Tam Sinh Tam Thế Chẩm Thượng Thư
Chương 24
Đường Thất Công Tử
24/03/2016
01.
Người phàm trần có một câu thơ, nói về sự ngắn ngủi của ngày xuân, câu thơ đó là “Điểu ca hoa vũ thái thú túy, minh nhật tửu tỉnh xuân dĩ quy[1]”. Năm xưa, khi Phượng Cửu nghe được câu thơ đó từ chỗ người phụ thân yêu thích văn chương của mình, hiếm khi có dịp thể hiện khả năng cảm nhận văn chương của nàng, nói rằng sở dĩ người phàm trần than vãn ngày xuân ngắn ngủi cũng bởi vì mùa xuân là mùa đẹp nhất trong bốn mùa, những thứ tốt đẹp đều khiến người ta chìm đắm, cũng không cảm nhận được thời gian trôi qua, khi giật mình quay đầu lại, luôn cảm thấy ngắn ngủi. Nàng nói ra những lời đó, khiến phụ thân như gặp được tri âm, đợt đó ánh mắt của người nhìn nàng vô cùng hiền hòa.
[1] Hai câu thơ trong bài Du xuân ở đỉnh Phong Lạc của nhà thơ thời Bắc Tống Âu Dương Tu. Dịch ý: Chim ca hoa khoe sắc, thái thú (một chức quan) uống rượu say, ngày mai khi tỉnh rượu, xuân đã qua mất rồi.
Hôm nay, khi vứt Tức Trạch thần quân ra khỏi cửa phủ, đứng ngáp mà nhìn theo bóng dáng xa dần của thần quân, Phượng Cửu lại có chút buồn bã khi nhớ tới câu thơ này. Khi tỉnh rượu thì ngày xuân đã trôi qua, lần hội ngộ này của nàng và Tức Trạch mặc dù không ngắn ngủi như vậy, nhưng sáu, bảy ngày quả thực đã trôi qua nhanh chóng giống như một cuộc xuân say.
Thực ra nàng vốn định giữ Tức Trạch ở lại lâu hơn, nhưng việc này khó tránh khỏi có chút tàn nhẫn đối với Mạch thiếu gia. Hôm qua, Mạch thiếu gia đã gửi cho Tức Trạch một lá thư dài, vô tình để nàng đọc được, trong thư tội nghiệp trình bày rằng chàng ta đang trong giai đoạn cuối cùng chế tạo thứ pháp khí kia, loại pháp khí cao diệu này, khi chế tạo thành hình sẽ rất hung dữ, nếu không xử lý tốt, khoan nói tới việc lãng phí công sức trước đây, có thể còn bị nó tấn công lại, việc này vô cùng quan trọng, mong thần quân sớm hồi cung lo liệu.
Cuối thư còn xót xa rơi lệ hỏi một câu, mấy ngày trước chàng ta đã gửi cho thần quân tổng cộng là mười một bức thư dài, thần quân không nhận được hay nhận được rồi đã coi như giấy vụn, đem nhóm đèn rồi.
Lúc đó nàng bèn nhớ ra trong mấy đêm gần đây, dường như trong nến phảng phất mùi mực, trong lòng bất giác thông cảm với Mạch thiếu gia.
Với một trái tim thông cảm và đại nghĩa, ngày hôm sau, nàng dứt khoát ném Tức Trạch ra khỏi phủ.
Ném Tức Trạch đi, quả thực cũng có chút đáng tiếc, mấy ngày nàng ở bên Tức Trạch, nàng đi chơi các nơi trong Vương thành một cách rất thích thú, cuộc sống thú vị hơn trước đây nhiều.
Ví dụ như Tức Trạch dẫn nàng đi thả câu, thực ra nàng không có hứng thú với việc này lắm, vốn nghĩ chỉ là chiều theo chàng thôi, nhưng khi đã đi rồi, nàng lại là người chơi đùa thỏa thích nhất. Tức Trạch chuẩn bị một chiếc thuyền nhỏ giản dị, phía mũi thuyền đặt một bếp lò nhỏ và các lọ đựng tương, dầu, mắm, muối, đưa nàng xuôi theo dòng nước, thưởng thức cảnh xuân bên ngoài thành, gần đến trưa, chàng neo thuyền lại, khi chàng câu cá thì nàng hâm rượu, cá câu lên nàng dùng để làm một bữa ăn thịnh soạn, dùng xong bữa trưa, chàng chèo thuyền vào một đầm sen, chàng ngồi đọc sách còn nàng nằm trong lòng chàng ngủ trưa, tia nắng mặt trời xuyên qua đám lá sen, chiếu lốm đốm lên mặt nàng, nàng liền áp mặt vào lồng ngực của chàng.
Chàng rất thích vừa cầm sách vừa vô thức đùa nghịch những sợi tóc mềm mượt của nàng, trước đây, khi nàng còn là một tiểu hồ ly ở cung Thái Thần, Đông Hoa Đế Quân cũng thích đùa nghịch bộ lông của nàng như vậy, lúc đó nàng còn là một con thú cưng, cảm thấy rất dễ chịu, rất an tâm, động tác của Tức Trạch lúc này, không hiểu sao lại khiến nàng ngoài cảm giác an tâm còn cảm thấy thật thân thiết. Nàng suy đoán chắc là vì hai người tâm ý tương thông, lại thầm than rằng bốn chữ “tâm ý tương thông” này thật thần diệu biết bao.
Bởi vì Tức Trạch là một người không hay bận tâm tới lời đàm tiếu của dư luận, ví dụ như đưa nàng đi thả câu, đưa nàng đi ngắm hoa, cùng nàng xem trò vui, chàng đều thoải mái thực hiện, cũng chưa từng nghĩ tới chuyện cải trang che giấu, vì vậy khó tránh khỏi việc gặp phải người quen nhận ra họ. Với bộ tộc Tỷ Dực Điểu, việc các đôi phu thê quý tộc cùng nhau dạo chơi trong ngày xuân không phải là chuyện hiếm, nhưng những đôi phu thê khác ra ngoài dạo chơi thường thích khoe khoang phô trương, dạo chơi bằng cách đi bộ thăm thú đường phố như hai người họ lại quả thực rất khác biệt. Chỉ mấy ngày sau, thông tin Thần Quan Trưởng tiền nhiệm và nhị công chúa tình cảm phu thê mặn nồng lại được lan truyền khắp Vương đô, một lần, Phượng Cửu vào cung thỉnh an, ánh mắt của Quân Hậu nhìn nàng cũng có phần khác thường.
Phượng Cửu không bận tâm lắm tới việc chuyện này lan truyền trong cung như thế nào, nàng chỉ thầm lo lắng, không thể để Trầm Diệp biết được. Phượng Cửu cảm thấy, theo một câu ngạn ngữ dưới phàm trần, hành động này của nàng là một hành động ăn trong chén, nhìn trong nồi, là một hành động tồi tệ. Nhưng nàng đã nhận lời với Mạch thiếu gia, trong lòng cho dù áy náy, cũng chỉ có thể toàn tâm toàn ý làm một kẻ tồi tệ tử tế. Một kẻ tồi tệ tử tế là như thế nào? Các tiên sinh mặc dù chưa từng dạy, nhưng may mà có Liên tam điện hạ trên thượng giới để tham khảo.
Chiều ngày thứ ba sau khi Tức Trạch đi, lão quản gia tới mang theo lời mời của Trầm Diệp. Phượng Cửu vừa mới tỉnh dậy sau giấc ngủ trưa, có chút mơ hồ trước lời mời gọi này. Trong câu chuyện của Mạch thiếu gia, Trầm Diệp dường như chưa từng chủ động mời A Lan Nhược tới Mạnh Xuân viện? Hay là thực ra trước đây Trầm Diệp đã từng mời, chỉ là Mạch thiếu gia không biết mà thôi, hoặc là chàng ta quên không nói với nàng? Nàng mang theo nghi vấn đó, giữ tâm lý lấy bất biến ứng vạn biến, bước vào Mạnh Xuân viện, vòng qua Tiểu Thạch lâm, bước vào Ba Tâm đình.
Trong đình lúc này không một bóng người, một chiếc bình lưu ly đặt trên bàn đá trống. Ánh nắng mặt trời u ám buổi chiều chiếu vào, lớp sương mù trắng bạc cuộn xoáy trong bình nhuốm một màu vàng rực, chắc chiếc bình đã được thi triển kết giới, lớp sương mù cuồn cuộn bên trong bình không có cách nào thoát ra được.
Phượng Cửu vô cùng hiếu kỳ, đặt tay lên thân bình, một cảm giác ớn lạnh tới tận xương tủy xông thẳng lên đầu nàng. Nàng run rẩy, định thu tay về, nhưng chiếc bình như dính chặt lấy tay nàng. Phượng Cửu có chút kinh ngạc, nhất thời chỉ chú ý vào chiếc bình, cũng không lưu tâm tới mọi động tĩnh xung quanh, cho tới khi một giọng nói vang lên bên tai: “Có thấy quen thuộc không?”. Phượng Cửu ngẩng đầu lên, bắt gặp đôi mắt trầm tĩnh lạnh lùng của vị công tử áo đen. Trầm Diệp.
Nàng quả thực cảm thấy có phần quen thuộc, bởi vì thực ra chiếc bình này có vài phần giống với chiếc bình mà hồi nhỏ nàng thường dùng để chơi dế. Nhưng nàng lờ mờ cảm thấy rằng, Trầm Diệp chắc không hỏi nàng chuyện đó. Nàng thấy khi Trầm Diệp giơ tay lên, một tay kết ấn, chỉ trong nháy mắt, kết giới trong bình lưu ly đã hoàn toàn biến mất. Phía xa vang lên tiếng gió, tiếng sấm chớp, giống như tiếng ma quỷ gào khóc, trong nháy mắt mây đen kéo tới đầy trời. Ánh chớp rạch ngang bầu trời xám xịt, mặt trời lặn xuống, thay vào đó là một vầng trăng khuyết. Ánh trăng khuynh thành.
Khác với sắc trời yêu dị này, lớp sương trắng mềm mại trong bình lại dần dần dịu lại, giống như một áng mây bị xé vụn, từng sợi từng sợi len lỏi giữa các đầu ngón tay của Phượng Cửu. Cảm giác ớn lạnh từ từ ngấm dần vào xương ngón tay của nàng.
Bầu trời xuất hiện hiện tượng không lành này, hoặc bởi vì yêu nghiệt đã bị thu phục, hoặc có ai đó đang thi triển pháp thuật nghịch thiên. Nàng gắng gượng chịu đựng cơn choáng váng xộc lên trong đầu, nhìn về phía Trầm Diệp: “Đây là… đây là pháp thuật gì vậy?”.
Vị thần quan áo đen chăm chú nhìn lớp sương trắng đang chui vào người nàng, lạnh nhạt nói: “Nàng đã từng nghe nói, trong số đám địa tiên có giới hạn về tuổi thọ, cũng giống như người phàm trần, có thể dùng đèn Kết Phách hoặc pháp thuật khác để tạo ra một hồn phách mới chưa?”. Dừng lại một lát, nhìn nàng nói: “Nếu hồn phách đã bị thiêu đốt thành tro bụi, ngay cả đèn Kết Phách trên thượng giới cũng không có tác dụng, nhưng có người nói với ta rằng, nếu có thể tạo ra mộng cảnh này, không những có thể làm lại từ đầu, còn có thể có công dụng giống như đèn Kết Phách, tạo ra một hồn phách mới cho người đã khuất”.
Phượng Cửu sững người lại, nàng có một ấn tượng mơ hồ là bản thân mình dường như đã từng nghi ngờ, mộng cảnh này có thể là do Trầm Diệp tạo nên, nhưng sau đó tại sao lại không tìm hiểu kỹ thì dù thế nào cũng không nhớ ra nổi. Hôm nay chàng ta lại thẳng thắn thừa nhận như vậy, nàng không hề cảm thấy kinh ngạc như trong tưởng tượng của mình.
Nàng và Tô Mạch Diệp đã tạo ra một màn kịch lớn, vốn còn có chút áy náy, nào ngờ, Trầm Diệp lại cũng đang diễn kịch.
Còn một chút tỉnh táo duy nhất sót lại trong đầu, nàng biết rằng ít nhất nàng phải giả bộ kinh ngạc, giả bộ không biết gì để chứng minh rằng nàng quả thực là A Lan Nhược trong thế giới mà Trầm Diệp tạo ra. Xem ra, chàng ta quả thực cũng không hề nghi ngờ nàng.
Tầm nhìn đã trở nên mơ hồ, nàng cắn chặt môi lại, nghe được giọng nói rất khẽ của chàng ta: “Sai lầm thì cũng đã sai lầm rồi, ta chưa từng muốn lừa gạt nàng làm lại từ đầu, nhưng cho dù thế nào, nàng phải quay trở lại, hận ta cũng được, coi ta là người xa lạ cũng được, đó đều là một kết quả, để có ngày hôm nay, ta đã chờ đợi suốt hai trăm ba mươi năm rồi”. Sau mỗi câu nói, sắc mặt chàng ta lại trắng hơn một chút, dường như mỗi câu nói này đều khiến chàng ta cảm thấy đau khổ, nhưng giọng nói lại rất lạnh lùng.
Đợi đến khi hồn phách màu trắng bạc đó chui hết vào trong cơ thể của Phượng Cửu, nàng chỉ cảm thấy trước mắt tối sầm, bên tai vang lên câu nói cuối cùng, dường như đến từ thế giới bên ngoài: “Bọn họ nói thế giới này là tâm ma của nàng, chỉ riêng mình ta biết, nàng chưa bao giờ có tâm ma, người có tâm ma chính là ta”.
Phượng Cửu chưa từng biết rằng, rơi vào một giấc ngủ say lại là một chuyện đau khổ như vậy.
Xét về lý, lợi ích của việc ngất đi là không có tri giác. Hiện giờ cơ thể của nàng quả thực không có cảm giác gì, nhưng trong ý thức lại vẫn có chút bị đày đọa.
Trong tâm trí, nàng giương mắt lên nhìn hồn phách của mình đánh nhau với một hồn phách khác, đối với bất kỳ ai, trải nghiệm này cũng đều rất mới mẻ. Lúc đầu, Phượng Cửu thực ra không kịp phản ứng lại, còn khoanh tay đứng bên cạnh xem trò vui, cho tới khi hai luồng khí trạch ngay trước mắt quấn lấy nhau càng lúc càng dữ dội, thậm chí còn cắn nuốt lẫn nhau, nàng bắt đầu cảm thấy đau đầu, mới giật mình ý thức được rằng hai hồn phách trước mặt đang đánh nhau.
Nàng cảm thấy ngày hôm nay bản thân mình vô dụng tới mức khiến người ta kinh ngạc, nàng không thể ngăn cản hai hồn phách gây lộn, chỉ có thể chịu đau đớn, xét về tình về lý coi như còn có thể tha thứ được, nhưng ban nãy, khi ngón tay của nàng bị dính chặt vào chiếc bình lưu ly, nàng cũng không thể kháng cự lại, chuyện này rất kỳ lạ.
Đầu nàng đau đến nỗi dường như có vô số nhạc tiên vác chiêng lớn đồng loạt gõ mạnh trong đó, Phượng Cửu cố gắng nhịn đau để phân tâm suy nghĩ, vừa chợt nghĩ ra chút gì đó, lại nhìn thấy hồn phách của mình đột nhiên thị uy, nuốt gọn hồn phách của A Lan Nhược. Chính vào lúc hồn phách của A Lan Nhược biến mất, một trận tuyết lớn liền trút xuống, chỉ trong chốc lát đã tích thành một tấm gương dài ngay trước mặt nàng. Nàng không nhớ bài học lần trước, lại đưa tay ra, khi đầu ngón tay chạm vào mặt gương, một sức mạnh cực lớn kéo nàng vào trong đó. Còn chưa kịp đứng vững, một đoạn ký ức từ đầu bên kia của thời gian ào ào kéo đến.
Đó không phải là ký ức của nàng, đó là ký ức của A Lan Nhược. Phía sau tấm gương bí hiểm này là cuộc đời của A Lan Nhược, là mọi suy nghĩ của A Lan Nhược, là niềm vui nỗi buồn của A Lan Nhược, chỉ trong giây lát ngắn ngủi, nàng đã cảm nhận được tất cả. Đoạn quá khứ đó giống như một cây đèn kéo quân, chuyên chở những câu chuyện vụn vặt, cứ xoay tròn không ngừng nghỉ, nhưng mỗi một vòng quay đều hiện lên những phong cảnh khác nhau.
Phượng Cửu có chút hiếu kỳ, tình cảnh này, lẽ nào là do hồn phách của nàng đã nuốt hồn phách của A Lan Nhược, khiến A Lan Nhược nhập vào trong người của nàng, trở thành một bộ phận của nàng? Vậy A Lan Nhược còn có thể sống lại như lời Trầm Diệp nói không, nếu nàng ấy sống lại, bản thân mình sẽ ra sao?
Vấn đề liên quan đến tính mệnh này, nàng chỉ suy nghĩ trong một thời gian ngắn, cảm thấy những chuyện nhàm chán này đợi sau khi tỉnh lại suy nghĩ cũng được, không nên lãng phí thời gian, trước mắt còn có một chuyện quan trọng đang cấp thiết chờ đợi nàng khám phá, cần nàng hao tâm tổn trí. Sau khi suy nghĩ thông suốt, nàng lập tức vứt điều nghi vấn đó qua một bên, vô cùng hào hứng, toàn tâm toàn ý quan tâm tới một việc quan trọng khác đang cấp thiết chờ đợi nàng khám phá – đó là chuyện gặp hoạn nạn biết được chân tình trong thạch trận giam hãm khuyển nhân ở Kỳ Nam hậu sơn, câu chuyện tiếp sau đó giữa Trầm Diệp và A Lan Nhược như thế nào?
Nàng tốn công lục tìm trong hồi ức, xâu chuỗi nhiều đoạn ký ức lại, nhìn thấy một vài cảnh tượng thực sự, đầu tiên chính là hai năm mà Mạch thiếu gia nói là không biết rõ lắm.
02.
Trong hai năm sương mù dày đặc đó, Phượng Cửu vui mừng vì mình đã đoán đúng, Trầm Diệp và A Lan Nhược quả thực có một mối chân tình. Bởi vì đây là hồi ức của A Lan Nhược, tấm lòng của A Lan Nhược đối với Trầm Diệp vô cùng rõ ràng, nhật nguyệt có thể làm chứng, còn tấm lòng của Trầm Diệp đối với A Lan Nhược, chắc năm xưa A Lan Nhược chưa bao giờ thấy rõ, giờ đây, Phượng Cửu đương nhiên cũng không thấy rõ lắm.
Liên tam điện hạ ở trên thượng giới có mấy lời phát ngôn rất nổi tiếng, nói rằng một mối tình sẽ như thế nào, thì phải xem xem người trải qua mối tình đó là người như thế nào. Ví dụ như trên thế gian có mối tình mãnh liệt sục sôi, cũng có mối tình êm đềm bình lặng, còn có những mối tình tương kính như tân[2]. Có người tình cảm sâu sắc nhưng không thể hiện ra bằng lời, có người tình cảm sâu sắc và lời nói cũng nồng nàn. Không thể nói tình yêu của người khác không giống với tình yêu của mình thì tình yêu của người khác không được coi là tình yêu.
[2] Tương kính như tân: luôn tôn trọng nhau, coi trọng nhau như khách.
Nàng luôn khâm phục Liên tam điện hạ là một cao thủ trong chuyện phong nguyệt, phong nguyệt kinh mà đích thân Liên tam điện hạ nói đương nhiên là một tấm chân kinh. Nàng đem tấm chân kinh ấy khoác lên người Trầm Diệp và A Lan Nhược, cảm thấy hai năm qua, dẫu rằng hành động của Trầm Diệp hiếm khi quá thân mật với A Lan Nhược, trong lời nói cũng khó có thể chọn ra lời yêu đương nào đau đớn để bình luận, nhưng có thể, chàng ta chính là kiểu người tình cảm sâu sắc nhưng không thể hiện bằng lời nói, tình cảm của chàng ta chính là loại tình cảm tương kính như tân.
Hồi ức về hai năm đó quá vụn vặt, Phượng Cửu lười không muốn kiểm tra từng thứ một, chọn bừa một đoạn trong khoảng thời gian cuối cùng, mở ra xem. Cảnh tượng đập vào mắt là một hồ sen rộng lớn như một tấm gương, giữa hồ sừng sững một mái đình, trên chiếc bàn đá trong đình đặt một đống hoa mà nàng không biết tên, bên cạnh là một chiếc bình miệng rộng.
Trầm Diệp tay cầm sách, ngồi bên cạnh bàn đá, hai năm sống ẩn dật khiến khí chất lạnh lùng của chàng càng lắng đọng hơn, chăm chú nhìn vào cuốn sách, thi thoảng lại lật một trang. A Lan Nhược ngồi bên cạnh chàng, chăm chú nghiên cứu bó hoa trên bàn, lúc thì ướm cành hoa đã được cắt tỉa vào miệng bình, lúc lại khua khua trước mặt Trầm Diệp để chàng nhìn xem nàng cắt tỉa có đẹp không, có cần phải sửa lại không.
Nhiều lần như vậy, Trầm Diệp rời mắt khỏi cuốn sách, lạnh lùng nói với nàng: “Nàng ngồi cạnh ta chỉ để quấy rầy ta đọc sách sao?”.
A Lan Nhược dùng cành hoa nâng cằm của chàng lên: “Một mình đọc sách chẳng thú vị chút nào, nô gia chiều theo đại nhân như vậy”, nàng mỉm cười: “Chẳng phải là vì đại nhân không muốn rời xa nô gia dù chỉ một khắc hay sao?”.
Trầm Diệp nghiêng đầu né tránh, bất đắc dĩ chỉ vào nơi lá hơi dày trên cành hoa: “Bản lĩnh tự quyết định của nàng càng ngày càng tiến bộ, chỗ này cành hơi dài, lá cũng hơi nhiều một chút”.
A Lan Nhược ung dung mỉm cười: “Đại nhân quá khen, nô gia chỉ là giỏi suy đoán tâm tư của đại nhân mà thôi”.
Trầm Diệp đón lấy chiếc kéo cắt hoa trong tay nàng, bàn tay khẽ run lên, nói: “Còn gọi ta một tiếng đại nhân, tự xưng thêm một tiếng nô gia nữa, ta sẽ vứt nàng ra ngoài đấy”.
A Lan Nhược dịu dàng mỉm cười: “Đại nhân đã nhiều lần nói sẽ vứt nô gia ra ngoài, nhưng chưa lần nào làm được”. Khi thu lại cành hoa, đài hoa vừa hay chắn ngang tóc mai bên tai nàng, toát lên một vẻ kiều diễm riêng có, ánh mắt của chàng dứng lại khá lâu trên khuôn mặt nhìn nghiêng của nàng, nàng như không nhìn thấy, khi cắm nốt cành hoa cuối cùng vào trong bình, lại nghe thấy giọng nói rất khẽ của chàng: “Quay lại đây”.
Nàng quay đầu lại nhìn chàng, ánh mắt vẫn ẩn chứa nụ cười: “Ban nãy chỉ là nói đùa, huynh đừng vì giận dỗi mà vứt muội đi”.
Chàng lại không nói gì, đứng lên hái một đóa hoa nhỏ trong bình, hơi cúi người xuống, cài đóa hoa lên vành tai nàng, ngón tay của chàng dừng lại sau khi khẽ vuốt ve tóc mai của nàng, rút tay lại, cầm sách lên, ánh mắt lại chăm chú nhìn vào trang sách, sau một hồi im lặng, còn ra vẻ lật một trang.
Nàng sững người lại, đưa tay chạm vào đóa hoa nở rộ bên vành tai, một hồi lâu sau khẽ nói: “Đôi khi muội cảm thấy không đủ, nhưng đôi khi lại cảm thấy huynh như vậy rất tốt”.
Ánh mắt của chàng lại rời khỏi quyển sách ngước lên nhìn nàng, dường như có chút nghi hoặc: “Cái gì không đủ?”. Nhưng nàng chỉ mỉm cười lắc đầu.
Ánh nắng ban mai nhuộm một màu ấm áp lên ngôi đình nhỏ giữa hồ, bầu trời cao rộng, làn nước sâu thẳm, hồ sen yêu kiều dưới nắng sớm, tỏa hương thơm ngát. Hình ảnh hai người ngồi tựa bên nhau trong đình dần dần tan biến trong ký ức, chỉ lưu lại một cái bóng nhạt màu giữa không gian rộng lớn.
Cái bóng này khiến Phượng Cửu xúc động, thậm chí có chút thương cảm khi cảm thấy rằng nếu câu chuyện của hai người bọn họ mãi dừng lại ở đây cũng không có gì là không tốt. Nhưng những việc phải đến rồi sẽ đến, hôm đó Mạch thiếu gia đã nói rằng vài lời ghi chép ít ỏi trong sử sách về những chuyện xảy ra sau hai năm này vô cùng thê thảm. Phượng Cửu cảm thấy rằng, sử sách ấy mà, khó tránh khỏi có những khi không đúng với sự thật. Nhưng khi lật giở tỷ mỉ khoảng ký ức tiếp sau đó, nàng kinh ngạc phát hiện ra rằng sử sách ghi chép những việc liên quan tới cái chết của Thượng Quân Tương Lý Khuyết lại chính xác một cách hiếm thấy.
Đêm ngày mười sáu tháng bảy, từ trong cung truyền tin ra ngoài, nói rằng Thượng Quân đã băng hà vì lâm bệnh nặng. Thượng Quân trước nay sức khỏe tráng kiện, nhưng không hiểu đã mắc phải căn bệnh nan y nào mà nói băng hà là băng hà luôn. Khi thông tin được truyền đến, A Lan Nhược và Trầm Diệp đang chơi cờ, quân cờ màu đen rơi “cạch” xuống bàn cờ, làm rối loạn cả thế trận, Trầm Diệp cầm quân cờ màu trắng, yên lặng, đám nô tỳ mang chiếc áo choàng đi đêm tới, hoang mang lo sợ vắt lên tay nàng. A Lan Nhược vội vã bước ra cửa, khi bước qua bục cửa, còn quay đầu lại nói: “Nước cờ vừa rồi không tính, thế cờ này cứ giữ nguyên như vậy, hôm khác hai chúng ta chơi lại xem ai thắng ai thua”. Trầm Diệp cất tiếng: “Đợi đã”. Chàng đứng lên, ngắt một đóa hoa trắng trong chiếc bình hoa đặt bên cạnh thư án, chậm rãi đi tới trước mặt nàng, rút cây trâm bằng ngọc cài trên mái tóc của nàng ra, cài đóa hoa trắng vào tóc nàng, ngón tay khẽ vuốt ve tóc mai của nàng rồi dừng lại, mới nói: “Đi đi”.
Ba ngày sau A Lan Nhược mới được rảnh tay quay về phủ, trong phủ vẫn như thường ngày, riêng vị Thần Quan Trưởng làm khách ở Mạnh Xuân viện suốt hai năm vài khắc trước vừa được đón về Kỳ Nam thần cung rồi.
Lão quản đưa đưa tay lau mồ hôi túa ra trên trán, bẩm báo rằng đang định sai người vào cung báo cho công chúa, không ngờ công chúa đã về phủ rồi, Thần Quan Trưởng vừa mới ra khỏi phủ, chắc cũng chưa đi xa. Ý muốn nói rằng nếu công chúa muốn từ biệt Thần Quan Trưởng, lúc này vẫn còn kịp.
Với thân phận của A Lan Nhược, lúc này mà đuổi theo thực ra không phải là một việc hay ho gì, lão quản gia đã lo lắng tới mức mụ mị cả đầu óc, may mà nàng vẫn giữ được sự tỉnh táo. Nàng chỉ thất thần trong giây lát, cởi áo choàng ra, gỡ đóa hoa trắng đã héo khô trên đầu xuống, ngây người ngồi đó. Gió đêm thổi tới, cánh hoa bị gió thổi rơi rụng, nằm trên nền nhà lát gạch trắng được lau chùi cẩn thận đến nỗi không có một hạt bụi, nó giống như một vết bẩn gì đó. Nàng nhìn cánh hoa trơ khấc trên tay, đau khổ cười nói: “Đêm ấy chàng tặng ta cái này, thực ra là đang từ biệt ta? Ta lại không hề nhận ra”.
Triều đại nào có quần thần của triều đại ấy, mỗi Quân Vương khác nhau có sự sắp xếp quyền lực khác nhau. Sức mạnh của thần cung độc lập tới tông thất, dù là Tương Lý Khuyết tại vị, trấn áp một thần cung không có Thần Quan Trưởng còn có chút khó khăn, huống hồ là thái tử Tương Lý Hạ sắp kế vị nhưng lại hoàn toàn không có căn cơ. Đây chính là lý do mà Trầm Diệp được đón về Kỳ Nam thần cung.
Mặc dù đều là quân vương của một nước, những suy nghĩ này của Tương Lý Hạ, Phượng Cửu lại thực sự không thể lý giải. Từ khi nàng biết ghi nhớ mọi chuyện, ngũ hoang ngũ đế ở Thanh Khâu của nàng chỉ thay đổi một vị đế vương, đó là khi nàng thay thế cô cô của nàng. Hơn nữa, nàng còn nhớ rằng, cô cô của nàng từ khi bị thay thế, ngày nào cũng sống rất vui vẻ, ánh mắt cô cô nhìn nàng luôn ẩn chứa sự đồng cảm của người đã từng trải. Hơn nữa, đám thần tử ở Đông hoang phần lớn đều không có bản lĩnh gì, sở thích lớn nhất là cải trang thành dân thường ra bày hàng buôn bán ngoài chợ, nếu có gây lộn phần lớn là vì ai đã tranh mất vị trí bày hàng của ai. Nói theo cách nói đường hoàng của họ thì các thần tiên ở nước Thanh Khâu này tuy mưu cầu một chức vị, nắm giữ một chút quyền lực vì nhà vì nước, nhưng sao có thể giống người phàm trần, để quyền lực quay lại thao túng bọn họ. Mặc dù trong số các vị thần tiên trên Cửu Trùng Thiên cũng có người thích tranh giành quyền lực, nhưng tất cả đều bởi vì họ không có mục tiêu theo đuổi trong cuộc đời, chưa từng biết tới thú vui của việc bày sạp bán hàng, những người đã từng trải qua nhưng vẫn đi tranh giành quyền lực, đó là bởi vì họ không có niềm vui trong cuộc sống. Phượng Cửu cảm thấy, đám thần tử đó của nàng nói đúng hay sai, tạm thời không bàn luận nhiều, nhưng thực sự đã giảm bớt cho nàng rất nhiều công việc.
Đoạn ký ức này từng đoạn từng đoạn liên kết với nhau rất chặt chẽ, giống như một dòng thác lớn dội xuống từ trên vách núi, đập vào lớp đá vụn dưới đáy vực, tung bọt lạnh lẽo. Cái gọi là bi kịch, từ thuở khai thiên lập địa đến nay, đều mang dáng vẻ đường đột hốt hoảng nhưng lại hung ác vô tình. Đoạn ký ức tiếp theo chính là tin đồn mà Tô Mạch Diệp từng kể với nàng.
Hóa ra, đó không phải là một tin đồn vô căn cứ.
Ngày hai mươi hai tháng bảy, thời điểm nhập quan cho Thượng Quân sắp xong, đêm xuống, phủ công chúa bị bao vây, A Lan Nhược bị khóa bằng khóa sắt, đưa ra khỏi phủ, áp giải vào trong cung, tội danh giáng xuống đầu nàng là tội giết vua.
Viên quan đứng đầu Hình ty chịu trách nhiệm xử lý vụ án này chính là em ruột của Khuynh Họa phu nhân, cậu ruột của nàng.
Thượng Quân băng hà, xét về lý, người thừa kế phải là thái tử, nhưng thái tử Tương Lý Hạ trước đây là một vị thái tử không được coi trọng, lúc này đang là một thái tử ở thế yếu, sau này có thể cũng chỉ là một vị Thượng Quân bù nhìn mà thôi, mọi quyền hạn đều rơi vào tay của Khuynh Họa phu nhân. Mà trong triều ai ai cũng đều biết, vị quan chủ quản của Hình ty kia chính là tâm phúc của Khuynh Họa phu nhân. Nói một cách khác, người đổ tội danh lên đầu A Lan Nhược chính là mẹ ruột của nàng, người một lòng muốn nàng phải chết cũng chính là mẹ ruột của nàng.
Ngày thứ bảy sau khi A Lan Nhược bị nhốt trong đại lao, Khuynh Họa phu nhân đại giá, vào trong đại lao thăm nàng. Trong nhà lao chật hẹp, một chiếc nệm cỏ được dùng làm chỗ ngủ, một chiếc bàn gỗ mục nát nhỏ kê cạnh cửa buồng giam, bên cạnh bàn là một ngọn đèn dầu tù mù, A Lan Nhược toàn thân áo trắng, ngồi dựa vào chiếc bàn nhỏ luyện chữ, một tên lính canh đứng gác cạnh một chậu lửa ngoài cửa phòng giam, nàng viết xong trang giấy nào, tên kính canh bèn thu lại rồi đốt luôn trang giấy đó.
Gấu váy dài của Khuynh Họa phu nhân quét qua bậc đá trong nhà lao âm u, nàng nghe thấy tiếng lụa là sột soạt lướt qua mặt đất, ngẩng đầu nhìn người tới một cái, mày mắt cong cong: “Mẫu thân nhớ ra mà tới thăm con, có thể thấy mọi việc trong cung đã được mẫu thân lo liệu ổn thỏa”. Ngữ khí hòa nhã, giống như lúc này họ không gặp nhau trong nhà lao, mà gặp nhau ở hậu hoa viên của vương cung, chào hỏi như bình thường.
Khuynh Họa trong trang phục cung đình trang nghiêm diễm lệ, dừng lại trước cửa nhà lao hai bước, tên lính gác mở cửa buồng giam rồi lui ra. A Lan Nhược kết thúc nét bút đang viết dở, nói tiếp: “Trong nhà lao chẳng có việc gì làm, ban đầu thực ra con chưa hiểu rõ tại sao mẫu thân lại gán tội danh này cho con, nhưng sau khi suy nghĩ một chút, cũng coi như đã hiểu được một vài lý do”.
Khuynh Họa lạnh lùng nói: “Ngươi luôn rất thông minh”. Cúi xuống nhìn vào khuôn mặt của nàng trong giây lát, rút từ trong tay áo ra một văn thư và một bình sứ, cân nhắc trên tay một lát, cúi người đặt lên chiếc bàn gỗ mục nát: “Xem cái này đi”. Giọng nói của bà ta không chút cảm xúc giống như lời đáp lại qua loa đại khái, không chút tình cảm của bà ta khi ngày thường nàng tới thỉnh an vậy.
Ánh nến leo lét, hắt lên tờ văn thư gấp gọn, lờ mờ hiện lên các nét mực. A Lan Nhược đưa tay mở tờ giấy trước mặt ra, đưa mắt liếc qua những nét chữ cương nghị, đẹp đẽ trên giấy. Trong ánh nến tối mờ, ánh mắt càng di chuyển xuống dưới, sắc mặt càng trắng nhợt. Hồi lâu, nàng ngẩng đầu nhìn về phía mẫu thân, ngoài sắc mặt có phần nhợt nhạt, ngón tay vẫn đang run rẩy ra, thần sắc lại rất ung dung, thậm chí khóe môi còn nở một nụ cười: “Bức văn thư mà Trầm Diệp đại nhân trình lên này viết rất quy cách, không phóng khoáng phong lưu như thường ngày”.
Khuynh Họa nhìn nàng, ánh mắt gần như thương hại, hồi lâu, lại hỏi nàng: “Có quen không?”.
A Lan Nhược cúi đầu suy nghĩ, một lúc sau, khẽ cười một tiếng, không trả lời trực tiếp vào câu hỏi: “Phụ thân cả đời quyết đoán, nhưng không ngờ lại thất bại bởi một chữ tình. Phụ thân chắc chưa từng nghĩ rằng cho tới tận hôm nay, mẫu thân vẫn không quên được phụ thân của Quất Nặc. Quất Nặc quả đúng là cái gai trong mắt người, người đuổi Quất Nặc ra khỏi vương thành, cắt đứt tiền đồ của nàng ta, lúc đó chỉ thú sảng khoái nhất thời, nhưng lại chôn mầm họa khiến người lâm bệnh băng hà ngày hôm nay. Nhưng mẫu thân đã nín nhịn nhiều năm qua, chính là người làm việc lớn, đương nhiên không chỉ muốn dừng lại tại đây, mục tiêu cuối cùng của mẫu thân là muốn để Quất Nặc kế vị, giành lại tất cả mọi thứ mà phụ thân đã cướp mất từ tay phụ thân của nàng ta trước đây, đúng không?”.
Nhìn sang ánh nến bên cạnh, lại nói: “Thái tử, con, và cả Thường Đệ, chúng con đều cản đường của Quất Nặc. Thái tử không phải con ruột của mẫu thân, mẫu thân đương nhiên sẽ không nương tay, Thường Đệ đầu óc rỗng tuếch, ngoài bản tính kiêu căng ra, chẳng có gì cả, hoặc làm cho nàng ta phát điên cũng là một cách, tông thất cũng sẽ không để một cô gái bị điên lên làm Thượng Quân. Nhưng nếu cả hai người con gái chờ kế vị đều phát điên sẽ dễ khiến người ta hoài nghi, bàn ra tán vào, nhất định một người trong số đó phải chết, mẫu thân đã giữ Thường Đệ thì con không thể không chết”. Nàng gượng cười: “Con không ngờ mẫu thân lại làm tới mức này, kế sách của mẫu thân, quả thực đã không để lại cho con một chút đường lùi”.
Một bầu không khí yên lặng chết chóc bao trùm trong nhà lao, A Lan Nhược đặt tờ văn thư sang một bên, trải rộng một trang giấy, lan rộng, nàng khẽ nói: “Mẫu thân hỏi con sống có quen không, năm xưa bị mẫu thân quẳng vào trong hang rắn, con cũng đã sống được. Lần này khi mẫu thân giam con vào đây, còn không quên việc con thích luyện chữ, phá lệ chuẩn bị giấy mực cho con, giúp con giết thời gian, sao con có thể không quen được?”.
Hồi lâu, Khuynh Họa nói: “Ngươi chắc biết rằng việc này không chỉ dựa vào sức lực của một mình ta”.
Cây bút trong tay A Lan Nhược khẽ run rẩy, tám chữ “phù sinh đa thái, thiên mệnh định chi” vốn được viết rất đẹp, chứ cuối cùng vì nét bút bị run, đã phá hỏng cả thần khí.
Nhưng nàng vẫn giữ chặt cây bút.
Ánh mắt của Khuynh Họa dừng lại trên chữ của nàng, lạnh lùng nói: “Trầm Diệp từ khi sinh ra đã ở địa vị cao sang, ngay cả Thượng Quân cũng phải kiêng nể vài phần, từ nhỏ đã là một người có chủ kiến, tuy vì cứu Quất Nặc mà tự hủy hoại tiền đồ, nhưng mọi chuyện trên thế gian này, thứ mà người ta muốn mưu cầu nhất chính là tiền đồ, hắn vốn có ý định sẽ tính kế lâu dài trong khi bị lưu đày, ngươi lại biến hắn thành vật sở hữu của mình, người có biết rằng việc này đã phạm vào điều đại kỵ của hắn không?”. Liếc nhìn nàng một cái, nói tiếp: “Ban nãy ngươi than rằng phụ thân ngươi nặng tình, cuối cùng cũng bại ở một chữ tình. Phụ thân ngươi thủ đoạn tàn độc, ta sống không bằng chết, lại chỉ có thể dựa dẫm vào ông ta. Còn ngươi thì sao, mặc dù ngươi thông minh, trong chuyện này lại kém xa phụ thân của ngươi, Trầm Diệp chỉ vừa giả vờ có tình cảm với ngươi, đã khiến ngươi dốc hết tấm chân tình, ngươi rơi vào tình cảnh này, chẳng phải cũng bại bởi một chữ tình hay sao?”.
Bóng nến chập chờn in trên tờ văn thư đặt ở mép bàn. Trước kia cũng là những nét chữ này, viết trên trang giấy trắng, hỏi A Lan Nhược số rượu nàng ủ mà chàng tìm thấy trong viện có phải có cách ủ như chàng đã viết trong thư không. Giờ đây, cũng là những nét chữ này, viết ra vài dòng ngắn gọn, nhưng câu nào câu nấy lại hết sức hoang đường, “Tương Lý A Lan Nhược giết vua giết cha, tâm địa độc ác, không khác gì loài lang sói, tội ác đã rõ ràng, còn hơn cả loài hùm beo…”.
Trên tờ giấy tuyên nàng đang viết dở, sau câu “Thiên mệnh định chi” lại thêm tám chữ, “Ưu sầu úy bố, tự hữu tận thời”. Mỗi khi gặp phải những chuyện đau khổ khó mà chịu đựng nổi, nàng thường thích dùng câu này để an ủi bản thân mình. Tám chữ đó được viết một cách mạnh mẽ cứng cỏi, sau khi thu nét bút cuối cùng, nàng khẽ nói: “Mẫu thân nói giả vờ có tình cảm là có ý gì?”.
Ánh mắt của Khuynh Họa càng lộ rõ vẻ thương hại, nói: “Hắn đã xin vương huynh của ngươi một mối hôn sự”.
A Lan Nhược chậm rãi ngẩng đầu lên.
Khuynh Họa nói: “Không phải là một cô nương có thân phận cao quý gì cả, được cái đoan trang trong sáng, làm phu tử trong tông học. Nghe nói cô nương này xuất thân từ phủ của ngươi, tên Điềm, Văn Điềm, một cái tên nghe thật thanh nhã”.
A Lan Nhược nhắm chặt mắt lại, hồi lâu, nói: “Con hơi mệt, mẫu thân xin hãy về đi”.
Khuynh Họa quay người bước đi hai bước, quay đầu lại nói: “Vụ án của ngươi đã được định đoạt trong buổi sáng hôm nay, ba ngày sau hành hình, trưa nay Trầm Diệp trình văn thư này, xin Thượng Quân giao quyền hành hình cho thần cung. Ngươi chắc chắn phải tới thần cung, các dụng cụ hành hình ở thần cung nhiều hơn trong đại lao của Hình ty nhiều, ta biết ngươi dù hồn phi phách tán cũng không muốn chịu sự sỉ nhục này, nếu quả thực không thể chịu đựng nổi, hãy tự kết liễu đời mình bằng thuốc trong bình sứ kia. Đây là sự thương xót cuối cùng mà một người làm mẹ như ta có thể dành cho ngươi”.
Đợi bóng dáng của Khuynh Họa biến mất khỏi quầng sáng yếu ớt của ngọn đèn dầu, cả người A Lan Nhược đột nhiên run rẩy, phun ra một ngụm máu tươi khiến tờ giấy đặt trên bàn trở nên loang lổ, ngọn lửa nhỏ trong đèn dầu lay động, cuối cùng cũng tắt lịm.
Bóng dáng của Khuynh Họa hơi dừng lại ở cửa nhà lao, khi định cất bước đi tiếp, A Lan Nhược bỗng nhiên lên tiếng, giọng nàng khản đặc: “Mẫu thân đối với con, có gì gọi là thương xót chứ?”.
Sau một trận ho, nói tiếp: “Mẫu thân chắc vẫn còn nhớ, năm xưa Mạch sư phụ cứu con ra từ trong hang rắn, lần đầu tiên gặp người, bọn họ nói rằng người là mẫu thân của con, con đã thật sự vui sướng, người xinh đẹp biết bao. Con nhìn thấy người đi về phía con, liền vội vàng chạy về phía người, muốn xin người một cái ôm, nhưng không cẩn thận bị vấp ngã. Người đi ngang qua con, như thể không nhìn thấy con, như thể con chỉ là một cây hoa, một ngọn cỏ, hoặc một viên đá. Gấu váy của người lướt qua mặt con, người bước qua người con mà không buồn liếc nhìn xuống, tiếng sột soạt của lụa là giống hệt như trong buổi tối hôm nay”.
Ngón tay của Khuynh Họa nắm lấy lan can gỗ ngay bên cạnh.
Lại thêm một cơn ho, nàng khe khẽ nói tiếp: “Kiếp này con không biết yêu là gì, mẫu thân tiếc rẻ không cho con, con tự mình giành lấy, mẫu thân cũng hủy hoại nó, thực ra con càng muốn không biết gì hết, sao mẫu thân nhất định phải tàn nhẫn như vậy? Lẽ nào con là kẻ thù của mẫu thân, nhìn thấy con đau đớn là một việc rất vui sướng hay sao?”.
Khóe môi của Khuynh Họa khẽ động đậy, hồi lâu, nói: “Nếu ngươi còn có luân hồi, kiếp sau ta sẽ trả lại ngươi”.
A Lan Nhược mỉm cười, mệt mỏi nói: “Trần duyên với mẫu thân, hãy để nó kết thúc ở kiếp này, nếu còn có luân hồi con cũng không cầu mong điều gì, chỉ mong trong kiếp luân hồi sẽ không phải gặp lại mẫu thân nữa”.
Trong sự im lặng chết chóc, tiếng bước chân của Khuynh Họa xa dần, nếu nghe kỹ, có thể thấy thấp thoáng chút rối loạn trong những bước chân tưởng chừng như vững càng đó. Đợi đến khi bóng dáng của Khuynh Họa biến mất sau cánh cửa âm u của nhà giam, tên lính gác đứng ở đằng xa hốt hoảng chạy lại, châm ngọn đèn dầu khác.
Cảnh tượng cuối cùng trong đoạn này là cảnh A Lan Nhược gấp tờ văn thư nhuốm máu trên bàn lại, chậm rãi đưa vào ngọn đèn dầu, ngọn lửa vờn quanh những vết máu mờ mờ, chỉ trong nháy mắt đã đốt nó thành tro bụi. Tàn tro rớt xuống mặt bàn, còn mang theo một vài đốm lửa nhỏ.
Tô Mạch Diệp đã từng hỏi nàng, nếu một ngày nào đó nàng căm hận vì Trầm Diệp, sẽ là vì điều gì, lúc đó nàng đã nói đùa rằng như vậy chắc chắn là vì đã từng có được, ví dụ như chàng yêu nàng, sau đó không yêu nữa, lại đi yêu người khác. Không ngờ một lời lại đoán trúng như vậy, chàng có lẽ thậm chí chưa từng yêu nàng, ngay cả hồi ức mà nàng tự cho là trân quý đó cũng đều là giả. Thật cao minh biết bao.
Nàng cụp mắt nhìn ngón tay bị lưỡi lửa liếm bị thương, một lúc sau, tự nói với bản thân mình: “Nhìn thấy bộ dạng ngày hôm nay của muội, có phải đã khiến huynh bớt tức giận rồi không, Trầm Diệp?”. Hồi lâu, lại nói: “Huynh có biết cách báo thù như thế này, đối với muội, có phần quá nặng rồi không?”. Ngọn đèn dầu soi bóng nàng nghiêng nghiêng lên bức tường đá tối tăm, tư thế rất đoan trang nghiêm ngắn nhưng lại vô cùng mỏng manh.
03.
Thế sự xoay vần, khó được như mong muốn của con người. Khó như ý của A Lan Nhược, cũng chưa chắc đã hợp ý của Khuynh Họa.
Một ngày trước khi bị dẫn giải tới Kỳ Nam thần cung, A Lan Nhược đã bị cướp đi.
Kỳ Nam hậu sơn, sắc trời êm dịu, ánh nắng ấm áp, trong rừng thi thoảng vọng ra tiếng chim hót, ngay cả con khuyển nhân trong thạch lâm cách đó không xa cũng an nhàn ưỡn bụng phơi nắng, tất cả đều hiền hòa tĩnh lặng,dường như mọi biến động bên ngoài núi đều là những thứ vô nghĩa lý và nực cười.
Khi Phượng Cửu nhìn thấy vị công tử áo trắng đang ngồi trên ghế đá nói lý với A Lan Nhược, thực ra nàng không nhận ra đó là ai.
Mái tóc đen của vị công tử đó được búi gọn lên đỉnh đầu, một khuôn mặt điềm nhiên lạnh lùng, lời nói hành động lại không hề câu nệ, nâng nâng bắp ngô trên tay, dường như hận một nỗi không thể gõ bắp ngô đó lên trán A Lan Nhược: “Sự việc đã đến nước này, cái vương cung ghẻ đó còn gì đáng để ngươi phải nhớ nhung chứ, khó khăn lắm ta mới cứu được ngươi ra khỏi đó, ngươi lại vội vã đòi quay trở lại, lẽ nào là vì Trầm Diệp?”. Nói đến đó, chàng ta hơi trầm ngâm, gõ gõ bắp ngô lên mặt đá: “Không đúng, tới lúc này còn không quên được hắn ta, điều này không giống tính cách của ngươi, ngươi xuống núi, rốt cuộc là muốn làm gì?”.
Bên cạnh phiến đá mà vị công tử đó ngồi có hai cây cổ thụ xum xuê xanh tốt, giữa hai thân cây mắc một cái võng để nằm hóng mát bằng dây leo to chắc, A Lan Nhược ngồi dựa trên võng, đưa mắt ra xa ngắm nhìn cảnh sắc bên ngoài rừng cây, chậm rãi nói: “Trước đây ngài thường nói: Đời người trên trần thế này chẳng qua chỉ là một cuộc trải nghiệm, ta cảm thấy rất có lý. Cuộc đời dài hay ngắn quan trọng là ở trải nghiệm, trải nghiệm nhiều thì cũng là sống lâu, trải nghiệm ít thì cũng như chưa sống được bao nhiêu. Gần dây ta đã hiểu, cuộc đời này của ta, có vẻ rất ngắn ngủi, thực ra cũng có thể coi là rất dài”. Dừng lại một lát, nói tiếp: “Nếu nói trong vương cung còn có ai đó đáng để bận tâm thì chỉ có vương huynh mà thôi, tính cách của huynh ấy lạnh lùng, thực ra không hề quan tâm đến vương vị, trận chiến với bộ tộc Dạ Kiêu chắc chắn không phải là ngẫu nhiên, nhất định là mẫu… là kế sách của Khuynh Họa phu nhân, muốn mượn đao giết người, trừ khử vương huynh. Vương huynh không phải là một vị tướng giỏi, một khi ra chiến trường, nhất định sẽ không thể sống sót mà quay trở về”.
Vị công tử áo trắng cau mày nói: “Cho dù Tương Lý Hạ đối tốt với ngươi, nhưng đây là số kiếp của hắn, trong hoàn cảnh này, ngươi còn có thể bảo toàn tính mạng cho hắn ư? Lúc này ngươi đã thoát ra khỏi vòng nước xoáy, hà tất phải tự lao đầu vào đó nữa”.
A Lan Nhược chậm rãi đáp lời: “Ngài đã biết tính ta, thì cũng nên đoán được rằng ta không thể bỏ mặc vương huynh. Ta sẽ ra chiến trường thay cho vương huynh, đến lúc đó vẫn cần nhờ ngài để mắt giúp đỡ. Ngài yên tâm, ta rất quý mạng sống của mình, sẽ tự cân nhắc nặng nhẹ, so với vương huynh, ta vẫn còn cơ hội sống sót”. Liếc nhìn khuôn mặt nghiêm nghị của vị công tử áo trắng, cười nói: “Hiếm khi nhìn thấy sắc mặt này của ngài, may mà kiếp này những người đối tốt với ta không quá nhiều, ngài và Mạch sư phụ cũng không xui xẻo như vương huynh, không cần ta phải mạo hiểm ứng cứu như vậy”.
Công tử áo trắng chăm chú nhìn nàng trong giây lát, nói: “Ngươi luôn rất bướng bỉnh, giờ đây ta có nói gì cũng không thể giữ ngươi ở lại, chiến trường là nơi nguy hiểm, nếu lần này đi không trở lại thì sao?”.
Nàng điềm tĩnh đáp: “Nếu lần ra đi này không thể trở lại, cho dù ta chết đi, cũng là chết trận dưới danh nghĩa của vương huynh, còn có ý nghĩa hơn bị Khuynh Họa phu nhân ép tự sát nhiều. Đến lúc đó phiền ngài thay tên đổi họ cho vương huynh, đưa huynh ấy đến một nơi an toàn, để huynh ấy sống một cuộc sống bình thường”. Hồi lâu, nói tiếp: “Ta đã từng viết cho Trầm Diệp hai mươi bức thư, cũng phiền ngài giúp ta lấy lại, trong thư toàn là những tình cảm chân thật, để ở chỗ của huynh ấy, ta thấy có chút nực cười”.
Công tử áo trắng thở dài một tiếng: “Những điều ngươi dặn dò ta đều đã ghi nhớ, chỉ mong rằng đến lúc đó ta không phải làm những việc này, khi nào thì ngươi xuống núi?”.
Nàng nằm trên chiếc võng được bện bằng dây leo, thoải mái đặt tay ra sau gáy, một nụ cười hiện lên trên khóe môi: “Gió mát, nắng nhẹ, hôm nay là một ngày rất thích hợp để ngủ, hãy để ta trộm chút thảnh thơi[3]”.
[3] Nguyên tác Hán Việt là “Thâu đắc phù sinh bán nhật nhàn”, câu thơ trích trong bài Đề Hạc Lâm tự bích (Đề trên tường chùa Hạc Lâm) của nhà thơ đời Đường, Lý Thiệp. Ý nghĩa câu thơ là giải thoát bản thân khỏi sự phiền não buồn chán để bản thân tới một nơi thoát tục, tu dưỡng tâm hồn.
Cảnh đào nguyên ở Kỳ Nam hậu sơn dần dần biến mất trong bóng mờ của hoàng hôn, trái tim của Phượng Cửu trĩu nặng, cố gắng mở nốt đoạn ký ức cuối cùng. Nếu nói đến sách truyện, ở chỗ cô cô Bạch Thiển của nàng lưu giữ rất nhiều sách, từ nhỏ nàng được nghe được đọc nên đương nhiên cũng biết khá nhiều, những câu chuyện bi thương như vớt ra từ bình nước mắt, nàng đã đọc qua không biết bao nhiêu cuốn, nhưng vẫn không sánh được với câu chuyện mà nàng chứng kiến lần này. Đoạn hồi ức này thậm chí còn không có nửa giọt nước mắt, nhưng lại giống như một thanh kiếm tuyệt thế, vô cùng lạnh lùng và nặng nề, khi cướp đoạt tính mạng của người khác lại vô cùng gọn dàng dứt khoát, tuyệt đối không dây dưa lằng nhằng. A Lan Nhược bị tổn thương một cách bình lặng, đau đớn một cách bình lặng, ngay cả khi lao tới chỗ chết, cũng lao đi một cách vô cùng bình lặng.
Theo sử sách ghi chép lại mà Tô Mạch Diệp kể cho Phượng Cửu nghe, nói rằng Tương Lý Hạ ngự giá thân chinh ra chiến trường, chiến đấu suốt mười bảy ngày, vì không đủ mạnh nên cuối cùng đã tử trận trên chiến trường. Trong đoạn ký ức này Phượng Cửu thấy được chân tướng bị che đậy trong sử sách mỏng manh. Người tử trận trên chiến trường không phải là Tương Lý Hạ, mà là A Lan Nhược.
Trận chiến với bộ tộc Dạ Kiêu, nguyên nhân là do bộ tộc Tỷ Dực Điểu dung túng cho dân vùng biên vượt biên săn bắn, hai bộ tộc giao chiến, đương nhiên chiến trường diễn ra ở vùng biên cương. Sông Tư Hành lững thững chảy từ thời viễn cổ, chảy tới tận cùng phía Nam, vòng qua hẻm núi Bình Vận, rồi hòa vào lòng biển Từ Bi hết năm này qua năm khác. Đoạn sông Tư Hành chảy từ núi Bình Vận ra biển Từ Bi thường được gọi là sông Nam Tư Hành, bên sông có một khu rừng nhạc âm rộng lớn, trồng toàn cây nhạc âm. Hai tộc Tỷ Dực Điểu và Dạ Kiêu đời đời lấy khu rừng này làm biên giới giữa hai nước.
Ngày mùng bảy tháng tám, A Lan Nhược lao tới chiến trường. Chiến sự bắt đầu từ ngày mùng một, mới có sáu ngày, bộ tộc Tỷ Dực Điểu đã mất rất nhiều đất đai, bị đẩy lùi về phía nam sông Tư Hành, tám vạn đại quân đã bị tổn thất mất ba vạn, năm vạn binh sĩ còn lại và mười hai vạn hùng binh của bộ tộc Dạ Kiêu, mỗi bên chiếm cứ một bờ sông Tư Hành.
Quân lệnh xin tiếp viện liên tiếp được gửi cấp tốc về Vương thành, Khuynh Họa phu nhân coi như không thấy, án binh bất động. Trước mặt có hùng binh, sau lưng không có quân tiếp viện, quân sĩ mất hết chí khí, mặc dù chưa kết thúc cuộc chiến nhưng đã lộ vẻ thất bại. Đêm xuống, A Lan Nhược lẻn vào trong quân trướng, làm Tương Lý Hạ ngất xỉu, đưa chàng ta ra khỏi doanh trại, bản thân nàng mặc áo giáp của chàng ta, ngồi vào ghế chủ soái.
A Lan Nhược dẫn dắt năm vạn binh mỏi mệt, lợi dung địa thế của sông Tư Hành bày Bán Nguyệt trận, chặn bộ tộc Dạ Kiêu ở bên ngoài sông. Máu đào nhuộm đỏ dòng sông Tư Hành, xác chết la liệt phía bờ Nam, bấy giờ đang là cuối mùa hạ, đêm xuống, gió mát thổi bên sông lại chỉ ngửi thấy mùi xác chết thối rữa và mùi máu tanh nồng. Bán Nguyệt trận chặn được kẻ địch bảy ngày, khiến bộ tộc Dạ Kiêu tổn thất năm vạn binh, nhưng vì lương thảo không đủ, hơn nữa lại lâu ngày không có viện binh, không thể chống cự được bộ tộc Dạ Kiêu ỷ người đông thay phiên nhau tấn công, cuối cùng vào nửa đêm ngày thứ bảy, đã công phá được một lỗ hổng.
Sao Mai trên bầu trời sáng lên, đại vương tử của bộ tộc Dạ Kiêu vô cùng vui mừng, định dẫn quân vượt sông. Dưới ánh trăng sao, nhìn qua bờ sông bên kia, lại thấy trong tay chủ tướng của địch quân bỗng hóa ra một cây cung sắt cao bằng thân người, ba mũi tên không gắn lông xé gió rạch nát màn đêm lao tới vun vút, đâm thẳng vào giữa lòng sông, biến thành ba cây cột sắt lớn, đứng thẳng một hàng giữa dòng nước chảy xiết.
Chiêu Hồn trận.
Sao Mai bị một đám mây đen bỗng dưng xuất hiện quấn lấy, chao đảo như sắp rơi, một luồng kim quang bỗng phát ra từ thân hình cao ráo đang đứng sừng sững bên cạnh cây cung sắt. Sau một tiếng thét dài xé tan khoảng không, luồng kim quang lơ lửng giữa không trung ngưng tụ lại tạo thành một con Tỷ Dực Điểu khổng lồ, cúi nhìn xuống hai bên bờ sông, uy nghiêm bay lượn, sải cánh rộng quạt mạnh khiến binh hùng tướng mạnh đều ngã chổng vó. Bóng người bên cạnh cây cung sắt lại đứng im bất động, gió mạnh thổi bay chiếc mũ giáp trên đầu, lộ ra một mái tóc dài đen nhánh, một khuôn mặt lạnh lùng, diễm lệ.
Trong tiếng thét bi ai, con Tỷ Dực Điểu màu vàng đậu lên cây cột sắt giữa lòng sông, đôi cánh giang rộng phủ kín hơn nửa mặt sông, vỗ cánh lần nữa, toàn thân bỗng nhiên bốc cháy.
Lưỡi lửa lớn hừng hực thiêu đốt, giống như một trận nghiệp hỏa[4] vô tận, chặn giữa dòng sông Tư Hành, tạo thành một bức tường chắn tự nhiên đối với quân địch. Gió khô nóng thổi tới khiến rừng nhạc âm bờ bên kia kêu ding dang. Sở dĩ cây này gọi là cây nhạc âm là bởi vì cành cây, lá cây khi đung đưa theo gió có thể tấu lên một khúc nhạc.
[4] Lửa địa ngục thiêu đốt trừng phạt kẻ ác.
Để ngăn chặn quân địch ở ngoài sông Tư Hành, A Lan Nhược đã dùng Chiêu Hồn trận, thiêu đốt hết linh hồn của mình. Đây chính là nguyên nhân khiến nàng hồn phi phách tán. Đây mới là nguyên nhân khiến nàng hồn phi phách tán.
Màn đêm đen như mực, lửa cháy cuồn cuộn trên dòng sông chảy xiết, tiếng kêu gào thảm thiết của con Tỷ Dực Điểu xuyên qua rừng nhạc âm, trong rừng tấu lên tiếng hát kỳ diệu, dường như đang ai điếu cho cái chết của công chúa một bộ tộc. Còn trên dòng sông dài vô tận, những bông hoa nhạc âm nhỏ xinh trắng muốt lại không hề e sợ gió nóng, giống như những chú chim nhỏ đang di trú, xuyên qua lưỡi lửa phiêu tán trong lòng sông, lại giống như một trận tuyết nhẹ, có một đóa đặc biệt ngoan cường, vượt qua bao gian khó chầm chậm đậu trên tóc mai của A Lan Nhược, nàng đưa tay gài nó vào trong tóc, ngón tay khe khẽ vuốt lên tóc mai rồi dừng lại. Đó là một động tác mà Trầm Diệp vẫn quen làm khi cài hoa lên tóc nàng. Nàng sững người lại, hồi lâu, lại khẽ mỉm cười. Con Tỷ Dực Điểu màu vàng kêu lên một tiếng thảm thiết cuối cùng, nàng vuốt ve đóa hoa trắng bên vành tai, chậm rãi nhắm mắt lại. Con chim lớn giữa dòng sông đứng yên như đã hóa thành một bức tượng, chỉ có ngọn lửa vẫn chưa tắt, còn nàng công chúa tóc dài tựa vào cây cung sắt, nàng đã dùng cạn sinh mạng của mình, bước vào cõi hư vô vĩnh hằng. Lửa lớn cháy suốt ba ngày không tắt, khi lửa tắt, công chúa và cây cung sắt đều đã hóa thành cát bụi, chìm vào trong lòng sông cuộn sóng.
Đây chính là cuộc đời của A Lan Nhược.
Phượng Cửu vẫn không thể hiểu được, khi nở nụ cười cuối cùng, A Lan Nhược đang nghĩ tới điều gì.
Ra khỏi đoạn ký ức này, trước mặt lại hiện lên tấm gương dài đúc từ tuyết dày, Phượng Cửu đưa tay lên tấm gương, trước mắt bỗng trở nên tối sầm, một khắc trước khi mất đi ý thức, nàng cảm thấy, lần này, cuối cùng thì mình cũng thật sự sẽ ngất đi, nếu sớm ngất đi như thế này thì tốt biết mấy.
Người phàm trần có một câu thơ, nói về sự ngắn ngủi của ngày xuân, câu thơ đó là “Điểu ca hoa vũ thái thú túy, minh nhật tửu tỉnh xuân dĩ quy[1]”. Năm xưa, khi Phượng Cửu nghe được câu thơ đó từ chỗ người phụ thân yêu thích văn chương của mình, hiếm khi có dịp thể hiện khả năng cảm nhận văn chương của nàng, nói rằng sở dĩ người phàm trần than vãn ngày xuân ngắn ngủi cũng bởi vì mùa xuân là mùa đẹp nhất trong bốn mùa, những thứ tốt đẹp đều khiến người ta chìm đắm, cũng không cảm nhận được thời gian trôi qua, khi giật mình quay đầu lại, luôn cảm thấy ngắn ngủi. Nàng nói ra những lời đó, khiến phụ thân như gặp được tri âm, đợt đó ánh mắt của người nhìn nàng vô cùng hiền hòa.
[1] Hai câu thơ trong bài Du xuân ở đỉnh Phong Lạc của nhà thơ thời Bắc Tống Âu Dương Tu. Dịch ý: Chim ca hoa khoe sắc, thái thú (một chức quan) uống rượu say, ngày mai khi tỉnh rượu, xuân đã qua mất rồi.
Hôm nay, khi vứt Tức Trạch thần quân ra khỏi cửa phủ, đứng ngáp mà nhìn theo bóng dáng xa dần của thần quân, Phượng Cửu lại có chút buồn bã khi nhớ tới câu thơ này. Khi tỉnh rượu thì ngày xuân đã trôi qua, lần hội ngộ này của nàng và Tức Trạch mặc dù không ngắn ngủi như vậy, nhưng sáu, bảy ngày quả thực đã trôi qua nhanh chóng giống như một cuộc xuân say.
Thực ra nàng vốn định giữ Tức Trạch ở lại lâu hơn, nhưng việc này khó tránh khỏi có chút tàn nhẫn đối với Mạch thiếu gia. Hôm qua, Mạch thiếu gia đã gửi cho Tức Trạch một lá thư dài, vô tình để nàng đọc được, trong thư tội nghiệp trình bày rằng chàng ta đang trong giai đoạn cuối cùng chế tạo thứ pháp khí kia, loại pháp khí cao diệu này, khi chế tạo thành hình sẽ rất hung dữ, nếu không xử lý tốt, khoan nói tới việc lãng phí công sức trước đây, có thể còn bị nó tấn công lại, việc này vô cùng quan trọng, mong thần quân sớm hồi cung lo liệu.
Cuối thư còn xót xa rơi lệ hỏi một câu, mấy ngày trước chàng ta đã gửi cho thần quân tổng cộng là mười một bức thư dài, thần quân không nhận được hay nhận được rồi đã coi như giấy vụn, đem nhóm đèn rồi.
Lúc đó nàng bèn nhớ ra trong mấy đêm gần đây, dường như trong nến phảng phất mùi mực, trong lòng bất giác thông cảm với Mạch thiếu gia.
Với một trái tim thông cảm và đại nghĩa, ngày hôm sau, nàng dứt khoát ném Tức Trạch ra khỏi phủ.
Ném Tức Trạch đi, quả thực cũng có chút đáng tiếc, mấy ngày nàng ở bên Tức Trạch, nàng đi chơi các nơi trong Vương thành một cách rất thích thú, cuộc sống thú vị hơn trước đây nhiều.
Ví dụ như Tức Trạch dẫn nàng đi thả câu, thực ra nàng không có hứng thú với việc này lắm, vốn nghĩ chỉ là chiều theo chàng thôi, nhưng khi đã đi rồi, nàng lại là người chơi đùa thỏa thích nhất. Tức Trạch chuẩn bị một chiếc thuyền nhỏ giản dị, phía mũi thuyền đặt một bếp lò nhỏ và các lọ đựng tương, dầu, mắm, muối, đưa nàng xuôi theo dòng nước, thưởng thức cảnh xuân bên ngoài thành, gần đến trưa, chàng neo thuyền lại, khi chàng câu cá thì nàng hâm rượu, cá câu lên nàng dùng để làm một bữa ăn thịnh soạn, dùng xong bữa trưa, chàng chèo thuyền vào một đầm sen, chàng ngồi đọc sách còn nàng nằm trong lòng chàng ngủ trưa, tia nắng mặt trời xuyên qua đám lá sen, chiếu lốm đốm lên mặt nàng, nàng liền áp mặt vào lồng ngực của chàng.
Chàng rất thích vừa cầm sách vừa vô thức đùa nghịch những sợi tóc mềm mượt của nàng, trước đây, khi nàng còn là một tiểu hồ ly ở cung Thái Thần, Đông Hoa Đế Quân cũng thích đùa nghịch bộ lông của nàng như vậy, lúc đó nàng còn là một con thú cưng, cảm thấy rất dễ chịu, rất an tâm, động tác của Tức Trạch lúc này, không hiểu sao lại khiến nàng ngoài cảm giác an tâm còn cảm thấy thật thân thiết. Nàng suy đoán chắc là vì hai người tâm ý tương thông, lại thầm than rằng bốn chữ “tâm ý tương thông” này thật thần diệu biết bao.
Bởi vì Tức Trạch là một người không hay bận tâm tới lời đàm tiếu của dư luận, ví dụ như đưa nàng đi thả câu, đưa nàng đi ngắm hoa, cùng nàng xem trò vui, chàng đều thoải mái thực hiện, cũng chưa từng nghĩ tới chuyện cải trang che giấu, vì vậy khó tránh khỏi việc gặp phải người quen nhận ra họ. Với bộ tộc Tỷ Dực Điểu, việc các đôi phu thê quý tộc cùng nhau dạo chơi trong ngày xuân không phải là chuyện hiếm, nhưng những đôi phu thê khác ra ngoài dạo chơi thường thích khoe khoang phô trương, dạo chơi bằng cách đi bộ thăm thú đường phố như hai người họ lại quả thực rất khác biệt. Chỉ mấy ngày sau, thông tin Thần Quan Trưởng tiền nhiệm và nhị công chúa tình cảm phu thê mặn nồng lại được lan truyền khắp Vương đô, một lần, Phượng Cửu vào cung thỉnh an, ánh mắt của Quân Hậu nhìn nàng cũng có phần khác thường.
Phượng Cửu không bận tâm lắm tới việc chuyện này lan truyền trong cung như thế nào, nàng chỉ thầm lo lắng, không thể để Trầm Diệp biết được. Phượng Cửu cảm thấy, theo một câu ngạn ngữ dưới phàm trần, hành động này của nàng là một hành động ăn trong chén, nhìn trong nồi, là một hành động tồi tệ. Nhưng nàng đã nhận lời với Mạch thiếu gia, trong lòng cho dù áy náy, cũng chỉ có thể toàn tâm toàn ý làm một kẻ tồi tệ tử tế. Một kẻ tồi tệ tử tế là như thế nào? Các tiên sinh mặc dù chưa từng dạy, nhưng may mà có Liên tam điện hạ trên thượng giới để tham khảo.
Chiều ngày thứ ba sau khi Tức Trạch đi, lão quản gia tới mang theo lời mời của Trầm Diệp. Phượng Cửu vừa mới tỉnh dậy sau giấc ngủ trưa, có chút mơ hồ trước lời mời gọi này. Trong câu chuyện của Mạch thiếu gia, Trầm Diệp dường như chưa từng chủ động mời A Lan Nhược tới Mạnh Xuân viện? Hay là thực ra trước đây Trầm Diệp đã từng mời, chỉ là Mạch thiếu gia không biết mà thôi, hoặc là chàng ta quên không nói với nàng? Nàng mang theo nghi vấn đó, giữ tâm lý lấy bất biến ứng vạn biến, bước vào Mạnh Xuân viện, vòng qua Tiểu Thạch lâm, bước vào Ba Tâm đình.
Trong đình lúc này không một bóng người, một chiếc bình lưu ly đặt trên bàn đá trống. Ánh nắng mặt trời u ám buổi chiều chiếu vào, lớp sương mù trắng bạc cuộn xoáy trong bình nhuốm một màu vàng rực, chắc chiếc bình đã được thi triển kết giới, lớp sương mù cuồn cuộn bên trong bình không có cách nào thoát ra được.
Phượng Cửu vô cùng hiếu kỳ, đặt tay lên thân bình, một cảm giác ớn lạnh tới tận xương tủy xông thẳng lên đầu nàng. Nàng run rẩy, định thu tay về, nhưng chiếc bình như dính chặt lấy tay nàng. Phượng Cửu có chút kinh ngạc, nhất thời chỉ chú ý vào chiếc bình, cũng không lưu tâm tới mọi động tĩnh xung quanh, cho tới khi một giọng nói vang lên bên tai: “Có thấy quen thuộc không?”. Phượng Cửu ngẩng đầu lên, bắt gặp đôi mắt trầm tĩnh lạnh lùng của vị công tử áo đen. Trầm Diệp.
Nàng quả thực cảm thấy có phần quen thuộc, bởi vì thực ra chiếc bình này có vài phần giống với chiếc bình mà hồi nhỏ nàng thường dùng để chơi dế. Nhưng nàng lờ mờ cảm thấy rằng, Trầm Diệp chắc không hỏi nàng chuyện đó. Nàng thấy khi Trầm Diệp giơ tay lên, một tay kết ấn, chỉ trong nháy mắt, kết giới trong bình lưu ly đã hoàn toàn biến mất. Phía xa vang lên tiếng gió, tiếng sấm chớp, giống như tiếng ma quỷ gào khóc, trong nháy mắt mây đen kéo tới đầy trời. Ánh chớp rạch ngang bầu trời xám xịt, mặt trời lặn xuống, thay vào đó là một vầng trăng khuyết. Ánh trăng khuynh thành.
Khác với sắc trời yêu dị này, lớp sương trắng mềm mại trong bình lại dần dần dịu lại, giống như một áng mây bị xé vụn, từng sợi từng sợi len lỏi giữa các đầu ngón tay của Phượng Cửu. Cảm giác ớn lạnh từ từ ngấm dần vào xương ngón tay của nàng.
Bầu trời xuất hiện hiện tượng không lành này, hoặc bởi vì yêu nghiệt đã bị thu phục, hoặc có ai đó đang thi triển pháp thuật nghịch thiên. Nàng gắng gượng chịu đựng cơn choáng váng xộc lên trong đầu, nhìn về phía Trầm Diệp: “Đây là… đây là pháp thuật gì vậy?”.
Vị thần quan áo đen chăm chú nhìn lớp sương trắng đang chui vào người nàng, lạnh nhạt nói: “Nàng đã từng nghe nói, trong số đám địa tiên có giới hạn về tuổi thọ, cũng giống như người phàm trần, có thể dùng đèn Kết Phách hoặc pháp thuật khác để tạo ra một hồn phách mới chưa?”. Dừng lại một lát, nhìn nàng nói: “Nếu hồn phách đã bị thiêu đốt thành tro bụi, ngay cả đèn Kết Phách trên thượng giới cũng không có tác dụng, nhưng có người nói với ta rằng, nếu có thể tạo ra mộng cảnh này, không những có thể làm lại từ đầu, còn có thể có công dụng giống như đèn Kết Phách, tạo ra một hồn phách mới cho người đã khuất”.
Phượng Cửu sững người lại, nàng có một ấn tượng mơ hồ là bản thân mình dường như đã từng nghi ngờ, mộng cảnh này có thể là do Trầm Diệp tạo nên, nhưng sau đó tại sao lại không tìm hiểu kỹ thì dù thế nào cũng không nhớ ra nổi. Hôm nay chàng ta lại thẳng thắn thừa nhận như vậy, nàng không hề cảm thấy kinh ngạc như trong tưởng tượng của mình.
Nàng và Tô Mạch Diệp đã tạo ra một màn kịch lớn, vốn còn có chút áy náy, nào ngờ, Trầm Diệp lại cũng đang diễn kịch.
Còn một chút tỉnh táo duy nhất sót lại trong đầu, nàng biết rằng ít nhất nàng phải giả bộ kinh ngạc, giả bộ không biết gì để chứng minh rằng nàng quả thực là A Lan Nhược trong thế giới mà Trầm Diệp tạo ra. Xem ra, chàng ta quả thực cũng không hề nghi ngờ nàng.
Tầm nhìn đã trở nên mơ hồ, nàng cắn chặt môi lại, nghe được giọng nói rất khẽ của chàng ta: “Sai lầm thì cũng đã sai lầm rồi, ta chưa từng muốn lừa gạt nàng làm lại từ đầu, nhưng cho dù thế nào, nàng phải quay trở lại, hận ta cũng được, coi ta là người xa lạ cũng được, đó đều là một kết quả, để có ngày hôm nay, ta đã chờ đợi suốt hai trăm ba mươi năm rồi”. Sau mỗi câu nói, sắc mặt chàng ta lại trắng hơn một chút, dường như mỗi câu nói này đều khiến chàng ta cảm thấy đau khổ, nhưng giọng nói lại rất lạnh lùng.
Đợi đến khi hồn phách màu trắng bạc đó chui hết vào trong cơ thể của Phượng Cửu, nàng chỉ cảm thấy trước mắt tối sầm, bên tai vang lên câu nói cuối cùng, dường như đến từ thế giới bên ngoài: “Bọn họ nói thế giới này là tâm ma của nàng, chỉ riêng mình ta biết, nàng chưa bao giờ có tâm ma, người có tâm ma chính là ta”.
Phượng Cửu chưa từng biết rằng, rơi vào một giấc ngủ say lại là một chuyện đau khổ như vậy.
Xét về lý, lợi ích của việc ngất đi là không có tri giác. Hiện giờ cơ thể của nàng quả thực không có cảm giác gì, nhưng trong ý thức lại vẫn có chút bị đày đọa.
Trong tâm trí, nàng giương mắt lên nhìn hồn phách của mình đánh nhau với một hồn phách khác, đối với bất kỳ ai, trải nghiệm này cũng đều rất mới mẻ. Lúc đầu, Phượng Cửu thực ra không kịp phản ứng lại, còn khoanh tay đứng bên cạnh xem trò vui, cho tới khi hai luồng khí trạch ngay trước mắt quấn lấy nhau càng lúc càng dữ dội, thậm chí còn cắn nuốt lẫn nhau, nàng bắt đầu cảm thấy đau đầu, mới giật mình ý thức được rằng hai hồn phách trước mặt đang đánh nhau.
Nàng cảm thấy ngày hôm nay bản thân mình vô dụng tới mức khiến người ta kinh ngạc, nàng không thể ngăn cản hai hồn phách gây lộn, chỉ có thể chịu đau đớn, xét về tình về lý coi như còn có thể tha thứ được, nhưng ban nãy, khi ngón tay của nàng bị dính chặt vào chiếc bình lưu ly, nàng cũng không thể kháng cự lại, chuyện này rất kỳ lạ.
Đầu nàng đau đến nỗi dường như có vô số nhạc tiên vác chiêng lớn đồng loạt gõ mạnh trong đó, Phượng Cửu cố gắng nhịn đau để phân tâm suy nghĩ, vừa chợt nghĩ ra chút gì đó, lại nhìn thấy hồn phách của mình đột nhiên thị uy, nuốt gọn hồn phách của A Lan Nhược. Chính vào lúc hồn phách của A Lan Nhược biến mất, một trận tuyết lớn liền trút xuống, chỉ trong chốc lát đã tích thành một tấm gương dài ngay trước mặt nàng. Nàng không nhớ bài học lần trước, lại đưa tay ra, khi đầu ngón tay chạm vào mặt gương, một sức mạnh cực lớn kéo nàng vào trong đó. Còn chưa kịp đứng vững, một đoạn ký ức từ đầu bên kia của thời gian ào ào kéo đến.
Đó không phải là ký ức của nàng, đó là ký ức của A Lan Nhược. Phía sau tấm gương bí hiểm này là cuộc đời của A Lan Nhược, là mọi suy nghĩ của A Lan Nhược, là niềm vui nỗi buồn của A Lan Nhược, chỉ trong giây lát ngắn ngủi, nàng đã cảm nhận được tất cả. Đoạn quá khứ đó giống như một cây đèn kéo quân, chuyên chở những câu chuyện vụn vặt, cứ xoay tròn không ngừng nghỉ, nhưng mỗi một vòng quay đều hiện lên những phong cảnh khác nhau.
Phượng Cửu có chút hiếu kỳ, tình cảnh này, lẽ nào là do hồn phách của nàng đã nuốt hồn phách của A Lan Nhược, khiến A Lan Nhược nhập vào trong người của nàng, trở thành một bộ phận của nàng? Vậy A Lan Nhược còn có thể sống lại như lời Trầm Diệp nói không, nếu nàng ấy sống lại, bản thân mình sẽ ra sao?
Vấn đề liên quan đến tính mệnh này, nàng chỉ suy nghĩ trong một thời gian ngắn, cảm thấy những chuyện nhàm chán này đợi sau khi tỉnh lại suy nghĩ cũng được, không nên lãng phí thời gian, trước mắt còn có một chuyện quan trọng đang cấp thiết chờ đợi nàng khám phá, cần nàng hao tâm tổn trí. Sau khi suy nghĩ thông suốt, nàng lập tức vứt điều nghi vấn đó qua một bên, vô cùng hào hứng, toàn tâm toàn ý quan tâm tới một việc quan trọng khác đang cấp thiết chờ đợi nàng khám phá – đó là chuyện gặp hoạn nạn biết được chân tình trong thạch trận giam hãm khuyển nhân ở Kỳ Nam hậu sơn, câu chuyện tiếp sau đó giữa Trầm Diệp và A Lan Nhược như thế nào?
Nàng tốn công lục tìm trong hồi ức, xâu chuỗi nhiều đoạn ký ức lại, nhìn thấy một vài cảnh tượng thực sự, đầu tiên chính là hai năm mà Mạch thiếu gia nói là không biết rõ lắm.
02.
Trong hai năm sương mù dày đặc đó, Phượng Cửu vui mừng vì mình đã đoán đúng, Trầm Diệp và A Lan Nhược quả thực có một mối chân tình. Bởi vì đây là hồi ức của A Lan Nhược, tấm lòng của A Lan Nhược đối với Trầm Diệp vô cùng rõ ràng, nhật nguyệt có thể làm chứng, còn tấm lòng của Trầm Diệp đối với A Lan Nhược, chắc năm xưa A Lan Nhược chưa bao giờ thấy rõ, giờ đây, Phượng Cửu đương nhiên cũng không thấy rõ lắm.
Liên tam điện hạ ở trên thượng giới có mấy lời phát ngôn rất nổi tiếng, nói rằng một mối tình sẽ như thế nào, thì phải xem xem người trải qua mối tình đó là người như thế nào. Ví dụ như trên thế gian có mối tình mãnh liệt sục sôi, cũng có mối tình êm đềm bình lặng, còn có những mối tình tương kính như tân[2]. Có người tình cảm sâu sắc nhưng không thể hiện ra bằng lời, có người tình cảm sâu sắc và lời nói cũng nồng nàn. Không thể nói tình yêu của người khác không giống với tình yêu của mình thì tình yêu của người khác không được coi là tình yêu.
[2] Tương kính như tân: luôn tôn trọng nhau, coi trọng nhau như khách.
Nàng luôn khâm phục Liên tam điện hạ là một cao thủ trong chuyện phong nguyệt, phong nguyệt kinh mà đích thân Liên tam điện hạ nói đương nhiên là một tấm chân kinh. Nàng đem tấm chân kinh ấy khoác lên người Trầm Diệp và A Lan Nhược, cảm thấy hai năm qua, dẫu rằng hành động của Trầm Diệp hiếm khi quá thân mật với A Lan Nhược, trong lời nói cũng khó có thể chọn ra lời yêu đương nào đau đớn để bình luận, nhưng có thể, chàng ta chính là kiểu người tình cảm sâu sắc nhưng không thể hiện bằng lời nói, tình cảm của chàng ta chính là loại tình cảm tương kính như tân.
Hồi ức về hai năm đó quá vụn vặt, Phượng Cửu lười không muốn kiểm tra từng thứ một, chọn bừa một đoạn trong khoảng thời gian cuối cùng, mở ra xem. Cảnh tượng đập vào mắt là một hồ sen rộng lớn như một tấm gương, giữa hồ sừng sững một mái đình, trên chiếc bàn đá trong đình đặt một đống hoa mà nàng không biết tên, bên cạnh là một chiếc bình miệng rộng.
Trầm Diệp tay cầm sách, ngồi bên cạnh bàn đá, hai năm sống ẩn dật khiến khí chất lạnh lùng của chàng càng lắng đọng hơn, chăm chú nhìn vào cuốn sách, thi thoảng lại lật một trang. A Lan Nhược ngồi bên cạnh chàng, chăm chú nghiên cứu bó hoa trên bàn, lúc thì ướm cành hoa đã được cắt tỉa vào miệng bình, lúc lại khua khua trước mặt Trầm Diệp để chàng nhìn xem nàng cắt tỉa có đẹp không, có cần phải sửa lại không.
Nhiều lần như vậy, Trầm Diệp rời mắt khỏi cuốn sách, lạnh lùng nói với nàng: “Nàng ngồi cạnh ta chỉ để quấy rầy ta đọc sách sao?”.
A Lan Nhược dùng cành hoa nâng cằm của chàng lên: “Một mình đọc sách chẳng thú vị chút nào, nô gia chiều theo đại nhân như vậy”, nàng mỉm cười: “Chẳng phải là vì đại nhân không muốn rời xa nô gia dù chỉ một khắc hay sao?”.
Trầm Diệp nghiêng đầu né tránh, bất đắc dĩ chỉ vào nơi lá hơi dày trên cành hoa: “Bản lĩnh tự quyết định của nàng càng ngày càng tiến bộ, chỗ này cành hơi dài, lá cũng hơi nhiều một chút”.
A Lan Nhược ung dung mỉm cười: “Đại nhân quá khen, nô gia chỉ là giỏi suy đoán tâm tư của đại nhân mà thôi”.
Trầm Diệp đón lấy chiếc kéo cắt hoa trong tay nàng, bàn tay khẽ run lên, nói: “Còn gọi ta một tiếng đại nhân, tự xưng thêm một tiếng nô gia nữa, ta sẽ vứt nàng ra ngoài đấy”.
A Lan Nhược dịu dàng mỉm cười: “Đại nhân đã nhiều lần nói sẽ vứt nô gia ra ngoài, nhưng chưa lần nào làm được”. Khi thu lại cành hoa, đài hoa vừa hay chắn ngang tóc mai bên tai nàng, toát lên một vẻ kiều diễm riêng có, ánh mắt của chàng dứng lại khá lâu trên khuôn mặt nhìn nghiêng của nàng, nàng như không nhìn thấy, khi cắm nốt cành hoa cuối cùng vào trong bình, lại nghe thấy giọng nói rất khẽ của chàng: “Quay lại đây”.
Nàng quay đầu lại nhìn chàng, ánh mắt vẫn ẩn chứa nụ cười: “Ban nãy chỉ là nói đùa, huynh đừng vì giận dỗi mà vứt muội đi”.
Chàng lại không nói gì, đứng lên hái một đóa hoa nhỏ trong bình, hơi cúi người xuống, cài đóa hoa lên vành tai nàng, ngón tay của chàng dừng lại sau khi khẽ vuốt ve tóc mai của nàng, rút tay lại, cầm sách lên, ánh mắt lại chăm chú nhìn vào trang sách, sau một hồi im lặng, còn ra vẻ lật một trang.
Nàng sững người lại, đưa tay chạm vào đóa hoa nở rộ bên vành tai, một hồi lâu sau khẽ nói: “Đôi khi muội cảm thấy không đủ, nhưng đôi khi lại cảm thấy huynh như vậy rất tốt”.
Ánh mắt của chàng lại rời khỏi quyển sách ngước lên nhìn nàng, dường như có chút nghi hoặc: “Cái gì không đủ?”. Nhưng nàng chỉ mỉm cười lắc đầu.
Ánh nắng ban mai nhuộm một màu ấm áp lên ngôi đình nhỏ giữa hồ, bầu trời cao rộng, làn nước sâu thẳm, hồ sen yêu kiều dưới nắng sớm, tỏa hương thơm ngát. Hình ảnh hai người ngồi tựa bên nhau trong đình dần dần tan biến trong ký ức, chỉ lưu lại một cái bóng nhạt màu giữa không gian rộng lớn.
Cái bóng này khiến Phượng Cửu xúc động, thậm chí có chút thương cảm khi cảm thấy rằng nếu câu chuyện của hai người bọn họ mãi dừng lại ở đây cũng không có gì là không tốt. Nhưng những việc phải đến rồi sẽ đến, hôm đó Mạch thiếu gia đã nói rằng vài lời ghi chép ít ỏi trong sử sách về những chuyện xảy ra sau hai năm này vô cùng thê thảm. Phượng Cửu cảm thấy rằng, sử sách ấy mà, khó tránh khỏi có những khi không đúng với sự thật. Nhưng khi lật giở tỷ mỉ khoảng ký ức tiếp sau đó, nàng kinh ngạc phát hiện ra rằng sử sách ghi chép những việc liên quan tới cái chết của Thượng Quân Tương Lý Khuyết lại chính xác một cách hiếm thấy.
Đêm ngày mười sáu tháng bảy, từ trong cung truyền tin ra ngoài, nói rằng Thượng Quân đã băng hà vì lâm bệnh nặng. Thượng Quân trước nay sức khỏe tráng kiện, nhưng không hiểu đã mắc phải căn bệnh nan y nào mà nói băng hà là băng hà luôn. Khi thông tin được truyền đến, A Lan Nhược và Trầm Diệp đang chơi cờ, quân cờ màu đen rơi “cạch” xuống bàn cờ, làm rối loạn cả thế trận, Trầm Diệp cầm quân cờ màu trắng, yên lặng, đám nô tỳ mang chiếc áo choàng đi đêm tới, hoang mang lo sợ vắt lên tay nàng. A Lan Nhược vội vã bước ra cửa, khi bước qua bục cửa, còn quay đầu lại nói: “Nước cờ vừa rồi không tính, thế cờ này cứ giữ nguyên như vậy, hôm khác hai chúng ta chơi lại xem ai thắng ai thua”. Trầm Diệp cất tiếng: “Đợi đã”. Chàng đứng lên, ngắt một đóa hoa trắng trong chiếc bình hoa đặt bên cạnh thư án, chậm rãi đi tới trước mặt nàng, rút cây trâm bằng ngọc cài trên mái tóc của nàng ra, cài đóa hoa trắng vào tóc nàng, ngón tay khẽ vuốt ve tóc mai của nàng rồi dừng lại, mới nói: “Đi đi”.
Ba ngày sau A Lan Nhược mới được rảnh tay quay về phủ, trong phủ vẫn như thường ngày, riêng vị Thần Quan Trưởng làm khách ở Mạnh Xuân viện suốt hai năm vài khắc trước vừa được đón về Kỳ Nam thần cung rồi.
Lão quản đưa đưa tay lau mồ hôi túa ra trên trán, bẩm báo rằng đang định sai người vào cung báo cho công chúa, không ngờ công chúa đã về phủ rồi, Thần Quan Trưởng vừa mới ra khỏi phủ, chắc cũng chưa đi xa. Ý muốn nói rằng nếu công chúa muốn từ biệt Thần Quan Trưởng, lúc này vẫn còn kịp.
Với thân phận của A Lan Nhược, lúc này mà đuổi theo thực ra không phải là một việc hay ho gì, lão quản gia đã lo lắng tới mức mụ mị cả đầu óc, may mà nàng vẫn giữ được sự tỉnh táo. Nàng chỉ thất thần trong giây lát, cởi áo choàng ra, gỡ đóa hoa trắng đã héo khô trên đầu xuống, ngây người ngồi đó. Gió đêm thổi tới, cánh hoa bị gió thổi rơi rụng, nằm trên nền nhà lát gạch trắng được lau chùi cẩn thận đến nỗi không có một hạt bụi, nó giống như một vết bẩn gì đó. Nàng nhìn cánh hoa trơ khấc trên tay, đau khổ cười nói: “Đêm ấy chàng tặng ta cái này, thực ra là đang từ biệt ta? Ta lại không hề nhận ra”.
Triều đại nào có quần thần của triều đại ấy, mỗi Quân Vương khác nhau có sự sắp xếp quyền lực khác nhau. Sức mạnh của thần cung độc lập tới tông thất, dù là Tương Lý Khuyết tại vị, trấn áp một thần cung không có Thần Quan Trưởng còn có chút khó khăn, huống hồ là thái tử Tương Lý Hạ sắp kế vị nhưng lại hoàn toàn không có căn cơ. Đây chính là lý do mà Trầm Diệp được đón về Kỳ Nam thần cung.
Mặc dù đều là quân vương của một nước, những suy nghĩ này của Tương Lý Hạ, Phượng Cửu lại thực sự không thể lý giải. Từ khi nàng biết ghi nhớ mọi chuyện, ngũ hoang ngũ đế ở Thanh Khâu của nàng chỉ thay đổi một vị đế vương, đó là khi nàng thay thế cô cô của nàng. Hơn nữa, nàng còn nhớ rằng, cô cô của nàng từ khi bị thay thế, ngày nào cũng sống rất vui vẻ, ánh mắt cô cô nhìn nàng luôn ẩn chứa sự đồng cảm của người đã từng trải. Hơn nữa, đám thần tử ở Đông hoang phần lớn đều không có bản lĩnh gì, sở thích lớn nhất là cải trang thành dân thường ra bày hàng buôn bán ngoài chợ, nếu có gây lộn phần lớn là vì ai đã tranh mất vị trí bày hàng của ai. Nói theo cách nói đường hoàng của họ thì các thần tiên ở nước Thanh Khâu này tuy mưu cầu một chức vị, nắm giữ một chút quyền lực vì nhà vì nước, nhưng sao có thể giống người phàm trần, để quyền lực quay lại thao túng bọn họ. Mặc dù trong số các vị thần tiên trên Cửu Trùng Thiên cũng có người thích tranh giành quyền lực, nhưng tất cả đều bởi vì họ không có mục tiêu theo đuổi trong cuộc đời, chưa từng biết tới thú vui của việc bày sạp bán hàng, những người đã từng trải qua nhưng vẫn đi tranh giành quyền lực, đó là bởi vì họ không có niềm vui trong cuộc sống. Phượng Cửu cảm thấy, đám thần tử đó của nàng nói đúng hay sai, tạm thời không bàn luận nhiều, nhưng thực sự đã giảm bớt cho nàng rất nhiều công việc.
Đoạn ký ức này từng đoạn từng đoạn liên kết với nhau rất chặt chẽ, giống như một dòng thác lớn dội xuống từ trên vách núi, đập vào lớp đá vụn dưới đáy vực, tung bọt lạnh lẽo. Cái gọi là bi kịch, từ thuở khai thiên lập địa đến nay, đều mang dáng vẻ đường đột hốt hoảng nhưng lại hung ác vô tình. Đoạn ký ức tiếp theo chính là tin đồn mà Tô Mạch Diệp từng kể với nàng.
Hóa ra, đó không phải là một tin đồn vô căn cứ.
Ngày hai mươi hai tháng bảy, thời điểm nhập quan cho Thượng Quân sắp xong, đêm xuống, phủ công chúa bị bao vây, A Lan Nhược bị khóa bằng khóa sắt, đưa ra khỏi phủ, áp giải vào trong cung, tội danh giáng xuống đầu nàng là tội giết vua.
Viên quan đứng đầu Hình ty chịu trách nhiệm xử lý vụ án này chính là em ruột của Khuynh Họa phu nhân, cậu ruột của nàng.
Thượng Quân băng hà, xét về lý, người thừa kế phải là thái tử, nhưng thái tử Tương Lý Hạ trước đây là một vị thái tử không được coi trọng, lúc này đang là một thái tử ở thế yếu, sau này có thể cũng chỉ là một vị Thượng Quân bù nhìn mà thôi, mọi quyền hạn đều rơi vào tay của Khuynh Họa phu nhân. Mà trong triều ai ai cũng đều biết, vị quan chủ quản của Hình ty kia chính là tâm phúc của Khuynh Họa phu nhân. Nói một cách khác, người đổ tội danh lên đầu A Lan Nhược chính là mẹ ruột của nàng, người một lòng muốn nàng phải chết cũng chính là mẹ ruột của nàng.
Ngày thứ bảy sau khi A Lan Nhược bị nhốt trong đại lao, Khuynh Họa phu nhân đại giá, vào trong đại lao thăm nàng. Trong nhà lao chật hẹp, một chiếc nệm cỏ được dùng làm chỗ ngủ, một chiếc bàn gỗ mục nát nhỏ kê cạnh cửa buồng giam, bên cạnh bàn là một ngọn đèn dầu tù mù, A Lan Nhược toàn thân áo trắng, ngồi dựa vào chiếc bàn nhỏ luyện chữ, một tên lính canh đứng gác cạnh một chậu lửa ngoài cửa phòng giam, nàng viết xong trang giấy nào, tên kính canh bèn thu lại rồi đốt luôn trang giấy đó.
Gấu váy dài của Khuynh Họa phu nhân quét qua bậc đá trong nhà lao âm u, nàng nghe thấy tiếng lụa là sột soạt lướt qua mặt đất, ngẩng đầu nhìn người tới một cái, mày mắt cong cong: “Mẫu thân nhớ ra mà tới thăm con, có thể thấy mọi việc trong cung đã được mẫu thân lo liệu ổn thỏa”. Ngữ khí hòa nhã, giống như lúc này họ không gặp nhau trong nhà lao, mà gặp nhau ở hậu hoa viên của vương cung, chào hỏi như bình thường.
Khuynh Họa trong trang phục cung đình trang nghiêm diễm lệ, dừng lại trước cửa nhà lao hai bước, tên lính gác mở cửa buồng giam rồi lui ra. A Lan Nhược kết thúc nét bút đang viết dở, nói tiếp: “Trong nhà lao chẳng có việc gì làm, ban đầu thực ra con chưa hiểu rõ tại sao mẫu thân lại gán tội danh này cho con, nhưng sau khi suy nghĩ một chút, cũng coi như đã hiểu được một vài lý do”.
Khuynh Họa lạnh lùng nói: “Ngươi luôn rất thông minh”. Cúi xuống nhìn vào khuôn mặt của nàng trong giây lát, rút từ trong tay áo ra một văn thư và một bình sứ, cân nhắc trên tay một lát, cúi người đặt lên chiếc bàn gỗ mục nát: “Xem cái này đi”. Giọng nói của bà ta không chút cảm xúc giống như lời đáp lại qua loa đại khái, không chút tình cảm của bà ta khi ngày thường nàng tới thỉnh an vậy.
Ánh nến leo lét, hắt lên tờ văn thư gấp gọn, lờ mờ hiện lên các nét mực. A Lan Nhược đưa tay mở tờ giấy trước mặt ra, đưa mắt liếc qua những nét chữ cương nghị, đẹp đẽ trên giấy. Trong ánh nến tối mờ, ánh mắt càng di chuyển xuống dưới, sắc mặt càng trắng nhợt. Hồi lâu, nàng ngẩng đầu nhìn về phía mẫu thân, ngoài sắc mặt có phần nhợt nhạt, ngón tay vẫn đang run rẩy ra, thần sắc lại rất ung dung, thậm chí khóe môi còn nở một nụ cười: “Bức văn thư mà Trầm Diệp đại nhân trình lên này viết rất quy cách, không phóng khoáng phong lưu như thường ngày”.
Khuynh Họa nhìn nàng, ánh mắt gần như thương hại, hồi lâu, lại hỏi nàng: “Có quen không?”.
A Lan Nhược cúi đầu suy nghĩ, một lúc sau, khẽ cười một tiếng, không trả lời trực tiếp vào câu hỏi: “Phụ thân cả đời quyết đoán, nhưng không ngờ lại thất bại bởi một chữ tình. Phụ thân chắc chưa từng nghĩ rằng cho tới tận hôm nay, mẫu thân vẫn không quên được phụ thân của Quất Nặc. Quất Nặc quả đúng là cái gai trong mắt người, người đuổi Quất Nặc ra khỏi vương thành, cắt đứt tiền đồ của nàng ta, lúc đó chỉ thú sảng khoái nhất thời, nhưng lại chôn mầm họa khiến người lâm bệnh băng hà ngày hôm nay. Nhưng mẫu thân đã nín nhịn nhiều năm qua, chính là người làm việc lớn, đương nhiên không chỉ muốn dừng lại tại đây, mục tiêu cuối cùng của mẫu thân là muốn để Quất Nặc kế vị, giành lại tất cả mọi thứ mà phụ thân đã cướp mất từ tay phụ thân của nàng ta trước đây, đúng không?”.
Nhìn sang ánh nến bên cạnh, lại nói: “Thái tử, con, và cả Thường Đệ, chúng con đều cản đường của Quất Nặc. Thái tử không phải con ruột của mẫu thân, mẫu thân đương nhiên sẽ không nương tay, Thường Đệ đầu óc rỗng tuếch, ngoài bản tính kiêu căng ra, chẳng có gì cả, hoặc làm cho nàng ta phát điên cũng là một cách, tông thất cũng sẽ không để một cô gái bị điên lên làm Thượng Quân. Nhưng nếu cả hai người con gái chờ kế vị đều phát điên sẽ dễ khiến người ta hoài nghi, bàn ra tán vào, nhất định một người trong số đó phải chết, mẫu thân đã giữ Thường Đệ thì con không thể không chết”. Nàng gượng cười: “Con không ngờ mẫu thân lại làm tới mức này, kế sách của mẫu thân, quả thực đã không để lại cho con một chút đường lùi”.
Một bầu không khí yên lặng chết chóc bao trùm trong nhà lao, A Lan Nhược đặt tờ văn thư sang một bên, trải rộng một trang giấy, lan rộng, nàng khẽ nói: “Mẫu thân hỏi con sống có quen không, năm xưa bị mẫu thân quẳng vào trong hang rắn, con cũng đã sống được. Lần này khi mẫu thân giam con vào đây, còn không quên việc con thích luyện chữ, phá lệ chuẩn bị giấy mực cho con, giúp con giết thời gian, sao con có thể không quen được?”.
Hồi lâu, Khuynh Họa nói: “Ngươi chắc biết rằng việc này không chỉ dựa vào sức lực của một mình ta”.
Cây bút trong tay A Lan Nhược khẽ run rẩy, tám chữ “phù sinh đa thái, thiên mệnh định chi” vốn được viết rất đẹp, chứ cuối cùng vì nét bút bị run, đã phá hỏng cả thần khí.
Nhưng nàng vẫn giữ chặt cây bút.
Ánh mắt của Khuynh Họa dừng lại trên chữ của nàng, lạnh lùng nói: “Trầm Diệp từ khi sinh ra đã ở địa vị cao sang, ngay cả Thượng Quân cũng phải kiêng nể vài phần, từ nhỏ đã là một người có chủ kiến, tuy vì cứu Quất Nặc mà tự hủy hoại tiền đồ, nhưng mọi chuyện trên thế gian này, thứ mà người ta muốn mưu cầu nhất chính là tiền đồ, hắn vốn có ý định sẽ tính kế lâu dài trong khi bị lưu đày, ngươi lại biến hắn thành vật sở hữu của mình, người có biết rằng việc này đã phạm vào điều đại kỵ của hắn không?”. Liếc nhìn nàng một cái, nói tiếp: “Ban nãy ngươi than rằng phụ thân ngươi nặng tình, cuối cùng cũng bại ở một chữ tình. Phụ thân ngươi thủ đoạn tàn độc, ta sống không bằng chết, lại chỉ có thể dựa dẫm vào ông ta. Còn ngươi thì sao, mặc dù ngươi thông minh, trong chuyện này lại kém xa phụ thân của ngươi, Trầm Diệp chỉ vừa giả vờ có tình cảm với ngươi, đã khiến ngươi dốc hết tấm chân tình, ngươi rơi vào tình cảnh này, chẳng phải cũng bại bởi một chữ tình hay sao?”.
Bóng nến chập chờn in trên tờ văn thư đặt ở mép bàn. Trước kia cũng là những nét chữ này, viết trên trang giấy trắng, hỏi A Lan Nhược số rượu nàng ủ mà chàng tìm thấy trong viện có phải có cách ủ như chàng đã viết trong thư không. Giờ đây, cũng là những nét chữ này, viết ra vài dòng ngắn gọn, nhưng câu nào câu nấy lại hết sức hoang đường, “Tương Lý A Lan Nhược giết vua giết cha, tâm địa độc ác, không khác gì loài lang sói, tội ác đã rõ ràng, còn hơn cả loài hùm beo…”.
Trên tờ giấy tuyên nàng đang viết dở, sau câu “Thiên mệnh định chi” lại thêm tám chữ, “Ưu sầu úy bố, tự hữu tận thời”. Mỗi khi gặp phải những chuyện đau khổ khó mà chịu đựng nổi, nàng thường thích dùng câu này để an ủi bản thân mình. Tám chữ đó được viết một cách mạnh mẽ cứng cỏi, sau khi thu nét bút cuối cùng, nàng khẽ nói: “Mẫu thân nói giả vờ có tình cảm là có ý gì?”.
Ánh mắt của Khuynh Họa càng lộ rõ vẻ thương hại, nói: “Hắn đã xin vương huynh của ngươi một mối hôn sự”.
A Lan Nhược chậm rãi ngẩng đầu lên.
Khuynh Họa nói: “Không phải là một cô nương có thân phận cao quý gì cả, được cái đoan trang trong sáng, làm phu tử trong tông học. Nghe nói cô nương này xuất thân từ phủ của ngươi, tên Điềm, Văn Điềm, một cái tên nghe thật thanh nhã”.
A Lan Nhược nhắm chặt mắt lại, hồi lâu, nói: “Con hơi mệt, mẫu thân xin hãy về đi”.
Khuynh Họa quay người bước đi hai bước, quay đầu lại nói: “Vụ án của ngươi đã được định đoạt trong buổi sáng hôm nay, ba ngày sau hành hình, trưa nay Trầm Diệp trình văn thư này, xin Thượng Quân giao quyền hành hình cho thần cung. Ngươi chắc chắn phải tới thần cung, các dụng cụ hành hình ở thần cung nhiều hơn trong đại lao của Hình ty nhiều, ta biết ngươi dù hồn phi phách tán cũng không muốn chịu sự sỉ nhục này, nếu quả thực không thể chịu đựng nổi, hãy tự kết liễu đời mình bằng thuốc trong bình sứ kia. Đây là sự thương xót cuối cùng mà một người làm mẹ như ta có thể dành cho ngươi”.
Đợi bóng dáng của Khuynh Họa biến mất khỏi quầng sáng yếu ớt của ngọn đèn dầu, cả người A Lan Nhược đột nhiên run rẩy, phun ra một ngụm máu tươi khiến tờ giấy đặt trên bàn trở nên loang lổ, ngọn lửa nhỏ trong đèn dầu lay động, cuối cùng cũng tắt lịm.
Bóng dáng của Khuynh Họa hơi dừng lại ở cửa nhà lao, khi định cất bước đi tiếp, A Lan Nhược bỗng nhiên lên tiếng, giọng nàng khản đặc: “Mẫu thân đối với con, có gì gọi là thương xót chứ?”.
Sau một trận ho, nói tiếp: “Mẫu thân chắc vẫn còn nhớ, năm xưa Mạch sư phụ cứu con ra từ trong hang rắn, lần đầu tiên gặp người, bọn họ nói rằng người là mẫu thân của con, con đã thật sự vui sướng, người xinh đẹp biết bao. Con nhìn thấy người đi về phía con, liền vội vàng chạy về phía người, muốn xin người một cái ôm, nhưng không cẩn thận bị vấp ngã. Người đi ngang qua con, như thể không nhìn thấy con, như thể con chỉ là một cây hoa, một ngọn cỏ, hoặc một viên đá. Gấu váy của người lướt qua mặt con, người bước qua người con mà không buồn liếc nhìn xuống, tiếng sột soạt của lụa là giống hệt như trong buổi tối hôm nay”.
Ngón tay của Khuynh Họa nắm lấy lan can gỗ ngay bên cạnh.
Lại thêm một cơn ho, nàng khe khẽ nói tiếp: “Kiếp này con không biết yêu là gì, mẫu thân tiếc rẻ không cho con, con tự mình giành lấy, mẫu thân cũng hủy hoại nó, thực ra con càng muốn không biết gì hết, sao mẫu thân nhất định phải tàn nhẫn như vậy? Lẽ nào con là kẻ thù của mẫu thân, nhìn thấy con đau đớn là một việc rất vui sướng hay sao?”.
Khóe môi của Khuynh Họa khẽ động đậy, hồi lâu, nói: “Nếu ngươi còn có luân hồi, kiếp sau ta sẽ trả lại ngươi”.
A Lan Nhược mỉm cười, mệt mỏi nói: “Trần duyên với mẫu thân, hãy để nó kết thúc ở kiếp này, nếu còn có luân hồi con cũng không cầu mong điều gì, chỉ mong trong kiếp luân hồi sẽ không phải gặp lại mẫu thân nữa”.
Trong sự im lặng chết chóc, tiếng bước chân của Khuynh Họa xa dần, nếu nghe kỹ, có thể thấy thấp thoáng chút rối loạn trong những bước chân tưởng chừng như vững càng đó. Đợi đến khi bóng dáng của Khuynh Họa biến mất sau cánh cửa âm u của nhà giam, tên lính gác đứng ở đằng xa hốt hoảng chạy lại, châm ngọn đèn dầu khác.
Cảnh tượng cuối cùng trong đoạn này là cảnh A Lan Nhược gấp tờ văn thư nhuốm máu trên bàn lại, chậm rãi đưa vào ngọn đèn dầu, ngọn lửa vờn quanh những vết máu mờ mờ, chỉ trong nháy mắt đã đốt nó thành tro bụi. Tàn tro rớt xuống mặt bàn, còn mang theo một vài đốm lửa nhỏ.
Tô Mạch Diệp đã từng hỏi nàng, nếu một ngày nào đó nàng căm hận vì Trầm Diệp, sẽ là vì điều gì, lúc đó nàng đã nói đùa rằng như vậy chắc chắn là vì đã từng có được, ví dụ như chàng yêu nàng, sau đó không yêu nữa, lại đi yêu người khác. Không ngờ một lời lại đoán trúng như vậy, chàng có lẽ thậm chí chưa từng yêu nàng, ngay cả hồi ức mà nàng tự cho là trân quý đó cũng đều là giả. Thật cao minh biết bao.
Nàng cụp mắt nhìn ngón tay bị lưỡi lửa liếm bị thương, một lúc sau, tự nói với bản thân mình: “Nhìn thấy bộ dạng ngày hôm nay của muội, có phải đã khiến huynh bớt tức giận rồi không, Trầm Diệp?”. Hồi lâu, lại nói: “Huynh có biết cách báo thù như thế này, đối với muội, có phần quá nặng rồi không?”. Ngọn đèn dầu soi bóng nàng nghiêng nghiêng lên bức tường đá tối tăm, tư thế rất đoan trang nghiêm ngắn nhưng lại vô cùng mỏng manh.
03.
Thế sự xoay vần, khó được như mong muốn của con người. Khó như ý của A Lan Nhược, cũng chưa chắc đã hợp ý của Khuynh Họa.
Một ngày trước khi bị dẫn giải tới Kỳ Nam thần cung, A Lan Nhược đã bị cướp đi.
Kỳ Nam hậu sơn, sắc trời êm dịu, ánh nắng ấm áp, trong rừng thi thoảng vọng ra tiếng chim hót, ngay cả con khuyển nhân trong thạch lâm cách đó không xa cũng an nhàn ưỡn bụng phơi nắng, tất cả đều hiền hòa tĩnh lặng,dường như mọi biến động bên ngoài núi đều là những thứ vô nghĩa lý và nực cười.
Khi Phượng Cửu nhìn thấy vị công tử áo trắng đang ngồi trên ghế đá nói lý với A Lan Nhược, thực ra nàng không nhận ra đó là ai.
Mái tóc đen của vị công tử đó được búi gọn lên đỉnh đầu, một khuôn mặt điềm nhiên lạnh lùng, lời nói hành động lại không hề câu nệ, nâng nâng bắp ngô trên tay, dường như hận một nỗi không thể gõ bắp ngô đó lên trán A Lan Nhược: “Sự việc đã đến nước này, cái vương cung ghẻ đó còn gì đáng để ngươi phải nhớ nhung chứ, khó khăn lắm ta mới cứu được ngươi ra khỏi đó, ngươi lại vội vã đòi quay trở lại, lẽ nào là vì Trầm Diệp?”. Nói đến đó, chàng ta hơi trầm ngâm, gõ gõ bắp ngô lên mặt đá: “Không đúng, tới lúc này còn không quên được hắn ta, điều này không giống tính cách của ngươi, ngươi xuống núi, rốt cuộc là muốn làm gì?”.
Bên cạnh phiến đá mà vị công tử đó ngồi có hai cây cổ thụ xum xuê xanh tốt, giữa hai thân cây mắc một cái võng để nằm hóng mát bằng dây leo to chắc, A Lan Nhược ngồi dựa trên võng, đưa mắt ra xa ngắm nhìn cảnh sắc bên ngoài rừng cây, chậm rãi nói: “Trước đây ngài thường nói: Đời người trên trần thế này chẳng qua chỉ là một cuộc trải nghiệm, ta cảm thấy rất có lý. Cuộc đời dài hay ngắn quan trọng là ở trải nghiệm, trải nghiệm nhiều thì cũng là sống lâu, trải nghiệm ít thì cũng như chưa sống được bao nhiêu. Gần dây ta đã hiểu, cuộc đời này của ta, có vẻ rất ngắn ngủi, thực ra cũng có thể coi là rất dài”. Dừng lại một lát, nói tiếp: “Nếu nói trong vương cung còn có ai đó đáng để bận tâm thì chỉ có vương huynh mà thôi, tính cách của huynh ấy lạnh lùng, thực ra không hề quan tâm đến vương vị, trận chiến với bộ tộc Dạ Kiêu chắc chắn không phải là ngẫu nhiên, nhất định là mẫu… là kế sách của Khuynh Họa phu nhân, muốn mượn đao giết người, trừ khử vương huynh. Vương huynh không phải là một vị tướng giỏi, một khi ra chiến trường, nhất định sẽ không thể sống sót mà quay trở về”.
Vị công tử áo trắng cau mày nói: “Cho dù Tương Lý Hạ đối tốt với ngươi, nhưng đây là số kiếp của hắn, trong hoàn cảnh này, ngươi còn có thể bảo toàn tính mạng cho hắn ư? Lúc này ngươi đã thoát ra khỏi vòng nước xoáy, hà tất phải tự lao đầu vào đó nữa”.
A Lan Nhược chậm rãi đáp lời: “Ngài đã biết tính ta, thì cũng nên đoán được rằng ta không thể bỏ mặc vương huynh. Ta sẽ ra chiến trường thay cho vương huynh, đến lúc đó vẫn cần nhờ ngài để mắt giúp đỡ. Ngài yên tâm, ta rất quý mạng sống của mình, sẽ tự cân nhắc nặng nhẹ, so với vương huynh, ta vẫn còn cơ hội sống sót”. Liếc nhìn khuôn mặt nghiêm nghị của vị công tử áo trắng, cười nói: “Hiếm khi nhìn thấy sắc mặt này của ngài, may mà kiếp này những người đối tốt với ta không quá nhiều, ngài và Mạch sư phụ cũng không xui xẻo như vương huynh, không cần ta phải mạo hiểm ứng cứu như vậy”.
Công tử áo trắng chăm chú nhìn nàng trong giây lát, nói: “Ngươi luôn rất bướng bỉnh, giờ đây ta có nói gì cũng không thể giữ ngươi ở lại, chiến trường là nơi nguy hiểm, nếu lần này đi không trở lại thì sao?”.
Nàng điềm tĩnh đáp: “Nếu lần ra đi này không thể trở lại, cho dù ta chết đi, cũng là chết trận dưới danh nghĩa của vương huynh, còn có ý nghĩa hơn bị Khuynh Họa phu nhân ép tự sát nhiều. Đến lúc đó phiền ngài thay tên đổi họ cho vương huynh, đưa huynh ấy đến một nơi an toàn, để huynh ấy sống một cuộc sống bình thường”. Hồi lâu, nói tiếp: “Ta đã từng viết cho Trầm Diệp hai mươi bức thư, cũng phiền ngài giúp ta lấy lại, trong thư toàn là những tình cảm chân thật, để ở chỗ của huynh ấy, ta thấy có chút nực cười”.
Công tử áo trắng thở dài một tiếng: “Những điều ngươi dặn dò ta đều đã ghi nhớ, chỉ mong rằng đến lúc đó ta không phải làm những việc này, khi nào thì ngươi xuống núi?”.
Nàng nằm trên chiếc võng được bện bằng dây leo, thoải mái đặt tay ra sau gáy, một nụ cười hiện lên trên khóe môi: “Gió mát, nắng nhẹ, hôm nay là một ngày rất thích hợp để ngủ, hãy để ta trộm chút thảnh thơi[3]”.
[3] Nguyên tác Hán Việt là “Thâu đắc phù sinh bán nhật nhàn”, câu thơ trích trong bài Đề Hạc Lâm tự bích (Đề trên tường chùa Hạc Lâm) của nhà thơ đời Đường, Lý Thiệp. Ý nghĩa câu thơ là giải thoát bản thân khỏi sự phiền não buồn chán để bản thân tới một nơi thoát tục, tu dưỡng tâm hồn.
Cảnh đào nguyên ở Kỳ Nam hậu sơn dần dần biến mất trong bóng mờ của hoàng hôn, trái tim của Phượng Cửu trĩu nặng, cố gắng mở nốt đoạn ký ức cuối cùng. Nếu nói đến sách truyện, ở chỗ cô cô Bạch Thiển của nàng lưu giữ rất nhiều sách, từ nhỏ nàng được nghe được đọc nên đương nhiên cũng biết khá nhiều, những câu chuyện bi thương như vớt ra từ bình nước mắt, nàng đã đọc qua không biết bao nhiêu cuốn, nhưng vẫn không sánh được với câu chuyện mà nàng chứng kiến lần này. Đoạn hồi ức này thậm chí còn không có nửa giọt nước mắt, nhưng lại giống như một thanh kiếm tuyệt thế, vô cùng lạnh lùng và nặng nề, khi cướp đoạt tính mạng của người khác lại vô cùng gọn dàng dứt khoát, tuyệt đối không dây dưa lằng nhằng. A Lan Nhược bị tổn thương một cách bình lặng, đau đớn một cách bình lặng, ngay cả khi lao tới chỗ chết, cũng lao đi một cách vô cùng bình lặng.
Theo sử sách ghi chép lại mà Tô Mạch Diệp kể cho Phượng Cửu nghe, nói rằng Tương Lý Hạ ngự giá thân chinh ra chiến trường, chiến đấu suốt mười bảy ngày, vì không đủ mạnh nên cuối cùng đã tử trận trên chiến trường. Trong đoạn ký ức này Phượng Cửu thấy được chân tướng bị che đậy trong sử sách mỏng manh. Người tử trận trên chiến trường không phải là Tương Lý Hạ, mà là A Lan Nhược.
Trận chiến với bộ tộc Dạ Kiêu, nguyên nhân là do bộ tộc Tỷ Dực Điểu dung túng cho dân vùng biên vượt biên săn bắn, hai bộ tộc giao chiến, đương nhiên chiến trường diễn ra ở vùng biên cương. Sông Tư Hành lững thững chảy từ thời viễn cổ, chảy tới tận cùng phía Nam, vòng qua hẻm núi Bình Vận, rồi hòa vào lòng biển Từ Bi hết năm này qua năm khác. Đoạn sông Tư Hành chảy từ núi Bình Vận ra biển Từ Bi thường được gọi là sông Nam Tư Hành, bên sông có một khu rừng nhạc âm rộng lớn, trồng toàn cây nhạc âm. Hai tộc Tỷ Dực Điểu và Dạ Kiêu đời đời lấy khu rừng này làm biên giới giữa hai nước.
Ngày mùng bảy tháng tám, A Lan Nhược lao tới chiến trường. Chiến sự bắt đầu từ ngày mùng một, mới có sáu ngày, bộ tộc Tỷ Dực Điểu đã mất rất nhiều đất đai, bị đẩy lùi về phía nam sông Tư Hành, tám vạn đại quân đã bị tổn thất mất ba vạn, năm vạn binh sĩ còn lại và mười hai vạn hùng binh của bộ tộc Dạ Kiêu, mỗi bên chiếm cứ một bờ sông Tư Hành.
Quân lệnh xin tiếp viện liên tiếp được gửi cấp tốc về Vương thành, Khuynh Họa phu nhân coi như không thấy, án binh bất động. Trước mặt có hùng binh, sau lưng không có quân tiếp viện, quân sĩ mất hết chí khí, mặc dù chưa kết thúc cuộc chiến nhưng đã lộ vẻ thất bại. Đêm xuống, A Lan Nhược lẻn vào trong quân trướng, làm Tương Lý Hạ ngất xỉu, đưa chàng ta ra khỏi doanh trại, bản thân nàng mặc áo giáp của chàng ta, ngồi vào ghế chủ soái.
A Lan Nhược dẫn dắt năm vạn binh mỏi mệt, lợi dung địa thế của sông Tư Hành bày Bán Nguyệt trận, chặn bộ tộc Dạ Kiêu ở bên ngoài sông. Máu đào nhuộm đỏ dòng sông Tư Hành, xác chết la liệt phía bờ Nam, bấy giờ đang là cuối mùa hạ, đêm xuống, gió mát thổi bên sông lại chỉ ngửi thấy mùi xác chết thối rữa và mùi máu tanh nồng. Bán Nguyệt trận chặn được kẻ địch bảy ngày, khiến bộ tộc Dạ Kiêu tổn thất năm vạn binh, nhưng vì lương thảo không đủ, hơn nữa lại lâu ngày không có viện binh, không thể chống cự được bộ tộc Dạ Kiêu ỷ người đông thay phiên nhau tấn công, cuối cùng vào nửa đêm ngày thứ bảy, đã công phá được một lỗ hổng.
Sao Mai trên bầu trời sáng lên, đại vương tử của bộ tộc Dạ Kiêu vô cùng vui mừng, định dẫn quân vượt sông. Dưới ánh trăng sao, nhìn qua bờ sông bên kia, lại thấy trong tay chủ tướng của địch quân bỗng hóa ra một cây cung sắt cao bằng thân người, ba mũi tên không gắn lông xé gió rạch nát màn đêm lao tới vun vút, đâm thẳng vào giữa lòng sông, biến thành ba cây cột sắt lớn, đứng thẳng một hàng giữa dòng nước chảy xiết.
Chiêu Hồn trận.
Sao Mai bị một đám mây đen bỗng dưng xuất hiện quấn lấy, chao đảo như sắp rơi, một luồng kim quang bỗng phát ra từ thân hình cao ráo đang đứng sừng sững bên cạnh cây cung sắt. Sau một tiếng thét dài xé tan khoảng không, luồng kim quang lơ lửng giữa không trung ngưng tụ lại tạo thành một con Tỷ Dực Điểu khổng lồ, cúi nhìn xuống hai bên bờ sông, uy nghiêm bay lượn, sải cánh rộng quạt mạnh khiến binh hùng tướng mạnh đều ngã chổng vó. Bóng người bên cạnh cây cung sắt lại đứng im bất động, gió mạnh thổi bay chiếc mũ giáp trên đầu, lộ ra một mái tóc dài đen nhánh, một khuôn mặt lạnh lùng, diễm lệ.
Trong tiếng thét bi ai, con Tỷ Dực Điểu màu vàng đậu lên cây cột sắt giữa lòng sông, đôi cánh giang rộng phủ kín hơn nửa mặt sông, vỗ cánh lần nữa, toàn thân bỗng nhiên bốc cháy.
Lưỡi lửa lớn hừng hực thiêu đốt, giống như một trận nghiệp hỏa[4] vô tận, chặn giữa dòng sông Tư Hành, tạo thành một bức tường chắn tự nhiên đối với quân địch. Gió khô nóng thổi tới khiến rừng nhạc âm bờ bên kia kêu ding dang. Sở dĩ cây này gọi là cây nhạc âm là bởi vì cành cây, lá cây khi đung đưa theo gió có thể tấu lên một khúc nhạc.
[4] Lửa địa ngục thiêu đốt trừng phạt kẻ ác.
Để ngăn chặn quân địch ở ngoài sông Tư Hành, A Lan Nhược đã dùng Chiêu Hồn trận, thiêu đốt hết linh hồn của mình. Đây chính là nguyên nhân khiến nàng hồn phi phách tán. Đây mới là nguyên nhân khiến nàng hồn phi phách tán.
Màn đêm đen như mực, lửa cháy cuồn cuộn trên dòng sông chảy xiết, tiếng kêu gào thảm thiết của con Tỷ Dực Điểu xuyên qua rừng nhạc âm, trong rừng tấu lên tiếng hát kỳ diệu, dường như đang ai điếu cho cái chết của công chúa một bộ tộc. Còn trên dòng sông dài vô tận, những bông hoa nhạc âm nhỏ xinh trắng muốt lại không hề e sợ gió nóng, giống như những chú chim nhỏ đang di trú, xuyên qua lưỡi lửa phiêu tán trong lòng sông, lại giống như một trận tuyết nhẹ, có một đóa đặc biệt ngoan cường, vượt qua bao gian khó chầm chậm đậu trên tóc mai của A Lan Nhược, nàng đưa tay gài nó vào trong tóc, ngón tay khe khẽ vuốt lên tóc mai rồi dừng lại. Đó là một động tác mà Trầm Diệp vẫn quen làm khi cài hoa lên tóc nàng. Nàng sững người lại, hồi lâu, lại khẽ mỉm cười. Con Tỷ Dực Điểu màu vàng kêu lên một tiếng thảm thiết cuối cùng, nàng vuốt ve đóa hoa trắng bên vành tai, chậm rãi nhắm mắt lại. Con chim lớn giữa dòng sông đứng yên như đã hóa thành một bức tượng, chỉ có ngọn lửa vẫn chưa tắt, còn nàng công chúa tóc dài tựa vào cây cung sắt, nàng đã dùng cạn sinh mạng của mình, bước vào cõi hư vô vĩnh hằng. Lửa lớn cháy suốt ba ngày không tắt, khi lửa tắt, công chúa và cây cung sắt đều đã hóa thành cát bụi, chìm vào trong lòng sông cuộn sóng.
Đây chính là cuộc đời của A Lan Nhược.
Phượng Cửu vẫn không thể hiểu được, khi nở nụ cười cuối cùng, A Lan Nhược đang nghĩ tới điều gì.
Ra khỏi đoạn ký ức này, trước mặt lại hiện lên tấm gương dài đúc từ tuyết dày, Phượng Cửu đưa tay lên tấm gương, trước mắt bỗng trở nên tối sầm, một khắc trước khi mất đi ý thức, nàng cảm thấy, lần này, cuối cùng thì mình cũng thật sự sẽ ngất đi, nếu sớm ngất đi như thế này thì tốt biết mấy.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.