĩ đi nghĩ lại thế nào thì anh cũng làm ngơ sự chống đối của cô thôi. Hơn nữa, cô có cảm giác bực bội là anh không hề nói đùa khi dọa thay áo cho cô nếu cô không tuân lời.
“Sao chuyện này lại xảy ra cho mình cơ chứ?” Nevada lớn tiếng hỏi.
Vì sợ anh, cho dù không muốn thừa nhận điều này, Nevada chậm chạp trút bỏ y phục rồi mặc chiếc caftan vào. Mặc áo xong thì cô không biết phải làm tóc ra sao, kiểu tóc thời trang cô thường chải chắc chắn là kỳ dị không đi đôi với bộ đồ này rồi. Cô tháo hết kẹp trên tóc ra, để tóc xõa xuống vai.
Ngắm mình trong gương cô phải công nhận là bộ caftan trắng thêu chỉ vàng đã góp phần làm cho mái tóc đỏ như ánh lửa càng thêm nổi trội. Nhưng rồi cô lại buồn bã tự hỏi mình “ăn mặc quyến rũ cho người đàn ông này ngắm để làm gì khi mà anh ta ghét mình cay đắng cũng như mình ghét anh ta?”
Thời gian không còn nhiều Nevada mang băng tóc, chỉnh cho viên lam ngọc buông xuống ngay giữa trán, lòng ngán ngẩm cô nhấc lấy tấm litham - tấm khăn báo hiệu sự đầu hàng triệt để trước uy quyền của Tyrone Strome.
Có tiếng gõ cửa bên ngoài, không đợi cho cô trả lời Tyrone bước ngay vào phòng.
“Cô sẵn sàng chưa?”
“Tôi không biết làm sao mang cái này.” Cô chìa tấm litham ra.
Anh cầm lấy litham nhìn vào mái tóc buông dài xuống lưng cô.
“Trước hết đeo hoa tai vào.”
Cô nhặt đôi hoa lên đeo vào tai, lòng thầm nghĩ chắc đến tối chúng làm nặng tai lắm. Xong rồi lại phải mang cả lô vòng và nhẫn vào tay.
“Thoa henna lên tay đi.” Tyrone ra lệnh, “sơn luôn móng tay nữa.”
Cô muốn chống lại không làm, nhưng trong căn phòng nhỏ dáng dấp anh dường như quá to lớn, đầy áp đảo khiến cô phải tuân lời ngay. Phải mất ít thời giờ để làm những việc lỉnh kỉnh này. Tyrone vẫn đứng bên cạnh cô, tuy không nói năng gì nhưng cô vẫn cảm nhận được sự hiện diện của anh thật nặng nề.
“Bây giờ thì dùng khol tô viền mắt.”
Một lần nữa Nevada muốn phản kháng, nhưng cô biết cũng là vô dụng. Viền đen quanh mí mắt làm cho mắt cô dường như to hơn, màu xanh lục thắm hơn.
Tyrone nhấc tấm litham choàng ngang mặt cho cô, phía trên mũi, bàn tay anh chạm vào mặt cô thật dửng dưng.
“Mình sao giống như búp bê hay một khúc gỗ quá.” Nevada cáu kỉnh nghĩ thầm.
Tyrone với chiếc haik trên giường, đợi cô đứng lên để phủ áo lên người cho cô, rồi quay người bước ra cửa.
“Mười phút nữa chúng ta sẽ lên bờ. Tiếp viên sẽ chỉ đường cho cô lên bến đến chỗ tôi đợi cô. Cô không được nói gì với tôi cho đến khi tôi dẫn cô đi lấy lạc đà.”
Nói xong anh bước hẳn ra khỏi cabin.
Chân cô như quá yếu đứng không vững nữa, Nevada ngồi xụp xuống ghế và ngắm mình trong gương.
“Có thể nào cái mớ lùng xùng chỉ chừa có cặp mắt thật sự là cô không?”
Cô có cảm giác kinh hoàng là đã bỏ lại Nevada Van Arden đằng sau, thân thế cô hoàn toàn biến mất và cô sẽ không bao giờ được trở lại thế giới cô từng quen biết nữa. Nhưng vốn lạc quan cô tự an ủi là cô chỉ khéo tưởng tượng thôi, chuyến phiêu lưu này chắc chắn có nhiều điều thú vị để kể lại sau này, có lẽ sẽ được lưu lại trong nhật ký nữa.
Khi người tiếp viên đến gọi cô và lấy cái rổ gai, cô bước hiên ngang trước mặt anh ta lên boong, quyết không để cho Tyrone nhận ra nếu cô có sợ hãi bất cứ điều gì.
Khi thấy anh cô giật mình sửng sốt vì đã quên anh cũng phải ăn mặc theo người địa phương giống như cô. Bộ y phục của Tyrone toàn trắng, trong chiếc áo thụng như một vị Sheik (tù trưởng bộ lạc Ả Rập), quần serwal bó lại ngay ống chân và ủng da đi ngựa màu đỏ, trông anh rất oai phong. Đầu anh quấn khăn turban trắng, loại khăn chỉ được mang bởi các thủ lĩnh Berber. Bên hông trái anh đeo dao găm đựng trong vỏ cẩn đá qúy.
Nếu không quá ghét Tyrone, Nevada phải công nhận chiếc áo thụng này làm cho anh to lớn, uy nghi hơn trong y phục tây phương.
Với làn da rám nắng và đường nét sắc cạnh người ta dễ lầm tưởng anh thuộc về một trong những bộ tộc cổ xưa của miền nam Ma Rốc.
Anh không nói một lời nào với cô, khi cô xuất hiện anh đi xuống ván cầu dẫn lên một cầu tàu nhỏ, nơi tàu đang thả neo. Cô chắc là bến này không phải là bến thường xuyên hoạt động, vì phía trên bến có rất ít nhà lớn. Nhà cửa ở đó đều xây bằng đất nhỏ hẹp, xiêu vẹo cũ kỹ.
Nhưng ngay khi bước lên bờ Nevada không lưu tâm nhiều đến các tòa nhà hay sa mạc chung quanh, thay vì thế cô chỉ để mắt đến chú lừa đang đứng đợi họ và còn nhận ra cả một chiếc xe thồ chở bằng lạc đà.
Đám lạc đà đang qùy trên đất, cần cổ dài ngoằng như rắn đang ngoảnh qua ngoảnh lại. Chúng kêu lên những tiếng lạ lùng ghe giống như gầm gừ nghẹn ngào hay òng ọc thật kỳ dị.
Tyrone được đón tiếp bởi những người đàn ông mặc áo thụng xanh dương, đầu đội khăn turban đen. Bọn người này ai nấy cao lớn, uyển chuyển, vạm vỡ. Tóc họ dài đen bóng như lụa, mắt đen, mũi thon. Nevada hiếu kỳ lưu ý là bàn tay họ trông rất mềm mại.
Cô đoán chừng, và nóng lòng muốn hỏi xem họ có phải là những người được gọi là “người-xanh” hay không, những người được biết như dân du mục sa mạc trong truyền thuyết của miền nam Ma Rốc - hậu duệ Ả Rập và Berber chính thống từ những bộ tộc Regeibat.
Biệt danh của họ xuất phát từ những bộ y phục nhuộm xanh dương. Vì màu nhuộm không chắc nên đôi khi dây lên cả mặt mũi và thân thể. Dù thâm tâm đối kháng Tyrone đến cùng, Nevada không thể không hứng thú với nhóm người xanh này cùng đám lạc đà của họ.
Yên lạc đà được trang trí với những đường riềm đính mã não, và đính tua gắn hột đá đủ màu. Nevada cảm thấy những hột đá này hình như làm bằng cách mảnh sứ, nhưng cô cũng không chắc lắm.
Cô chỉ có chút ít thời gian nhìn ngắm vòng quanh. Khi Tyrone vẫy tay chỉ vào con lạc đà đang tải chiếc kiệu đen, cô biết giờ khởi hành đã đến.
Một người xanh giúp cô lên kiệu, anh tránh nhìn vào mặt cô dù mặt cô che kín mít chỉ còn chừa cặp mắt. Nevada bám chặt vào thành kiệu, con lạc đà lóng ngóng trỗi dậy. Đoàn người bắt đầu cuộc hành trình.
Tyrone đi trước dẫn đầu, bọn người xanh cưỡi lừa hay lạc đà chở những kiện hành lý nặng trĩu nối đuôi phía sau.
Nevada bực bội không biết anh ta đưa cô đi đâu, cô ước phải chi lúc nãy có thể hỏi anh nhiều hơn. Chung quanh họ toàn là sa mạc, nhưng không có cát, mặt đất toàn là đá trải dài hết dặm này hết dặm khác thật hoang vu không hề có bóng dáng cây cỏ. Tuy thế, sa mạc vẫn có nét đẹp riêng, nền đá đổi những tông màu khác nhau từ xám đen, qua màu đồng thau ửng sắc cam, hay từ màu đồng nâu sang màu son tàu. Giờ đây cô chỉ cảm nhận được không gian bao la và bầu trời cao thăm thẳm phía trên.
Họ đã đi gần hai tiếng, cảnh sắc không thay đổi gì nhiều, chỉ thỉnh thoảng Nevada thấy những tòa nhà thấp thoáng xa xa mà cô đoán là kasbah. Nhà cửa ở đó nhỏ nhưng được xây bằng đất ngay chỗ dựng nhà nên màu sắc cũng biến đổi khác nhau. Chỉ có một lần cô thấy được màu nâu sữa của café-au-let, nhìn quanh cô thấy thì ra là những thân dừa và cây ăn trái bao quanh.
Tyrone không có ý dừng lại dọc đường nên họ vẫn đi tiếp, chậm rãi, không hề nao núng. Thân hình Nevada lắc qua lắc lại theo mỗi bước đi của lạc đà, cô thầm cảm ơn đi kiểu lắc lư này mà cô không bị chóng mặt. Bỗng thình lình Tyrone đưa tay ra hiệu cho đoàn người dừng lại. Nevada cũng ngạc nhiên không hiểu chuyện gì xảy ra. Cảnh sắc vẫn không thay đổi và họ cũng chưa đi đến đâu.
Cho ngựa quay đầu, Tyrone đi ngược lại dọc theo đoàn lừa và lạc đà cho đến khi gặp Nevada. Anh ra lệnh bằng tiếng Ả Rập, người cưỡi lạc đà của Nevada trả lời và cho con vật qùy xuống.
Nevada nhìn Tyrone thắc mắc.
“Xuống đây!”
Nevada nửa phân vân nửa mừng thoát khỏi cảnh kiệu bị lắc lư không ngừng, cô vịn tay người nài bước xuống đất. Chân đang mang hài babouches thêu chỉ vàng, đôi hài mỏng làm chân cô đau nhói bước đi trên nền đá cứng.
“Tôi chỉ cho cô coi cái này.”
Cô nhìn anh ngạc nhiên vì chẳng thấy có gì chung quanh họ. Anh dẫn cô đi thêm một đoạn đến một ụ cao. Khi họ đến gần, Nevada không nghĩ gì nhiều chỉ quan tân đến bàn chân đang đau của mình, rồi cô thấy những khúc xương lớn và một cái đầu lâu.
Đến đây thì Tyrone ngừng hẳn lại.
“Cô nghĩ thấy xác chết rất là thú vị. Được, ở đây có một cái. Người này đã bị giết, phong tục Moorish cấm tuyệt không cho chôn cất nạn nhân cho đến lúc thù của anh ta được trả.”
Nevada thở hắt ra.
Đến giờ thì cô thấy toàn thể bộ xương nằm trên cát nơi anh ta đã ngã xuống. Diều hâu đã rỉa hết thịt chỉ còn trơ lại xương, hàm răng như đang cười trong chiếc sọ chỉ còn hốc mắt. Xương lóng tay nằm lăn lóc kế bên. Mặt trời, hay có lẽ diều hâu đã phá hủy đi bộ trang phục, nay chỉ còn lại mớ giẻ rách tả tơi đã từng là áo choàng djellaba và khăn turban.
Cô thở gấp gáp muốn quay đầu bỏ đi nhưng Tyrone với tay nắm chặt lấy cổ tay cô giữ cô lại.
“Tôi muốn cô nhìn người này.” Giọng anh cứng rắn khinh bỉ. “Hãy nghĩ đến anh ta cũng từng một thời tuổi trẻ, rắn rỏi sống động, lạc quan, có lẽ có tham vọng, và có lẽ đang yêu nữa.”
Anh kéo cô lại gần hơn.
“Bây giờ anh ta đã chết, hãy nhìn xem anh ta còn lại cái gì.”
“Để tôi... đi!”
Cô ráng giật tay mình ra khỏi gọng kềm của anh nhưng vô hiệu.
“Cô thấy ý tưởng chết chóc vui sướng lắm à.” Tyrone tiếp tục. “Đối với tôi chết là một sự phí phạm đáng thương khi nó đến quá mau. Một sự uổng phí khi một thanh niên trẻ trung phải chết vì lòng tham của tên sát nhân hay vì sự tàn nhẫn của người đàn bà.”
Nevada nhắm mắt lại.
Cô không thể nào chịu đựng nhìn vào bộ xương đó nữa. Cô thấy như thể lời kết tội của Tyrone cũng kinh khủng như bộ xương không còn chút thịt và hai hốc mắt sâu, nơi đó đã từng là đôi mắt một thời nhìn đời với bao hiếu kỳ.
Đột nhiên cô thấy mình như sắp ngất, người khẽ chao đi. Tyrone hình như nhận thấy chuyện gì sắp xảy ra, anh buông tay Nevada ra. Cảnh tượng này đã quá sức cô, Nevada xoay người quờ quạng vấp váp đi trở về kiệu.
Không biết bằng cách nào mà cô đi được tới kiệu. Đoàn người lại tiếp tục lên đường, Tyrone vẫn dẫn đầu phía trước. Nevada đưa tay ôm lấy mặt mình.
“Cô thật đã chế giễu cái chết như vậy ư? Có thật là cô đã xúi David kết thúc tính mạng như thế?”
Mọi chuyện dường như xảy ra đã quá lâu. Tuy nhiên, nếu anh ấy chết, bây giờ cô hiểu ra cô sẽ không thể nào tự tha thứ cho mình... hay lãng quên được.
Họ tiếp tục đi thêm một giờ nữa, khi đến gần một nơi trồng rất nhiều dừa đoàn lữ hành dừng lại.
Xuống tới đầt, Nevada nhận ra họ đã tới một ốc đảo. Cô thầm cám ơn những tán lá dừa to bản tỏa bóng mát trong thời tiết nóng bức này. Chiếc khăn che mặt giờ đây nóng chịu không nổi, cô chỉ muốn vén qua một bên, nhưng sợ phản ứng của Tyrone cô đành thôi.
Tuốt phía cuối ốc đảo, một người cưỡi lạc đà đã lấy trong đám hành lý ra một miếng thảm màu sắc rực rỡ và trải xuống đất. Tyrone bước lại hướng tấm thảm, cô đoán chắc anh ta sẽ nghỉ chân ở đó.
Còn đang phân vân không biết mình phải đi đâu thì Tyrone quay lại vẫy tay ra hiệu cho cô. Nevada đi theo anh, lòng hăng hái hơn bao giờ vì đã quá khát và ít ra trong giữa cái sa mạc mênh mông này cô không cần nấu nướng. Tyrone ngồi khoanh chân trên thảm như kiểu ngồi phương đông, Nevada cũng muốn bắt chước nhưng chiếc caftan lại hẹp nên cô phải qùy xuống.
Thức ăn được dọn ra trước mặt họ. Người hầu đem tới một bao da dê dùng để đựng nước, rồi rót ra những chiếc ly thủy tinh. Nevada chỉ muốn uống ngay nhưng cảm thấy mở mạng ra trước mặt người hầu không đúng với phép tắc nên đành phải đợi.
Cuối cùng thì hai người hầu cũng bỏ đi sang nơi khác. Nevada lưu ý rằng mặc dù những người cưỡi lạc đà và các người khác trong đoàn ngồi ở cuối ốc đảo, họ đều quay lưng lại để tỏ ra tôn trọng tư ẩn của chủ nhân.
“Giờ thì cô uống được rồi.” Tyrone nói với cô.
Nevada cảm kích biết bao, cô vén mạng ngay qua một bên uống một hơi không ngừng. Nước có vị hơi mằn mặn, nhưng lúc này cô chỉ cần có gì uống là được.
“Cô không sao chứ?”
Đó là lần đầu tiên anh ta tỏ ra đôi chút quan tâm đến cô. Cô đoán anh ta chắc không nghĩ đến phản ứng của cô với xác chết, mà chỉ lo cô bị xây xẩm với kiểu ngồi lắc lư đó.
“Tôi không sao, chúng ta đang đi đâu thế?”
“Tối nay mình sẽ lưu lại kasbah tại tư thất của một trong những vị Sheik có thế lực nhất ở miền nam Ma Rốc. Có lẽ sẽ không tiện cho cô lắm, vì cô phải ở bên biệt thất của phụ nữ.”
Nevada tròn xoe mắt nhìn anh.
“Ông muốn nói là... hậu cung?”
“Ý nghĩa hậu cung ở Ma Rốc không hẳn giống như ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng cô sẽ không nhận ra sự khác biệt nào đâu.”
Nevada im lặng không nói lên lời.
Cô đột nhiên cảm thấy sợ hãi hơn bao giờ. Cái vùng đất xa lạ này kinh hãi quá, cô lại không có một chút kiến thức nào, ở đây thân thế cô không quan trọng ngoại trừ cô thuộc về Tyrone.
Như đọc được cảm tưởng của cô anh nói.
“Mình chỉ ở đó một đêm thôi, nhưng việc hệ trọng là tôi phải tiếp kiến không những Sheik Hassam El Zigli là chủ nhà chúng ta sắp đến, mà còn gặp các vị Sheik và Caid (thủ lĩnh địa phương) khác ở các vùng lân cận.
“Tại sao ông muốn gặp họ?” Nevada thắc mắc.
Cô hoài nghi không biết Tyrone có nói thật với mình không hay có đang có điều gì đó liên quan đến những khám phá bí mật của anh ta.
Nhưng cô vô cùng ngạc nhiên khi nghe anh trả lời.
“Tôi đang viết sách.”
“Sách?”
Qủa thật cô không bao giờ tưởng tượng sẽ nghe anh ta nói như thế này.
“Điều đó làm cô ngạc nhiên lắm sao? Ma Rốc bao giờ cũng là một đất nước đầy bí ẩn, rất ít người biết được, và người ta lại càng biết ít hơn về dân cư sống trong đó.”
Nevada vẫn chăm chú nhìn anh.
Mặc kệ là mình đang ở trong hoàn cảnh nào, cô rất hứng thú, vô cùng hứng thú và chỉ sợ anh sẽ ngưng không nói tiếp những điều cô ao ước muốn biết.
“Khoảng 86% dân số Marocco là Berber hay Ả Rập, giống dân Berber thì tuyệt vời, họ là cột trụ huyền bí cổ xưa nhất của vùng bắc Phi.
Anh bật cười trước lời lẽ lãng mạn của chính mình đoạn nói tiếp.
“Họ là người miền Địa Trung Hải, không phải dân da đen hay người Semitic. Thật ra chỉ có Chúa biết họ đến từ nơi nào.”
“Ông định viết về họ à?”
“Tôi đang gặp khó khăn tìm tất cả tài liệu cần thiết để viết sách. Họ sống ở bắc Phi trong những vùng núi non từ thuở khai thiên lập địa. Những vị Phraohs của Ai Cập bị thu hút bởi nét huyền bí của họ, gọi họ là Lebu. Người Hy Lạp thì cũng cùng mức độ bí ẩn như sắc dân này thì được gọi là Nomade. Không một ai biết từ Berber xuất phát từ đâu.”
“Ông thích họ sao?”
“Tôi cảm thấy thu hút bởi giống người này. Họ không hề bị hủy hoại bởi nền văn minh hiện đại.”
Anh bật cười.
“Có nơi nào trên thế giới cô sẽ tìm thấy tình trạng nô lệ được xem như một vấn đề tất nhiên, đàn ông sẵn sàng sống trên đầu gươm mũi súng, còn phụ nữ thì thuần khiết phục tùng.”
Bốn chữ cuối chứa đầy ẩn ý nhắm vào cô, cho cô biết rằng anh đang mỉa mai cô, nhưng một lần nữa Nevada không cảm thấy phiền hà.
“Nói cho tôi nghe nữa đi.” Cô nài nỉ.
“Rồi cô sẽ thấy thế giới này đáng để học hỏi và khám phá, nhưng nếu muốn đến đó sớm tôi đề nghị cô ăn nhanh lên.
Vì quá đói Nevada nghe lời anh ngay. Cả hai cùng yên lặng dùng bữa. Cô có cảm tưởng đây là bữa ăn tây phương chót mà còn lâu lắm mới ăn lại được, lòng hoang mang không biết chuyện gì sẽ xảy ra nay mai.
Ngay khi họ ăn xong, mọi người lại lên đường. Cảnh vật chung quanh bắt đầu thay đổi, mặt đất trở nên gập ghềnh khó đi hơn. Thình lình đằng trước dường như xuất hiện một thành trì khổng lồ, kiên cố. Nevada sửng sốt vì kiến trúc quá lớn, bao quanh bởi những lớp thành lũy phòng thủ đủ kích cỡ khác nhau.
Đầu thành hơi vượt lên một chút, các tòa nhà được bao quanh bởi những lớp lũy rất cao tua tủa lỗ châu mai, đó đây trên mặt lũy những ngọn tháp đồ sộ vươn lên sừng sững.
Khi đến gần thành trì dường như hùng vĩ hơn gấp bội lần, Nevada nhanh chóng nhớ lại những điều cô đọc được trong sách về kasbah.
Thành kasbahs cũng tương tự như một lâu đài lớn thời trung cổ, là nơi cư trú của tù trưởng bộ tộc cùng với tất cả thuộc hạ và người ăn kẻ ở, và mọi người trung thành dưới trướng của ông ta.
Ngoại trừ người, gia súc của tù trưởng đều được trú ngụ trong thành. Vào ban ngày mọi súc vật đều được lùa ra ngoài để làm lụng hoặc tự kiếm ăn, đến tối bọn chúng lại được lùa trở vào thành. Thật ra kasbah không phải nơi cư trú mà là một lãnh địa, một dinh cơ tự túc. Cư dân trong lãnh địa tự cung cấp chế biến những sản phẩm dùng trong đời sống hàng ngày ngoại trừ trà, café, và đường.
Giờ đây Tyrone đã đến trước cánh cổng gỗ khảm đồng đồ sộ, một nhóm những người mặc áo thụng trắng chạy mở cửa chào đón anh. Họ đưa mọi người vào bên trong, Nevada thấy hàng loạt những hàng lang ngoằn ngoèo kế tiếp nhau, thỉnh thoảng cô liếc thấy những khoảng sân và hồ phun nước xen kẽ.
Vẫn ngồi trên kiệu, cô được dẫn qua những lối đi vòng vèo như trong một mê cung đầy những người, trẻ con, gia súc cho đến khi họ đến một nơi mà cô đoán chắc là trung tâm của kasbah, chỗ ở của tù trưởng.
Ở đây mọi vật đều khác hẳn với bên ngoài. Cô đi theo Tyrone qua một cánh cửa được trạm trổ cầu kỳ đến một nơi mà cách trần thiết có thể mô tả như một cung điện. Nhìn từ bên ngoài, cung điện trông nặng nề ảm đạm, không có một cửa sổ nào. Nhưng thật lạ kỳ bên trong là sàn nhà được ghép đá tinh vi, tường trổ hoa văn hay cẩn gạch màu hình thù cầu kỳ. Trần nhà lót gỗ cũng được chạm khắc tỉ mỉ và sơn màu đậm. Những hàng cột được chạm trổ trên đỉnh dùng để ngăn các phòng. Và đó đây là những bình phong mắt cáo tuyệt đẹp.
Sàn nhà được phủ bằng những miếng thảm đủ màu High Atlas, trên đó cơ man là những chiếc gối dùng để qùy bằng lụa thêu - đỏ, lục, trắng, còn gối vàng thì làm bằng da dê. Đèn lồng bằng lụa được treo khắp nơi. Cả cung điện bàng bạc vẻ huyền bí đông phương mà Nevada không sao diễn tả được.
Sheik Hassan El Zigli là một người đàn ông lớn tuổi râu tóc bạc phơ, thắt lưng gắn đoản kiếm vỏ cẩn đá qúy. Thấy Tyrone ông ta vội bước ra chào rất cung kính, nhưng lại tảng lờ Nevada đang đứng phía sau Tyrone. Chỉ đến khi hai người đàn ông trò chuyện một hồi, Tyrone mới nhắc đến sự hiện diện của Nevada. Hiểu ra, vị Sheik búng tay ra lệnh.
Một người hầu xuất hiện và ra dấu cho Nevada đi theo anh ta.
Cô đột nhiên cảm thấy lo sợ phải rời Tyrone khi bước vào hành cung to lớn này, mà dường như là kết hợp nửa cung điện, nửa là khu ổ chuột. Nhưng rồi cô tự nhủ tỏ ra sợ hãi thì càng làm cho anh ta coi thường mình hơn thôi. Không quay đầu lại nhìn anh, cô bước theo người hầu. Một lần nữa họ lại đi vòng qua những lối đi ngoắt nghoéo dường như rất dài.
Cuối cùng thì họ đến trước một cánh cửa nguy nga được chạm trổ và trang trí theo kiểu Moorish, người hầu gõ lên cửa vài tiếng. Từ bên trong một người phụ nữ che mạng bước ra mở cửa. Dù cô không hiểu hai người nói gì với nhau, nhưng cô đoán biết anh ta đang giới thiệu cô là ai.
Người phụ nữ ra hiệu cho cô vào trong và đóng ngay cửa lại, Nevada bỗng dưng cảm thấy mình cô độc hơn bao giờ hết. Bà ta nói một thôi một hồi với cô nhưng cô chỉ lắc đầu tỏ ý không hiểu. Rồi cô lại được dẫn theo một lối khác đưa đến một căn phòng lớn, có một số các bà các cô đã ở sẵn trong đó. Họ không che mạng, người thì ngồi trên sàn, kẻ thì ngồi trên những tấm thảm màu hay trên trường kỷ thấp bọc nhung đỏ. Trong số họ, có vài người còn trẻ còn lại phần lớn là phụ nữ đứng tuổi tóc bạc da mồi. Ai nấy đều mang đầy trang sức, Nevada đoán họ là họ hàng của vị Sheik. Tất cả đàn bà trong gia đình hay họ hàng của tù trưởng đều ở cung riêng dành cho phụ nữ.
Có ai đó cởi áo choàng haik cho cô, khi mọi người thấy chiếc caftan của cô ai nấy đều trầm trồ. Nhiều người trong số họ mặc caftan thêu như cô, còn lại thì mặc thêm lớp mansouria mỏng bên ngoài. Bộ y phục này làm cho họ giống như đang khoác một lớp khói sương màu nhạt.
Một bà tóc bạc vẫy tay gọi Nevada đến ngồi trên trường kỷ cạnh bà. Liền sau đó một phụ nữ khác trẻ hơn, ăn mặc rất đơn giản mà Nevada đoán là nô tì, đem đến cho cô một ly trà bạc hà. Trà tuy ngọt và nóng, nhưng là một thức giải khát rất tuyệt mà cô chưa từng uống bao giờ. Ngay sau khi uống xong, người nô lệ lại rót cho cô một lượt nữa. Lần này cô uống chậm rãi, nhìn quanh phòng cô cảm thấy thú vị - ngồi trong hậu cung là cả một tao ngộ kỳ thú mà chỉ rất ít phụ nữ tây phương mới hân hạnh có được kinh nghiệm này.
Dùng tay ra dấu các bà tỏ ý ngưỡng mộ bộ nữ trang cô đang mang, rồi cho cô xem đồ của họ. Vài người mang vòng đeo cổ bằng mã não nặng trĩu, số khác mang vàng hay bạc cẩn thạch anh tím lấy từ rặng núi High Atlas, hay cẩn lam ngọc, san hô, và các loại đá khác Nevada không thể nhận ra hết, nhưng cô đoán lấy từ các mỏ trong các vùng lân cận.
Nevada quá hào hứng, cảm thấy có biết bao điều muốn biết, muốn hỏi. Cô uớc phải chi thay vì gây với Tyrone trên tàu cô có thêm cơ hội để học tiếng Ả Rập. Khi cô gần như cạn kiệt mớ ngôn ngữ bằng tay này một người đàn bà nữa xuất hiện trên tay bế một đứa bé. Các bà kia chỉ vào Nevada và giải thích cho người mới tới cô là ai.
“Vous parlez Francais?” (cô nói được tiếng Pháp không?) Người mới tới nói tiếng Pháp bằng giọng rất nặng, khiến tiếng Pháp của bà ta nghe rất khó hiểu.
“Oui, oui,” (vâng) Nevada hăng hái trả lời.
Quả thật là khó để hiểu được bà ta nói gì, phần vì tiếng Pháp của bà ta rất hạn chế, phần vì phát âm quá tệ, nhưng họ cũng ráng trao đổi với nhau. Qua người phụ nữ này Nevada hiểu được các bà lớn tuổi là mẹ, bà, chị em, và cô dì của tù trưởng. Ông ta có tất cả 4 bà vợ chính thức như luật Hồi giáo cho phép, và các thiếu nữ trẻ hơn là cung phi. Nước da của họ có màu tái, nhạt hơn màu café một chút, đường nét thanh tú, khuôn mặt họ rất thu hút. Tóc để dài, đen mướt như lụa. Người nào cũng có dáng dấp uy nghi đường bệ khiến cho họ rất nổi trội trong bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Có hai người trong số họ đẹp đến nỗi nếu ở New York hay London, họ sẽ nổi danh nhanh chóng.
Điểm thêm trên khuôn mặt xinh đẹp là đôi mắt đen rất to, mũi ngắn, hai cánh môi cong đầy đặn, nhưng nét nổi bật hơn hết chính là vẻ tự tin của họ. Các bà các cô ở đây không ai cười khúc khích ngượng ngùng như các cô học trò ở New York, hay tỏ vẻ thẹn thùng, hoặc nhìn đăm đăm vào cô như cô nghĩ họ sẽ làm vậy với khách lạ.
Nụ cười của họ khả ái và thân thiện. Lúc mọi người ngồi xuống dùng bữa, dù ngôn ngữ bất đồng thái độ của họ làm cô không còn cảm thấy sợ hãi. Họ chia nhau ra ngồi trên thảm hay trên những tấm đệm, các nô tì tiếp cho họ món soup cũng là món chính gọi là harira. Soup này được nấu bằng gà, thịt cừu khô, chick peas, ngò, gừng, hành và nghệ.
Khi mọi vật liệu chín kỹ, người ta cho thêm gạo và các gia vị vào. Ăn chung với món này là cà chua, bánh mì và trứng. Hai tô soup harira là quá đủ cho Nevada, đặc biệt là còn kèm theo món kẹo truyền thống của dân Moorish được làm bằng hạnh nhân ngào mật ong rất thơm ngon.
Sau bữa ăn là thế nào cũng có thức uống là trà bạc hà. Khi bữa ăn kết thúc, tất cả các bà các cô đều nhổm dậy với lấy litham, và y như là ảo thuật mạng che nhanh chóng xuất hiện ngay trên mặt họ.
Nevada nhìn người đàn bà nói tiếng Pháp một cách dò hỏi.
“Có biểu diễn ca múa,” bà ta giải thích. “Chúng ta đi xem ca múa.”
“Ở đâu thế?”
Bà ta không biết cách nào để giải thích nên đành nắm lấy tay Nevada dắt cô đi theo những người khác đến một khoảng sân rộng bao quanh bằng các tấm bình phong lưới mắt cáo. Bên dưới cô thấy các vị tù trưởng mặc áo thụng trắng ngồi trên những tấm đệm, chân gác lên những tấm thảm màu rực rỡ. Ngay ở trung tâm và phía bên tay phải của vị chủ nhà là Tyrone!
Anh ta trông kiêu hãnh ngạo mạn, Nevada thầm nghĩ, nhưng đồng thời thần thái vẫn ung dung.
Khoảng sân được thắp sáng bằng bầu trời đêm nạm đầy sao và hai đống lửa lớn đốt bằng lá dừa đặt hai bên cạnh sân.
Nghĩ đến tình cảnh mình bị đối xử như vậy, lòng Nevada ào lên cơn chống đối căm phẫn. Sao anh ta lại có thể ép buộc cô, một phụ nữ da trắng, người Mỹ, giàu có quyền thế trong xã hội thượng lưu chỉ được phép nhìn hé anh ta qua khe lưới mắt cáo!
Chỉ trong vài giây cô băng qua khoảng sân trống tiến đến chỗ tù trưởng. Cô hiên ngang đứng giáp mặt với họ, ánh lửa bập bùng soi sáng trên mái tóc đỏ và đôi mắt giận dữ của cô.
“Messieurs,” Nevada kêu lớn, khi mọi tù trưởng đều quay đầu về phía cô ai nấy đều ngạc nhiên, cô nói tiếp bằng tiếng Pháp.
“Tôi bị ép buộc đến đây. Nếu một trong các ông hộ tống tôi đến tòa Đại sứ Anh hay Pháp gần nhất tôi sẽ trọng thưởng, bất cứ điều gì các ông yêu cầu!”
Cô ngưng lại, các vị Sheik nhìn cô chăm chăm khiến cô nghĩ rằng họ chắc hiểu được cô đang nói gì.
“Tôi giàu lắm... rất giàu.” Cô nói tiếp. “Hãy giúp tôi... làm ơn giúp tôi đi.” Giọng cô vang lộng khắp trong sân.
Sheik Hassan quay qua nói với một người Moor kế bên, một vị Sheik khác ngồi bên tay trái Tyrone nghiêng đầu thì thầm vào tai anh. Nevada nhìn hết người này đến người khác. Chắc chắn phải có người sẽ giúp cô chứ!
Tyrone nói tiếng Anh với cô.
“Không ai ở đây hiểu cô nói gì đâu.” Anh lạnh lùng nói. “Họ chỉ nói tiếng Berber thôi. Nhưng người bên cạnh tôi đang ra giá một con lạc đà và bốn con cừu để đổi lấy cô. Ông ta nói rằng ông ta rất hứng thú với phụ nữ đầy nhiệt tình như vậy, tính khí đó làm cho ông hứng thú muốn đập dẹp nó ra.”
Tim Nevada đập dồn trong lồng ngực, nhưng mắt vẫn nhìn anh thách thức.
“Tôi có nên nhận lời ông ta không? Đối với đàn bà vùng này thì giá đó khá lắm đó.”
“Ông dám sao!”
Trong khoảnh khắc cô hoàn toàn quên béng các tù trưởng, mọi cảnh vật chung quanh, trong mắt cô giờ đây chỉ còn Tyrone và trận chiến quyết liệt giữa hai người.
“Quyết định là ở cô đấy!” Anh khăng khăng nói tiếp. “Chuyện này không liên quan đến tôi.”
Cô thở sâu, kinh hoảng với ý nghĩ là anh ta sẽ trao cô cho người tù trưởng kia, thế là đời cô sẽ tàn. Tuy nhiên lòng tự trọng giúp cô đứng thẳng nhìn đăm đăm vào anh ta, mắt rực lên căm hờn. Nhưng rồi cô bỏ cuộc. Khóc nấc lên tuyệt vọng cô bỏ chạy ra ngoài.
Khi chạy đến hàng hiên cô còn nghe tiếng cười của các vị Sheik đuổi theo. Trên hiên tất cả phụ nữ đều kinh hoảng nhìn cô. Nhưng vì lịch sự không muốn làm cô bối rối, họ lại tỏ ra tập trung xuống khoảng sân bên dưới.
Nhạc bắt đầu trổi lên, các bà di chuyển sang phía trên chỗ ngồi của các Sheik.
Hai mươi nhạc công ngồi ở đằng cuối sân, họ đang chơi trống được phụ họa thêm bằng sáo và berdirs, một loại lục lạc.
m nhạc có tiết tấu mạnh mẽ dồn dập, chừng một giây sau một đoàn vũ công xuất hiện trong sân. Tất cả vũ công đều mặc hàng muslin và lụa, trang sức đầy người.
“Đây là các vũ công Tiznet.” Phụ nữ nói tiếng Pháp thì thầm vào tai Nevada. “Rất nổi tiếng, kích động lắm.”
Nevada nhớ lại sách của Tyrone có nói vũ công Tiznet có thể đối đầu với các vũ công toàn vùng bắc Phi, bao gồm cả Ouled Nails là các vũ nữ lừng danh về các điệu múa nhục thể rất lạ lùng.
Vũ điệu các cô gái Tiznet trình diễn cũng tương tự như kiểu múa lắc bụng của Thổ Nhĩ Kỳ. Họ vẫn đứng yên một chỗ, nhưng toàn thân lắc lư uốn lượn. Trong ánh lửa vàng những cái bóng khổng lồ của họ hiện ra chập chờn làm cho khung cảnh thêm vẻ kỳ bí, âm u.
Trong lúc họ múa, từ nơi nào đó trong sân vang lên giọng ngân nga cao vút quyện lấy tiếng nhạc. Khi điệu múa chấm dứt các vũ công xếp hàng thành hình vòng cung trên sân khấu. Ngay chính giữa bọn họ, một cô gái bước ra khiến Nevada muốn nín thở.
Cô ta còn rất trẻ và thân hình thì tuyệt mỹ, tóc buông dài gắn nhiều châu báu và được bao phủ bằng khăn mỏng màu xanh dương.
“Cô ta sắp múa điệu la Guedra,” bà nói tiếng Pháp lại thì thào với Nevada.
Người vũ công qùy xuống, mắt nhắm lại, điệu vũ bắt đầu khi cô ta rung rung cổ tay, rồi cánh tay, cổ, đầu, thân trên, hông, và cuối cùng là toàn thân. Dường như có ngọn lửa nào đấy đang xuyên qua người cô ta, rực lên, tỏa rộng ra cho đến khi hoàn toàn thiêu hủy cô.
Khi cô ta di chuyển chiếc mạng che màu xanh tuột xuống phô bày nửa thân trần. Uốn éo buông thả theo điệu trống dồn dập, thân thể uyển chuyển xoáy lượn nhịp nhàng cô ta giờ đây đúng là một hiện thân của nhục thể.
Nevada chỉ còn biết đứng đấy nhìn, nhận ra cô gái dưới kia càng lúc càng trở nên lả lơi, các động tác nhanh hơn, cánh tay quằn quại như rắn, mắt lim dim, hai cánh môi hé mở cho đến khi người cô ta như đạt đến trạng thái thăng hoa.
Cô ta qủa thật quyến rũ, khêu gợi, nồng nàn không những khơi dậy được lòng rạo rực nơi các vị Sheik mà còn ở toàn thể phụ nữ đang thưởng ngoạn nơi đây. Khán giả ai nấy đều thở gấp gáp, gần như bị thôi miên thân hình họ cũng uốn lượn lắc lư theo từng điệu trống.
Rồi thình lình vũ điệu chấm dứt. Vũ công đã vươn đến đỉnh cao của vũ điệu người xoay tròn kỳ ảo rồi đột nhiên sụp xuống. Tiếng trống cũng ngưng bặt để lại không gian tịch mịch chỉ còn lại tiếng tim đập dồn dập của người xem.
Mọi người dường như bị mê man bởi sự im lặng lạ thường cho đến khi Sheik Hassan giơ tay ra hiệu cho nhóm vũ công đến gần.
Các cô gái chạy túa lại phủ phục dưới chân ông ta, đầu cúi sát xuống đất, tay chắp lại trong tư thế kẻ tôi đòi khuất phục bề trên.
Trong lúc Nevada còn đang ngơ ngác đứng ngắm sự việc diễn ra trước mắt mình, cô gái vũ công mở mắt ra. Sheik Hassan đỡ cô ta đứng dậy và dắt cô ta về hướng Tyrone.
Nevada thấy anh ta ngước lên nhìn cô gái, môi nở nụ cười. Trong lòng dâng lên cảm giác hãi hùng ghê tởm, cô quay ngoắt đi!
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.