Chương 14: Sổ sinh tử những chuyện hoang đường
Loan Bảo Quần
21/10/2014
Phần 1
Còn nhớ hồi nhỏ khi xem Tây du ký, tôi từng rất tiếc nuối, không phải vì Tôn Ngộ Không không ngồi trên Bảo điện Linh Tiêu, mà là vì lão Tôn đã đại náo Bảo điện Sâm La, khi đánh dấu vào quyển sổ sinh tử, trong lòng tôi chỉ nghĩ đến nhân vật lớn nổi tiếng bên trong con khỉ, “cửu u thập loại tận trừ danh”[1], nhưng loài người chúng ta lại không có trong số đó. Hóa ra con khỉ này chẳng qua cũng là kẻ chỉ biết đến mình mà thôi! Thế là, nghĩ đến việc mình khó có thể xuống điện Sâm La một lần, tôi liền có chút không phục trước hành động tạo phản kinh thiên động địa đó của Tôn Ngộ Không.
[1] Nghĩa là: tất cả chín âm phủ và mười loài (năm loài tiên, năm loài côn trùng) đều gạch hết tên.
Tôi cứ khăng khăng suy nghĩ đó của mình trong nhiều năm, cho đến những năm 60 của thế kỷ trước, sau khi được lĩnh giáo về những thủ đoạn của sổ sinh tử do con người tạo ra tôi mới chợt sực tỉnh. Từ đó tôi hiểu được rằng “sau con người chưa chắc phải là ma quỷ, sau ma quỷ chắc chắn là con người”. Gọi là sổ sinh tử, hóa ra vẫn là nằm trong tay con người. Vậy có cần thiết phải bàn tới sổ sinh tử trong giới âm phủ nữa không? Không dám nói là cần thiết, nhưng nói qua một chút cũng không vấn đề gì, bởi từ đó ít nhiều cũng hiểu được chút ít về thời đại đó trong quá khứ. Chỉ là nói cho nặng nề, hơn nữa còn lạc điệu nhảy lời, không như những bài văn sử dụng ngôn từ chính xác, nghiêm túc, tôi tự đề cử dùng từ “chất giọng hoang dã” đi!
1
Nói nghiêm túc thì sổ sinh tử chỉ là một loại sổ sách dưới âm phủ. Sổ sách dưới âm phủ, ngoài việc ghi chép giới hạn tuổi thọ của con người ra, những quyển sổ liên quan đến vấn đề “nhân sự” (loài người chúng ta cũng chỉ qua được “bản thân mình”, còn những cái khác thôi thì tùy chúng mà thôi) còn có rất nhiều loại, chỉ nói về những quyển quan trọng đã có tài liệu chuẩn bị án, sổ lợi lộc, sổ công danh, sổ ghi chép thiện ác, sổ ghi thành tích và thiếu sót, còn có danh bạ bắt bớ linh hồn, sổ đăng nhập hộ tịch cho quỷ đã chết… và tên gọi cũng có nhiều như “sổ, bạ, lục, tịch”. Nhưng xét đến cùng, điểm chủ yếu trong những thứ này sẽ không tách nổi hai chữ “sinh - tử” liên quan đến các sinh linh và ma quỷ. Vì thế, khi nhìn thấy quyển sổ trong tay tên phán quan trong Thập Vương đồ, dù ông ta đang lật giở tìm cái gì đi nữa, hoặc dù nó có được gọi là “sổ sinh tử” đi nữa thì cũng chẳng có sai sót gì lớn.
Trong văn hóa Trung Hoa, thực sự có không ít những thứ khiến người ta tự hào. Việc sáng lập ra chế độ sổ sách của quan phủ từ rất sớm và rất hoàn thiện chính là một trong những việc khiến ta tự hào. Lưu Bang tiến vào biên giới, tấn công Hàm Dương, các tướng tranh thủ lấy vàng bạc, Tiêu Hà “một mình vào lấy quyển sách về pháp lệnh của Tần thừa tướng và phủ ngự sử cất giấu”, vì thế ông biết tất cả những nguy hiểm, những ách tắc và điểm mạnh yếu về lực lượng người trong thiên hạ. Đời sau có người thốt lên rằng, Tần Thủy Hoàng đốt sách diệt Nho, nhưng chưa hoàn toàn muốn diệt chúng, trong tay các vị tiến sĩ đều có giữ bản sao, vậy tại sao lúc đó Tiêu Hà không mau chóng cứu chúng ra? Kết quả Bá Vương Tây Sở lại đến nhóm cho Hàm Dương một mồi lửa, thiêu rụi tất cả những quyển sách quý ấy, từ đó tạo thêm việc cho các nho sinh, có người đi thu nhặt những chương sách bị cháy, sau đó tìm các bậc cao nhân nhờ chỉ dạy, có người lợi dụng thời cơ làm giả sách Nho rồi quát với giá cao, có người tìm chứng cứ hòng để lộ ra chân tướng khiến người kia không đường trốn thoát. Thực ra, những vị nho sinh này đã bận rộn một cách uổng phí, lẽ nào họ không biết những yếu điểm và những vấn đề về mặt con người đã là tiền đề quan trong để chiếm cứ thiên hạ? Mọt sách không thấy được cái lớn, họ luôn luôn là vậy, vì thế họ chỉ xứng với việc lột bỏ mũ áo, giúp đại anh hùng hứng nước tiểu mà thôi.
Cũng với lý lẽ đó, muốn thống trị và quản lý người sống cũng như ma quỷ, âm phủ bắt buộc phải có một quyển sổ sinh tử. Từ kết quả của cuộc đại náo Diêm phủ của Tôn Hành Giả có thể thấy được, nếu Diêm phủ không có được quyển sổ sinh tử của Mỹ Hầu Vương thì cũng đồng nghĩa với việc họ đã mất quyền thống trị đối với đối phương. Sổ sinh tử chính là linh hồn của Diêm phủ, những kẻ làm quan dưới đó chẳng qua chỉ là những nhân viên ma quỷ dùng pháp luật âm ti để quản lý quyển sổ mà thôi. Mà nội dung quan trọng nhất trong quyển sổ sinh tử đó chính là ghi lại những chuyện “thiện và ác” thường ngày của con người. Trong thế giới loài người, dù là túi hồ sơ của bộ phận nhân sự, hay tài liệu đen của cơ quan đặc vụ, quyển sổ chi tiêu ghi chép rõ ràng, chỉ chờ cơ hội để quyết toán, vẫn có một số thiếu sót trong mỗi nha môn, nhưng tất cả các đạo đức gia đều chất chứa trong mình chủ ý xấu xa muốn trừng trị người khác, vì thế họ đều cung cấp những bản phác về quyển sổ thiện ác này. Theo truyền thống bản địa của Trung Quốc, “trong trời đất có phúc, thiện, họa, dâm”, tuổi thọ của con người ngắn hay dài, gia tộc hưng hay suy, đều do kết quả thống kê trong quyển sổ thiện và ác quyết định. Còn một cách nói khác có lẽ được truyền đến từ văn hóa Tây phương (Ấn Độ), nói rằng, tuổi thọ của con người dài hay ngắn là do nghiệp báo của thế hệ trước để lại, nó không chịu ảnh hưởng của việc người đó làm việc thiện hay ác ở kiếp này, nhưng cái thiện và cái ác ở kiếp này sẽ là căn cứ quả báo dành cho kiếp sau, sổ thiện ác có thể nói luôn được phát hành trong tình trạng cung không đủ cầu.
Vì thế, sổ âm phủ tuy có nhiều loại, nhưng xét từ góc độ “kết toán”, nó chỉ được phân làm hai loại lớn, không thể đặt tên cho chúng được, chỉ có thể gọi chúng là hai phái thời gian và không gian.
Phái “không gian”, tuổi thọ của mỗi người giống như một căn phòng trống, đợi đến khi mà số tội của anh ta phạm phải trong thế giới loài người đủ để lấp đầy căn phòng đó, gọi là “tội ác tày trời”, thì có nghĩa là đã đến lúc anh ta phải từ giã cõi trần. Nhưng có thể nhìn nhận từ một góc độ khác, tuổi thọ của con người cũng giống như một bó thẻ bài, mỗi lần phạm tội, người ta sẽ căn cứ vào sự lớn nhỏ của tội ác để rút ra một ít. Đây gọi là “tính phép trừ”, đợi đến khi số thẻ là 0 thì coi như phép tính đã được tính xong. Nhưng nếu anh làm việc thiện thì sao? Vậy thì anh có thể “tăng tuổi thọ”, người ta sẽ bổ sung thêm cho anh những thẻ bài khác. Việc này có vẻ rất công bằng, nhưng cũng không hẳn vậy, có người làm vô số những việc thất đức đến mức không kể hết, nhưng họ vẫn sống rất tự tại, còn có người vừa mới sinh, chỉ mới khóc có vài tiếng, cùng lắm là tiếng khóc của họ đã gây ảnh hưởng đến môi trường một chút, nhưng đột nhiên ngừng thở, tuổi thọ của anh đến đây chấm dứt. Việc này thực sự khó mà nói rõ được, nếu muốn giải thích, có lẽ chỉ có thể nói mỗi một “căn phòng” có độ to nhỏ không giống nhau, số thẻ trong từng bó có bó ít có bó nhiều chăng? Nhưng dù thế nào đi nữa, theo quan điểm của phái này, tuổi thọ của con người dài hay ngắn chí ít có thể do bản thân mình quyết định một phần, đó là nên làm nhiều việc tốt, ít làm chuyện thất đức.
Phái “thời gian” cho rằng, tuổi thọ của con người dài hay ngắn là do trời định, con người không thể thay đổi nó. Một người nào đó phạm tội ở dương gian, âm ti chỉ lo việc ghi vào sổ, còn khoản nợ phải đợi đến sau thu mới giải quyết. Cũng có nghĩa là, cho dù người ta có đốt sách diệt Nho như Tần Thủy Hoàng, giết hại người trung thành, lương thiện như Tần Hội, thì họ vẫn được sống rất thoải mái, cho đến khi trời phán rằng “đại hạn” đã đến rồi, lúc đó họ mới phải đến gặp Diêm La Vương để tính toán tổng số nợ, và tất cả mọi sự quả báo hoặc là sẽ xuống địa ngục, hoặc là đổ lên đầu con cháu đời sau, tóm lại là không ai cho họ nhìn thấy quả báo của mình. Cũng với lý lẽ đó, kiếp này chúng ta làm nhiều việc tốt cũng chỉ là uổng phí công sức mà thôi, bởi họa, phúc, thọ, yểu của kiếp này đã được định sẵn rồi, anh chỉ có thể tích đức để đời sau của mình hưởng nó mà thôi. Trước kia, chiếc cột chính trong miếu Thành Hoàng có treo một chiếc mâm lớn rộng khoảng một trượng, có nơi phía trên còn viết năm chữ lớn: “Cậu cũng đến rồi à!”, khiến người đọc nó vô cùng sửng sốt. Chữ “cậu” vốn dùng để gọi linh hồn của người đã chết, nhưng thực tế là để cho người sống xem, ý nói bạn là anh hùng một thời, đã xưng bá tại một nước hay một con ngõ nào đó, nhưng cuối cùng cũng khó mà thoát khỏi cái chết. Anh hùng xem xong cũng chỉ cười một tiếng, làm sao biết sau khi chết mình có phải tính toán nợ nần hay không, ngay lúc này tôi còn có thể tháo dỡ cái miếu Thành Hoàng này ấy chứ!
Tóm lại, một phái giống như đánh bóng chuyền, thua hết điểm thì ra ngoài sân, một phái lại giống như đánh bóng rổ, lấy thời gian làm thước đo, có thể thua trong sự thoải mái hân hoan. Lẽ tất nhiên hai phái này có thể tìm ra một vài điểm có sự giao thoa giữa Trung Quốc và nước ngoài, giữa Đạo giáo và Phật giáo, cũng có thể nhận ra điểm không dung hòa giữa chúng, nhưng giữa chúng lại chưa từng xảy ra xung đột tranh chấp, hơn nữa còn có thể hỗ trợ lẫn nhau, bổ sung cho nhau, mặt trời mặt trăng phối hợp với nhau khá ăn ý. Lúc thì giáo dục người dân chỉ cần làm nhiều việc thiện, ắt sẽ được thiện giả thiện báo, lúc lại biện giải cho đám thân sĩ giàu có kia tuy làm nhiều việc ác, nhưng chưa chắc đã gặp ác giả ác báo. Và tất nhiên, hai bên cùng vui, hòa thuận với nhau chắc chắn là kết quả cuối cùng. Vì thế hai trường phái này nhìn có vẻ như tương phản, nhưng thực chất lại là người hai mặt, cứ thay đổi cách nhìn nhận trong bộ não của mình để tồn tại suốt hàng nghìn năm nay.
2
Sổ sách âm phủ lớn nhất Trung Quốc có vẻ như thuộc về phái không gian.
“Thổ phủ” - xuất hiện vào khoảng thời Đông Hán, có lẽ là Diêm Phủ chính thức, tương đối độc lập với thiên đình sớm nhất Trung Quốc. Nó được xây dựng dựa trên cơ sở “quyển sổ thiện ác”. Tác phẩm kinh điển thời kỳ đầu của Đạo giáo là Kinh Thái Bình, chương Canh bộ chi bát trong đó nói rằng, sự khống chế của Thiên đế đối với cuộc đời của con người thông qua những hành vi và lời nói thường ngày của họ được ghi lại trong “sổ thiện ác, một khi đã gây ra tội ác tày đình thì linh hồn của người đó sẽ được giao cho “Địa thần” trong “quỷ môn”, do Địa thần thẩm vấn, dùng hình, sau đó lại được giao cho “Mệnh tào” đối chiếu giữa tuổi thọ và tội ác của người này, nếu những hành vi tội ác của người này đã sát tận với tuổi thọ, thì hẳn người này đã đến lúc “vào đất”, hơn nữa ác nghiệt của hắn sẽ ảnh hưởng đến thế hệ sau, đây chính là mục chú giải “gia đình tích phúc, con cháu được nhờ, không biết tích phúc, họa chờ đời sau” của Nho gia.
Nhưng theo tác phẩm kinh điển của Nho gia có nói, nếu không phải là những tội ác thật nghiêm trọng, thì hình như tội ác đó không ảnh hưởng đến con cháu sau này. Cái gọi là “đại tội có năm loại, trong đó giết người không thuộc đại tội” (Đại đới lễ ký - Chương Bản mệnh), ngoài những tội nghịch với luân lý lẽ trời sẽ ảnh hưởng đến thế hệ sau thì tội giết người chẳng qua cũng chỉ “báo ứng với bản thân” mà thôi, nó tuyệt đối không liên lụy đến con cháu sau này. Xét sơ qua, tầng lớp thống trị thời cổ đại vẫn còn khá tử tế. Nhưng nếu nghĩ kỹ lại thấy họ vô cùng đáng sợ, cái gọi là nghịch với lẽ trời, nghịch với đạo làm người, vu cáo quỷ thần…tất cả không phải tội lỗi về mặt tư tưởng sao? Tội tư tưởng nếu muốn xử thì hai đời đến năm đời cũng chưa thích đáng, trên thì đào mộ tổ, dưới thì giết hại con cháu, nếu đem so sánh thì tội phóng hỏa giết người chỉ là tội nhẹ do “một chút sơ suất” thôi ư? Đến đây mới khiến tôi hiểu ra rằng, tại sao phạm vi liên lụy của ngục Văn tự trong lịch sử lại mênh mông bát ngát đến vậy, còn những tai nạn nghiêm trọng liên lụy năm đời, ảnh hưởng chín tộc đem gắn với hai chữ “văn hóa” thì quả là không sát thực chút nào.
Đến Canh bộ chi thập, ngoài Thổ phủ ra, tác phẩm còn nhắc tới các âm cung khác, mỗi đợt đông chí đến cần thu thập tất cả các quyển “sổ câu hiệu” dân thường khắp thiên hạ. “Câu” là bắt giữ, “hiệu” là tra hỏi, “sổ câu hiệu” chính là sổ dùng để ghi chép những tội ác có lệnh bắt của dân thường. Lúc này, tất cả những vị thần tiên được thờ cúng trong thiên hạ đều phải báo cáo mọi thông tin lên trên, các vị thần gia đình hằng ngày phụ trách việc giám sát những lời nói, cử chỉ của người dân, mỗi tháng đều phải tập hợp một lần, lúc đó đương nhiên cũng phải trình báo theo quy định. Sau đó “Thái âm pháp tào” sẽ tiến hành thống kê, đối chiếu, rồi triệu “Thần địa âm” và “Thổ phủ”, hai đối tượng này sẽ phụ trách bắt và thẩm vấn. Trình tự này nghe thì rất đáng sợ, nhưng đối với những người dân đã quen chịu gõ đầu, bóc lột, những cái đó chẳng qua cũng chỉ cần dùng một câu để ứng phó: “Cùng lắm là chết chứ gì!”
Nhưng điều không ngờ rằng, chỉ với vài thảo dân mà cũng cần nhiều sơn hải chư thần và thần nhà cùng lúc hầu hạ như vậy, tự ghi chép những hành vi cử chỉ cho mình có lẽ cũng chẳng phải việc gì phiền phức. Vì thế sau này họ đã đơn giản hóa cơ cấu nghiệp vụ này, người chuyên chức phụ trách công việc này chính là “tam thi”[2] - điều mà các đạo sĩ quan tâm. (Còn ông Táo - người mà các hộ dân không muốn rời xa lại kiêm nhận chức trách đó, có lẽ bởi ông Táo quá hiểu tính cách của con người, dễ bị những người dân thường mua chuộc, trở thành người không đáng tin cậy trong mắt ông trời chăng?) Thần tam thi ẩn nấp trong cơ thể con người, cứ sáu mươi ngày một lần, vào ngày Canh Thân ông lại lén lút thoát ra ngoài báo cáo với đặc vụ. Theo cách nói những người tu đạo luôn lấy việc hành đức làm cốt lõi, thì họ vốn không cần lo lắng vì những điều được báo cáo này, nhưng vì muốn nhanh chóng thoát khỏi sự trói buộc trong hình dáng một con người, để sống một cuộc sống tiêu diêu thoải mái, thần tam thi lại vui mừng khi khiến những người này chết sớm, vì thế nhất định ông phải bịa ra thứ gì đó không có thật. Còn những kẻ tu đạo cũng có chủ ý của riêng mình, cứ đến ngày Canh Thân họ lại thức trắng đêm không ngủ, khiến tam thi không có cơ hội chuồn ra bên ngoài, cứ như vậy, cuối cùng họ thức đến mức “thần tam thi lồng lộn lên” (mượn từ ngữ trong tiểu thuyết, lại không tương xứng với ý nghĩa câu “giận dữ xung thiên”), cuối cùng tức mà chết, vị lão đạo này sau này không thành tiên, chỉ thành tinh mà thôi.
[2] Tam thi: ba xác chết
Từ đó có thể nhận ra, sổ âm phủ của phái không gian hóa ra lại có nguồn gốc sâu xa với Đạo giáo bản địa Trung Quốc, vì thế họ trích ra từ Kinh Thái Bình cũng là việc hết sức đương nhiên. Dùng biện pháp mềm mỏng để đối phó với mật thám, có thể gọi đó là tinh túy trong chiến thuật của Lão Tử, chưa bắt đầu thì chưa ảnh hưởng đến đời sau. Nhưng quyển sổ thiện ác đó lại hoàn toàn trùng khớp với nguyện vọng của các bậc chính nhân quân tử sau này, họ có bổ sung thêm phần thiếu sót “trong quan phủ ở dương gian không có điều lệ ghi chép lại công danh và sai sót của con người”, đối với những người dân thường mà nói, họ không thể chỉ nói “cùng lắm là chết chứ gì?” là có thể ứng phó được với quá khứ.
Gần đến triều Hán Ngụy, tăng lữ Phật giáo Tây phương liên tiếp tới Trung Quốc vài lần, tuy họ vẫn chưa thể tự do truyền giáo vào đời sống của người dân Trung Quốc, nhưng những tác phẩm kinh điển của Phật giáo đã bắt đầu được dịch sang tiếng Hán, trong đó quan điểm ở âm phủ đã có địa ngục (tám địa ngục lửa, tám địa ngục băng) dưới ngọn núi Thiết Vi lớn. Nhưng khi họ biên dịch, với một chút lơ là đã tạo ra từ “địa ngục Thái Sơn”, Thái Sơn vốn có nghĩa là một ngọn núi khổng lồ, chính là chỉ ngọn núi Thiết Vi kia. Nhưng các vị hòa thượng Tây phương chưa từng nghĩ tới sẽ sang núi Đông Nhạc để vẫn có thể viết được Thái Sơn, càng không nghĩ địa ngục Thái Sơn của mình bị con rắn Địa đầu lấy đi mất, sau khi thay đổi một chút đã biến thành đồ của người ta. Hóa ra, tôn giáo bản địa của Trung Quốc lúc bấy giờ cũng đang trong giai đoạn phát triển, Trương Lỗ - đệ tử của Ngũ Đấu Mễ đạo[3] gần như đã hợp nhất giữa chính trị và tôn giáo, đại anh hùng Tào Mạnh Đức cảm thấy đó không phải là một việc tốt, nên sau khi bình định Hán Trung, ông bèn “Võ Ngụy cung roi” dồn tất cả phương sĩ khắp nơi rầm rộ tiến về kinh thành trong phạm vi thế lực của mình, sử dụng hình thức chăm nuôi để nhốt họ lại. Những phương sĩ sống tản cư bên ngoài sau khi vào đến những đô thị lớn, họ có cơ hội để giao lưu với đủ các loại người, và thời bấy giờ hòa thượng cũng là một loại phương sĩ. Tôi đoán rằng, vào lúc này, “địa ngục Thái Sơn” của Phật giáo đã bị các phương sĩ địa phương “vay mượn” thành “Thái Sơn Phủ Quân” mang cái mác MADE IN CHINA. Ông Tiền Trọng Thư nói: “Từ lúc ngựa trắng chở kinh về, Thái Sơn càng trở thành một cái tên khác của địa ngục”. Thái Sơn từ một ngọn núi thần tiên biến thành quỷ phủ, đó là việc xảy ra sau khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, và lúc đó quyển sổ âm phủ trong nha môn Thái Sơn Phủ Quân bắt đầu xuất hiện phái thời gian. Dưới đây là câu chuyện sau khi Thái Sơn Phủ Quân nắm giữ âm phủ:
Năm Kiến An, triều vua Hán Hiến Đế, tại Nam Dương có người trên Giả Ngẫu, tự là Văn Hợp do mắc bệnh mà chết. Khi chết, có viên quan nhỏ cầm một chiếu chỉ của Thái Sơn tới. Những người trùng tên Văn Hợp có tất cả mười người cả nam lẫn nữ, quan tư mệnh kiểm tra kỹ lại, rồi nói với quan hành sự rằng: “Nay muốn triệu Văn Hợp tới, làm thế nào để triệu được người này? Hãy mau chóng trả hắn về dương gian.” (“Sưu thần ký” quyển hai mươi mốt.)
[3] Ngũ Đấu Mễ đạo: nghĩa là “ đạo Năm Đấu Gạo”, cũng gọi là Thiên Sư đạo, là một giáo phái ra đời trong giai đoạn đầu của đạo giáo, tức cuối đời Đông Hán (25-220) trong lịch sử Trung Quốc, do Trương Lăng (34-156) sáng lập.
Diêm phủ đã bắt nhầm người, khiến người ta phải chết oan, người không nên chết thì đã chết, còn người nên chết thì vẫn sống. Hãy quay lại xem quá trình bắt bớ trong Kinh Thái Bình, có thể thấy khi lấy căn cứ là quyển sổ thiện ác thì việc bắt bớ sẽ không được thực hiện một cách dễ dàng. Nhưng nếu chỉ nhìn vào tên của những người đã hết hạn sống trong sổ thiện ác hiện nay, trường hợp trùng tên là rất nhiều, phải tra thêm hộ tịch, nhưng thi thoảng cũng xảy ra sơ suất, để rồi bắt những người không liên can tới Diêm phủ. Nhưng theo quy định nghiêm ngặt của phái thời gian, nếu người này chưa đến hạn chết, thì Diêm phủ không thể bắt bớ linh hồn của anh ta, nhưng giống như những tên quan phủ trên dương gian, họ không bao giờ chịu nhận lỗi về mình, đã s ai thì cho sai luôn, hoặc giống như Đào Cương, triều Lý đã bắt nhầm nhưng vẫn bị Diêm phủ giữ lại linh hồn, điều đó là không thể được. Nếu đã không thể giữ được linh hồn người đó, vậy chỉ còn cách đưa họ trở về dương gian, nếu không người bị bắt nhầm sẽ trở thành linh hồn lưu lạc không nơi trú thân, để rồi biến thành kẻ trụy lạc chết thảm trong cô đơn, từ đó quay lại quấy phá hai giới âm dương, đó cũng là sự việc khiến người ta hết sức đau đầu. (Sau này, vấn đề này đã có một cách giải quyết thích hợp, đó là thiết kế một nơi thu nhận hoặc tập trung tất cả linh hồn chết oan lang thang, điều này sẽ được bàn tới trong chương khác.)
Vị Giả Văn Hợp này vẫn được coi là may mắn, khi quan tư mệnh tới đón nhận linh hồn mới phát hiện ra có trên mười trường hợp trùng tên. Sau khi rà soát kỹ càng, quả nhiên có sai sót, chỉ còn một cách đó là mau chóng thả linh hồn người này trở về dương gian. Trên đường trở về dương gian, Giả Văn Hợp gặp một người phụ nữ cũng bị bắt nhầm rồi được thả về. Nhưng thế giới âm phủ hỗn loạn, thời gian gấp gáp, dù là một người phụ nữ yếu đuối nhưng mấy tên nha dịch cõi âm vẫn mạnh tay mạnh chân quẳng hai linh hồn trở về dương gian rồi nhanh chóng biến mất. Trên con đường u tối của thế giới âm phủ, cô gái gặp rất nhiều khó khăn, cũng may gặp được chàng thanh niên Giả Văn Hợp, hai người giúp đỡ nhau trên suốt chặng đường, cuối cùng cả hai cũng tìm về được với dương gian, đồng thời họ tạo nên một mối nhân duyên hạnh phúc, khiến người ta hiểu ra rằng, hóa ra việc tốt luôn xuất hiện từ những việc không may, khi tổ chức lễ thành hôn đừng quên mang kẹo cưới gửi tặng anh lính sai đã bắt nhầm hai người tới âm phủ nhé!
3
Từ thời Hán - Ngụy đến nay, những câu chuyện “bắt nhầm - trả về” nơi cõi âm xảy ra quá nhiều, có thể nói đó là một loại lớn trong các loại chuyện về thế giới âm phủ. Tuy rằng trong những yếu tố tạo nên loại hình này không thể thiếu quyển sổ sinh tử. Nhưng điểm quan trọng của câu chuyện không phải ở chỗ muốn chứng tỏ quyền uy của sổ sinh tử, cũng không phải để tạo nên những câu chuyện tốt đẹp như của chàng trai Giả Văn Hợp và cô nương Đỗ Lệ. Loại chuyện này sở dĩ được nhắc đến nhiều lần, được các tín đồ Phật giáo không ngừng tuyên truyền, giảng giải, đó là vì nó có nhắc tới tình tiết tham quan địa ngục. Đã bắt nhầm, theo lý phải trả người về, nhưng Diêm Vương còn đảm nhiệm công tác bộ trưởng bộ tuyên truyền trong thế giới âm phủ, thế là ông không để cho người đó uổng phí một lần đến đây. Diêm Vương cử người dẫn họ đi tham quan tất cả mười tám địa ngục, hơn nữa không biết ông đã giở trò gì mà bình thường sau cơn mơ, người ta sẽ quên gần hết những điều đã xảy ra trong đó, nhưng ở đây, những người này sau khi trở lại dương gian, họ có thể viết ra những bài bút ký thực sự sinh động về quá trình tham quan địa ngục.
Nhưng những câu chuyện lấy sổ sinh tử và thuyết định mệnh làm chủ đề cũng không ít, đó là những câu chuyện kể quan âm phủ cầm quyển sổ sinh tử tới chiến trường để điểm danh những binh lính đã hi sinh.
Đây cũng chính là chủ đề chính của các câu chuyện về cõi âm có sức sống từ hàng ngàn năm nay. Câu chuyện sớm nhất xuất hiện trong Bác dị chí của Cốc Thần Tử, người thời Đường và Hà Đông ký của Tiết Ngư Tư, còn đến cuối triều Thanh, những chuyện như thế này vẫn được người ta đón nhận một cách thích thú. Bác dị chí kể về Bình hoắc tây Ngô Nguyên Tế năm Nguyên Hòa thứ mười hai, triều vua Đường Hiến Tông. Khi Triệu Xương Thời trở thành phó tướng của Ngô Nguyên Tế, ông cùng với Lý Tố chiến đấu tại thành Thanh Lăng, rồi bị trúng đao từ phía sau, ông ngã xuống từ trên lưng ngựa mà chết. Vào khoảng bốn giờ sáng, ông bỗng như vừa bừng tỉnh khỏi giấc mộng, nghe thấy bên ngoài tiếng tướng lính đang điểm danh duyệt binh, hô đến tên của ai, người đó dõng dạc lên tiếng đáp lời. Cứ như vậy họ đã điểm danh cả hơn nghìn người. Triệu Xương Thời chú ý lắng nghe, nhưng đến khi công việc điểm danh hoàn tất, vẫn không nghe thấy ai điểm danh tên mình. Trời chuyển sáng, người điểm danh đã không còn ở đó nữa, Triệu Xương Thời băn khoăn ngồi dậy, ông nhìn những xác chết xung quanh mình, tất cả đều là những người được đọc tên lúc đêm qua, giờ đây ông mới biết hóa ra là đêm qua quan âm phủ điểm duyệt, những chiến sĩ chết nơi trận mạc đều là định mệnh cả.
Chủ đề của câu chuyện chính là “định mệnh”. Nhưng nếu người đã chết, thì quan âm phủ chỉ cần điểm tên của linh hồn là được rồi, sao còn phải đối chiếu với những thi thể đã chết? Trừ phi những hồn ma của binh lính cũng cần tập hợp xếp hàng rồi bắt đầu đi duyệt binh? Lý do đó dường như không được hợp lý thì phải, nhưng trong buổi điểm danh đêm qua, giọng đáp lời của những binh lính đã chết tạo nên một không khí rất ghê rợn, đó chính xác là một thành công trong việc sáng tác những câu chuyện ma. Nó xứng đáng liệt vào danh sách những đề tài khủng bố đến dựng tóc gáy như xác chết di động, linh hồn quay lại, hồn ma hàm oan… Bởi thế, những thế hệ sau sẽ không thấy chán khi lặp lại chúng, và thỉnh thoảng họ cũng cho thêm những nguyên liệu mới mẻ vào trong câu chuyện. Thế là “chỉ cần hô gọi họ tên, xác chết lập tức đứng dậy đáp lời” (chương Vương Tuyên Trạch mượn binh, quyển mười, cuốn Di kiên chí bổ của Hồng Mại thời Nam Tống), khi được gọi đến tên, người đó đã là một xác chết cương cứng, chỉ có thể nhảy lên theo chiều thẳng đứng miệng hô “có”, sau đó lại “phịch” một tiếng đổ thẳng xuống đất. Dưới ánh trăng ảm đạm, hàng nghìn xác chết cứ làm đi làm lại như thế, đó là cảnh tượng “đêm người chết sống lại” khiến người ta chỉ cần nghĩ tới đã thấy dựng tóc gáy. Nhưng dường như chúng vẫn để lại những điểm có thể tiếp tục phát huy, để rồi đến đầu đời Thanh, trong tác phẩm Thục Bích lại yêu cầu “sau mỗi một tiếng điểm danh, người chết liền xách đầu mình đứng dậy”. Các vị tú tài, các cử nhân lũ lượt kéo đến trường thi, họ biết rõ việc kiểm tra xác định nhân thân là tất yếu, vì thế họ cho rằng trong sổ sách âm phủ cũng nên có điều khoản “tuổi tác - hình dáng”, chẳng hạn như người chết nếu không xách chiếc đầu lâu “lấm lem máu” của mình sẽ dễ dàng bị cho là mạo nhận tên tuổi. Ngay cả các bộ phim khủng bố nhất như Xác chết di động cũng không thể so sánh được với những câu chuyện thuần túy theo đuổi hiệu quả gây sốc này, nhưng Bồ Tùng Linh vẫn có thể giúp không khí ghê rợn trong đêm chiến trận thời cổ đại được đẩy lên cao một bậc.
Mẩu chuyện Liêu Dương Quân trong Liêu trai cũng đã sử dụng hình thức điểm danh, chỉ có điều người không phải chết đã bị chém rơi đầu, quan Diêm phủ bèn lệnh cho đám lâu la gắn đầu anh ta lại, sau đó đưa anh ta rời khỏi âm phủ, đây có thể cho là một sáng kiến mới mẻ, nhưng chưa tạo được nét độc đáo khác cho tác phẩm của mình. Còn chuyện Chó hoang kể rằng binh lính triều Thanh trấn áp bảy đội quân phiến loạn, giết người không ghê tay, một kẻ muốn thoát khỏi hoàn cảnh đó, bèn giả vờ chết giữa đống thi thể. Đợi đến khi quân Thanh rời khỏi, lúc đó đất trời cũng đã chìm vào màn đêm đen kịt.
Bỗng thấy cả rừng xác chết không đầu, không tay bỗng nhiên đứng dậy. Một trong những xác chết ấy đầu vẫn đang vắt vẻo trên vai, một âm thanh phát ra từ miệng người đó: “Tên chó hoang kia đến đây làm gì?” Cả đám xác chết cùng ứng theo: “Làm gì?” Nói xong, chúng lại đồng loạt ngã vật ra đất, không nói thêm lời nào nữa.
Bỗng chốc một rừng xác chết đứng bật dậy, rồi lại đột nhiên ngã vật ra đất, đó là giây phút tĩnh lặng bên xác chết vào lúc đêm khuya, để chờ đợi thứ đáng sợ nhất xuất hiện. Đoạn vừa rồi tuy không phải là câu chuyện về cảnh “điểm danh trên chiến trường”, nhưng nó đã tập trung vào hoàn cảnh khủng khiếp của câu chuyện, thể hiện thành công tính thảm khốc của cảnh chết chóc giết hại người dân không ghê tay của binh lính triều Thanh. Vậy nếu là cảnh bị chết chìm giữa sông thì sao? Trong chương Phú quý sống chết có số,quyển bốn, cuốn Khách song hiếm thoại - phần tiếp theo, Ngô Xí Xương có viết, những kẽ chết đuối, chết chìm cũng có một viên quan âm phủ đến điểm danh. Vậy tất nhiên những xác chết ở đây không thể gây ra những cảnh kinh hãi như những xác chết cứng đơ nơi đồng không mông quạnh được. Nhưng hãy tưởng tượng, những xác chết đứng dậy lửng lơ trên mặt nước, xếp thành hàng ngũ, chắc có lẽ sẽ tạo cho bạn một cảm giác cõi âm khác biệt chứ!
Nhưng những câu chuyện cũng không chỉ dừng lại ở việc tạo ra cảm giác sợ hãi, chủ đề định mệnh cũng được chú ý và thực hiện sâu sắc hơn. Những người chưa đến số phải chết không những không phải điểm danh, mà quan âm phủ còn vạch trần ra xem người này sẽ chết sau bao nhiêu năm nữa, và sẽ chết ở nơi nào. Tác phẩm Quý tân tạp thức của Chu Mật người Nam Tống có ghi lại câu chuyện xảy ra vào thời Nam Tống Ninh Tông: người Mãn xâm phạm từ phía nam, giết người vô kể, xương chất thành núi, thịt chất thành tầng, giết xong chúng còn lùng sục lại xem có ai chưa chết hẳn thì dùng búa sắt đánh cho chết hẳn rồi mới chịu đi. Trong số đó có một người may mắn vẫn chưa chết hẳn, đêm đến, thấy người của quan phủ đốt đèn đi tới điểm danh người đã chết trong sổ, đọc đến tên người nào, xác chết của người đó đứng bật dậy, rồi lại lập tức ngã xuống. Khi đọc đến tên người kia, anh ta cũng đứng dậy. Lúc này, bỗng nghe có người nói: “Người này vẫn chưa chết.” Và rồi theo sổ sinh tử viết: “Sau hai mươi năm nữa ngươi sẽ chết ở Thần Châu.” Người này đã được miễn chết, mặc dù sau này anh ta đặc biệt cẩn thận không bao giờ đi Thần Châu, luôn sống an phận theo pháp luật, nhưng cuối cùng anh ta cũng không thoát được định mệnh của mình, phải chịu một nhát đao oan uổng trên pháp trường Thần Châu.
Về sau, chương Thủ thuật chi bại, quyển mười hai, cuốn Lưỡng sơn mặc đàm của Trần Đình người đời Thanh, chương Kẻ họ Nhược trong quyển Sạn trong ngọc của Đổng Cốc, chương Sống chết định trước, quyển sáu, cuốn Dung am bút ký của Tiết Phúc Thành, người đời Thanh, ba tác phẩm này cơ bản cũng kể về những cảnh tượng như vậy, không thấy xuất hiện bất kỳ một chi tiết mới nào. Chỉ đến tác phẩm Di viên đàm dị của Trần Dị người đời Thanh, trong chương Kẻ mặt rỗ họ Châu, “phái không gian” mới tham gia vào thể loại truyện này.
Vào năm Kỷ Mùi, năm canh Thân Hàm Phong, quân Thái Bình chiếm lĩnh khu vực phía nam sông Trường Giang, và phía tây thành phố Trấn Giang, cả khu vực Dương Châu phía bắc sông Trường Giang, người dân không mắc bệnh tật, cuộc sống êm đềm. Giang Nam rơi vào bẫy, người dân muốn chạy trốn và đa số đều chết bởi binh lính đem ngựa đuổi theo chém giết, hai bên sông xác chết thành đập. Một người họ Giáp may mắn sống sót, nằm ẩn mình trong đám xác chết, nửa đêm, những tiếng hô gọi từ xa vọng lại, anh ta thấy thần Thành Hoàng dẫn theo quan binh âm phủ cầm sổ sinh tử điểm tên xác chết. Đọc đến người họ Giáp này, Thành Hoàng nói: “Không phải, ngày mai tên mặt rỗ họ Châu sẽ cướp đi mạng sống của ngươi.” Ngày hôm sau, người họ Giáp này gặp một người phụ nữ, cô ta nói mình bị cướp hết tiền bạc, giờ đây không biết sống bằng cách nào, nên muốn đi tìm cái chết. Người này nghĩ, đằng nào hôm nay ta cũng chết trong tay tên mặt rỗ họ Châu, vậy ta còn giữ tiền làm gì? Nghĩ rồi anh ta khẳng khái đưa tất cả số tiền của mình tặng cho người phụ nữ. Quả nhiên, một lúc sau, anh ta nhìn thấy một người vung đao lao tới, người họ Giáp liền gọi: “Châu mặt rỗ!” Người kia hỏi: “Sao ngươi biết tên ta?” Người họ Giáp tiến lên phía trước, nói: “Hôm nay ta sẽ chết trong tay Châu mặt rỗ nhà ngươi, xin hãy mau giết ta đi.” Châu mặt rỗ kinh ngạc đáp: “Đồ điên! Ngươi bảo ta giết ngươi, nhưng ta không giết đấy.” Thế là người họ Giáp cứ khăng khăng đuổi theo Châu mặt rỗ yêu cầu hắn giết mình, Châu mặt rỗ thấy vậy như gặp phải ma, hắn cướp chỗ tiền của người phụ nữ kia rồi nhanh chóng tẩu thoát. Câu chuyện hình như có chút thay đổi, thực ra đó chẳng qua là lối viết lấy việc thiện để thay đổi định mệnh đã cũ mèm mà thôi, nói cho cùng, chúng vẫn không thể tách rời hai chữ “định mệnh”.
Xét cho cùng, định mệnh trong sổ sách âm phủ là một thứ rất lạnh nhạt, rất vô tình, nó coi việc quản lý chặt chẽ mạng sống của con người là thay đời hành đạo. Quyển sáu trong Mao đình khách thoại của Hoàng Hưu Phục, người thời Bắc Tống có chương Ai Diên Tộ, chương này đã dùng câu chuyện sổ sinh tử điểm danh để biện hộ cho việc giết người trong vụ trấn áp cuộc khởi nghĩa Lý Thuận tại Thành Đô: “Được biết triều đình truy đánh quân phản nghịch, giết chết nhiều người, đó là thay trời hành đạo, không có gì là sai cả.” Triều đình giết người là tuân theo lệnh trời, hàng ngàn, hàng vạn người dân vô tội bị cướp đi mạng sống, đó tuyệt đối không có gì oan uổng cả. Vậy những người thuộc dân tộc khác tới xâm phạm, họ cũng giết hại biết bao người dân hiền lành, vậy nó được coi là gì? Quyển bốn, tác phẩm Bàn về núi Thiết Vi của Thái Điều thời Nam Tống có viết, vào năm Kiến Viêm Nam Tống, quân đội nhà Kim xâm lược từ hướng nam, triều đình bỏ mặc dân chúng, một mình tháo chạy về hướng nam, nhằm khiến quân địch mắc lừa. Quan Lang Hầu Mậu cùng hai người khác không kịp chạy trốn, bèn nấp mình trên chiếc cột lớn ở gian giữa ngôi nhà trong vườn hoa. Một ngày nọ, họ nhìn thấy hàng nghìn quân nhà Kim lũ lượt kéo tới, chúng ngồi trong gian giữa, lệnh cho lũ lâu la áp tải những người dân bị bắt vào trong, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, chúng nhất loạt dùng gậy đập chết, xác người chồng chất lên nhau. Xế chiều, khi giết hết số người ở đó, chúng mới rời khỏi. Đến nửa đêm, quan binh âm phủ đến điểm danh, trong đó chỉ có bốn xác chết được quan binh âm phủ nói “không phải”. Ngày hôm sau, quả nhiên chỉ có bốn người đó sống lại. Đương nhiên sự việc này cũng là do “ thiên mệnh”, không liên quan gì đến sự phủ bại, bất lực, chỉ biết lo cho bản thân của triều đình. Đói khát, hoang tàn, lạnh giá, binh biến, ôn dịch, lũ lụt, động đất…tất cả đều là do ông trời muốn “thu người”. Nếu đã là do ông trời muốn bắt lại, vậy anh không đi có được không? Hoàng đế muốn ngăn cản liệu có được không? Huống hồ Vạn Tuế gia lại là đứa “con trời” thực sự (lúc này cũng đừng kéo cả những “đứa con đáng tự hào của trời” được nhận học bổng vào nhé!), giúp cha mình một tay âu cũng là đạo lý muôn thuở ở đời!
4
Từ Kinh Thái Bình đã nêu ra ở phần trước, chúng ta có thể nói sổ thiện ác xuất hiện cùng lúc với Diêm phủ. Diêm phủ đã có lịch sử hai nghìn năm, ngôi vị Diêm Vương gia đã được hoán đổi hai trăm đời, nhưng tình hình chung của Diêm phủ vẫn chưa có gì thay đổi, vẫn là tiến trình quen thuộc, đặc vụ báo tin cho quan quân Diêm phủ, quan quân tổng hợp lại rồi báo với Diêm Vương.
Loại sổ sách ghi chép lại những công đức, tội lỗi này, đến đời đường còn được gọi là “sổ Mậu Thân”. “Mậu Thân” nghĩa là gì, từ trước đến nay chưa có ai đi giải thích nó, cũng may trong tác phẩm Dậu dương tạp trở, Đoạn Thành Thức đã ghi chép về nó: “Thu nhận cáo trạng như nhân gian, đầu tiên hỏi ngày sinh, tiếp đến hỏi họ tên, tuổi tác, bên dưới có ghi chú ngày, tháng, năm sinh, ở dòng khác ghi Lục tuần (60) Giáp Tý, công lao và tội lỗi từng có, hiện phạm tội gì, nếu không có thì viết “vô sự”, tức không có chuyện gì. Người được ghi tên vào sổ này “nhiều vô kể”, theo Chu Y Nhân - người quản giữ quyển sổ nói: “Cứ sáu mươi năm quyển sổ này lại ghi tên người trong thiên hạ một lần, để kiểm tra và đối chiếu việc thiện, việc ác của người đó, tuổi thọ tăng hay giảm sẽ do người đó tự quyết định.” Như vậy, sáu mươi năm là thời gian để thanh toán tổng số nợ, và cũng chính là một tuổi mậu thân, có lẽ vì thế mà nó được gọi là “sổ Mậu Thân”? Đây cũng chỉ là điều suy đoán của tác giả mà thôi. Quyển “sổ Mậu Thân” này gần giống với quyển hồ sơ nah6n sự của quan phủ, có thể ghi chép công danh và tội lỗi của người đó bất cứ lúc nào, rồi lấy đó làm căn cứ để tăng hoặc giảm tuổi thọ hay chức vụ, bổng lộc của con người, việc phân loại của nó ắt đã được nghiên cứu kỹ càng.
Còn quyển sổ âm phủ trong Hồi dương ký của Trần Thúc Văn có vẻ phức tạp hơn so với quyển “sổ Mậu Thân”, “tất cả mọi việc được thực hiện đều có mục đích của nó, vì vậy việc gì cũng phải được ghi vào sổ”. Vậy thì những ghi chép vào sổ không chỉ giới hạn ở ngôn từ, cử chỉ, mà còn bao gồm cả những ý niệm trong đầu, cho dù đó chỉ là “một chút suy nghĩ riêng tư thoáng qua” cũng phải ghi vào trong hồ sơ. Quyển “sổ vô cùng” này “ghi việc thiện lớn thì dùng chữ vàng, việc thiện nhỏ thì dùng chữ đỏ, ghi việc ác lớn thì dùng chữ xanh lục, việc ác nhỏ thì dùng chữ đen”, như vậy có thể khiến người ta “không cảm thấy rợn tóc gáy” khi nhìn thấy, nghĩ rằng nó đã thực sự chạm đến linh hồn. Chỉ cần trong đầu xuất hiện một suy nghĩ, suy nghĩ đó chắc chắn sẽ bị Diêm phủ nhìn thấu. Có thể ngay cả thần Tam thi ẩn náu trong hình dáng con người cũng không thể làm như thế được. Nhưng đó cũng không phải là thứ có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, mà có lẽ nó chỉ là sự cáo giải của tôn giáo Tây phương, là sự giao lưu tâm linh trong thổ giáo, chúng biến phép khiến những điều bạn suy nghĩ trong lòng bị mang ra ánh sáng. Cái đáng để chúng ta than thở, đó là một khi hình thức giao lưu tâm linh đó nhận được sự cổ vũ, trở thành một trào lưu trong xã hội loài người, thì không phải chỉ đào sâu nghiên cứu, mà thậm chí còn phải bịa dựng linh tinh. Lúc đó, có lẽ người ta tưởng mình đã thành công, trở thành mô phạm trong việc giao lưu tâm linh, cho đến khi quyển sổ được công khai thì chỉ còn lại sự “ghê rợn tới tận sống lưng” mà thôi.
Đương nhiên, nếu động cơ tốt, muốn mộc mạc hóa phong tục, đến bậc minh vương như Nghiêu - Thuấn cũng có thể khoan dung cho sự đê hèn về mặt thủ đoạn. Vấn đề lại nằm ở chỗ, sổ thiện ác không phải quyển sổ khích lệ người ta học tập tinh thần cứu giúp người vô tư của Lôi Phong. Trong mẩu truyện Thần thành hoàng đô thị, quyển mười một, cuốn Khoái viên[4] của Tiền Hy Ngôn, người đời Minh, chúng ta có thể nhìn thấy mục đích của các bậc chính nhân quân tử khi tạo ra sổ thiện ác.
[4] Nghĩa là: khu vườn xảo quyệt
Năm Long Khánh thứ năm, đời vua Minh Mục Tông, Bắc Kinh có một tú tài mười chín tuổi với trí thông minh lạ thường. Khi cùng đi chơi với các bạn học, cậu ta đã gặp một thiếu nữ chừng mười sáu, mười bảy tuổi, hai người liếc mắt đưa tình, tình cảnh giống hệt Trương Quân Thụy gặp phải hồn ma lẳng lơ chết oan của năm trăm năm trước khi ông đang cứu chùa tại nước Tấn. Sau khi trở về, cậu tú tài mắc bệnh tương tư, hằng đêm thương nhớ, chỉ mong sao có thể gặp được nàng. Gia sư của cậu ta là một cử nhân trẻ tuổi, cũng là người rất am hiểu nhân tình thế thái, thầy giáo bèn hỏi thăm tâm tư của học trò, sau đó bảo sẽ giúp cậu tú tài hoàn tất việc này. Anh ta thay học trò viết một bài cầu nguyện, sau đó hai thầy trò đến miếu Thành Hoàng thắp hương. Dừng lại ở đây, chúng ta thật sự chưa nhận thấy điểm gì sai sót ở cậu tú tài, ai ngờ sau khi từ miếu trở về, thần Thành Hoàng nhập vào thể xác của một thầy cúng, tuyên phán với cậu tú tài rằng: “Số mệnh của nhà ngươi năm thứ hai Vạn Niên sẽ đỗ trạng nguyên, hưởng thọ chín mươi tuổi, thầy giáo của ngươi cũng đỗ tiến sĩ năm đó. Nhưng nay ngươi đã bị cắt cái lộc đó, ngươi sẽ chết yểu năm mười chín tuổi, và thầy giáo ngươi cũng bị xử moi ruột mà chết. Tội trạng của ngươi là gì? Đó là ngươi không thông qua “sự cho phép của bố mẹ, và lời người mai mối” mà định yêu đương với con gái người ta!” Quả nhiên, đến ngày hôm sau, cậu tú tài mơ thấy thần Kim giáp tay lăm lăm cầm búa rìu, còn thầy giáo mình đang kêu đau bụng như bị ai cào xé trong đó. Ba ngày sau, cả hai thầy trò cùng bị lấy đi mạng sống. Còn người con gái trên núi đó, có lẽ cũng không nhận được kết quả tốt đẹp gì, bởi chiếu theo lô gic quan phụ mẫu ở “huyện My Ô”, chút “rung động” của Tiểu Phó Bằng sẽ là kết quả “bán lẳng lơ” của Tôn Ngọc Giảo.
Tình cảm nam nữ là thứ tình người căn bản nhất, chỉ có điều bởi có “tà niệm” này mà cả thọ lẫn lộc đều bị tước hết, thay vào đó là “án xử trảm”, dụng tâm ở đây là diệt bỏ triệt để tình người. Xem xong câu chuyện này, khi đó tôi chỉ có một suy nghĩ, giữa trời và đất không có địa ngục thì tốt quá, nếu có thì nó chắc chắn do Tiền Hy Ngôn xây dựng nên! Đến cuồi triều Thanh, Trần Dị cho rằng mẩu chuyện này có tác dụng đối với lòng người trong nhân gian, quan điểm này được ghi trong tác phẩm Y viên đàm dị, còn trong tác phẩm Đàm dị lại ngợi ca Đàm Phúc Đường, có thể thấy Tiền Hy Ngôn không thiếu những người có cùng quan điểm. Đừng cho rằng những người này chỉ là những “ông đồ cổ hủ” không thông “đạo lý làm người”, như ông Chu Tác Nhân có nói, họ “kìm nén sự thể hiện của bản tính người, nhưng lại đắm đuối theo những ham muốn biến thái”, càng là những người dung tục thì càng muốn đóng thành những bậc chính nhân quân tử; Nhưng cái tà niệm trong lòng lại làm cho họ dù có đóng thế nào cũng gượng gạo, cùng lắm cũng là loại quái vật dị hình mất hết nhân tính. Trong Đàm dị, Trần Dị từng thở dài rằng, quan phủ trong nhân gian không thể ghi lại hết những hành vi. Ngôn từ, và suy nghĩ của tất cả mọi người trên thế gian. Ông cho rằng sổ thiện ác trong Diêm phủ có tác dụng bổ sung thêm những điểm thiếu sót của dương thế. Người này giữ chức tuần phủ An Huy, Lễ bộ thị lang, xem chừng ông ta rất muốn đưa toàn bộ sự thống trị các đặc vụ của điện Diêm Vương vào trong quan phủ để trị quốc, trị dân. Từ đây có thể suy ra sự thấp hèn về nhân cách, sự thiển cận về tri thức của hắn. Trong tiểu thuyết Cái nhìn lạnh cuối triều Thanh có viết, một kẻ tên Trần Lục Chu hằng ngày mặc quần áo của Phật, ăn đồ ăn của Phật, ở cùng với Phật qua ngày - hắn chính là kẻ thấp hèn được nói trên. Tiểu thuyết có nói, cuối cùng hắn chết do ăn linh dược của tiên cơ, điều này e rằng cũng không có căn cứ.
Sau thời Tống - Nguyên, sổ thiện ác của Diêm phủ về cơ bản đã trở thành một đạo cụ biểu diễn thuộc loại cấp thấp nhất của những kẻ ngụy quân tử. Ngay từ thời Nam Tống, quyển sổ thiện ác này đã có một tên gọi khác, tức Diêm phủ có hai quyển sổ thiện và ác, dựa vào từng người để phân biệt chúng, tức người thiện thì ghi trong sổ thiện, người ác thì ghi trong sổ ác (xem chương Thử bàn về cung Thái Thanh, quyển mười sáu, cuốn Di kiên chí bổ của Hồng Mại). Đến Hương ẩm lầu tân đàm, quyển hạ của Lục Trường Xuân, người đời Thanh lại xuất hiện cách nói “sổ công lao và tội lỗi”, tức mỗi người đều lập cho mình quyển sổ thiện ác, ngoài quyển “ghi những bổng lộc nhận được lúc bình sinh”, còn có một quyển chuyên “ghi chép những công lao và tội lỗi” của mình. Có người tự nói với Diêm phủ qua quyển sổ cá nhân của mình rằng, hồi nhỏ anh ta lấy trứng rùa làm đồ chơi, một lần do không cẩn thận làm trứng rùa bị vỡ, đây thuộc vào tội sát sinh, người này vô cùng thành thật, đem kể việc “thất đức” nhất cả đời mình cho Diêm phủ biết.
Những người như vậy hiếm nhưng không phải là duy nhất. Chương Ông họ Thang trong Liêu trai chí dị là bản tự thuật của một “đạo đức gia”, cũng rất giống với “bảng công lao và tội lỗi” của những kẻ ngụy quân tử. Trong giây phút cận kề giữa sự sống và cái chết, tất cả những việc thiện và ác xảy ra trong cả đời người đều được trình báo như được phát băng ghi hình vậy. Còn việc “ác” lớn nhất, đáng ghi nhớ nhất của ông họ Thang này lại là “khi lên bảy, lên tám, ông ta đi tìm bắt chim sẻ và đã bắn chết nó”. Câu chuyện này được ông ta tự kể sau khi tỉnh lại, cái đạo đức giả của người này được tạo dựng một cách quá mức. Nếu đoạn văn này của Bồ lão tiên sinh không có hàm ý châm biếm đả kích thì quả thật người đọc sẽ thấy ghê tởm khi đọc đến những dòng này.
“Sổ công đức và tội lỗi” của Diêm phủ chính là bản dịch “bảng công đức và tội lỗi” của dương gian. Các nhà Đạo học xin chỉ thị sớm mà báo cáo muộn, hằng ngày đều bỏ ra mấy tiếng đồng hồ tự mình phê phán, tự mình sửa chữa, rồi lại đau khổ tự kiểm điểm, tự phê bình. Đối với xã hội ngày nay, việc này có vẻ khá nực cười, nhưng khoảng bốn mươi năm về trước chúng tôi lại có ý định phổ cập nó ra toàn xã hội, và gần như đã đạt đến cảnh giới “sáu trăm triệu người dân đều theo Đạo học”.
Thế là khi nghĩ tới đúng bốn mươi năm về trước, tôi vừa về nông thôn làm thầy giáo (nói là giáo viên cấp hai, nhưng thực chất là “cấp một đội mũ cấp hai”). Đầu tiên tôi tham gia một lớp bồi dưỡng giáo viên. Một giáo viên đứng lên phát biểu, tiêu đề vừa được nói ra đã khiến người nghe thấy giật mình, đó là: “Tôi rất phê bình tư tưởng dâm loạn của mình.” Nhưng khi nghe tiếp, chúng tôi dần dần hiểu ra vấn đề, anh ta chỉ muốn kiểm điểm một việc, đó là muốn đổi những cái nơ vải trên quần áo thành những chiếc cúc nhựa mà thôi. Nhưng anh ta nói “nếu có tuấn ý, ắt sẽ có dâm ý” (“tuấn ý” có lẽ chỉ ham muốn yêu cái đẹp? Câu nói đó được đọc theo âm địa phương, cho nên dù đã được nhắc lại nhiều, nhưng tôi vẫn không nghe hiểu, vì vậy tôi bàn gặp riêng người đó thỉnh giáo, vì vậy mới làm tôi nhớ đến tận ngày hôm nay). Sau đó anh ta sử dụng nhiều điều khoản luật mới ban hành lúc bấy giờ để hùng biện cho câu nói của mình, vấn đề này nối tiếp vấn đề kia, cuối cùng anh ta suy ra mình là thành phần hư hỏng phản cách mạng (lúc đó, dù anh có tội phạm gì cũng đều thêm vào đó ba chữ “phản cách mạng”). Sau khi cuộc họp kết thúc, tôi vội vã chào người giáo viên đó, vì tôi e “tên lưu manh đang chờ trợ cấp” này cảm thấy ngại mà thôi. Thực ra là tôi đã nghĩ quá nhiều, bởi người đó không những không tỏ thái độ gì gọi là e ngại, thậm chí anh ta còn đoán rằng lãnh đạo sẽ nhanh chóng bầu anh ta trở thành người phát ngôn điển hình. Có người nói, bài phát biểu đó thực chất là do lãnh đạo lên kế hoạch sẵn, điều này cũng không cần thiết phải trách mắng, bởi mấy chục cuộc thảo luận nhóm lúc bấy giờ đều là ngồi nhìn nhau, yên lặng tới mức khó chịu. Và kết quả sau cùng của những cuộc họp lớn lại là “sự hào hứng”, tiếp tục mở các cuộc họp nhỏ, mỗi bài phát biểu đều như bắt đầu “dâm loạn”.
Nhưng nếu cho rằng những người dân như chúng ta dễ dàng bị tu thành môn đồ của các nhà Đạo học là điều quá sai lầm. Ở cái thời đại cấm những ham muốn đó, thần kinh của con người trở nên vô cùng nhạy cảm, từ việc bào khoai lát, cho đến diễn kịch, các cuộc họp phê bình và tự phê bình, tất cả đều được người ta liên tưởng, vận dụng đến mức các nhà văn chân chính cũng phải nể phục. Chỉ một chữ “dâm” đó đã có thể kích thích trí trưởng tượng của mọi người, để rồi từ đó nó không ngừng được phát huy, khai quật. Từ một bữa cơm khoai cơm sắn, cuối cùng có thể được mọi người tưởng tượng thành đại tiệc với tám món mặn và tám món chay. Đầu tiên có người cúi xuống cười thầm, sau đó người khác đứng lên hưởng ứng, thế là dần dần chủ đề chính được dẫn dắt sang tà đạo, được thảo luận sôi nổi hơn, hào hứng hơn. Đúng lúc đó, lãnh đạo sở Giáo dục đến, họ cũng chỉ cười mắng một câu: “Đồ quỷ”, để tỏ rõ lập trường không ủng hộ mà cũng không ngăn cấm của mình, nhưng có lẽ trong lòng họ cũng thầm đắc ý bởi bản lĩnh kiểm soát tình hình của mình. Vào lúc này, phía nữ giới có đặc quyền không cần phát biểu, thậm chí họ có thể đỏ mặt rồi chạy ra ngoài chuồn mất cũng không ai thắc mắc gì. Bây giờ nghĩ lại, “nhóm bốn người” chúng tôi thật là ngu ngốc, ngu ngốc ở chỗ chúng tôi thật sự cho rằng cả thiên hạ đều được họ bàn luận thành thật, tư tưởng thống nhất, ai ai cũng trở thành người máy số một, như vậy chẳng phải con người sẽ không biết thế nào là thiên tính, không biết gì là lương tri nữa hay sao? Những điều đó sẽ để lại dấu ấn không dễ phai mờ.
Tiếp tục sự phát triển, có một loại sổ Diêm phủ tên gọi là sổ “Xuất cung khan thư - Đọc sách khi đại tiện”(tức tất cả những người có sở thích “tam thượng” là mã thượng - trên lưng ngựa, chẩm thượng - trên gối, xí thượng - trên nhà xí) đều được ghi vào trong sổ này. Có lẽ quyển sổ này chuyên dùng cho những tên đặc vụ ngồi xổm trong nhà xí để ghi chép, cuối cùng âm ti sẽ dựa theo số lượng những cán gỗ, cán trúc dùng để lau chùi sau khi đi đại tiện của họ để tính tuổi thọ. Chương Dư thu thất học sĩ, quyển một, Bắc đông viên bút lục sơ biên của Lương Cung Thần có viết:
Diêm Vương cầm sổ sinh tử đọc, Xí phán quan nói: “Tuổi thọ của người này vẫn chưa hết, tại sao lại đưa đến đây?” Phán quan nói: “Người này đọc sách khi đi đại tiện, nên thần đã trừ bớt tuổi thọ của hắn.” Diêm Vương cầm lấy quyển sổ, viết lên bìa ngoài bốn chữ lớn “Xuất cung khán thư”.
Đọc đến đây, tôi bỗng cảm thấy ngạc nhiên, tuy tôi chỉ có sở thích “một thượng”, nhưng nó lại chính là “xí thượng”! Nhưng thiết nghĩ, sở dĩ tôi chưa được tiếp kiến Diên Vương có lẽ vì khi vào nhà vệ sinh tôi chưa từng mang các loại sách thánh hiền vào đọc, cho dù có mang vào tờ báo thì tôi cũng chỉ xem những quảng cáo bán nhà cũ mà thôi. Tuyệt đối không được mang sách thánh hiền vào nhà vệ sinh, điểm này ngay cả những người dân thường ngô nghê, lỗ mãng không cần nghe cũng biết. Tôi thường thấy các đồng nghiệp lo lắng lục lọi trong đống sách, vậy nếu không phải là cấp trên đến kiểm tra thì chắc chắn là nỗi bức bách bên trong cơ thể đang thúc giục, lúc này bạn thử đưa cho họ một quyển sách thánh hiền xem, chắc chắn trăm phần trăm bạn sẽ bị từ chối khéo. Nếu dựa vào trường hợp Gia Cát cung kính trước phân gà và trứng gà, thì những bài văn bày tỏ những tâm đắc về điều đó đương nhiên cũng không được mang vào nhà xí.
Không những thời cổ đại, mà ngay cả những năm tháng “tay không rời sách hồng bảo[5]” khi đi vệ sinh chúng ta cũng thường gặp vấn đề như vậy. Chúng ta cũng đã từng gặp những người một tay giơ cao còn một tay đang làm “công tác vệ sinh”, động tác đó tuy không khó, nhưng lại rất khó giữ được lâu, và không phải bất kỳ người bình thường nào cũng có thể bắt chước đạt hiệu quả đến vậy, không khéo lỡ tay sẽ để lại mối hận nghìn thu. Vì khó đến vậy, nên nó trở thành loại khác biệt, mà người kia cứ hễ vào nhà xí là giơ cao tay, khiến cho những người đang đi vệ sinh ở đó cũng phải vội vàng đi theo, rõ ràng người đó đã thành thạo trong việc lôi kéo người khác nhảy vào vùng đất chết. Và thế là có người bày tỏ sự không hài lòng, tiết lộ người đó đang cố ý bảo người khác mang “sách hồng bảo” bỏ vào hố phân. Cũng may mà anh ta xuất thân tốt, lại là người ngay thẳng, tuy lòng người khó đoán nhưng tính tình “chân chất”, thôi thì cũng cho qua, nhưng hành động sáng tạo này từ đó không còn xuất hiện nữa. Sau này tôi đến một địa phương ở miền Nam, thấy bên ngoài các nhà vệ sinh công cộng đều đặt một chiếc bàn gỗ, bên trên trải vải đỏ, đồng thời có một từ giấy nhắc nhở màu đỏ, ai có nhu cầu dùng nhà vệ sinh, xin tạm thời đặt “sách hồng bảo” ở đây. Sự nhắc nhở chu đáo, chân thành này thật khiến người ta cảm động, đáng tiếc khi đó có một số người không kìm nổi sự yêu quý đối với những quyển sách, đã tiện tay lấy mất hoặc nhanh tay dùng sách khác tráo đổi, hiện tượng này xảy ra rất nhiều, khiến chiến lược này chưa thể đạt đến tiêu chuẩn hành vi và quan niệm đạo đức được mọi người công nhận, thật đáng buồn thay!
[5] Sách hồng bảo: sách ghi lại những câu nói của Mao Trạch Đông
Nhưng trong lúc đi vệ sinh người ta vẫn muốn tìm một việc gì đó để làm. Cổ nhân nói “tiện nhân” thường có bốn dáng điệu như sau, đó là ăn thì chậm, đi đại tiện thì nhanh, dễ ngủ say, quần áo lôi thôi”, muốn trở thành một người quý phái, ít nhất anh cũng phải ngồi trong nhà xí mười mấy phút. Ở đó mười mấy phút mà không việc gì làm thì quả thực không phù hợp với điều mà cổ nhân răn dạy “quý trọng thời gian”, vì thế anh có thể ở đó “tự kiểm điểm, nhắc nhở bản thân”, cũng có thể “bồi dưỡng cho mình tinh thần chính trực”, cho đến khi dần trở thành người quý phái, tự nhiên anh sẽ hiểu, tính toán kế hoạch tác chiến, xem sẽ xử lý bọn họ như thế nào, thật sự không có nơi nào tốt hơn trong nhà xí. Trong Hán thư - Cấp Ảm truyện có nói, Hán Vũ Đế vừa ngồi trong nhà vệ sinh vừa nói chuyện với Đại tướng quân Vệ Thanh Thị Trung bên ngoài, rất tùy tiện thoải mái, còn đối với người thẳng thắn đến mức khó gần như Cấp Ảm, chỉ cần mũ áo của Vũ Đế có chút không chỉnh tề là ngài nhất định không tiếp kiến Cấp Ảm. Các nhà sử học dựa vào đó để chứng mình sự kính trọng của Vũ Đế đối với Cấp Ảm, thực ra đó là một sai lầm, cực kỳ sai lầm. Đối với thừa tướng Tôn Hồng - người tự mình xuyên tạc học thuật của mình - Hán Vũ Đế có thể vừa xách quần vừa ra tiếp kiến, chứng tỏ quan hệ của Hán Vũ Đế với Tôn Hồng thân thiết hơn so với Cấp Ảm. Là người đứng đầu trong triều, Vệ Thanh có vinh dự là người lính duy nhất có thể vào nhà vệ sinh vừa bàn bạc kế sách chiến lược, vừa giúp Vạn Tuế gia “làm công tác vệ sinh” snau khi đi đại tiện, đó mới là sự đãi ngộ của bậc “đại thần cơ mật” thực sự.
Có câu nói rằng: “Vì lãnh đạo làm một trăm việc tốt không bằng cùng lãnh đạo làm một việc xấu”, không biết câu nói này có phải được truyền lại từ thời Hán Vũ Đế hay không, nhưng vào thời Minh chắc chắn đã xảy ra một việc như vậy. Cố Đình Lâm từng trích dẫn như sau: “Người thời đó nói rằng, nếu yêu quý đức vua, quan tướng nghe theo ngài trên triều, không bằng tiếp đón nhau lúc rảnh rang.” Sớm hơn một chút thì có Chu Hy, khi tiếp kiến Tống Hiếu Tông có nói: “NHững kẻ chỉ có một mục đích duy nhất là làm quan thi thoảng đến tìm ta một lần, còn những kẻ yêu quý ta thực sự, cứ khi rảnh rỗi là họ lại tìm đến với ta. Những kẻ sĩ coi trọng lễ tiết, diện mạo thường là những người khó gần, bàn chuyện với họ vừa khó khăn lại vừa khó hiểu, những người dễ gần thường không để ý đến lễ tiết, diện mạo, nhưng vẫn có thể dốc bầu tâm sự. Sự giảo hoạt của bọn quan lại sẽ làm đầu óc ta mê muội, e rằng bệ hạ chưa kịp đưa ra quyết sách xử lý, thì trước đó, Người đã trúng kế của bọn gian thần.” Lời Chu Hy nói cũng cùng một đạo lý như trên.
Đương nhiên, việc gặp riêng lúc rảnh rỗi ở đây vẫn có sự phân biệt về tầng thứ. Chắc là ở chốn quan trường thời xưa có một số bí quyết “không thể tiết lộ cho anh nếu anh chỉ là một người bình thường”, vậy đối với những người thuộc tầng lớp cao hơn, sau khi thăng đường, vào phòng, giả sử bên trên kẻ đó không phải là Võ Tắc Thiên để có diễm phúc được lên giường, thì việc thân mật nhất chỉ có thể là cùng đi vệ sinh thôi nhỉ! Nội dung có phần đi hơi xa, nhưng lại chưa được khảo chứng, vì thế bản thân tôi không dám chắc việc đi vệ sinh là trung tâm của trung tâm chính trị dưới chế độ quản lý của nhà vua, nhưng một số quyết sách tối cao lại được nảy sinh từ nhà vệ sinh, vì thế cũng không thể phủ định hoàn toàn những sự việc trên.
Còn nhớ hồi nhỏ khi xem Tây du ký, tôi từng rất tiếc nuối, không phải vì Tôn Ngộ Không không ngồi trên Bảo điện Linh Tiêu, mà là vì lão Tôn đã đại náo Bảo điện Sâm La, khi đánh dấu vào quyển sổ sinh tử, trong lòng tôi chỉ nghĩ đến nhân vật lớn nổi tiếng bên trong con khỉ, “cửu u thập loại tận trừ danh”[1], nhưng loài người chúng ta lại không có trong số đó. Hóa ra con khỉ này chẳng qua cũng là kẻ chỉ biết đến mình mà thôi! Thế là, nghĩ đến việc mình khó có thể xuống điện Sâm La một lần, tôi liền có chút không phục trước hành động tạo phản kinh thiên động địa đó của Tôn Ngộ Không.
[1] Nghĩa là: tất cả chín âm phủ và mười loài (năm loài tiên, năm loài côn trùng) đều gạch hết tên.
Tôi cứ khăng khăng suy nghĩ đó của mình trong nhiều năm, cho đến những năm 60 của thế kỷ trước, sau khi được lĩnh giáo về những thủ đoạn của sổ sinh tử do con người tạo ra tôi mới chợt sực tỉnh. Từ đó tôi hiểu được rằng “sau con người chưa chắc phải là ma quỷ, sau ma quỷ chắc chắn là con người”. Gọi là sổ sinh tử, hóa ra vẫn là nằm trong tay con người. Vậy có cần thiết phải bàn tới sổ sinh tử trong giới âm phủ nữa không? Không dám nói là cần thiết, nhưng nói qua một chút cũng không vấn đề gì, bởi từ đó ít nhiều cũng hiểu được chút ít về thời đại đó trong quá khứ. Chỉ là nói cho nặng nề, hơn nữa còn lạc điệu nhảy lời, không như những bài văn sử dụng ngôn từ chính xác, nghiêm túc, tôi tự đề cử dùng từ “chất giọng hoang dã” đi!
1
Nói nghiêm túc thì sổ sinh tử chỉ là một loại sổ sách dưới âm phủ. Sổ sách dưới âm phủ, ngoài việc ghi chép giới hạn tuổi thọ của con người ra, những quyển sổ liên quan đến vấn đề “nhân sự” (loài người chúng ta cũng chỉ qua được “bản thân mình”, còn những cái khác thôi thì tùy chúng mà thôi) còn có rất nhiều loại, chỉ nói về những quyển quan trọng đã có tài liệu chuẩn bị án, sổ lợi lộc, sổ công danh, sổ ghi chép thiện ác, sổ ghi thành tích và thiếu sót, còn có danh bạ bắt bớ linh hồn, sổ đăng nhập hộ tịch cho quỷ đã chết… và tên gọi cũng có nhiều như “sổ, bạ, lục, tịch”. Nhưng xét đến cùng, điểm chủ yếu trong những thứ này sẽ không tách nổi hai chữ “sinh - tử” liên quan đến các sinh linh và ma quỷ. Vì thế, khi nhìn thấy quyển sổ trong tay tên phán quan trong Thập Vương đồ, dù ông ta đang lật giở tìm cái gì đi nữa, hoặc dù nó có được gọi là “sổ sinh tử” đi nữa thì cũng chẳng có sai sót gì lớn.
Trong văn hóa Trung Hoa, thực sự có không ít những thứ khiến người ta tự hào. Việc sáng lập ra chế độ sổ sách của quan phủ từ rất sớm và rất hoàn thiện chính là một trong những việc khiến ta tự hào. Lưu Bang tiến vào biên giới, tấn công Hàm Dương, các tướng tranh thủ lấy vàng bạc, Tiêu Hà “một mình vào lấy quyển sách về pháp lệnh của Tần thừa tướng và phủ ngự sử cất giấu”, vì thế ông biết tất cả những nguy hiểm, những ách tắc và điểm mạnh yếu về lực lượng người trong thiên hạ. Đời sau có người thốt lên rằng, Tần Thủy Hoàng đốt sách diệt Nho, nhưng chưa hoàn toàn muốn diệt chúng, trong tay các vị tiến sĩ đều có giữ bản sao, vậy tại sao lúc đó Tiêu Hà không mau chóng cứu chúng ra? Kết quả Bá Vương Tây Sở lại đến nhóm cho Hàm Dương một mồi lửa, thiêu rụi tất cả những quyển sách quý ấy, từ đó tạo thêm việc cho các nho sinh, có người đi thu nhặt những chương sách bị cháy, sau đó tìm các bậc cao nhân nhờ chỉ dạy, có người lợi dụng thời cơ làm giả sách Nho rồi quát với giá cao, có người tìm chứng cứ hòng để lộ ra chân tướng khiến người kia không đường trốn thoát. Thực ra, những vị nho sinh này đã bận rộn một cách uổng phí, lẽ nào họ không biết những yếu điểm và những vấn đề về mặt con người đã là tiền đề quan trong để chiếm cứ thiên hạ? Mọt sách không thấy được cái lớn, họ luôn luôn là vậy, vì thế họ chỉ xứng với việc lột bỏ mũ áo, giúp đại anh hùng hứng nước tiểu mà thôi.
Cũng với lý lẽ đó, muốn thống trị và quản lý người sống cũng như ma quỷ, âm phủ bắt buộc phải có một quyển sổ sinh tử. Từ kết quả của cuộc đại náo Diêm phủ của Tôn Hành Giả có thể thấy được, nếu Diêm phủ không có được quyển sổ sinh tử của Mỹ Hầu Vương thì cũng đồng nghĩa với việc họ đã mất quyền thống trị đối với đối phương. Sổ sinh tử chính là linh hồn của Diêm phủ, những kẻ làm quan dưới đó chẳng qua chỉ là những nhân viên ma quỷ dùng pháp luật âm ti để quản lý quyển sổ mà thôi. Mà nội dung quan trọng nhất trong quyển sổ sinh tử đó chính là ghi lại những chuyện “thiện và ác” thường ngày của con người. Trong thế giới loài người, dù là túi hồ sơ của bộ phận nhân sự, hay tài liệu đen của cơ quan đặc vụ, quyển sổ chi tiêu ghi chép rõ ràng, chỉ chờ cơ hội để quyết toán, vẫn có một số thiếu sót trong mỗi nha môn, nhưng tất cả các đạo đức gia đều chất chứa trong mình chủ ý xấu xa muốn trừng trị người khác, vì thế họ đều cung cấp những bản phác về quyển sổ thiện ác này. Theo truyền thống bản địa của Trung Quốc, “trong trời đất có phúc, thiện, họa, dâm”, tuổi thọ của con người ngắn hay dài, gia tộc hưng hay suy, đều do kết quả thống kê trong quyển sổ thiện và ác quyết định. Còn một cách nói khác có lẽ được truyền đến từ văn hóa Tây phương (Ấn Độ), nói rằng, tuổi thọ của con người dài hay ngắn là do nghiệp báo của thế hệ trước để lại, nó không chịu ảnh hưởng của việc người đó làm việc thiện hay ác ở kiếp này, nhưng cái thiện và cái ác ở kiếp này sẽ là căn cứ quả báo dành cho kiếp sau, sổ thiện ác có thể nói luôn được phát hành trong tình trạng cung không đủ cầu.
Vì thế, sổ âm phủ tuy có nhiều loại, nhưng xét từ góc độ “kết toán”, nó chỉ được phân làm hai loại lớn, không thể đặt tên cho chúng được, chỉ có thể gọi chúng là hai phái thời gian và không gian.
Phái “không gian”, tuổi thọ của mỗi người giống như một căn phòng trống, đợi đến khi mà số tội của anh ta phạm phải trong thế giới loài người đủ để lấp đầy căn phòng đó, gọi là “tội ác tày trời”, thì có nghĩa là đã đến lúc anh ta phải từ giã cõi trần. Nhưng có thể nhìn nhận từ một góc độ khác, tuổi thọ của con người cũng giống như một bó thẻ bài, mỗi lần phạm tội, người ta sẽ căn cứ vào sự lớn nhỏ của tội ác để rút ra một ít. Đây gọi là “tính phép trừ”, đợi đến khi số thẻ là 0 thì coi như phép tính đã được tính xong. Nhưng nếu anh làm việc thiện thì sao? Vậy thì anh có thể “tăng tuổi thọ”, người ta sẽ bổ sung thêm cho anh những thẻ bài khác. Việc này có vẻ rất công bằng, nhưng cũng không hẳn vậy, có người làm vô số những việc thất đức đến mức không kể hết, nhưng họ vẫn sống rất tự tại, còn có người vừa mới sinh, chỉ mới khóc có vài tiếng, cùng lắm là tiếng khóc của họ đã gây ảnh hưởng đến môi trường một chút, nhưng đột nhiên ngừng thở, tuổi thọ của anh đến đây chấm dứt. Việc này thực sự khó mà nói rõ được, nếu muốn giải thích, có lẽ chỉ có thể nói mỗi một “căn phòng” có độ to nhỏ không giống nhau, số thẻ trong từng bó có bó ít có bó nhiều chăng? Nhưng dù thế nào đi nữa, theo quan điểm của phái này, tuổi thọ của con người dài hay ngắn chí ít có thể do bản thân mình quyết định một phần, đó là nên làm nhiều việc tốt, ít làm chuyện thất đức.
Phái “thời gian” cho rằng, tuổi thọ của con người dài hay ngắn là do trời định, con người không thể thay đổi nó. Một người nào đó phạm tội ở dương gian, âm ti chỉ lo việc ghi vào sổ, còn khoản nợ phải đợi đến sau thu mới giải quyết. Cũng có nghĩa là, cho dù người ta có đốt sách diệt Nho như Tần Thủy Hoàng, giết hại người trung thành, lương thiện như Tần Hội, thì họ vẫn được sống rất thoải mái, cho đến khi trời phán rằng “đại hạn” đã đến rồi, lúc đó họ mới phải đến gặp Diêm La Vương để tính toán tổng số nợ, và tất cả mọi sự quả báo hoặc là sẽ xuống địa ngục, hoặc là đổ lên đầu con cháu đời sau, tóm lại là không ai cho họ nhìn thấy quả báo của mình. Cũng với lý lẽ đó, kiếp này chúng ta làm nhiều việc tốt cũng chỉ là uổng phí công sức mà thôi, bởi họa, phúc, thọ, yểu của kiếp này đã được định sẵn rồi, anh chỉ có thể tích đức để đời sau của mình hưởng nó mà thôi. Trước kia, chiếc cột chính trong miếu Thành Hoàng có treo một chiếc mâm lớn rộng khoảng một trượng, có nơi phía trên còn viết năm chữ lớn: “Cậu cũng đến rồi à!”, khiến người đọc nó vô cùng sửng sốt. Chữ “cậu” vốn dùng để gọi linh hồn của người đã chết, nhưng thực tế là để cho người sống xem, ý nói bạn là anh hùng một thời, đã xưng bá tại một nước hay một con ngõ nào đó, nhưng cuối cùng cũng khó mà thoát khỏi cái chết. Anh hùng xem xong cũng chỉ cười một tiếng, làm sao biết sau khi chết mình có phải tính toán nợ nần hay không, ngay lúc này tôi còn có thể tháo dỡ cái miếu Thành Hoàng này ấy chứ!
Tóm lại, một phái giống như đánh bóng chuyền, thua hết điểm thì ra ngoài sân, một phái lại giống như đánh bóng rổ, lấy thời gian làm thước đo, có thể thua trong sự thoải mái hân hoan. Lẽ tất nhiên hai phái này có thể tìm ra một vài điểm có sự giao thoa giữa Trung Quốc và nước ngoài, giữa Đạo giáo và Phật giáo, cũng có thể nhận ra điểm không dung hòa giữa chúng, nhưng giữa chúng lại chưa từng xảy ra xung đột tranh chấp, hơn nữa còn có thể hỗ trợ lẫn nhau, bổ sung cho nhau, mặt trời mặt trăng phối hợp với nhau khá ăn ý. Lúc thì giáo dục người dân chỉ cần làm nhiều việc thiện, ắt sẽ được thiện giả thiện báo, lúc lại biện giải cho đám thân sĩ giàu có kia tuy làm nhiều việc ác, nhưng chưa chắc đã gặp ác giả ác báo. Và tất nhiên, hai bên cùng vui, hòa thuận với nhau chắc chắn là kết quả cuối cùng. Vì thế hai trường phái này nhìn có vẻ như tương phản, nhưng thực chất lại là người hai mặt, cứ thay đổi cách nhìn nhận trong bộ não của mình để tồn tại suốt hàng nghìn năm nay.
2
Sổ sách âm phủ lớn nhất Trung Quốc có vẻ như thuộc về phái không gian.
“Thổ phủ” - xuất hiện vào khoảng thời Đông Hán, có lẽ là Diêm Phủ chính thức, tương đối độc lập với thiên đình sớm nhất Trung Quốc. Nó được xây dựng dựa trên cơ sở “quyển sổ thiện ác”. Tác phẩm kinh điển thời kỳ đầu của Đạo giáo là Kinh Thái Bình, chương Canh bộ chi bát trong đó nói rằng, sự khống chế của Thiên đế đối với cuộc đời của con người thông qua những hành vi và lời nói thường ngày của họ được ghi lại trong “sổ thiện ác, một khi đã gây ra tội ác tày đình thì linh hồn của người đó sẽ được giao cho “Địa thần” trong “quỷ môn”, do Địa thần thẩm vấn, dùng hình, sau đó lại được giao cho “Mệnh tào” đối chiếu giữa tuổi thọ và tội ác của người này, nếu những hành vi tội ác của người này đã sát tận với tuổi thọ, thì hẳn người này đã đến lúc “vào đất”, hơn nữa ác nghiệt của hắn sẽ ảnh hưởng đến thế hệ sau, đây chính là mục chú giải “gia đình tích phúc, con cháu được nhờ, không biết tích phúc, họa chờ đời sau” của Nho gia.
Nhưng theo tác phẩm kinh điển của Nho gia có nói, nếu không phải là những tội ác thật nghiêm trọng, thì hình như tội ác đó không ảnh hưởng đến con cháu sau này. Cái gọi là “đại tội có năm loại, trong đó giết người không thuộc đại tội” (Đại đới lễ ký - Chương Bản mệnh), ngoài những tội nghịch với luân lý lẽ trời sẽ ảnh hưởng đến thế hệ sau thì tội giết người chẳng qua cũng chỉ “báo ứng với bản thân” mà thôi, nó tuyệt đối không liên lụy đến con cháu sau này. Xét sơ qua, tầng lớp thống trị thời cổ đại vẫn còn khá tử tế. Nhưng nếu nghĩ kỹ lại thấy họ vô cùng đáng sợ, cái gọi là nghịch với lẽ trời, nghịch với đạo làm người, vu cáo quỷ thần…tất cả không phải tội lỗi về mặt tư tưởng sao? Tội tư tưởng nếu muốn xử thì hai đời đến năm đời cũng chưa thích đáng, trên thì đào mộ tổ, dưới thì giết hại con cháu, nếu đem so sánh thì tội phóng hỏa giết người chỉ là tội nhẹ do “một chút sơ suất” thôi ư? Đến đây mới khiến tôi hiểu ra rằng, tại sao phạm vi liên lụy của ngục Văn tự trong lịch sử lại mênh mông bát ngát đến vậy, còn những tai nạn nghiêm trọng liên lụy năm đời, ảnh hưởng chín tộc đem gắn với hai chữ “văn hóa” thì quả là không sát thực chút nào.
Đến Canh bộ chi thập, ngoài Thổ phủ ra, tác phẩm còn nhắc tới các âm cung khác, mỗi đợt đông chí đến cần thu thập tất cả các quyển “sổ câu hiệu” dân thường khắp thiên hạ. “Câu” là bắt giữ, “hiệu” là tra hỏi, “sổ câu hiệu” chính là sổ dùng để ghi chép những tội ác có lệnh bắt của dân thường. Lúc này, tất cả những vị thần tiên được thờ cúng trong thiên hạ đều phải báo cáo mọi thông tin lên trên, các vị thần gia đình hằng ngày phụ trách việc giám sát những lời nói, cử chỉ của người dân, mỗi tháng đều phải tập hợp một lần, lúc đó đương nhiên cũng phải trình báo theo quy định. Sau đó “Thái âm pháp tào” sẽ tiến hành thống kê, đối chiếu, rồi triệu “Thần địa âm” và “Thổ phủ”, hai đối tượng này sẽ phụ trách bắt và thẩm vấn. Trình tự này nghe thì rất đáng sợ, nhưng đối với những người dân đã quen chịu gõ đầu, bóc lột, những cái đó chẳng qua cũng chỉ cần dùng một câu để ứng phó: “Cùng lắm là chết chứ gì!”
Nhưng điều không ngờ rằng, chỉ với vài thảo dân mà cũng cần nhiều sơn hải chư thần và thần nhà cùng lúc hầu hạ như vậy, tự ghi chép những hành vi cử chỉ cho mình có lẽ cũng chẳng phải việc gì phiền phức. Vì thế sau này họ đã đơn giản hóa cơ cấu nghiệp vụ này, người chuyên chức phụ trách công việc này chính là “tam thi”[2] - điều mà các đạo sĩ quan tâm. (Còn ông Táo - người mà các hộ dân không muốn rời xa lại kiêm nhận chức trách đó, có lẽ bởi ông Táo quá hiểu tính cách của con người, dễ bị những người dân thường mua chuộc, trở thành người không đáng tin cậy trong mắt ông trời chăng?) Thần tam thi ẩn nấp trong cơ thể con người, cứ sáu mươi ngày một lần, vào ngày Canh Thân ông lại lén lút thoát ra ngoài báo cáo với đặc vụ. Theo cách nói những người tu đạo luôn lấy việc hành đức làm cốt lõi, thì họ vốn không cần lo lắng vì những điều được báo cáo này, nhưng vì muốn nhanh chóng thoát khỏi sự trói buộc trong hình dáng một con người, để sống một cuộc sống tiêu diêu thoải mái, thần tam thi lại vui mừng khi khiến những người này chết sớm, vì thế nhất định ông phải bịa ra thứ gì đó không có thật. Còn những kẻ tu đạo cũng có chủ ý của riêng mình, cứ đến ngày Canh Thân họ lại thức trắng đêm không ngủ, khiến tam thi không có cơ hội chuồn ra bên ngoài, cứ như vậy, cuối cùng họ thức đến mức “thần tam thi lồng lộn lên” (mượn từ ngữ trong tiểu thuyết, lại không tương xứng với ý nghĩa câu “giận dữ xung thiên”), cuối cùng tức mà chết, vị lão đạo này sau này không thành tiên, chỉ thành tinh mà thôi.
[2] Tam thi: ba xác chết
Từ đó có thể nhận ra, sổ âm phủ của phái không gian hóa ra lại có nguồn gốc sâu xa với Đạo giáo bản địa Trung Quốc, vì thế họ trích ra từ Kinh Thái Bình cũng là việc hết sức đương nhiên. Dùng biện pháp mềm mỏng để đối phó với mật thám, có thể gọi đó là tinh túy trong chiến thuật của Lão Tử, chưa bắt đầu thì chưa ảnh hưởng đến đời sau. Nhưng quyển sổ thiện ác đó lại hoàn toàn trùng khớp với nguyện vọng của các bậc chính nhân quân tử sau này, họ có bổ sung thêm phần thiếu sót “trong quan phủ ở dương gian không có điều lệ ghi chép lại công danh và sai sót của con người”, đối với những người dân thường mà nói, họ không thể chỉ nói “cùng lắm là chết chứ gì?” là có thể ứng phó được với quá khứ.
Gần đến triều Hán Ngụy, tăng lữ Phật giáo Tây phương liên tiếp tới Trung Quốc vài lần, tuy họ vẫn chưa thể tự do truyền giáo vào đời sống của người dân Trung Quốc, nhưng những tác phẩm kinh điển của Phật giáo đã bắt đầu được dịch sang tiếng Hán, trong đó quan điểm ở âm phủ đã có địa ngục (tám địa ngục lửa, tám địa ngục băng) dưới ngọn núi Thiết Vi lớn. Nhưng khi họ biên dịch, với một chút lơ là đã tạo ra từ “địa ngục Thái Sơn”, Thái Sơn vốn có nghĩa là một ngọn núi khổng lồ, chính là chỉ ngọn núi Thiết Vi kia. Nhưng các vị hòa thượng Tây phương chưa từng nghĩ tới sẽ sang núi Đông Nhạc để vẫn có thể viết được Thái Sơn, càng không nghĩ địa ngục Thái Sơn của mình bị con rắn Địa đầu lấy đi mất, sau khi thay đổi một chút đã biến thành đồ của người ta. Hóa ra, tôn giáo bản địa của Trung Quốc lúc bấy giờ cũng đang trong giai đoạn phát triển, Trương Lỗ - đệ tử của Ngũ Đấu Mễ đạo[3] gần như đã hợp nhất giữa chính trị và tôn giáo, đại anh hùng Tào Mạnh Đức cảm thấy đó không phải là một việc tốt, nên sau khi bình định Hán Trung, ông bèn “Võ Ngụy cung roi” dồn tất cả phương sĩ khắp nơi rầm rộ tiến về kinh thành trong phạm vi thế lực của mình, sử dụng hình thức chăm nuôi để nhốt họ lại. Những phương sĩ sống tản cư bên ngoài sau khi vào đến những đô thị lớn, họ có cơ hội để giao lưu với đủ các loại người, và thời bấy giờ hòa thượng cũng là một loại phương sĩ. Tôi đoán rằng, vào lúc này, “địa ngục Thái Sơn” của Phật giáo đã bị các phương sĩ địa phương “vay mượn” thành “Thái Sơn Phủ Quân” mang cái mác MADE IN CHINA. Ông Tiền Trọng Thư nói: “Từ lúc ngựa trắng chở kinh về, Thái Sơn càng trở thành một cái tên khác của địa ngục”. Thái Sơn từ một ngọn núi thần tiên biến thành quỷ phủ, đó là việc xảy ra sau khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, và lúc đó quyển sổ âm phủ trong nha môn Thái Sơn Phủ Quân bắt đầu xuất hiện phái thời gian. Dưới đây là câu chuyện sau khi Thái Sơn Phủ Quân nắm giữ âm phủ:
Năm Kiến An, triều vua Hán Hiến Đế, tại Nam Dương có người trên Giả Ngẫu, tự là Văn Hợp do mắc bệnh mà chết. Khi chết, có viên quan nhỏ cầm một chiếu chỉ của Thái Sơn tới. Những người trùng tên Văn Hợp có tất cả mười người cả nam lẫn nữ, quan tư mệnh kiểm tra kỹ lại, rồi nói với quan hành sự rằng: “Nay muốn triệu Văn Hợp tới, làm thế nào để triệu được người này? Hãy mau chóng trả hắn về dương gian.” (“Sưu thần ký” quyển hai mươi mốt.)
[3] Ngũ Đấu Mễ đạo: nghĩa là “ đạo Năm Đấu Gạo”, cũng gọi là Thiên Sư đạo, là một giáo phái ra đời trong giai đoạn đầu của đạo giáo, tức cuối đời Đông Hán (25-220) trong lịch sử Trung Quốc, do Trương Lăng (34-156) sáng lập.
Diêm phủ đã bắt nhầm người, khiến người ta phải chết oan, người không nên chết thì đã chết, còn người nên chết thì vẫn sống. Hãy quay lại xem quá trình bắt bớ trong Kinh Thái Bình, có thể thấy khi lấy căn cứ là quyển sổ thiện ác thì việc bắt bớ sẽ không được thực hiện một cách dễ dàng. Nhưng nếu chỉ nhìn vào tên của những người đã hết hạn sống trong sổ thiện ác hiện nay, trường hợp trùng tên là rất nhiều, phải tra thêm hộ tịch, nhưng thi thoảng cũng xảy ra sơ suất, để rồi bắt những người không liên can tới Diêm phủ. Nhưng theo quy định nghiêm ngặt của phái thời gian, nếu người này chưa đến hạn chết, thì Diêm phủ không thể bắt bớ linh hồn của anh ta, nhưng giống như những tên quan phủ trên dương gian, họ không bao giờ chịu nhận lỗi về mình, đã s ai thì cho sai luôn, hoặc giống như Đào Cương, triều Lý đã bắt nhầm nhưng vẫn bị Diêm phủ giữ lại linh hồn, điều đó là không thể được. Nếu đã không thể giữ được linh hồn người đó, vậy chỉ còn cách đưa họ trở về dương gian, nếu không người bị bắt nhầm sẽ trở thành linh hồn lưu lạc không nơi trú thân, để rồi biến thành kẻ trụy lạc chết thảm trong cô đơn, từ đó quay lại quấy phá hai giới âm dương, đó cũng là sự việc khiến người ta hết sức đau đầu. (Sau này, vấn đề này đã có một cách giải quyết thích hợp, đó là thiết kế một nơi thu nhận hoặc tập trung tất cả linh hồn chết oan lang thang, điều này sẽ được bàn tới trong chương khác.)
Vị Giả Văn Hợp này vẫn được coi là may mắn, khi quan tư mệnh tới đón nhận linh hồn mới phát hiện ra có trên mười trường hợp trùng tên. Sau khi rà soát kỹ càng, quả nhiên có sai sót, chỉ còn một cách đó là mau chóng thả linh hồn người này trở về dương gian. Trên đường trở về dương gian, Giả Văn Hợp gặp một người phụ nữ cũng bị bắt nhầm rồi được thả về. Nhưng thế giới âm phủ hỗn loạn, thời gian gấp gáp, dù là một người phụ nữ yếu đuối nhưng mấy tên nha dịch cõi âm vẫn mạnh tay mạnh chân quẳng hai linh hồn trở về dương gian rồi nhanh chóng biến mất. Trên con đường u tối của thế giới âm phủ, cô gái gặp rất nhiều khó khăn, cũng may gặp được chàng thanh niên Giả Văn Hợp, hai người giúp đỡ nhau trên suốt chặng đường, cuối cùng cả hai cũng tìm về được với dương gian, đồng thời họ tạo nên một mối nhân duyên hạnh phúc, khiến người ta hiểu ra rằng, hóa ra việc tốt luôn xuất hiện từ những việc không may, khi tổ chức lễ thành hôn đừng quên mang kẹo cưới gửi tặng anh lính sai đã bắt nhầm hai người tới âm phủ nhé!
3
Từ thời Hán - Ngụy đến nay, những câu chuyện “bắt nhầm - trả về” nơi cõi âm xảy ra quá nhiều, có thể nói đó là một loại lớn trong các loại chuyện về thế giới âm phủ. Tuy rằng trong những yếu tố tạo nên loại hình này không thể thiếu quyển sổ sinh tử. Nhưng điểm quan trọng của câu chuyện không phải ở chỗ muốn chứng tỏ quyền uy của sổ sinh tử, cũng không phải để tạo nên những câu chuyện tốt đẹp như của chàng trai Giả Văn Hợp và cô nương Đỗ Lệ. Loại chuyện này sở dĩ được nhắc đến nhiều lần, được các tín đồ Phật giáo không ngừng tuyên truyền, giảng giải, đó là vì nó có nhắc tới tình tiết tham quan địa ngục. Đã bắt nhầm, theo lý phải trả người về, nhưng Diêm Vương còn đảm nhiệm công tác bộ trưởng bộ tuyên truyền trong thế giới âm phủ, thế là ông không để cho người đó uổng phí một lần đến đây. Diêm Vương cử người dẫn họ đi tham quan tất cả mười tám địa ngục, hơn nữa không biết ông đã giở trò gì mà bình thường sau cơn mơ, người ta sẽ quên gần hết những điều đã xảy ra trong đó, nhưng ở đây, những người này sau khi trở lại dương gian, họ có thể viết ra những bài bút ký thực sự sinh động về quá trình tham quan địa ngục.
Nhưng những câu chuyện lấy sổ sinh tử và thuyết định mệnh làm chủ đề cũng không ít, đó là những câu chuyện kể quan âm phủ cầm quyển sổ sinh tử tới chiến trường để điểm danh những binh lính đã hi sinh.
Đây cũng chính là chủ đề chính của các câu chuyện về cõi âm có sức sống từ hàng ngàn năm nay. Câu chuyện sớm nhất xuất hiện trong Bác dị chí của Cốc Thần Tử, người thời Đường và Hà Đông ký của Tiết Ngư Tư, còn đến cuối triều Thanh, những chuyện như thế này vẫn được người ta đón nhận một cách thích thú. Bác dị chí kể về Bình hoắc tây Ngô Nguyên Tế năm Nguyên Hòa thứ mười hai, triều vua Đường Hiến Tông. Khi Triệu Xương Thời trở thành phó tướng của Ngô Nguyên Tế, ông cùng với Lý Tố chiến đấu tại thành Thanh Lăng, rồi bị trúng đao từ phía sau, ông ngã xuống từ trên lưng ngựa mà chết. Vào khoảng bốn giờ sáng, ông bỗng như vừa bừng tỉnh khỏi giấc mộng, nghe thấy bên ngoài tiếng tướng lính đang điểm danh duyệt binh, hô đến tên của ai, người đó dõng dạc lên tiếng đáp lời. Cứ như vậy họ đã điểm danh cả hơn nghìn người. Triệu Xương Thời chú ý lắng nghe, nhưng đến khi công việc điểm danh hoàn tất, vẫn không nghe thấy ai điểm danh tên mình. Trời chuyển sáng, người điểm danh đã không còn ở đó nữa, Triệu Xương Thời băn khoăn ngồi dậy, ông nhìn những xác chết xung quanh mình, tất cả đều là những người được đọc tên lúc đêm qua, giờ đây ông mới biết hóa ra là đêm qua quan âm phủ điểm duyệt, những chiến sĩ chết nơi trận mạc đều là định mệnh cả.
Chủ đề của câu chuyện chính là “định mệnh”. Nhưng nếu người đã chết, thì quan âm phủ chỉ cần điểm tên của linh hồn là được rồi, sao còn phải đối chiếu với những thi thể đã chết? Trừ phi những hồn ma của binh lính cũng cần tập hợp xếp hàng rồi bắt đầu đi duyệt binh? Lý do đó dường như không được hợp lý thì phải, nhưng trong buổi điểm danh đêm qua, giọng đáp lời của những binh lính đã chết tạo nên một không khí rất ghê rợn, đó chính xác là một thành công trong việc sáng tác những câu chuyện ma. Nó xứng đáng liệt vào danh sách những đề tài khủng bố đến dựng tóc gáy như xác chết di động, linh hồn quay lại, hồn ma hàm oan… Bởi thế, những thế hệ sau sẽ không thấy chán khi lặp lại chúng, và thỉnh thoảng họ cũng cho thêm những nguyên liệu mới mẻ vào trong câu chuyện. Thế là “chỉ cần hô gọi họ tên, xác chết lập tức đứng dậy đáp lời” (chương Vương Tuyên Trạch mượn binh, quyển mười, cuốn Di kiên chí bổ của Hồng Mại thời Nam Tống), khi được gọi đến tên, người đó đã là một xác chết cương cứng, chỉ có thể nhảy lên theo chiều thẳng đứng miệng hô “có”, sau đó lại “phịch” một tiếng đổ thẳng xuống đất. Dưới ánh trăng ảm đạm, hàng nghìn xác chết cứ làm đi làm lại như thế, đó là cảnh tượng “đêm người chết sống lại” khiến người ta chỉ cần nghĩ tới đã thấy dựng tóc gáy. Nhưng dường như chúng vẫn để lại những điểm có thể tiếp tục phát huy, để rồi đến đầu đời Thanh, trong tác phẩm Thục Bích lại yêu cầu “sau mỗi một tiếng điểm danh, người chết liền xách đầu mình đứng dậy”. Các vị tú tài, các cử nhân lũ lượt kéo đến trường thi, họ biết rõ việc kiểm tra xác định nhân thân là tất yếu, vì thế họ cho rằng trong sổ sách âm phủ cũng nên có điều khoản “tuổi tác - hình dáng”, chẳng hạn như người chết nếu không xách chiếc đầu lâu “lấm lem máu” của mình sẽ dễ dàng bị cho là mạo nhận tên tuổi. Ngay cả các bộ phim khủng bố nhất như Xác chết di động cũng không thể so sánh được với những câu chuyện thuần túy theo đuổi hiệu quả gây sốc này, nhưng Bồ Tùng Linh vẫn có thể giúp không khí ghê rợn trong đêm chiến trận thời cổ đại được đẩy lên cao một bậc.
Mẩu chuyện Liêu Dương Quân trong Liêu trai cũng đã sử dụng hình thức điểm danh, chỉ có điều người không phải chết đã bị chém rơi đầu, quan Diêm phủ bèn lệnh cho đám lâu la gắn đầu anh ta lại, sau đó đưa anh ta rời khỏi âm phủ, đây có thể cho là một sáng kiến mới mẻ, nhưng chưa tạo được nét độc đáo khác cho tác phẩm của mình. Còn chuyện Chó hoang kể rằng binh lính triều Thanh trấn áp bảy đội quân phiến loạn, giết người không ghê tay, một kẻ muốn thoát khỏi hoàn cảnh đó, bèn giả vờ chết giữa đống thi thể. Đợi đến khi quân Thanh rời khỏi, lúc đó đất trời cũng đã chìm vào màn đêm đen kịt.
Bỗng thấy cả rừng xác chết không đầu, không tay bỗng nhiên đứng dậy. Một trong những xác chết ấy đầu vẫn đang vắt vẻo trên vai, một âm thanh phát ra từ miệng người đó: “Tên chó hoang kia đến đây làm gì?” Cả đám xác chết cùng ứng theo: “Làm gì?” Nói xong, chúng lại đồng loạt ngã vật ra đất, không nói thêm lời nào nữa.
Bỗng chốc một rừng xác chết đứng bật dậy, rồi lại đột nhiên ngã vật ra đất, đó là giây phút tĩnh lặng bên xác chết vào lúc đêm khuya, để chờ đợi thứ đáng sợ nhất xuất hiện. Đoạn vừa rồi tuy không phải là câu chuyện về cảnh “điểm danh trên chiến trường”, nhưng nó đã tập trung vào hoàn cảnh khủng khiếp của câu chuyện, thể hiện thành công tính thảm khốc của cảnh chết chóc giết hại người dân không ghê tay của binh lính triều Thanh. Vậy nếu là cảnh bị chết chìm giữa sông thì sao? Trong chương Phú quý sống chết có số,quyển bốn, cuốn Khách song hiếm thoại - phần tiếp theo, Ngô Xí Xương có viết, những kẽ chết đuối, chết chìm cũng có một viên quan âm phủ đến điểm danh. Vậy tất nhiên những xác chết ở đây không thể gây ra những cảnh kinh hãi như những xác chết cứng đơ nơi đồng không mông quạnh được. Nhưng hãy tưởng tượng, những xác chết đứng dậy lửng lơ trên mặt nước, xếp thành hàng ngũ, chắc có lẽ sẽ tạo cho bạn một cảm giác cõi âm khác biệt chứ!
Nhưng những câu chuyện cũng không chỉ dừng lại ở việc tạo ra cảm giác sợ hãi, chủ đề định mệnh cũng được chú ý và thực hiện sâu sắc hơn. Những người chưa đến số phải chết không những không phải điểm danh, mà quan âm phủ còn vạch trần ra xem người này sẽ chết sau bao nhiêu năm nữa, và sẽ chết ở nơi nào. Tác phẩm Quý tân tạp thức của Chu Mật người Nam Tống có ghi lại câu chuyện xảy ra vào thời Nam Tống Ninh Tông: người Mãn xâm phạm từ phía nam, giết người vô kể, xương chất thành núi, thịt chất thành tầng, giết xong chúng còn lùng sục lại xem có ai chưa chết hẳn thì dùng búa sắt đánh cho chết hẳn rồi mới chịu đi. Trong số đó có một người may mắn vẫn chưa chết hẳn, đêm đến, thấy người của quan phủ đốt đèn đi tới điểm danh người đã chết trong sổ, đọc đến tên người nào, xác chết của người đó đứng bật dậy, rồi lại lập tức ngã xuống. Khi đọc đến tên người kia, anh ta cũng đứng dậy. Lúc này, bỗng nghe có người nói: “Người này vẫn chưa chết.” Và rồi theo sổ sinh tử viết: “Sau hai mươi năm nữa ngươi sẽ chết ở Thần Châu.” Người này đã được miễn chết, mặc dù sau này anh ta đặc biệt cẩn thận không bao giờ đi Thần Châu, luôn sống an phận theo pháp luật, nhưng cuối cùng anh ta cũng không thoát được định mệnh của mình, phải chịu một nhát đao oan uổng trên pháp trường Thần Châu.
Về sau, chương Thủ thuật chi bại, quyển mười hai, cuốn Lưỡng sơn mặc đàm của Trần Đình người đời Thanh, chương Kẻ họ Nhược trong quyển Sạn trong ngọc của Đổng Cốc, chương Sống chết định trước, quyển sáu, cuốn Dung am bút ký của Tiết Phúc Thành, người đời Thanh, ba tác phẩm này cơ bản cũng kể về những cảnh tượng như vậy, không thấy xuất hiện bất kỳ một chi tiết mới nào. Chỉ đến tác phẩm Di viên đàm dị của Trần Dị người đời Thanh, trong chương Kẻ mặt rỗ họ Châu, “phái không gian” mới tham gia vào thể loại truyện này.
Vào năm Kỷ Mùi, năm canh Thân Hàm Phong, quân Thái Bình chiếm lĩnh khu vực phía nam sông Trường Giang, và phía tây thành phố Trấn Giang, cả khu vực Dương Châu phía bắc sông Trường Giang, người dân không mắc bệnh tật, cuộc sống êm đềm. Giang Nam rơi vào bẫy, người dân muốn chạy trốn và đa số đều chết bởi binh lính đem ngựa đuổi theo chém giết, hai bên sông xác chết thành đập. Một người họ Giáp may mắn sống sót, nằm ẩn mình trong đám xác chết, nửa đêm, những tiếng hô gọi từ xa vọng lại, anh ta thấy thần Thành Hoàng dẫn theo quan binh âm phủ cầm sổ sinh tử điểm tên xác chết. Đọc đến người họ Giáp này, Thành Hoàng nói: “Không phải, ngày mai tên mặt rỗ họ Châu sẽ cướp đi mạng sống của ngươi.” Ngày hôm sau, người họ Giáp này gặp một người phụ nữ, cô ta nói mình bị cướp hết tiền bạc, giờ đây không biết sống bằng cách nào, nên muốn đi tìm cái chết. Người này nghĩ, đằng nào hôm nay ta cũng chết trong tay tên mặt rỗ họ Châu, vậy ta còn giữ tiền làm gì? Nghĩ rồi anh ta khẳng khái đưa tất cả số tiền của mình tặng cho người phụ nữ. Quả nhiên, một lúc sau, anh ta nhìn thấy một người vung đao lao tới, người họ Giáp liền gọi: “Châu mặt rỗ!” Người kia hỏi: “Sao ngươi biết tên ta?” Người họ Giáp tiến lên phía trước, nói: “Hôm nay ta sẽ chết trong tay Châu mặt rỗ nhà ngươi, xin hãy mau giết ta đi.” Châu mặt rỗ kinh ngạc đáp: “Đồ điên! Ngươi bảo ta giết ngươi, nhưng ta không giết đấy.” Thế là người họ Giáp cứ khăng khăng đuổi theo Châu mặt rỗ yêu cầu hắn giết mình, Châu mặt rỗ thấy vậy như gặp phải ma, hắn cướp chỗ tiền của người phụ nữ kia rồi nhanh chóng tẩu thoát. Câu chuyện hình như có chút thay đổi, thực ra đó chẳng qua là lối viết lấy việc thiện để thay đổi định mệnh đã cũ mèm mà thôi, nói cho cùng, chúng vẫn không thể tách rời hai chữ “định mệnh”.
Xét cho cùng, định mệnh trong sổ sách âm phủ là một thứ rất lạnh nhạt, rất vô tình, nó coi việc quản lý chặt chẽ mạng sống của con người là thay đời hành đạo. Quyển sáu trong Mao đình khách thoại của Hoàng Hưu Phục, người thời Bắc Tống có chương Ai Diên Tộ, chương này đã dùng câu chuyện sổ sinh tử điểm danh để biện hộ cho việc giết người trong vụ trấn áp cuộc khởi nghĩa Lý Thuận tại Thành Đô: “Được biết triều đình truy đánh quân phản nghịch, giết chết nhiều người, đó là thay trời hành đạo, không có gì là sai cả.” Triều đình giết người là tuân theo lệnh trời, hàng ngàn, hàng vạn người dân vô tội bị cướp đi mạng sống, đó tuyệt đối không có gì oan uổng cả. Vậy những người thuộc dân tộc khác tới xâm phạm, họ cũng giết hại biết bao người dân hiền lành, vậy nó được coi là gì? Quyển bốn, tác phẩm Bàn về núi Thiết Vi của Thái Điều thời Nam Tống có viết, vào năm Kiến Viêm Nam Tống, quân đội nhà Kim xâm lược từ hướng nam, triều đình bỏ mặc dân chúng, một mình tháo chạy về hướng nam, nhằm khiến quân địch mắc lừa. Quan Lang Hầu Mậu cùng hai người khác không kịp chạy trốn, bèn nấp mình trên chiếc cột lớn ở gian giữa ngôi nhà trong vườn hoa. Một ngày nọ, họ nhìn thấy hàng nghìn quân nhà Kim lũ lượt kéo tới, chúng ngồi trong gian giữa, lệnh cho lũ lâu la áp tải những người dân bị bắt vào trong, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, chúng nhất loạt dùng gậy đập chết, xác người chồng chất lên nhau. Xế chiều, khi giết hết số người ở đó, chúng mới rời khỏi. Đến nửa đêm, quan binh âm phủ đến điểm danh, trong đó chỉ có bốn xác chết được quan binh âm phủ nói “không phải”. Ngày hôm sau, quả nhiên chỉ có bốn người đó sống lại. Đương nhiên sự việc này cũng là do “ thiên mệnh”, không liên quan gì đến sự phủ bại, bất lực, chỉ biết lo cho bản thân của triều đình. Đói khát, hoang tàn, lạnh giá, binh biến, ôn dịch, lũ lụt, động đất…tất cả đều là do ông trời muốn “thu người”. Nếu đã là do ông trời muốn bắt lại, vậy anh không đi có được không? Hoàng đế muốn ngăn cản liệu có được không? Huống hồ Vạn Tuế gia lại là đứa “con trời” thực sự (lúc này cũng đừng kéo cả những “đứa con đáng tự hào của trời” được nhận học bổng vào nhé!), giúp cha mình một tay âu cũng là đạo lý muôn thuở ở đời!
4
Từ Kinh Thái Bình đã nêu ra ở phần trước, chúng ta có thể nói sổ thiện ác xuất hiện cùng lúc với Diêm phủ. Diêm phủ đã có lịch sử hai nghìn năm, ngôi vị Diêm Vương gia đã được hoán đổi hai trăm đời, nhưng tình hình chung của Diêm phủ vẫn chưa có gì thay đổi, vẫn là tiến trình quen thuộc, đặc vụ báo tin cho quan quân Diêm phủ, quan quân tổng hợp lại rồi báo với Diêm Vương.
Loại sổ sách ghi chép lại những công đức, tội lỗi này, đến đời đường còn được gọi là “sổ Mậu Thân”. “Mậu Thân” nghĩa là gì, từ trước đến nay chưa có ai đi giải thích nó, cũng may trong tác phẩm Dậu dương tạp trở, Đoạn Thành Thức đã ghi chép về nó: “Thu nhận cáo trạng như nhân gian, đầu tiên hỏi ngày sinh, tiếp đến hỏi họ tên, tuổi tác, bên dưới có ghi chú ngày, tháng, năm sinh, ở dòng khác ghi Lục tuần (60) Giáp Tý, công lao và tội lỗi từng có, hiện phạm tội gì, nếu không có thì viết “vô sự”, tức không có chuyện gì. Người được ghi tên vào sổ này “nhiều vô kể”, theo Chu Y Nhân - người quản giữ quyển sổ nói: “Cứ sáu mươi năm quyển sổ này lại ghi tên người trong thiên hạ một lần, để kiểm tra và đối chiếu việc thiện, việc ác của người đó, tuổi thọ tăng hay giảm sẽ do người đó tự quyết định.” Như vậy, sáu mươi năm là thời gian để thanh toán tổng số nợ, và cũng chính là một tuổi mậu thân, có lẽ vì thế mà nó được gọi là “sổ Mậu Thân”? Đây cũng chỉ là điều suy đoán của tác giả mà thôi. Quyển “sổ Mậu Thân” này gần giống với quyển hồ sơ nah6n sự của quan phủ, có thể ghi chép công danh và tội lỗi của người đó bất cứ lúc nào, rồi lấy đó làm căn cứ để tăng hoặc giảm tuổi thọ hay chức vụ, bổng lộc của con người, việc phân loại của nó ắt đã được nghiên cứu kỹ càng.
Còn quyển sổ âm phủ trong Hồi dương ký của Trần Thúc Văn có vẻ phức tạp hơn so với quyển “sổ Mậu Thân”, “tất cả mọi việc được thực hiện đều có mục đích của nó, vì vậy việc gì cũng phải được ghi vào sổ”. Vậy thì những ghi chép vào sổ không chỉ giới hạn ở ngôn từ, cử chỉ, mà còn bao gồm cả những ý niệm trong đầu, cho dù đó chỉ là “một chút suy nghĩ riêng tư thoáng qua” cũng phải ghi vào trong hồ sơ. Quyển “sổ vô cùng” này “ghi việc thiện lớn thì dùng chữ vàng, việc thiện nhỏ thì dùng chữ đỏ, ghi việc ác lớn thì dùng chữ xanh lục, việc ác nhỏ thì dùng chữ đen”, như vậy có thể khiến người ta “không cảm thấy rợn tóc gáy” khi nhìn thấy, nghĩ rằng nó đã thực sự chạm đến linh hồn. Chỉ cần trong đầu xuất hiện một suy nghĩ, suy nghĩ đó chắc chắn sẽ bị Diêm phủ nhìn thấu. Có thể ngay cả thần Tam thi ẩn náu trong hình dáng con người cũng không thể làm như thế được. Nhưng đó cũng không phải là thứ có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, mà có lẽ nó chỉ là sự cáo giải của tôn giáo Tây phương, là sự giao lưu tâm linh trong thổ giáo, chúng biến phép khiến những điều bạn suy nghĩ trong lòng bị mang ra ánh sáng. Cái đáng để chúng ta than thở, đó là một khi hình thức giao lưu tâm linh đó nhận được sự cổ vũ, trở thành một trào lưu trong xã hội loài người, thì không phải chỉ đào sâu nghiên cứu, mà thậm chí còn phải bịa dựng linh tinh. Lúc đó, có lẽ người ta tưởng mình đã thành công, trở thành mô phạm trong việc giao lưu tâm linh, cho đến khi quyển sổ được công khai thì chỉ còn lại sự “ghê rợn tới tận sống lưng” mà thôi.
Đương nhiên, nếu động cơ tốt, muốn mộc mạc hóa phong tục, đến bậc minh vương như Nghiêu - Thuấn cũng có thể khoan dung cho sự đê hèn về mặt thủ đoạn. Vấn đề lại nằm ở chỗ, sổ thiện ác không phải quyển sổ khích lệ người ta học tập tinh thần cứu giúp người vô tư của Lôi Phong. Trong mẩu truyện Thần thành hoàng đô thị, quyển mười một, cuốn Khoái viên[4] của Tiền Hy Ngôn, người đời Minh, chúng ta có thể nhìn thấy mục đích của các bậc chính nhân quân tử khi tạo ra sổ thiện ác.
[4] Nghĩa là: khu vườn xảo quyệt
Năm Long Khánh thứ năm, đời vua Minh Mục Tông, Bắc Kinh có một tú tài mười chín tuổi với trí thông minh lạ thường. Khi cùng đi chơi với các bạn học, cậu ta đã gặp một thiếu nữ chừng mười sáu, mười bảy tuổi, hai người liếc mắt đưa tình, tình cảnh giống hệt Trương Quân Thụy gặp phải hồn ma lẳng lơ chết oan của năm trăm năm trước khi ông đang cứu chùa tại nước Tấn. Sau khi trở về, cậu tú tài mắc bệnh tương tư, hằng đêm thương nhớ, chỉ mong sao có thể gặp được nàng. Gia sư của cậu ta là một cử nhân trẻ tuổi, cũng là người rất am hiểu nhân tình thế thái, thầy giáo bèn hỏi thăm tâm tư của học trò, sau đó bảo sẽ giúp cậu tú tài hoàn tất việc này. Anh ta thay học trò viết một bài cầu nguyện, sau đó hai thầy trò đến miếu Thành Hoàng thắp hương. Dừng lại ở đây, chúng ta thật sự chưa nhận thấy điểm gì sai sót ở cậu tú tài, ai ngờ sau khi từ miếu trở về, thần Thành Hoàng nhập vào thể xác của một thầy cúng, tuyên phán với cậu tú tài rằng: “Số mệnh của nhà ngươi năm thứ hai Vạn Niên sẽ đỗ trạng nguyên, hưởng thọ chín mươi tuổi, thầy giáo của ngươi cũng đỗ tiến sĩ năm đó. Nhưng nay ngươi đã bị cắt cái lộc đó, ngươi sẽ chết yểu năm mười chín tuổi, và thầy giáo ngươi cũng bị xử moi ruột mà chết. Tội trạng của ngươi là gì? Đó là ngươi không thông qua “sự cho phép của bố mẹ, và lời người mai mối” mà định yêu đương với con gái người ta!” Quả nhiên, đến ngày hôm sau, cậu tú tài mơ thấy thần Kim giáp tay lăm lăm cầm búa rìu, còn thầy giáo mình đang kêu đau bụng như bị ai cào xé trong đó. Ba ngày sau, cả hai thầy trò cùng bị lấy đi mạng sống. Còn người con gái trên núi đó, có lẽ cũng không nhận được kết quả tốt đẹp gì, bởi chiếu theo lô gic quan phụ mẫu ở “huyện My Ô”, chút “rung động” của Tiểu Phó Bằng sẽ là kết quả “bán lẳng lơ” của Tôn Ngọc Giảo.
Tình cảm nam nữ là thứ tình người căn bản nhất, chỉ có điều bởi có “tà niệm” này mà cả thọ lẫn lộc đều bị tước hết, thay vào đó là “án xử trảm”, dụng tâm ở đây là diệt bỏ triệt để tình người. Xem xong câu chuyện này, khi đó tôi chỉ có một suy nghĩ, giữa trời và đất không có địa ngục thì tốt quá, nếu có thì nó chắc chắn do Tiền Hy Ngôn xây dựng nên! Đến cuồi triều Thanh, Trần Dị cho rằng mẩu chuyện này có tác dụng đối với lòng người trong nhân gian, quan điểm này được ghi trong tác phẩm Y viên đàm dị, còn trong tác phẩm Đàm dị lại ngợi ca Đàm Phúc Đường, có thể thấy Tiền Hy Ngôn không thiếu những người có cùng quan điểm. Đừng cho rằng những người này chỉ là những “ông đồ cổ hủ” không thông “đạo lý làm người”, như ông Chu Tác Nhân có nói, họ “kìm nén sự thể hiện của bản tính người, nhưng lại đắm đuối theo những ham muốn biến thái”, càng là những người dung tục thì càng muốn đóng thành những bậc chính nhân quân tử; Nhưng cái tà niệm trong lòng lại làm cho họ dù có đóng thế nào cũng gượng gạo, cùng lắm cũng là loại quái vật dị hình mất hết nhân tính. Trong Đàm dị, Trần Dị từng thở dài rằng, quan phủ trong nhân gian không thể ghi lại hết những hành vi. Ngôn từ, và suy nghĩ của tất cả mọi người trên thế gian. Ông cho rằng sổ thiện ác trong Diêm phủ có tác dụng bổ sung thêm những điểm thiếu sót của dương thế. Người này giữ chức tuần phủ An Huy, Lễ bộ thị lang, xem chừng ông ta rất muốn đưa toàn bộ sự thống trị các đặc vụ của điện Diêm Vương vào trong quan phủ để trị quốc, trị dân. Từ đây có thể suy ra sự thấp hèn về nhân cách, sự thiển cận về tri thức của hắn. Trong tiểu thuyết Cái nhìn lạnh cuối triều Thanh có viết, một kẻ tên Trần Lục Chu hằng ngày mặc quần áo của Phật, ăn đồ ăn của Phật, ở cùng với Phật qua ngày - hắn chính là kẻ thấp hèn được nói trên. Tiểu thuyết có nói, cuối cùng hắn chết do ăn linh dược của tiên cơ, điều này e rằng cũng không có căn cứ.
Sau thời Tống - Nguyên, sổ thiện ác của Diêm phủ về cơ bản đã trở thành một đạo cụ biểu diễn thuộc loại cấp thấp nhất của những kẻ ngụy quân tử. Ngay từ thời Nam Tống, quyển sổ thiện ác này đã có một tên gọi khác, tức Diêm phủ có hai quyển sổ thiện và ác, dựa vào từng người để phân biệt chúng, tức người thiện thì ghi trong sổ thiện, người ác thì ghi trong sổ ác (xem chương Thử bàn về cung Thái Thanh, quyển mười sáu, cuốn Di kiên chí bổ của Hồng Mại). Đến Hương ẩm lầu tân đàm, quyển hạ của Lục Trường Xuân, người đời Thanh lại xuất hiện cách nói “sổ công lao và tội lỗi”, tức mỗi người đều lập cho mình quyển sổ thiện ác, ngoài quyển “ghi những bổng lộc nhận được lúc bình sinh”, còn có một quyển chuyên “ghi chép những công lao và tội lỗi” của mình. Có người tự nói với Diêm phủ qua quyển sổ cá nhân của mình rằng, hồi nhỏ anh ta lấy trứng rùa làm đồ chơi, một lần do không cẩn thận làm trứng rùa bị vỡ, đây thuộc vào tội sát sinh, người này vô cùng thành thật, đem kể việc “thất đức” nhất cả đời mình cho Diêm phủ biết.
Những người như vậy hiếm nhưng không phải là duy nhất. Chương Ông họ Thang trong Liêu trai chí dị là bản tự thuật của một “đạo đức gia”, cũng rất giống với “bảng công lao và tội lỗi” của những kẻ ngụy quân tử. Trong giây phút cận kề giữa sự sống và cái chết, tất cả những việc thiện và ác xảy ra trong cả đời người đều được trình báo như được phát băng ghi hình vậy. Còn việc “ác” lớn nhất, đáng ghi nhớ nhất của ông họ Thang này lại là “khi lên bảy, lên tám, ông ta đi tìm bắt chim sẻ và đã bắn chết nó”. Câu chuyện này được ông ta tự kể sau khi tỉnh lại, cái đạo đức giả của người này được tạo dựng một cách quá mức. Nếu đoạn văn này của Bồ lão tiên sinh không có hàm ý châm biếm đả kích thì quả thật người đọc sẽ thấy ghê tởm khi đọc đến những dòng này.
“Sổ công đức và tội lỗi” của Diêm phủ chính là bản dịch “bảng công đức và tội lỗi” của dương gian. Các nhà Đạo học xin chỉ thị sớm mà báo cáo muộn, hằng ngày đều bỏ ra mấy tiếng đồng hồ tự mình phê phán, tự mình sửa chữa, rồi lại đau khổ tự kiểm điểm, tự phê bình. Đối với xã hội ngày nay, việc này có vẻ khá nực cười, nhưng khoảng bốn mươi năm về trước chúng tôi lại có ý định phổ cập nó ra toàn xã hội, và gần như đã đạt đến cảnh giới “sáu trăm triệu người dân đều theo Đạo học”.
Thế là khi nghĩ tới đúng bốn mươi năm về trước, tôi vừa về nông thôn làm thầy giáo (nói là giáo viên cấp hai, nhưng thực chất là “cấp một đội mũ cấp hai”). Đầu tiên tôi tham gia một lớp bồi dưỡng giáo viên. Một giáo viên đứng lên phát biểu, tiêu đề vừa được nói ra đã khiến người nghe thấy giật mình, đó là: “Tôi rất phê bình tư tưởng dâm loạn của mình.” Nhưng khi nghe tiếp, chúng tôi dần dần hiểu ra vấn đề, anh ta chỉ muốn kiểm điểm một việc, đó là muốn đổi những cái nơ vải trên quần áo thành những chiếc cúc nhựa mà thôi. Nhưng anh ta nói “nếu có tuấn ý, ắt sẽ có dâm ý” (“tuấn ý” có lẽ chỉ ham muốn yêu cái đẹp? Câu nói đó được đọc theo âm địa phương, cho nên dù đã được nhắc lại nhiều, nhưng tôi vẫn không nghe hiểu, vì vậy tôi bàn gặp riêng người đó thỉnh giáo, vì vậy mới làm tôi nhớ đến tận ngày hôm nay). Sau đó anh ta sử dụng nhiều điều khoản luật mới ban hành lúc bấy giờ để hùng biện cho câu nói của mình, vấn đề này nối tiếp vấn đề kia, cuối cùng anh ta suy ra mình là thành phần hư hỏng phản cách mạng (lúc đó, dù anh có tội phạm gì cũng đều thêm vào đó ba chữ “phản cách mạng”). Sau khi cuộc họp kết thúc, tôi vội vã chào người giáo viên đó, vì tôi e “tên lưu manh đang chờ trợ cấp” này cảm thấy ngại mà thôi. Thực ra là tôi đã nghĩ quá nhiều, bởi người đó không những không tỏ thái độ gì gọi là e ngại, thậm chí anh ta còn đoán rằng lãnh đạo sẽ nhanh chóng bầu anh ta trở thành người phát ngôn điển hình. Có người nói, bài phát biểu đó thực chất là do lãnh đạo lên kế hoạch sẵn, điều này cũng không cần thiết phải trách mắng, bởi mấy chục cuộc thảo luận nhóm lúc bấy giờ đều là ngồi nhìn nhau, yên lặng tới mức khó chịu. Và kết quả sau cùng của những cuộc họp lớn lại là “sự hào hứng”, tiếp tục mở các cuộc họp nhỏ, mỗi bài phát biểu đều như bắt đầu “dâm loạn”.
Nhưng nếu cho rằng những người dân như chúng ta dễ dàng bị tu thành môn đồ của các nhà Đạo học là điều quá sai lầm. Ở cái thời đại cấm những ham muốn đó, thần kinh của con người trở nên vô cùng nhạy cảm, từ việc bào khoai lát, cho đến diễn kịch, các cuộc họp phê bình và tự phê bình, tất cả đều được người ta liên tưởng, vận dụng đến mức các nhà văn chân chính cũng phải nể phục. Chỉ một chữ “dâm” đó đã có thể kích thích trí trưởng tượng của mọi người, để rồi từ đó nó không ngừng được phát huy, khai quật. Từ một bữa cơm khoai cơm sắn, cuối cùng có thể được mọi người tưởng tượng thành đại tiệc với tám món mặn và tám món chay. Đầu tiên có người cúi xuống cười thầm, sau đó người khác đứng lên hưởng ứng, thế là dần dần chủ đề chính được dẫn dắt sang tà đạo, được thảo luận sôi nổi hơn, hào hứng hơn. Đúng lúc đó, lãnh đạo sở Giáo dục đến, họ cũng chỉ cười mắng một câu: “Đồ quỷ”, để tỏ rõ lập trường không ủng hộ mà cũng không ngăn cấm của mình, nhưng có lẽ trong lòng họ cũng thầm đắc ý bởi bản lĩnh kiểm soát tình hình của mình. Vào lúc này, phía nữ giới có đặc quyền không cần phát biểu, thậm chí họ có thể đỏ mặt rồi chạy ra ngoài chuồn mất cũng không ai thắc mắc gì. Bây giờ nghĩ lại, “nhóm bốn người” chúng tôi thật là ngu ngốc, ngu ngốc ở chỗ chúng tôi thật sự cho rằng cả thiên hạ đều được họ bàn luận thành thật, tư tưởng thống nhất, ai ai cũng trở thành người máy số một, như vậy chẳng phải con người sẽ không biết thế nào là thiên tính, không biết gì là lương tri nữa hay sao? Những điều đó sẽ để lại dấu ấn không dễ phai mờ.
Tiếp tục sự phát triển, có một loại sổ Diêm phủ tên gọi là sổ “Xuất cung khan thư - Đọc sách khi đại tiện”(tức tất cả những người có sở thích “tam thượng” là mã thượng - trên lưng ngựa, chẩm thượng - trên gối, xí thượng - trên nhà xí) đều được ghi vào trong sổ này. Có lẽ quyển sổ này chuyên dùng cho những tên đặc vụ ngồi xổm trong nhà xí để ghi chép, cuối cùng âm ti sẽ dựa theo số lượng những cán gỗ, cán trúc dùng để lau chùi sau khi đi đại tiện của họ để tính tuổi thọ. Chương Dư thu thất học sĩ, quyển một, Bắc đông viên bút lục sơ biên của Lương Cung Thần có viết:
Diêm Vương cầm sổ sinh tử đọc, Xí phán quan nói: “Tuổi thọ của người này vẫn chưa hết, tại sao lại đưa đến đây?” Phán quan nói: “Người này đọc sách khi đi đại tiện, nên thần đã trừ bớt tuổi thọ của hắn.” Diêm Vương cầm lấy quyển sổ, viết lên bìa ngoài bốn chữ lớn “Xuất cung khán thư”.
Đọc đến đây, tôi bỗng cảm thấy ngạc nhiên, tuy tôi chỉ có sở thích “một thượng”, nhưng nó lại chính là “xí thượng”! Nhưng thiết nghĩ, sở dĩ tôi chưa được tiếp kiến Diên Vương có lẽ vì khi vào nhà vệ sinh tôi chưa từng mang các loại sách thánh hiền vào đọc, cho dù có mang vào tờ báo thì tôi cũng chỉ xem những quảng cáo bán nhà cũ mà thôi. Tuyệt đối không được mang sách thánh hiền vào nhà vệ sinh, điểm này ngay cả những người dân thường ngô nghê, lỗ mãng không cần nghe cũng biết. Tôi thường thấy các đồng nghiệp lo lắng lục lọi trong đống sách, vậy nếu không phải là cấp trên đến kiểm tra thì chắc chắn là nỗi bức bách bên trong cơ thể đang thúc giục, lúc này bạn thử đưa cho họ một quyển sách thánh hiền xem, chắc chắn trăm phần trăm bạn sẽ bị từ chối khéo. Nếu dựa vào trường hợp Gia Cát cung kính trước phân gà và trứng gà, thì những bài văn bày tỏ những tâm đắc về điều đó đương nhiên cũng không được mang vào nhà xí.
Không những thời cổ đại, mà ngay cả những năm tháng “tay không rời sách hồng bảo[5]” khi đi vệ sinh chúng ta cũng thường gặp vấn đề như vậy. Chúng ta cũng đã từng gặp những người một tay giơ cao còn một tay đang làm “công tác vệ sinh”, động tác đó tuy không khó, nhưng lại rất khó giữ được lâu, và không phải bất kỳ người bình thường nào cũng có thể bắt chước đạt hiệu quả đến vậy, không khéo lỡ tay sẽ để lại mối hận nghìn thu. Vì khó đến vậy, nên nó trở thành loại khác biệt, mà người kia cứ hễ vào nhà xí là giơ cao tay, khiến cho những người đang đi vệ sinh ở đó cũng phải vội vàng đi theo, rõ ràng người đó đã thành thạo trong việc lôi kéo người khác nhảy vào vùng đất chết. Và thế là có người bày tỏ sự không hài lòng, tiết lộ người đó đang cố ý bảo người khác mang “sách hồng bảo” bỏ vào hố phân. Cũng may mà anh ta xuất thân tốt, lại là người ngay thẳng, tuy lòng người khó đoán nhưng tính tình “chân chất”, thôi thì cũng cho qua, nhưng hành động sáng tạo này từ đó không còn xuất hiện nữa. Sau này tôi đến một địa phương ở miền Nam, thấy bên ngoài các nhà vệ sinh công cộng đều đặt một chiếc bàn gỗ, bên trên trải vải đỏ, đồng thời có một từ giấy nhắc nhở màu đỏ, ai có nhu cầu dùng nhà vệ sinh, xin tạm thời đặt “sách hồng bảo” ở đây. Sự nhắc nhở chu đáo, chân thành này thật khiến người ta cảm động, đáng tiếc khi đó có một số người không kìm nổi sự yêu quý đối với những quyển sách, đã tiện tay lấy mất hoặc nhanh tay dùng sách khác tráo đổi, hiện tượng này xảy ra rất nhiều, khiến chiến lược này chưa thể đạt đến tiêu chuẩn hành vi và quan niệm đạo đức được mọi người công nhận, thật đáng buồn thay!
[5] Sách hồng bảo: sách ghi lại những câu nói của Mao Trạch Đông
Nhưng trong lúc đi vệ sinh người ta vẫn muốn tìm một việc gì đó để làm. Cổ nhân nói “tiện nhân” thường có bốn dáng điệu như sau, đó là ăn thì chậm, đi đại tiện thì nhanh, dễ ngủ say, quần áo lôi thôi”, muốn trở thành một người quý phái, ít nhất anh cũng phải ngồi trong nhà xí mười mấy phút. Ở đó mười mấy phút mà không việc gì làm thì quả thực không phù hợp với điều mà cổ nhân răn dạy “quý trọng thời gian”, vì thế anh có thể ở đó “tự kiểm điểm, nhắc nhở bản thân”, cũng có thể “bồi dưỡng cho mình tinh thần chính trực”, cho đến khi dần trở thành người quý phái, tự nhiên anh sẽ hiểu, tính toán kế hoạch tác chiến, xem sẽ xử lý bọn họ như thế nào, thật sự không có nơi nào tốt hơn trong nhà xí. Trong Hán thư - Cấp Ảm truyện có nói, Hán Vũ Đế vừa ngồi trong nhà vệ sinh vừa nói chuyện với Đại tướng quân Vệ Thanh Thị Trung bên ngoài, rất tùy tiện thoải mái, còn đối với người thẳng thắn đến mức khó gần như Cấp Ảm, chỉ cần mũ áo của Vũ Đế có chút không chỉnh tề là ngài nhất định không tiếp kiến Cấp Ảm. Các nhà sử học dựa vào đó để chứng mình sự kính trọng của Vũ Đế đối với Cấp Ảm, thực ra đó là một sai lầm, cực kỳ sai lầm. Đối với thừa tướng Tôn Hồng - người tự mình xuyên tạc học thuật của mình - Hán Vũ Đế có thể vừa xách quần vừa ra tiếp kiến, chứng tỏ quan hệ của Hán Vũ Đế với Tôn Hồng thân thiết hơn so với Cấp Ảm. Là người đứng đầu trong triều, Vệ Thanh có vinh dự là người lính duy nhất có thể vào nhà vệ sinh vừa bàn bạc kế sách chiến lược, vừa giúp Vạn Tuế gia “làm công tác vệ sinh” snau khi đi đại tiện, đó mới là sự đãi ngộ của bậc “đại thần cơ mật” thực sự.
Có câu nói rằng: “Vì lãnh đạo làm một trăm việc tốt không bằng cùng lãnh đạo làm một việc xấu”, không biết câu nói này có phải được truyền lại từ thời Hán Vũ Đế hay không, nhưng vào thời Minh chắc chắn đã xảy ra một việc như vậy. Cố Đình Lâm từng trích dẫn như sau: “Người thời đó nói rằng, nếu yêu quý đức vua, quan tướng nghe theo ngài trên triều, không bằng tiếp đón nhau lúc rảnh rang.” Sớm hơn một chút thì có Chu Hy, khi tiếp kiến Tống Hiếu Tông có nói: “NHững kẻ chỉ có một mục đích duy nhất là làm quan thi thoảng đến tìm ta một lần, còn những kẻ yêu quý ta thực sự, cứ khi rảnh rỗi là họ lại tìm đến với ta. Những kẻ sĩ coi trọng lễ tiết, diện mạo thường là những người khó gần, bàn chuyện với họ vừa khó khăn lại vừa khó hiểu, những người dễ gần thường không để ý đến lễ tiết, diện mạo, nhưng vẫn có thể dốc bầu tâm sự. Sự giảo hoạt của bọn quan lại sẽ làm đầu óc ta mê muội, e rằng bệ hạ chưa kịp đưa ra quyết sách xử lý, thì trước đó, Người đã trúng kế của bọn gian thần.” Lời Chu Hy nói cũng cùng một đạo lý như trên.
Đương nhiên, việc gặp riêng lúc rảnh rỗi ở đây vẫn có sự phân biệt về tầng thứ. Chắc là ở chốn quan trường thời xưa có một số bí quyết “không thể tiết lộ cho anh nếu anh chỉ là một người bình thường”, vậy đối với những người thuộc tầng lớp cao hơn, sau khi thăng đường, vào phòng, giả sử bên trên kẻ đó không phải là Võ Tắc Thiên để có diễm phúc được lên giường, thì việc thân mật nhất chỉ có thể là cùng đi vệ sinh thôi nhỉ! Nội dung có phần đi hơi xa, nhưng lại chưa được khảo chứng, vì thế bản thân tôi không dám chắc việc đi vệ sinh là trung tâm của trung tâm chính trị dưới chế độ quản lý của nhà vua, nhưng một số quyết sách tối cao lại được nảy sinh từ nhà vệ sinh, vì thế cũng không thể phủ định hoàn toàn những sự việc trên.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.