Quyển 2 - Chương 141: Mao Sơn gặp nguy
Phong Ngự Cửu Thu
10/03/2014
Thiết Hài và Ngọc Phật trước sau rời đi. Bên đống lửa lúc này chỉ còn Tả Đăng Phong và 13.Tả Đăng Phong chỉ lên vai mình, 13 liền phóng người lên vai hắn rồi ngồi xuống.Tả Đăng Phong chờ nó ngồi vững
liền đề khí bốc người phi thân về phía Đông.
Chuyến này có nguy nhưng không hiểm, thuận lợi lấy được nội đan của kim kê. Theo lý thì Tả Đăng Phong có lẽ phải vui mừng mới phải, nhưng thực tế thì hắn không thể nào vui cho nổi. Trận pháp do Khương Tử Nha bày ra quá mức huyền diệu, khó lòng chỉ dựa vào 1 góc này của trận pháp để suy đoán ra những góc khác.
Khi xuống núi, Tả Đăng Phong tạm thời nghỉ lại ở 1 thị trấn nằm dưới chân núi. Sau đó không lâu hắn dẫn theo 13 nhằm thẳng thành phố Hợp Phì - tỉnh An Huy. Nơi này là thủ phủ của giới thương buôn Huy Châu, mà Tả Đăng Phong thì cần phải bán đi 1 số thứ trong rương gỗ.
Sở dĩ gọi là "cửa ải cuối năm" ( cuối năm phải trang trải nợ nần) là vì người tá điền và người vay mượn tiền cần phải trả cho địa chủ và người cho vay địa tô và số tiền đã mượn trước cuối năm. Người ta cũng hay nói "cho dù đói kém liên miên, nộp tô trả nợ không quên hỡi người ! ", vì vậy mới gọi là "cửa ải cuối năm".
"Cửa ải cuối năm" đối với những bá tính nghèo khổ quả thực là ngày khốn khổ khốn nạn. Nhưng cho dù có khốn khổ thế nào thì năm cũ cũng sắp qua, chỉ còn vài ngày nữa là tới ngày "cửa ải cuối năm". Tiểu viện của đám nhà giàu giăng đèn kết hoan, hương vị của tết nhất cũng đã lan toả từ đầu làng đến cuối xóm.
Nhìn dòng người qua lại tấp nập trên đường, trong lòng Tả Đăng Phong dâng lên 1 cảm giác mất mác rất mãnh liệt. Những cô bé cậu bé còn nhỏ tuổi tay cầm theo xâu kẹo hồ lô cười tíu tít đuổi theo nhau cũng khiến Tả Đăng Phong lưu luyến không muốn rời đi. Nếu Vu Tâm Ngữ giờ vẫn còn sống thì chưa biết chừng hắn đã được làm cha rồi. Tả Đăng Phong tuy dằn được mình trước nữ sắc, nhưng hắn không thể dằn được bản năng làm cha ẩn dấu sâu thẳm trong lòng hắn. Khi gặp phải những đứa bé quần áo rách rưới, hắn đều đứng lại tặng cho mỗi đứa 1 đồng đại dương rồi sau đó nhìn chúng vui vẻ tíu tít chạy đi.
Tốc độ đi đường của Tả Đăng Phong cũng không nhanh. Phải 2 ngày sau hắn mới tới thành phố Hợp Phỉ - tỉnh An Huy,thủ phủ của giới thương buôn Huy Châu. Những quán cầm đồ vẫn mở cửa như thường lệ. Trên thực tế thì thời gian mỗi dịp "cửa ải cuối năm" là giai đoạn phát tài của họ.
Tả Đăng Phong tìm được một tiệm cầm đồ tên là " Kim Trạch Cửu Châu". Bảng hiệu của tiệm cầm đồ này nghe cũng khá kêu, có ý ban ân huệ tỏa khắp mọi chúng sinh. Nhưng quy mô của bọn họ quả thực rất lớn. Cửa tiệm này cao tới tầng lâu , được xây dựng bằng gỗ. Bốn phía đều có 3 cửa chính, dùng để tiếp đãi khách hàng từ giàu đến nghèo. Tả Đăng Phong không chút do dự đi vào cửa phía Đông.
Ở đây không có quầy hàng mà chỉ có một 1 cái bàn lớn dùng để tiếp đón khách hàng,và bốn cái ghế thái sư cùng 1 chiếc bàn hé ra bàn bát tiên. Ở phía Đông là 1 quản gia mắt đeo kính tay đang bận gẩy bàn tính. Bên trong còn có một cậu học việc còn non choẹt đang quét tước vệ sinh.
Tả Đăng Phong vừa vào cửa, vị quản gia đeo kính đã phát hiện ra hắn. Y đứng lên dặn dò cậu học việc:
-Quý khách tới cửa, mau mang trà Đại Hồng Bào lên mời khách.
-Đại Hồng Bào đắt ngang bạc trắng, nếu tôi không cầm đồ thì chẳng phải là ông lỗ vốn rồi sao?
Tả Đăng Phong đi tới đặt rương gỗ lên bàn bát tiên. Đại Hồng Bào vốn là đặc sản của vùng Phúc Kiến, thời xưa còn được xưng là "trà cống phẩm", giá cả đắt đến cắt cổ.
-Buôn bán không thành nhưng cái tình vẫn phải có. Dâng trà mời khách vốn là lễ tiết bắt buộc.
Lão quản gia để sổ sách sang 1 bên rồi tới kéo ghế cho Tả Đăng Phong ngồi. Sau khi nhìn thấy 13 cũng đi vào, lão khó tránh được sự ngạc nhiên. Sau khi trầm ngâm 1 hồi , lão tỏ ra giật mình, tay run run kéo ra 1 chiếc ghế khác.
-Khó trách việc làm ăn của các ông lại tốt như vậy, ông nhìn mấy thứ này rồi đánh giá xem giá trị của chúng ra sao.
Tả Đăng Phong ngồi xuống ghế thái sư rồi đưa tay mở ra rương gỗ. 13 thì nhảy xuống ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế còn lại rồi xoay người ngồi ngay ngắn.
-Không vội. Dám hỏi cao dánh quý tánh của quý khách?
Lão quản gia chắp tay vái khi hỏi, đồng thời cũng đưa mắt nhìn qua mấy thứ trong rương gỗ.
-Tả.
Tả Đăng Phong thuận miệng trả lời.
-Thứ cho lão hủ mắt kém,lúc trước lại không nhận ra Tả chân nhân.
Lão quản gia thở dài.
-Ông khách sáo quá! Tôi cũng không phải đạo sĩ.
Tả Đăng Phong xua tay nói. Lúc trước thái độ ngạc nhiên và đôi tay run run khi kéo ghế lúc lão quản gia nhìn thấy 13 đã chứng tỏ lão nhận ra được thân phận của hắn nên Tả Đăng Phong cũng không lấy làm bất ngờ. Cái tên "Tàn Bào" cùng với 5 vị Huyền Môn Thái Đẩu sớm đã được người đời biết tới.
Đúng lúc này, trà đã được đưa lên. Lão quản gia lập tức dặn dò cậu học việc đi đóng cửa lại, sau đó kêu thêm hai lão quản gia khác tới để phụ giúp việc kiểm kê đồ vật. Những đồ vật trong rương gỗ vốn rất tạp nham. Lúc trước khi ở trong cổ thành, Tả Đăng Phong cũng vơ vét được không ít thứ tốt; trong kim tháp hắn lại khoắng thêm 1 mớ. Mấy thứ đồ bằng vàng bạc kim khí hắn tặng cho Thiết Hài, những đồ vật bằng ngọn tinh xảo thì tặng cho Ngọc Phật, còn lại những thứ đồ linh tinh thì đang đặt ở trong rương gỗ.
Tả Đăng Phong ngồi trên ghế thái sư để nhấm nháp Đại Hồng Trà. Hắn vô cùng yên tâm giao việc kiểm kê và định giá của mấy thứ đồ vật này cho bọn họ vì hắn biết buôn bán rất trọng chữ tín. Chỉ có những thương buôn có tín nghĩa tốt mới được người ta tin cậy.
Đại Hồng Trà ngâm qua 3 lần nước thì cậu học việc tới đổi lá trà mời . Đang lúc cậu ta còn đang loay hoay đổi lá trà thì từ hậu đường đi tới 1 người thanh niên bận áo bào đi tới . Tuổi của người này cũng xấp xỉ Tả Đăng Phong. Mấy vị lão quản gia đang kiểm kê đống đồ vật của Tả Đăng Phong khi nhìn thấy y bèn đứng dậy hành lễ rồi lên tiếng:
-Thiếu đông gia.
-Bỉ nhân Tôn Phụng Hiếu! Sớm nghe đại danh của chân nhân, nay mới có duyên diện kiến, đúng là may mắn.
Người thanh niên nhân đi tới trước mặt của Tả Đăng Phong rồi khom người chắp tay thi lễ.
-Thiếu đông gia khách sáo quá.
Tả Đăng Phong vội xua tay cười nói. Trang phục trên người và cách ăn nói của người này cho thấy y là người được giáo dục theo phong cách truyền thống.
-Tất cả đồ vật do Tả chân nhân đem tới đều phải tính đúng giá, không được thu 20% tiền lãi.
Người thanh niên nói với mấy vị lão quản gia.
-Có việc muốn nhờ sao?
Tả Đăng Phong nhíu mày mở miệng.
-Chân nhân pháp nhãn như thần. Bỉ nhân không dám nói dối để che mắt ngài. Sớm nghe chân nhân pháp thuật cao thâm huyền bí, hôm nay sở dĩ bỉ nhân mạo muội mở lời quả thực có chuyện muốn nhờ.
Người thanh niên khẽ giọng nói.
-Nói nghe xem.
Tả Đăng Phong thuận miệng trả lời. Đại khái trước đó hắn đã thử tính toán. Mấy thứ này chí ít cũng đáng giá 3000 lượng vàng, 20% tiền lãi tức là 5,6 trăm lượng vàng, nhưng y lại không lấy 1 xu.
Người thanh niên thấy Tả Đăng Phong hoà hoãn như vậy bèn khẽ nói chuyện mà y muốn nhờ. Quả thực người thanh niên này là ông chủ ở đây. Mấy lão quản gia sở dĩ vẫn còn gọi y là thiếu đông gia bởi vì cha y chỉ mới chết được mấy hôm, nên trong thời gian ngắn mấy người họ còn chưa thay đổi được cách xưng hô. Thật ra thì chuyện cũng rất đơn giản. Lão chưởng quỹ ba ngày trước vì bệnh nặng mà chầu trời. Trong khi linh cữu được đặt ở linh đường chờ an táng thì tự dưng 1 nha hoàn trong phủ lại nói là bởi vì khi sinh thời, lão làm ăn thất đức, nên sau khi xuống âm phủ đã bị trừng phạt rất nặng, cần phải thỉnh đạo sĩ phái Mao Sơn tới lập đàn làm pháp sự giúp lão tiêu tai giải nạn. Đám con cháu tuy cũng cảm thấy nửa tin nửa ngờ, nhưng các cụ cũng có câu "thà rằng tin là có chứ không thể không tin" nên con cháu lão vội vàng sai người thỉnh tới 1 bị đạo sĩ phía Mao Sơn. Đạo sĩ mở miệng đòi tới 300 lượng vàng. Chút tiền ấy đối với Tôn gia mà nói cũng chỉ giống như sợi lông trên chín con trâu, nhưng Tôn Phụng Tiên vẫn luôn cảm thấy tên đạo sĩ này có vấn đề, cho nên y muốn thỉnh Tả Đăng Phong tới xem xét xem tên này có phải là Mao Sơn đạo sĩ thật hay là không.
-Người đó đang ở đâu?
Tả Đăng Phong nghe xong bèn mỉm cười gật đầu. Chuyện này y chỉ cần phẩy tay cái là xong, cũng chẳng phải là chuyện khó khăn gì.
-Đang ở linh đường của tiên phụ.Thật lòng thì đám con cháu giống như bỉ nhân được hưởng phúc ấm của tiên tổ, kế thừa gia nghiệp, dù bỏ ra 300 lượng vàng cũng không đáng làm phiền đến tiên giá của Tả chân nhân. Nhưng tiên phụ lúc sinh thời vốn là người hiền lành, lúc mở cửa làm ăn buôn bán chưa bao giờ ức hiếp 1 ai, lại còn xây cầu đắp đường, làm nhiều việc thiện. Nhưng nha hoàn này lại nói là tiên phụ lúc còn sống là người thất đức, mà tên đạo sĩ đó cũng dèm pha mấy câu. Y nói nếu để người ngoài biết được chuyện này, chuyện làm ăn của bổn tiệm bị thiệt hại cũng chỉ là chuyện nhỏ, làm nhục danh dự của tiên phụ mới là chuyện lớn.
Người thanh niên giải thích.
-Nhưng anh lo lắng có khi tên Mao sơn đạo sĩ kia là thật nên cũng không dám dại dột đi đắc tội với hắn. Vì thế anh mời nhờ tôi ra mặt để làm rõ thật giả.
Tả Đăng Phong cười nói.
-Chân nhân minh giám, quả thực là như vậy. Vị đạo nhân này cũng là do chúng tôi vô tình gặp ở trên đường chứ không phải là người được thỉnh tới từ Mao Sơn.
Người thanh niên nhân gật đầu nói.
-Anh dẫn tôi đi xem 1 chuyến.
Tả Đăng Phong buông chén trà đứng lên nhìn qua 13 rồi nói:
-Mày không cần đi, cứ đợi ở đây là được.
13 nghe vậy bèn gật đầu.
-Mau dâng trà cho tiên trưởng.
Tôn Phụng Tiên thấy vậy vội vàng dặn dò cậu học việc. Y chưa từng thấy con mèo nào lại biết gật đầu cả.
-Nó không uống trà, chỉ cần cho nó chút nước là được rồi.
Tả Đăng Phong nhấc tay tỏ ý bảo Tôn Phụng Tiên dẫn đường.
Một lát sau, hai người rời khỏi cửa hàng đi tới đại viện ở đằng sau. Đây là 1 mảnh sân trong rộng kinh người, phía trước là lầu cao dùng cho việc buôn bán còn ở phía sau , phía Tây đang mở rộng cửa. Mảnh sân được chia thành trước và sau.Tiền viện là nơi ở của đám nha hoàn hạ nhân, còn hậu viện là nơi nghỉ ngơi của chủ nhân và gia quyến. Linh cữu của lão chưởng quỹ được đặt ở đại sảnh của hậu viện. Sau khi bước vào linh đường, hai bên của linh đường được bày 1 loạt ghế thái sư. Những chiếc ghế này được chuẩn bị cho những người thân bằng cố hữu gần xa tới cúng tế.
Lúc này trong linh đường có mấy người phụ nữ còn đang đốt tiền vàng mã. Ở phía Tây có 1 đạo nhân trung niên đầu đội đạo quan, trên người bận đạo bào. Nghe được tiếng bước chân, y mở mắt nhìn thoáng qua Tôn Phụng Tiên và Tả Đăng Phong, sau đó nhắm mắt lại nhắm hai mắt lại để làm ra vẻ cao thâm.
Tả Đăng Phong trước đõ đã tới Mao Sơn mấy lần nên hắn cũng nhìn thấy trang phục của Mao sơn đạo nhân. Trang phục và kiểu tóc của vị đạo nhân này quả thực giống đạo sĩ Mao Sơn như đúc. Nhưng trên người y lại không có 1 chút tu vi linh khí nào nên Tả Đăng Phòng chỉ vừa mới vào cửa đã nhận ra y chỉ là 1 tên đạo sĩ giả mạo.Ngoài ra Tả Đăng Phong cũng từng theo Kim Châm làm pháp sự. Cho dù đích thân Kim Châm tới làm pháp sự thì y cũng chỉ thu nhiều lắm là 200 lượng vàng. Vị đạo trưởng này lại há mồm đòi tới 300 lượng vàng. Y quả thực ra giá có chút quá cao.
-Đạo trưởng là đạo nhân của phái nào?
Tả Đăng Phong đứng tựa vào quan tài rồi cười hỏi vị giả đạo sĩ này.
-Vô Lượng Thiên Tôn! Không dấu thí chủ, bần đạo là đạo nhân phái Mao Sơn đạo nhân.
Vị đạo sĩ giả này đã nói hớ ngay câu đầu tiên. Đạo sĩ không gọi những người tục gia là thí chủ mà chỉ có hòa thượng mới gọi như vậy.
-Dám hỏi đạo trưởng chưởng giáo của Mao Sơn là ai?
Tả Đăng Phong cũng không lập tức vạch mặt y vì hắn thấy được quần áo bên trong của vị đạo sĩ này cũng rách nát như giẻ lau. Cuộc sống thường ngày của y có lẽ cũng vô cùng đói kém.
-1 trong 5 Huyền môn thái đẩu -- Kim Châm chân nhân.
Vị đạo sĩ giả lại lòi đuôi cáo. Kim Châm là biệt hiệu của Đỗ Thu Đình, giống như Tàn Bào là biệt hiệu của Tả Đăng Phng vậy. Sau lưng y gọi như thế thì được, nhưng ngay trước mặt lại xưng hô như vậy thì rất vô phép, vi phạm lễ nghĩa của 1 người môn nhân với chưởng giáo.
-Dám hỏi cao thọ của đạo trưởng? ( Cao thọ dùng để hỏi tuổi của 1 người 1 cách trang trọng)
Tả Đăng Phong hỏi lại.
-43 năm có lẻ.
Sắc mặt của vị đạo sĩ giả mạo này tuy có vẻ trang nghiêm, nhưng y sơ hở chồng chất,ngay cả đạo lý " người tu đạo không được hỏi tuổi" cũng không biết.
("Đạo bất ngôn thọ" là 1 cấm kỵ của Đạo giáo. Dù là đạo sĩ xuất gia tu hành, ẩn cư sơn lâm hay tu đạo tại gia cũng rất kiêng kỵ chuyện mọi người hỏi han tuổi của mình. Tư tưởng nền tảng của Đạo giáo là truy cầu trường sinh bất lão, vì thế nên chẳng biết ngày nào tháng nào mới có thể đạt đạo thành tiên, cho nên khi nói chuyện với nhau, người ta cấm được hỏi ngày sinh tháng đẻ cùng tuổi tác của người tu đạo để tránh phạm huý. Ngoài ra còn có cấm kỵ " Đạo bất triều bái", có nghĩa là người tu đạo ngoại trừ việc quỳ lại trước linh cữu của cha mẹ và sư phụ ra thì cấm không được quỳ bái trước bất cứ 1 người đã chết nào khác vì tư tưởng của Đạo giáo là trọng sinh khinh tử, tránh né âm khí)
-Đạo trưởng! Ngài đường xa tới đây cũng không dễ dàng! Chủ nhân nơi này sẽ tặng ngài 10 đồng đại dương để cảm tạ.
Tả Đăng Phong bình tĩnh nói.
-Anh là người phương nào mà dám hoài nghi bần đạo! Bần đạo là đệ tử chính thống Mao sơn Mật tông.
Đạo sĩ giả mạo giận dữ đứng dậy nói.
-Tả chân nhân, ngài chắc chứ?
Tôn Phụng Tiên thấy thần sắc nghiêm túc của vị giả đạo sĩ bèn cảm thấy lo lắng vì sợ Tả Đăng Phong sẽ đổ oan cho y.
-Nhìn thấy chưa. Đây là kinh điển chính thống của Mao sơn chúng ta, chỉ có đệ tử chính tông như bần đạo mới có.
Vị đạo sĩ giả mạo móc ra từ trong ngực 1 quyển sách cũ nát ve vẩy trước mặt của Tả Đăng Phong .
-Người anh em,nghe khẩu âm của anh chắc hẳn anh là người Giang Tô. Anh đường xa tới đây nên tôi cũng khoog muốn vạch mặt anh , nhưng ngươi anh tự cho mình là thông minh đồng thời cho rằng người khác đều là kẻ ngu. Những thứ khác tôi không cần phải nói cho anh biết, chỉ nói tới chuyện người đời đều biết Mật tông và Hiển tông là 2 nhánh của Phật giáo thế mà anh lại đem cách phân chia của Phật giáo áp dụng lên đạo gia. Anh không sợ Tam Mao tổ sư hạ phàm kiếm chuyện với anh sao.
(Tam Mao tổ sư là xưng hô của Mao Doanh trong 3 anh em Mao Doanh, Mao Cố và Mao Trung đã chứng đạo thành tiên ở triều Hán, và cũng là tổ sư của phái Mao Sơn. Đạo giáo gọi họ là Đại Mao quân - Mao Doanh, Trung Mao quân -- Mao cố và Tam Mao quân-- Mao Doanh. Lực ảnh hưởng của họ trong Đạo giáo rất lớn.)
Tả Đăng Phong thuận miệng cười nói.
-Anh rốt cuộc là ai?
Vị đạo sĩ giả mạo lớn tiếng đặt câu hỏi.
-Tôi gọi Kim Châm một tiếng đại ca, ông ta cũng gọi tôi 1 tiếng người anh em.
Tả Đăng Phong xoay người bước ra ngoài.
-Người đâu, đưa hắn 10 đồng đại dương rồi tống cổ hắn đi. Còn nữa, canh gác nghiêm ngặt Tiểu Thúy cho ta.
Tôn Phụng Tiên hô lên với đám hạ nhân trong viện.
-Mày gọi anh xưng em với tên Hán gian! Mày cũng chẳng phải thứ tốt lành đâu.
Đạo sĩ giả mạo thấy sự tình bại lộ bắt đầu thở hổn hển chửi tục.
-Anh nói ai là hán gian?
Tả Đăng Phong lạnh lùng quay đầu nhìn y.
-Kim Châm là hán gian. Chuyện y giúp đám quỷ NB đã bị lộ,hiện nay có mười mấy môn phái đang thảo phạt phái Mao Sơn. Mày nếu thực sự là anh em của y sao lại không tới hỗ trợ?
Đạo sĩ giả mạo không nể nang gì nói.
-Lập tức nói ra tất cả những gì mà ngươi biết, nếu không ông đây giết ngươi!
Tả Đăng Phong đưa tay bóp chặt cổ đối phương!
Chuyến này có nguy nhưng không hiểm, thuận lợi lấy được nội đan của kim kê. Theo lý thì Tả Đăng Phong có lẽ phải vui mừng mới phải, nhưng thực tế thì hắn không thể nào vui cho nổi. Trận pháp do Khương Tử Nha bày ra quá mức huyền diệu, khó lòng chỉ dựa vào 1 góc này của trận pháp để suy đoán ra những góc khác.
Khi xuống núi, Tả Đăng Phong tạm thời nghỉ lại ở 1 thị trấn nằm dưới chân núi. Sau đó không lâu hắn dẫn theo 13 nhằm thẳng thành phố Hợp Phì - tỉnh An Huy. Nơi này là thủ phủ của giới thương buôn Huy Châu, mà Tả Đăng Phong thì cần phải bán đi 1 số thứ trong rương gỗ.
Sở dĩ gọi là "cửa ải cuối năm" ( cuối năm phải trang trải nợ nần) là vì người tá điền và người vay mượn tiền cần phải trả cho địa chủ và người cho vay địa tô và số tiền đã mượn trước cuối năm. Người ta cũng hay nói "cho dù đói kém liên miên, nộp tô trả nợ không quên hỡi người ! ", vì vậy mới gọi là "cửa ải cuối năm".
"Cửa ải cuối năm" đối với những bá tính nghèo khổ quả thực là ngày khốn khổ khốn nạn. Nhưng cho dù có khốn khổ thế nào thì năm cũ cũng sắp qua, chỉ còn vài ngày nữa là tới ngày "cửa ải cuối năm". Tiểu viện của đám nhà giàu giăng đèn kết hoan, hương vị của tết nhất cũng đã lan toả từ đầu làng đến cuối xóm.
Nhìn dòng người qua lại tấp nập trên đường, trong lòng Tả Đăng Phong dâng lên 1 cảm giác mất mác rất mãnh liệt. Những cô bé cậu bé còn nhỏ tuổi tay cầm theo xâu kẹo hồ lô cười tíu tít đuổi theo nhau cũng khiến Tả Đăng Phong lưu luyến không muốn rời đi. Nếu Vu Tâm Ngữ giờ vẫn còn sống thì chưa biết chừng hắn đã được làm cha rồi. Tả Đăng Phong tuy dằn được mình trước nữ sắc, nhưng hắn không thể dằn được bản năng làm cha ẩn dấu sâu thẳm trong lòng hắn. Khi gặp phải những đứa bé quần áo rách rưới, hắn đều đứng lại tặng cho mỗi đứa 1 đồng đại dương rồi sau đó nhìn chúng vui vẻ tíu tít chạy đi.
Tốc độ đi đường của Tả Đăng Phong cũng không nhanh. Phải 2 ngày sau hắn mới tới thành phố Hợp Phỉ - tỉnh An Huy,thủ phủ của giới thương buôn Huy Châu. Những quán cầm đồ vẫn mở cửa như thường lệ. Trên thực tế thì thời gian mỗi dịp "cửa ải cuối năm" là giai đoạn phát tài của họ.
Tả Đăng Phong tìm được một tiệm cầm đồ tên là " Kim Trạch Cửu Châu". Bảng hiệu của tiệm cầm đồ này nghe cũng khá kêu, có ý ban ân huệ tỏa khắp mọi chúng sinh. Nhưng quy mô của bọn họ quả thực rất lớn. Cửa tiệm này cao tới tầng lâu , được xây dựng bằng gỗ. Bốn phía đều có 3 cửa chính, dùng để tiếp đãi khách hàng từ giàu đến nghèo. Tả Đăng Phong không chút do dự đi vào cửa phía Đông.
Ở đây không có quầy hàng mà chỉ có một 1 cái bàn lớn dùng để tiếp đón khách hàng,và bốn cái ghế thái sư cùng 1 chiếc bàn hé ra bàn bát tiên. Ở phía Đông là 1 quản gia mắt đeo kính tay đang bận gẩy bàn tính. Bên trong còn có một cậu học việc còn non choẹt đang quét tước vệ sinh.
Tả Đăng Phong vừa vào cửa, vị quản gia đeo kính đã phát hiện ra hắn. Y đứng lên dặn dò cậu học việc:
-Quý khách tới cửa, mau mang trà Đại Hồng Bào lên mời khách.
-Đại Hồng Bào đắt ngang bạc trắng, nếu tôi không cầm đồ thì chẳng phải là ông lỗ vốn rồi sao?
Tả Đăng Phong đi tới đặt rương gỗ lên bàn bát tiên. Đại Hồng Bào vốn là đặc sản của vùng Phúc Kiến, thời xưa còn được xưng là "trà cống phẩm", giá cả đắt đến cắt cổ.
-Buôn bán không thành nhưng cái tình vẫn phải có. Dâng trà mời khách vốn là lễ tiết bắt buộc.
Lão quản gia để sổ sách sang 1 bên rồi tới kéo ghế cho Tả Đăng Phong ngồi. Sau khi nhìn thấy 13 cũng đi vào, lão khó tránh được sự ngạc nhiên. Sau khi trầm ngâm 1 hồi , lão tỏ ra giật mình, tay run run kéo ra 1 chiếc ghế khác.
-Khó trách việc làm ăn của các ông lại tốt như vậy, ông nhìn mấy thứ này rồi đánh giá xem giá trị của chúng ra sao.
Tả Đăng Phong ngồi xuống ghế thái sư rồi đưa tay mở ra rương gỗ. 13 thì nhảy xuống ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế còn lại rồi xoay người ngồi ngay ngắn.
-Không vội. Dám hỏi cao dánh quý tánh của quý khách?
Lão quản gia chắp tay vái khi hỏi, đồng thời cũng đưa mắt nhìn qua mấy thứ trong rương gỗ.
-Tả.
Tả Đăng Phong thuận miệng trả lời.
-Thứ cho lão hủ mắt kém,lúc trước lại không nhận ra Tả chân nhân.
Lão quản gia thở dài.
-Ông khách sáo quá! Tôi cũng không phải đạo sĩ.
Tả Đăng Phong xua tay nói. Lúc trước thái độ ngạc nhiên và đôi tay run run khi kéo ghế lúc lão quản gia nhìn thấy 13 đã chứng tỏ lão nhận ra được thân phận của hắn nên Tả Đăng Phong cũng không lấy làm bất ngờ. Cái tên "Tàn Bào" cùng với 5 vị Huyền Môn Thái Đẩu sớm đã được người đời biết tới.
Đúng lúc này, trà đã được đưa lên. Lão quản gia lập tức dặn dò cậu học việc đi đóng cửa lại, sau đó kêu thêm hai lão quản gia khác tới để phụ giúp việc kiểm kê đồ vật. Những đồ vật trong rương gỗ vốn rất tạp nham. Lúc trước khi ở trong cổ thành, Tả Đăng Phong cũng vơ vét được không ít thứ tốt; trong kim tháp hắn lại khoắng thêm 1 mớ. Mấy thứ đồ bằng vàng bạc kim khí hắn tặng cho Thiết Hài, những đồ vật bằng ngọn tinh xảo thì tặng cho Ngọc Phật, còn lại những thứ đồ linh tinh thì đang đặt ở trong rương gỗ.
Tả Đăng Phong ngồi trên ghế thái sư để nhấm nháp Đại Hồng Trà. Hắn vô cùng yên tâm giao việc kiểm kê và định giá của mấy thứ đồ vật này cho bọn họ vì hắn biết buôn bán rất trọng chữ tín. Chỉ có những thương buôn có tín nghĩa tốt mới được người ta tin cậy.
Đại Hồng Trà ngâm qua 3 lần nước thì cậu học việc tới đổi lá trà mời . Đang lúc cậu ta còn đang loay hoay đổi lá trà thì từ hậu đường đi tới 1 người thanh niên bận áo bào đi tới . Tuổi của người này cũng xấp xỉ Tả Đăng Phong. Mấy vị lão quản gia đang kiểm kê đống đồ vật của Tả Đăng Phong khi nhìn thấy y bèn đứng dậy hành lễ rồi lên tiếng:
-Thiếu đông gia.
-Bỉ nhân Tôn Phụng Hiếu! Sớm nghe đại danh của chân nhân, nay mới có duyên diện kiến, đúng là may mắn.
Người thanh niên nhân đi tới trước mặt của Tả Đăng Phong rồi khom người chắp tay thi lễ.
-Thiếu đông gia khách sáo quá.
Tả Đăng Phong vội xua tay cười nói. Trang phục trên người và cách ăn nói của người này cho thấy y là người được giáo dục theo phong cách truyền thống.
-Tất cả đồ vật do Tả chân nhân đem tới đều phải tính đúng giá, không được thu 20% tiền lãi.
Người thanh niên nói với mấy vị lão quản gia.
-Có việc muốn nhờ sao?
Tả Đăng Phong nhíu mày mở miệng.
-Chân nhân pháp nhãn như thần. Bỉ nhân không dám nói dối để che mắt ngài. Sớm nghe chân nhân pháp thuật cao thâm huyền bí, hôm nay sở dĩ bỉ nhân mạo muội mở lời quả thực có chuyện muốn nhờ.
Người thanh niên khẽ giọng nói.
-Nói nghe xem.
Tả Đăng Phong thuận miệng trả lời. Đại khái trước đó hắn đã thử tính toán. Mấy thứ này chí ít cũng đáng giá 3000 lượng vàng, 20% tiền lãi tức là 5,6 trăm lượng vàng, nhưng y lại không lấy 1 xu.
Người thanh niên thấy Tả Đăng Phong hoà hoãn như vậy bèn khẽ nói chuyện mà y muốn nhờ. Quả thực người thanh niên này là ông chủ ở đây. Mấy lão quản gia sở dĩ vẫn còn gọi y là thiếu đông gia bởi vì cha y chỉ mới chết được mấy hôm, nên trong thời gian ngắn mấy người họ còn chưa thay đổi được cách xưng hô. Thật ra thì chuyện cũng rất đơn giản. Lão chưởng quỹ ba ngày trước vì bệnh nặng mà chầu trời. Trong khi linh cữu được đặt ở linh đường chờ an táng thì tự dưng 1 nha hoàn trong phủ lại nói là bởi vì khi sinh thời, lão làm ăn thất đức, nên sau khi xuống âm phủ đã bị trừng phạt rất nặng, cần phải thỉnh đạo sĩ phái Mao Sơn tới lập đàn làm pháp sự giúp lão tiêu tai giải nạn. Đám con cháu tuy cũng cảm thấy nửa tin nửa ngờ, nhưng các cụ cũng có câu "thà rằng tin là có chứ không thể không tin" nên con cháu lão vội vàng sai người thỉnh tới 1 bị đạo sĩ phía Mao Sơn. Đạo sĩ mở miệng đòi tới 300 lượng vàng. Chút tiền ấy đối với Tôn gia mà nói cũng chỉ giống như sợi lông trên chín con trâu, nhưng Tôn Phụng Tiên vẫn luôn cảm thấy tên đạo sĩ này có vấn đề, cho nên y muốn thỉnh Tả Đăng Phong tới xem xét xem tên này có phải là Mao Sơn đạo sĩ thật hay là không.
-Người đó đang ở đâu?
Tả Đăng Phong nghe xong bèn mỉm cười gật đầu. Chuyện này y chỉ cần phẩy tay cái là xong, cũng chẳng phải là chuyện khó khăn gì.
-Đang ở linh đường của tiên phụ.Thật lòng thì đám con cháu giống như bỉ nhân được hưởng phúc ấm của tiên tổ, kế thừa gia nghiệp, dù bỏ ra 300 lượng vàng cũng không đáng làm phiền đến tiên giá của Tả chân nhân. Nhưng tiên phụ lúc sinh thời vốn là người hiền lành, lúc mở cửa làm ăn buôn bán chưa bao giờ ức hiếp 1 ai, lại còn xây cầu đắp đường, làm nhiều việc thiện. Nhưng nha hoàn này lại nói là tiên phụ lúc còn sống là người thất đức, mà tên đạo sĩ đó cũng dèm pha mấy câu. Y nói nếu để người ngoài biết được chuyện này, chuyện làm ăn của bổn tiệm bị thiệt hại cũng chỉ là chuyện nhỏ, làm nhục danh dự của tiên phụ mới là chuyện lớn.
Người thanh niên giải thích.
-Nhưng anh lo lắng có khi tên Mao sơn đạo sĩ kia là thật nên cũng không dám dại dột đi đắc tội với hắn. Vì thế anh mời nhờ tôi ra mặt để làm rõ thật giả.
Tả Đăng Phong cười nói.
-Chân nhân minh giám, quả thực là như vậy. Vị đạo nhân này cũng là do chúng tôi vô tình gặp ở trên đường chứ không phải là người được thỉnh tới từ Mao Sơn.
Người thanh niên nhân gật đầu nói.
-Anh dẫn tôi đi xem 1 chuyến.
Tả Đăng Phong buông chén trà đứng lên nhìn qua 13 rồi nói:
-Mày không cần đi, cứ đợi ở đây là được.
13 nghe vậy bèn gật đầu.
-Mau dâng trà cho tiên trưởng.
Tôn Phụng Tiên thấy vậy vội vàng dặn dò cậu học việc. Y chưa từng thấy con mèo nào lại biết gật đầu cả.
-Nó không uống trà, chỉ cần cho nó chút nước là được rồi.
Tả Đăng Phong nhấc tay tỏ ý bảo Tôn Phụng Tiên dẫn đường.
Một lát sau, hai người rời khỏi cửa hàng đi tới đại viện ở đằng sau. Đây là 1 mảnh sân trong rộng kinh người, phía trước là lầu cao dùng cho việc buôn bán còn ở phía sau , phía Tây đang mở rộng cửa. Mảnh sân được chia thành trước và sau.Tiền viện là nơi ở của đám nha hoàn hạ nhân, còn hậu viện là nơi nghỉ ngơi của chủ nhân và gia quyến. Linh cữu của lão chưởng quỹ được đặt ở đại sảnh của hậu viện. Sau khi bước vào linh đường, hai bên của linh đường được bày 1 loạt ghế thái sư. Những chiếc ghế này được chuẩn bị cho những người thân bằng cố hữu gần xa tới cúng tế.
Lúc này trong linh đường có mấy người phụ nữ còn đang đốt tiền vàng mã. Ở phía Tây có 1 đạo nhân trung niên đầu đội đạo quan, trên người bận đạo bào. Nghe được tiếng bước chân, y mở mắt nhìn thoáng qua Tôn Phụng Tiên và Tả Đăng Phong, sau đó nhắm mắt lại nhắm hai mắt lại để làm ra vẻ cao thâm.
Tả Đăng Phong trước đõ đã tới Mao Sơn mấy lần nên hắn cũng nhìn thấy trang phục của Mao sơn đạo nhân. Trang phục và kiểu tóc của vị đạo nhân này quả thực giống đạo sĩ Mao Sơn như đúc. Nhưng trên người y lại không có 1 chút tu vi linh khí nào nên Tả Đăng Phòng chỉ vừa mới vào cửa đã nhận ra y chỉ là 1 tên đạo sĩ giả mạo.Ngoài ra Tả Đăng Phong cũng từng theo Kim Châm làm pháp sự. Cho dù đích thân Kim Châm tới làm pháp sự thì y cũng chỉ thu nhiều lắm là 200 lượng vàng. Vị đạo trưởng này lại há mồm đòi tới 300 lượng vàng. Y quả thực ra giá có chút quá cao.
-Đạo trưởng là đạo nhân của phái nào?
Tả Đăng Phong đứng tựa vào quan tài rồi cười hỏi vị giả đạo sĩ này.
-Vô Lượng Thiên Tôn! Không dấu thí chủ, bần đạo là đạo nhân phái Mao Sơn đạo nhân.
Vị đạo sĩ giả này đã nói hớ ngay câu đầu tiên. Đạo sĩ không gọi những người tục gia là thí chủ mà chỉ có hòa thượng mới gọi như vậy.
-Dám hỏi đạo trưởng chưởng giáo của Mao Sơn là ai?
Tả Đăng Phong cũng không lập tức vạch mặt y vì hắn thấy được quần áo bên trong của vị đạo sĩ này cũng rách nát như giẻ lau. Cuộc sống thường ngày của y có lẽ cũng vô cùng đói kém.
-1 trong 5 Huyền môn thái đẩu -- Kim Châm chân nhân.
Vị đạo sĩ giả lại lòi đuôi cáo. Kim Châm là biệt hiệu của Đỗ Thu Đình, giống như Tàn Bào là biệt hiệu của Tả Đăng Phng vậy. Sau lưng y gọi như thế thì được, nhưng ngay trước mặt lại xưng hô như vậy thì rất vô phép, vi phạm lễ nghĩa của 1 người môn nhân với chưởng giáo.
-Dám hỏi cao thọ của đạo trưởng? ( Cao thọ dùng để hỏi tuổi của 1 người 1 cách trang trọng)
Tả Đăng Phong hỏi lại.
-43 năm có lẻ.
Sắc mặt của vị đạo sĩ giả mạo này tuy có vẻ trang nghiêm, nhưng y sơ hở chồng chất,ngay cả đạo lý " người tu đạo không được hỏi tuổi" cũng không biết.
("Đạo bất ngôn thọ" là 1 cấm kỵ của Đạo giáo. Dù là đạo sĩ xuất gia tu hành, ẩn cư sơn lâm hay tu đạo tại gia cũng rất kiêng kỵ chuyện mọi người hỏi han tuổi của mình. Tư tưởng nền tảng của Đạo giáo là truy cầu trường sinh bất lão, vì thế nên chẳng biết ngày nào tháng nào mới có thể đạt đạo thành tiên, cho nên khi nói chuyện với nhau, người ta cấm được hỏi ngày sinh tháng đẻ cùng tuổi tác của người tu đạo để tránh phạm huý. Ngoài ra còn có cấm kỵ " Đạo bất triều bái", có nghĩa là người tu đạo ngoại trừ việc quỳ lại trước linh cữu của cha mẹ và sư phụ ra thì cấm không được quỳ bái trước bất cứ 1 người đã chết nào khác vì tư tưởng của Đạo giáo là trọng sinh khinh tử, tránh né âm khí)
-Đạo trưởng! Ngài đường xa tới đây cũng không dễ dàng! Chủ nhân nơi này sẽ tặng ngài 10 đồng đại dương để cảm tạ.
Tả Đăng Phong bình tĩnh nói.
-Anh là người phương nào mà dám hoài nghi bần đạo! Bần đạo là đệ tử chính thống Mao sơn Mật tông.
Đạo sĩ giả mạo giận dữ đứng dậy nói.
-Tả chân nhân, ngài chắc chứ?
Tôn Phụng Tiên thấy thần sắc nghiêm túc của vị giả đạo sĩ bèn cảm thấy lo lắng vì sợ Tả Đăng Phong sẽ đổ oan cho y.
-Nhìn thấy chưa. Đây là kinh điển chính thống của Mao sơn chúng ta, chỉ có đệ tử chính tông như bần đạo mới có.
Vị đạo sĩ giả mạo móc ra từ trong ngực 1 quyển sách cũ nát ve vẩy trước mặt của Tả Đăng Phong .
-Người anh em,nghe khẩu âm của anh chắc hẳn anh là người Giang Tô. Anh đường xa tới đây nên tôi cũng khoog muốn vạch mặt anh , nhưng ngươi anh tự cho mình là thông minh đồng thời cho rằng người khác đều là kẻ ngu. Những thứ khác tôi không cần phải nói cho anh biết, chỉ nói tới chuyện người đời đều biết Mật tông và Hiển tông là 2 nhánh của Phật giáo thế mà anh lại đem cách phân chia của Phật giáo áp dụng lên đạo gia. Anh không sợ Tam Mao tổ sư hạ phàm kiếm chuyện với anh sao.
(Tam Mao tổ sư là xưng hô của Mao Doanh trong 3 anh em Mao Doanh, Mao Cố và Mao Trung đã chứng đạo thành tiên ở triều Hán, và cũng là tổ sư của phái Mao Sơn. Đạo giáo gọi họ là Đại Mao quân - Mao Doanh, Trung Mao quân -- Mao cố và Tam Mao quân-- Mao Doanh. Lực ảnh hưởng của họ trong Đạo giáo rất lớn.)
Tả Đăng Phong thuận miệng cười nói.
-Anh rốt cuộc là ai?
Vị đạo sĩ giả mạo lớn tiếng đặt câu hỏi.
-Tôi gọi Kim Châm một tiếng đại ca, ông ta cũng gọi tôi 1 tiếng người anh em.
Tả Đăng Phong xoay người bước ra ngoài.
-Người đâu, đưa hắn 10 đồng đại dương rồi tống cổ hắn đi. Còn nữa, canh gác nghiêm ngặt Tiểu Thúy cho ta.
Tôn Phụng Tiên hô lên với đám hạ nhân trong viện.
-Mày gọi anh xưng em với tên Hán gian! Mày cũng chẳng phải thứ tốt lành đâu.
Đạo sĩ giả mạo thấy sự tình bại lộ bắt đầu thở hổn hển chửi tục.
-Anh nói ai là hán gian?
Tả Đăng Phong lạnh lùng quay đầu nhìn y.
-Kim Châm là hán gian. Chuyện y giúp đám quỷ NB đã bị lộ,hiện nay có mười mấy môn phái đang thảo phạt phái Mao Sơn. Mày nếu thực sự là anh em của y sao lại không tới hỗ trợ?
Đạo sĩ giả mạo không nể nang gì nói.
-Lập tức nói ra tất cả những gì mà ngươi biết, nếu không ông đây giết ngươi!
Tả Đăng Phong đưa tay bóp chặt cổ đối phương!
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.