Chương 64: Đô Tác viện
Bạch Sắc Liên Y
14/07/2023
“Tại sao nó lại xuất hiện ở đây.” Giang Thu Bình bình tĩnh lặp lại một
lần, dòng suy nghĩ biến chuyển thật nhanh, “Ta cho rằng có hai khả
năng.”
“Thứ nhất, có kẻ dùng thủ đoạn để lấy cặp lệnh bài này từ trong Tông Nhân phủ ra; thứ hai, có kẻ bí mật trộm nó ra khỏi Tông Nhân phủ. Đây là kết quả, tạm thời chưa bàn đến, điều khiến ta hiếu kỳ hơn là rốt cuộc tấm lệnh bài này có ích lợi gì mà khiến bọn thích khách cho dù bất chấp nguy hiểm trộm đồ từ kho phủ cũng nhất định phải mang nó trên người?”
Có nhân thì mới có quả, Tri Tân cảm thấy lời y nói đã chạm đến điểm mấu chốt.
Lúc này lệnh bài và cán thương đã được chuyển về tay Lý Ý Lan, hắn nâng hai món đồ, lòng bỗng trào dâng một cảm giác lạ kỳ.
Đều là lệnh bài của Viên Kỳ Liên, đều là thương do Viên Kỳ Liên rèn đúc, nếu biết trước một ngày nào đó mình sẽ có duyên phận dây dưa không rõ với vị Thái bộc quá cố này, thì thuở còn học nghệ hắn sẽ hỏi sư phụ xem người thợ rèn chưa từng gặp mặt ấy là người như thế nào, trong đời ông ta có việc nào may mắn, lại vì nguyên cớ gì mà mất sớm khi đương độ tráng niên. Khốn nỗi ngàn vàng cũng khó mua cái chữ “biết trước” ấy, năm xưa sư phụ chẳng kể nhiều, Lý Ý Lan cũng chẳng hỏi nhiều.
Song Lý Ý Lan nghĩ thầm, nếu Giải Nhung là do sư phụ đoạt ra từ trong lò đúc thì ắt hẳn quan hệ giữa ông và Viên Kỳ Liên cũng sâu xa lắm, nếu không ông đã chẳng thể vào được Chú Kiếm đường – nơi mà các thợ rèn xem là thánh địa. Ngược lại, Viên Kỳ Liên xảy ra chuyện, dựa theo tính cách của sư phụ thì nhất định sẽ không ngồi yên mặc kệ.
Sư phụ hẳn sẽ biết được chút chuyện nào đó, chẳng hạn quen biết cấp dưới và bạn bè của Viên Kỳ Liên, hoặc là biết người này sau khi chết đã được chôn cất ở đâu.
Nhưng Lý Ý Lan không mang theo bồ câu đưa thư của Tức Tâm quan, nếu muốn biết thì chỉ có thể sai người vượt ngàn dặm xa xôi để hỏi, mà chuyến này đi rồi về sẽ mất không dưới mười ngày, đã vượt quá kỳ hạn phá án mất rồi.
Mặc dù không kịp, nhưng sau đó hắn vẫn sẽ thu xếp người đi một chuyến, tương lai còn dài đâu biết trước điều gì, hắn không phải kiểu người một khi biết kết quả không như ý thì sẽ nhụt chí ngồi chờ chết.
Chỉ trong giây lát Lý Ý Lan đã quyết định xong xuôi, đồng thời hắn cũng cố nhớ xem vào năm Phụng Thiên thứ mười hai đến mười ba, sư phụ có từng nói điều gì, có từng xa nhà hay nhận được thư từ của ai gửi hay không?
Đáng tiếc những năm tháng miệt mài vùi đầu khổ luyện trên núi đã biến thành một mảng mây mù phủ kín trong trí nhớ, Lý Ý Lan cố nhớ rất lâu nhưng chỉ nhận lại thất vọng. Hắn tạm ngưng hồi tưởng, giắt cán thương vào bên hông, tiếp đó liền quan sát tấm lệnh bài bỗng sưng xuất hiện này.
Trong lúc trầm ngâm, ngón tay Lý Ý Lan vô thức chà sát hoa văn trên lệnh bài, đến khi giơ lệnh bài lên định nhìn kỹ lần nữa, hắn mới phát hiện trên ngón tay mình có một vết bùn màu đỏ sậm.
Vết bùn đỏ thẫm như máu chưa khô, Lý Ý Lan lấy làm lạ, lập tức chuyển lệnh bài sang tay còn lại rồi xòe đầu ngón tay ra xem. Có rất nhiều đồ vật mang màu sắc giống thế này, tỷ như vết máu, son, đá quặng và……
Lý Ý Lan bỗng ngẩn ra, ánh mắt nhanh chóng lướt qua lệnh bài và ngón tay mình, thấy ở trong các góc lồi lõm của lệnh bài có vài đường thẳng màu đen do bụi tích tụ, lòng hắn bất chợt thông suốt vỡ lẽ.
Hắn cất lời: “Trương Triều vừa nói lệnh bài có hai tấm ghép lại với nhau mới thành hai chữ “Phụng Thiên” hoàn chỉnh, vậy có khi nào bọn chúng dùng nó để trao đổi ám hiệu, xác nhận thân phận đôi bên không? Giả sử ta là một trong những kẻ giữ lệnh bài, chỉ khi nào nhận được bức thư có đóng dấu của nửa tấm còn lại, thì mới có thể thi hành mệnh lệnh.”
“Với cả, đạo trưởng lại đây xem đi, bụi bẩn bám trong kẽ hở này có phải là mực đóng dấu không?”
Vương Kính Nguyên lập tức đứng lên, Giang Thu Bình cũng tiếp lời: “Có thể lắm, cái này cũng tương tự như thơ giấu đầu của văn nhân, chỉ ai biết quy tắc liên hệ mới hiểu được.” (Thơ giấu đầu (tàng đầu thi): là một loại thơ của Trung Quốc mà người sáng tác sẽ giấu ý thơ qua những con chữ, kiểu phổ biến nhất là chữ đầu mỗi dòng thơ ghép lại thành 1 câu hoàn chỉnh.)
“Hơn nữa quân lệnh này biến mất mười mấy năm, sau Bình Nhạc án nó cũng mất đi hiệu dụng, chỉ còn là hai cục sắt trôi nổi, nếu không phải Trương Triều tìm ra cái này thì ai mà ngờ lại có kẻ ấp ủ ý đồ với nó? Ta đoán có lẽ đến nay Tông Nhân phủ vẫn chưa hay biết trong kho phủ thiếu mất một thứ như thế, giá trị nhỏ mà tác dụng lớn, tội gì không làm chứ?”
Ngô Kim e dè phát biểu: “Nếu như là mật ngữ, tạm chưa bàn đến triều đình, chỉ riêng Hỏa Khí doanh nơi ta từng làm cũng có cả đống biện pháp mã hóa, kẻ đứng sau tại sao lại làm điều thừa thãi, đi trêu chọc Tông Nhân phủ?”
“Bởi vì nó đặc biệt chăng?” Người ngoài cuộc thì sáng suốt, Bạch Kiến Quân nhàn nhã nói, “Tất cả mọi người vừa nhìn thấy nó liền nghĩ tới Viên Kỳ Liên, cũng giống như ta vừa nhìn cán thương kia liền biết đại nhân của các ngươi là Hồ Hành Cửu vậy.”
“Ý của tiền bối là,” Lý Ý Lan nói, “Có người đang dẫn dắt chúng ta hướng mạch suy đoán kẻ đứng sau màn về phía Viên Kỳ Liên, đúng không?”
Bạch Kiến Quân không quan tâm người khác nghĩ thế nào, ông ta nâng tách trà lên, ngửi mùi hương thoang thoảng, nói: “Dù sao thì đó chính là cảm giác của ta.”
Lý Ý Lan nhìn Giang Thu Bình, y khẽ gật đầu với hắn, cả hai ngầm hiểu ý nhau, Lý Ý Lan liền thành khẩn cười bảo: “Nói thật thì ta cũng có cảm giác giống vậy.”
Ký Thanh đang mải mê gặm hạt dưa, chuỗi tiếng động tanh tách bị hắn cắt ngang đúng lúc, cu cậu ném hạt dưa vào đống vỏ, cũng lại góp vui: “Ai dẫn dắt chúng ta, Phùng Khôn ư? Ôi chao thế thì lão thất phu này đúng là cao minh, ụp chậu phân lên đầu người chết còn mình ngồi yên làm ngư ông đắc lợi, bội phục bội phục.”
Lời này tuy rằng cực kỳ bất kính, nhưng lại không phải vu khống.
Trước khi các manh mối nam châm và chuông bách tuế xuất hiện, bọn họ không có căn cứ để nghi ngờ thủ phụ, mà giờ đã đi đến bước này rồi, những thứ khác tạm thời chưa rõ liên quan nhưng vị Chu đại nhân của trung thư tỉnh thì chắc chắn là thuộc Phùng đảng.
Chỉ hận Nhiêu Lâm xa xôi cách trở, không thể nào đi chứng thực ngay lập tức.
Trong lúc bọn họ nói chuyện, Vương Kính Nguyên dùng dao tách trà để khoét một ít cặn đen trên lệnh bài xuống, sau đó tiện tay vớ lấy một tờ giấy, nhấn dao cạy hết bùn đóng cặn ra giấy.
(Dao tách trà thuộc bộ dụng cụ uống trà, dùng để tách mở bánh trà khô ra.)
Tiếp đó hắn thắp cây nến bên cạnh lên, hơ tờ giấy đựng cặn bùn trên ngọn lửa, vết màu đỏ thẫm nhanh chóng biến thành màu đen, song khi Vương Kính Nguyên dịch chuyển tờ giấy ra chỗ khác, màu đen lại ngay tức khắc khôi phục sắc đỏ thẫm.
Đổi màu khi gặp lửa là đặc tính của chu sa, mà chu sa là một trong những nguyên liệu của mực đỏ đóng dấu, Vương Kính Nguyên xác nhận suy đoán của Lý Ý Lan, quân lệnh này chắc chắn từng dính mực đóng dấu.
Vì chuyện đại ca nhà mình nên Lý Ý Lan khó lòng nghĩ về Phùng Khôn theo chiều hướng tốt được, hắn nói: “Tốt lắm, hiện tại tạm giả thiết rằng lệnh bài là do thủ phụ sai người lấy từ Tông Nhân phủ, lại thông qua một số con đường mà có liên lạc với bộ hạ cũ của Quân Khí giám. Hai bên này một bên đưa quyền lợi, một bên đưa sức lực, tiến tới đạt được mục đích có lợi cho đôi bên.”
“Vậy mục đích của cả hai bên rốt cuộc là gì? Bây giờ chúng ra hãy lý giải xem.”
“Quân Khí giám muốn báo thù, theo như câu chuyện Bình Nhạc án lưu truyền trong dân chúng thì kẻ thù thực sự của bọn họ là thái hậu, song hoàng cung canh phòng nghiêm ngặt, cho nên bọn họ cần một trợ thủ có thể giúp mình thâm nhập vào bên trong, mà thủ phụ thì lại có năng lực này.”
“Nhắc đến thủ phụ, với bên dưới thì phải xử lý công vụ, với bên trên lại phải coi sóc cung đình, quyền lực to lớn nắm trùm thiên hạ, muốn sắp xếp tai mắt ngầm trong cung là việc dễ như trở bàn tay. Tuy nhiên ông ta gặp quá nhiều cản trở trong việc loại bỏ thế lực đối địch, cho nên cần một nhóm sát thủ “không liên qua gì với ông ta”.”
“Thế là mối quan hệ lợi dụng lẫn nhau liền đạt thành, năm vụ án đầu tiên là do bộ hạ cũ của Quân Khí giám gây ra để giúp Phùng Khôn làm suy yếu thế lực của Liễu đảng, mà Phùng Khôn cũng cam kết cung cấp lợi ích cho người của Quân Khí giám, có lẽ nó đã thất bại hoặc cũng có thể vẫn trong giai đoạn chuẩn bị, nói chung theo trực giác của ta thì bạch cốt án sẽ không chỉ dừng lại ở hàn y án Nhiêu Lâm. Thu Bình, các ngươi nghĩ sao?”
Sự thực chứng minh trực giác của Lý Ý Lan chuẩn xác đến kinh người, song khâm sai còn đang thúc ngựa lao nhanh ở cách ngoài trăm dặm, cho nên tạm thời hắn vẫn chưa biết mình cũng có lúc liệu sự như thần.
Tri Tân là người ngoài cuộc nhất thời bị kéo vào bàng thính, y hết sức an phận, cứ ai lên tiếng y lại nhìn người ấy.
Hiện tại y đang nhìn Lý Ý Lan cất lời chậm rãi, giọng điệu mạch lạc vững vàng, thao thao bất tuyệt, khác hẳn dáng vẻ kiệm lời thường ngày. Dường như tư thái của hắn trở nên thông minh hơn, toả ra khí chất khiến bao người phải chú ý.
Tri Tân nghe hắn nói về mối liên hệ giữa Quân Khí giám và thủ phụ, bản thân vốn dĩ không biết nhiều về hai bên này nhưng y vẫn có cảm giác mãnh liệt rằng điều này “hết sức có lý”, cứ như thể sự thực ắt hẳn là như vậy.
Tin tưởng lời nói phiến diện của ai đó một cách mù quáng như thế kỳ thực có chút nguy hiểm, nhưng lúc này đây chẳng những Tri Tân không hề cảm thấy nguy hiểm, mà trái lại còn thấy Lý Ý Lan như vậy thật khiến người ta…… nhìn chăm chú chẳng rời mắt nổi.
Trước mắt y chẳng còn hình bóng ai khác, cho nên “người” nhìn chằm chú chẳng rời mắt nổi chỉ có thể là chính y.
Khi nhận ra sự si mê ấy, Tri Tân dời tầm mắt, không niệm A Di Đà Phật, ấy thế nhưng trái tim lại đập nhanh liên hồi.
Giang Thu Bình chẳng hề hay biết nội tâm y đang dậy sóng, chỉ liên tục nghiền ngẫm lời nói của Lý Ý Lan, cuối cùng lắc lắc đầu.
Suy luận không có một kẽ hở nào, Giang Thu Bình nhủ thầm.
Mọi người lại tiếp tục thảo luận một lát thì nghe ngoài cửa có tiếng xôn xao ồn ào, thì ra bộ khoái đã giải chủ xưởng đá về. Lý Ý Lan đứng lên, dẫn mọi người dời bước đến đại sảnh nha môn.
Chẳng mấy chốc tiếng trống đăng văn đã vang vọng khắp cả sảnh đường, bàn xử án và gậy phạt lần lượt được lấy ra, Lý Ý Lan lo lắng đang thẩm tra nửa chừng lại lên cơn ho nên bèn bảo Giang Thu Bình ngồi lên bàn khai đường.
Tạ Tài và hắn cùng với cả nhóm cấp dưới ngồi chen chúc nhau ở chỗ của kinh thừa để xem buổi thẩm tra. Đối với kiểu tác phong không màng tôn ti chủ thứ này, Tạ Tài đã không còn lời nào để nói rồi. (Kinh thừa: người ghi biên bản của nha môn.)
Chủ xưởng là người bình thường, mới đầu không thừa nhận mà cứ luôn miệng kêu oan, song thân xác thì thành thật hơn miệng lưỡi, đến khi chịu đòn roi và bị kẹp đầu ngón tay, nước mắt giàn giụa, trầy da tróc thịt, cuối cùng gã cũng chịu khai.
Gã nói mảnh nam châm trong xưởng, bao gồm cả đống bị đập nát và khối trong phòng vật chứng của nha môn, đều do một doanh quan ở Đô Tác viện tại Phù Giang đưa cho mình. Doanh quan nọ cho gã một ngàn lượng, đổi lại vào đầu tháng chín, nhờ gã bỏ lẫn nam châm vào đống vật liệu đá số lượng lớn mà gã vận chuyển trên đường từ mỏ đá trở về.
Đô Tác viên là cơ quan lưu hành binh khí, nơi cất giữ cung, nỏ, tên, năm nào cũng được phân phối nam châm theo thông lệ một cách danh chính ngôn thuận. Tới đây, rốt cuộc cũng tìm được xuất xứ của khối nam châm trong nhà người thợ mộc.
Có câu có tiền thì sai khiến được cả ma quỷ, Lý Ý Lan nghĩ bụng một ngàn lượng ư, thảo nào kẻ này dám cả gan khai láo, cầm số bạc lớn thế này đi lưu lạc chân trời đến suốt đời cũng đủ.
Giang Thu Bình hỏi kỹ càng họ tên, chức quan và nơi làm việc của doanh quan kia, tiếp đó đập mạnh kinh đường mộc, quắc mắc truy hỏi: “Nam châm là của công của nhà nước, phải đăng ký danh sách mới được lưu thông, ông ta cho ngươi mà ngươi cũng dám nhận, chẳng buồn hỏi tại sao, hoá ra đầu của già trẻ nhà ngươi chỉ đáng giá một ngàn lượng bạc thôi sao?”
(Kinh đường mộc là khối gỗ mấy ông quan hay đập lúc thăng đường đó:v Quen hong?)
Bộ dáng này của y rõ là nham hiểm, trông còn đáng sợ hơn cả ra vẻ gào thét quát tháo. Đầu ngón tay chủ xưởng đã bị kẹp đến bật máu, tay đứt ruột xót khiến gã đau đớn khôn cùng, bây giờ hỏi cái gì gã cũng khai hết, chỉ mong không phải chịu phạt nữa.
“Đại nhân tha mạng! Tiểu nhân cũng hỏi qua chứ đâu có hồ đồ. Ông ta nói đây là tồn kho năm nay, theo thông lệ hàng năm thì sẽ phải tiêu hủy, nếu không để đến cuối năm tuần phủ đến tra xét, biết được ở địa phương không cần dùng đến nhiều nam châm như vậy thì sang năm sẽ giảm bớt số lượng, gây bất lợi cho Đô Tác viện. Tiểu nhân, tiểu nhân thực sự cũng chỉ vì…… phân ưu với Đô Tác viện thôi ạ.”
Thì ra tham quan khó dứt, hối lộ khó ngừng, là bởi trên dưới cấu kết, đều mục ruỗng như nhau.
“Thứ nhất, có kẻ dùng thủ đoạn để lấy cặp lệnh bài này từ trong Tông Nhân phủ ra; thứ hai, có kẻ bí mật trộm nó ra khỏi Tông Nhân phủ. Đây là kết quả, tạm thời chưa bàn đến, điều khiến ta hiếu kỳ hơn là rốt cuộc tấm lệnh bài này có ích lợi gì mà khiến bọn thích khách cho dù bất chấp nguy hiểm trộm đồ từ kho phủ cũng nhất định phải mang nó trên người?”
Có nhân thì mới có quả, Tri Tân cảm thấy lời y nói đã chạm đến điểm mấu chốt.
Lúc này lệnh bài và cán thương đã được chuyển về tay Lý Ý Lan, hắn nâng hai món đồ, lòng bỗng trào dâng một cảm giác lạ kỳ.
Đều là lệnh bài của Viên Kỳ Liên, đều là thương do Viên Kỳ Liên rèn đúc, nếu biết trước một ngày nào đó mình sẽ có duyên phận dây dưa không rõ với vị Thái bộc quá cố này, thì thuở còn học nghệ hắn sẽ hỏi sư phụ xem người thợ rèn chưa từng gặp mặt ấy là người như thế nào, trong đời ông ta có việc nào may mắn, lại vì nguyên cớ gì mà mất sớm khi đương độ tráng niên. Khốn nỗi ngàn vàng cũng khó mua cái chữ “biết trước” ấy, năm xưa sư phụ chẳng kể nhiều, Lý Ý Lan cũng chẳng hỏi nhiều.
Song Lý Ý Lan nghĩ thầm, nếu Giải Nhung là do sư phụ đoạt ra từ trong lò đúc thì ắt hẳn quan hệ giữa ông và Viên Kỳ Liên cũng sâu xa lắm, nếu không ông đã chẳng thể vào được Chú Kiếm đường – nơi mà các thợ rèn xem là thánh địa. Ngược lại, Viên Kỳ Liên xảy ra chuyện, dựa theo tính cách của sư phụ thì nhất định sẽ không ngồi yên mặc kệ.
Sư phụ hẳn sẽ biết được chút chuyện nào đó, chẳng hạn quen biết cấp dưới và bạn bè của Viên Kỳ Liên, hoặc là biết người này sau khi chết đã được chôn cất ở đâu.
Nhưng Lý Ý Lan không mang theo bồ câu đưa thư của Tức Tâm quan, nếu muốn biết thì chỉ có thể sai người vượt ngàn dặm xa xôi để hỏi, mà chuyến này đi rồi về sẽ mất không dưới mười ngày, đã vượt quá kỳ hạn phá án mất rồi.
Mặc dù không kịp, nhưng sau đó hắn vẫn sẽ thu xếp người đi một chuyến, tương lai còn dài đâu biết trước điều gì, hắn không phải kiểu người một khi biết kết quả không như ý thì sẽ nhụt chí ngồi chờ chết.
Chỉ trong giây lát Lý Ý Lan đã quyết định xong xuôi, đồng thời hắn cũng cố nhớ xem vào năm Phụng Thiên thứ mười hai đến mười ba, sư phụ có từng nói điều gì, có từng xa nhà hay nhận được thư từ của ai gửi hay không?
Đáng tiếc những năm tháng miệt mài vùi đầu khổ luyện trên núi đã biến thành một mảng mây mù phủ kín trong trí nhớ, Lý Ý Lan cố nhớ rất lâu nhưng chỉ nhận lại thất vọng. Hắn tạm ngưng hồi tưởng, giắt cán thương vào bên hông, tiếp đó liền quan sát tấm lệnh bài bỗng sưng xuất hiện này.
Trong lúc trầm ngâm, ngón tay Lý Ý Lan vô thức chà sát hoa văn trên lệnh bài, đến khi giơ lệnh bài lên định nhìn kỹ lần nữa, hắn mới phát hiện trên ngón tay mình có một vết bùn màu đỏ sậm.
Vết bùn đỏ thẫm như máu chưa khô, Lý Ý Lan lấy làm lạ, lập tức chuyển lệnh bài sang tay còn lại rồi xòe đầu ngón tay ra xem. Có rất nhiều đồ vật mang màu sắc giống thế này, tỷ như vết máu, son, đá quặng và……
Lý Ý Lan bỗng ngẩn ra, ánh mắt nhanh chóng lướt qua lệnh bài và ngón tay mình, thấy ở trong các góc lồi lõm của lệnh bài có vài đường thẳng màu đen do bụi tích tụ, lòng hắn bất chợt thông suốt vỡ lẽ.
Hắn cất lời: “Trương Triều vừa nói lệnh bài có hai tấm ghép lại với nhau mới thành hai chữ “Phụng Thiên” hoàn chỉnh, vậy có khi nào bọn chúng dùng nó để trao đổi ám hiệu, xác nhận thân phận đôi bên không? Giả sử ta là một trong những kẻ giữ lệnh bài, chỉ khi nào nhận được bức thư có đóng dấu của nửa tấm còn lại, thì mới có thể thi hành mệnh lệnh.”
“Với cả, đạo trưởng lại đây xem đi, bụi bẩn bám trong kẽ hở này có phải là mực đóng dấu không?”
Vương Kính Nguyên lập tức đứng lên, Giang Thu Bình cũng tiếp lời: “Có thể lắm, cái này cũng tương tự như thơ giấu đầu của văn nhân, chỉ ai biết quy tắc liên hệ mới hiểu được.” (Thơ giấu đầu (tàng đầu thi): là một loại thơ của Trung Quốc mà người sáng tác sẽ giấu ý thơ qua những con chữ, kiểu phổ biến nhất là chữ đầu mỗi dòng thơ ghép lại thành 1 câu hoàn chỉnh.)
“Hơn nữa quân lệnh này biến mất mười mấy năm, sau Bình Nhạc án nó cũng mất đi hiệu dụng, chỉ còn là hai cục sắt trôi nổi, nếu không phải Trương Triều tìm ra cái này thì ai mà ngờ lại có kẻ ấp ủ ý đồ với nó? Ta đoán có lẽ đến nay Tông Nhân phủ vẫn chưa hay biết trong kho phủ thiếu mất một thứ như thế, giá trị nhỏ mà tác dụng lớn, tội gì không làm chứ?”
Ngô Kim e dè phát biểu: “Nếu như là mật ngữ, tạm chưa bàn đến triều đình, chỉ riêng Hỏa Khí doanh nơi ta từng làm cũng có cả đống biện pháp mã hóa, kẻ đứng sau tại sao lại làm điều thừa thãi, đi trêu chọc Tông Nhân phủ?”
“Bởi vì nó đặc biệt chăng?” Người ngoài cuộc thì sáng suốt, Bạch Kiến Quân nhàn nhã nói, “Tất cả mọi người vừa nhìn thấy nó liền nghĩ tới Viên Kỳ Liên, cũng giống như ta vừa nhìn cán thương kia liền biết đại nhân của các ngươi là Hồ Hành Cửu vậy.”
“Ý của tiền bối là,” Lý Ý Lan nói, “Có người đang dẫn dắt chúng ta hướng mạch suy đoán kẻ đứng sau màn về phía Viên Kỳ Liên, đúng không?”
Bạch Kiến Quân không quan tâm người khác nghĩ thế nào, ông ta nâng tách trà lên, ngửi mùi hương thoang thoảng, nói: “Dù sao thì đó chính là cảm giác của ta.”
Lý Ý Lan nhìn Giang Thu Bình, y khẽ gật đầu với hắn, cả hai ngầm hiểu ý nhau, Lý Ý Lan liền thành khẩn cười bảo: “Nói thật thì ta cũng có cảm giác giống vậy.”
Ký Thanh đang mải mê gặm hạt dưa, chuỗi tiếng động tanh tách bị hắn cắt ngang đúng lúc, cu cậu ném hạt dưa vào đống vỏ, cũng lại góp vui: “Ai dẫn dắt chúng ta, Phùng Khôn ư? Ôi chao thế thì lão thất phu này đúng là cao minh, ụp chậu phân lên đầu người chết còn mình ngồi yên làm ngư ông đắc lợi, bội phục bội phục.”
Lời này tuy rằng cực kỳ bất kính, nhưng lại không phải vu khống.
Trước khi các manh mối nam châm và chuông bách tuế xuất hiện, bọn họ không có căn cứ để nghi ngờ thủ phụ, mà giờ đã đi đến bước này rồi, những thứ khác tạm thời chưa rõ liên quan nhưng vị Chu đại nhân của trung thư tỉnh thì chắc chắn là thuộc Phùng đảng.
Chỉ hận Nhiêu Lâm xa xôi cách trở, không thể nào đi chứng thực ngay lập tức.
Trong lúc bọn họ nói chuyện, Vương Kính Nguyên dùng dao tách trà để khoét một ít cặn đen trên lệnh bài xuống, sau đó tiện tay vớ lấy một tờ giấy, nhấn dao cạy hết bùn đóng cặn ra giấy.
(Dao tách trà thuộc bộ dụng cụ uống trà, dùng để tách mở bánh trà khô ra.)
Tiếp đó hắn thắp cây nến bên cạnh lên, hơ tờ giấy đựng cặn bùn trên ngọn lửa, vết màu đỏ thẫm nhanh chóng biến thành màu đen, song khi Vương Kính Nguyên dịch chuyển tờ giấy ra chỗ khác, màu đen lại ngay tức khắc khôi phục sắc đỏ thẫm.
Đổi màu khi gặp lửa là đặc tính của chu sa, mà chu sa là một trong những nguyên liệu của mực đỏ đóng dấu, Vương Kính Nguyên xác nhận suy đoán của Lý Ý Lan, quân lệnh này chắc chắn từng dính mực đóng dấu.
Vì chuyện đại ca nhà mình nên Lý Ý Lan khó lòng nghĩ về Phùng Khôn theo chiều hướng tốt được, hắn nói: “Tốt lắm, hiện tại tạm giả thiết rằng lệnh bài là do thủ phụ sai người lấy từ Tông Nhân phủ, lại thông qua một số con đường mà có liên lạc với bộ hạ cũ của Quân Khí giám. Hai bên này một bên đưa quyền lợi, một bên đưa sức lực, tiến tới đạt được mục đích có lợi cho đôi bên.”
“Vậy mục đích của cả hai bên rốt cuộc là gì? Bây giờ chúng ra hãy lý giải xem.”
“Quân Khí giám muốn báo thù, theo như câu chuyện Bình Nhạc án lưu truyền trong dân chúng thì kẻ thù thực sự của bọn họ là thái hậu, song hoàng cung canh phòng nghiêm ngặt, cho nên bọn họ cần một trợ thủ có thể giúp mình thâm nhập vào bên trong, mà thủ phụ thì lại có năng lực này.”
“Nhắc đến thủ phụ, với bên dưới thì phải xử lý công vụ, với bên trên lại phải coi sóc cung đình, quyền lực to lớn nắm trùm thiên hạ, muốn sắp xếp tai mắt ngầm trong cung là việc dễ như trở bàn tay. Tuy nhiên ông ta gặp quá nhiều cản trở trong việc loại bỏ thế lực đối địch, cho nên cần một nhóm sát thủ “không liên qua gì với ông ta”.”
“Thế là mối quan hệ lợi dụng lẫn nhau liền đạt thành, năm vụ án đầu tiên là do bộ hạ cũ của Quân Khí giám gây ra để giúp Phùng Khôn làm suy yếu thế lực của Liễu đảng, mà Phùng Khôn cũng cam kết cung cấp lợi ích cho người của Quân Khí giám, có lẽ nó đã thất bại hoặc cũng có thể vẫn trong giai đoạn chuẩn bị, nói chung theo trực giác của ta thì bạch cốt án sẽ không chỉ dừng lại ở hàn y án Nhiêu Lâm. Thu Bình, các ngươi nghĩ sao?”
Sự thực chứng minh trực giác của Lý Ý Lan chuẩn xác đến kinh người, song khâm sai còn đang thúc ngựa lao nhanh ở cách ngoài trăm dặm, cho nên tạm thời hắn vẫn chưa biết mình cũng có lúc liệu sự như thần.
Tri Tân là người ngoài cuộc nhất thời bị kéo vào bàng thính, y hết sức an phận, cứ ai lên tiếng y lại nhìn người ấy.
Hiện tại y đang nhìn Lý Ý Lan cất lời chậm rãi, giọng điệu mạch lạc vững vàng, thao thao bất tuyệt, khác hẳn dáng vẻ kiệm lời thường ngày. Dường như tư thái của hắn trở nên thông minh hơn, toả ra khí chất khiến bao người phải chú ý.
Tri Tân nghe hắn nói về mối liên hệ giữa Quân Khí giám và thủ phụ, bản thân vốn dĩ không biết nhiều về hai bên này nhưng y vẫn có cảm giác mãnh liệt rằng điều này “hết sức có lý”, cứ như thể sự thực ắt hẳn là như vậy.
Tin tưởng lời nói phiến diện của ai đó một cách mù quáng như thế kỳ thực có chút nguy hiểm, nhưng lúc này đây chẳng những Tri Tân không hề cảm thấy nguy hiểm, mà trái lại còn thấy Lý Ý Lan như vậy thật khiến người ta…… nhìn chăm chú chẳng rời mắt nổi.
Trước mắt y chẳng còn hình bóng ai khác, cho nên “người” nhìn chằm chú chẳng rời mắt nổi chỉ có thể là chính y.
Khi nhận ra sự si mê ấy, Tri Tân dời tầm mắt, không niệm A Di Đà Phật, ấy thế nhưng trái tim lại đập nhanh liên hồi.
Giang Thu Bình chẳng hề hay biết nội tâm y đang dậy sóng, chỉ liên tục nghiền ngẫm lời nói của Lý Ý Lan, cuối cùng lắc lắc đầu.
Suy luận không có một kẽ hở nào, Giang Thu Bình nhủ thầm.
Mọi người lại tiếp tục thảo luận một lát thì nghe ngoài cửa có tiếng xôn xao ồn ào, thì ra bộ khoái đã giải chủ xưởng đá về. Lý Ý Lan đứng lên, dẫn mọi người dời bước đến đại sảnh nha môn.
Chẳng mấy chốc tiếng trống đăng văn đã vang vọng khắp cả sảnh đường, bàn xử án và gậy phạt lần lượt được lấy ra, Lý Ý Lan lo lắng đang thẩm tra nửa chừng lại lên cơn ho nên bèn bảo Giang Thu Bình ngồi lên bàn khai đường.
Tạ Tài và hắn cùng với cả nhóm cấp dưới ngồi chen chúc nhau ở chỗ của kinh thừa để xem buổi thẩm tra. Đối với kiểu tác phong không màng tôn ti chủ thứ này, Tạ Tài đã không còn lời nào để nói rồi. (Kinh thừa: người ghi biên bản của nha môn.)
Chủ xưởng là người bình thường, mới đầu không thừa nhận mà cứ luôn miệng kêu oan, song thân xác thì thành thật hơn miệng lưỡi, đến khi chịu đòn roi và bị kẹp đầu ngón tay, nước mắt giàn giụa, trầy da tróc thịt, cuối cùng gã cũng chịu khai.
Gã nói mảnh nam châm trong xưởng, bao gồm cả đống bị đập nát và khối trong phòng vật chứng của nha môn, đều do một doanh quan ở Đô Tác viện tại Phù Giang đưa cho mình. Doanh quan nọ cho gã một ngàn lượng, đổi lại vào đầu tháng chín, nhờ gã bỏ lẫn nam châm vào đống vật liệu đá số lượng lớn mà gã vận chuyển trên đường từ mỏ đá trở về.
Đô Tác viên là cơ quan lưu hành binh khí, nơi cất giữ cung, nỏ, tên, năm nào cũng được phân phối nam châm theo thông lệ một cách danh chính ngôn thuận. Tới đây, rốt cuộc cũng tìm được xuất xứ của khối nam châm trong nhà người thợ mộc.
Có câu có tiền thì sai khiến được cả ma quỷ, Lý Ý Lan nghĩ bụng một ngàn lượng ư, thảo nào kẻ này dám cả gan khai láo, cầm số bạc lớn thế này đi lưu lạc chân trời đến suốt đời cũng đủ.
Giang Thu Bình hỏi kỹ càng họ tên, chức quan và nơi làm việc của doanh quan kia, tiếp đó đập mạnh kinh đường mộc, quắc mắc truy hỏi: “Nam châm là của công của nhà nước, phải đăng ký danh sách mới được lưu thông, ông ta cho ngươi mà ngươi cũng dám nhận, chẳng buồn hỏi tại sao, hoá ra đầu của già trẻ nhà ngươi chỉ đáng giá một ngàn lượng bạc thôi sao?”
(Kinh đường mộc là khối gỗ mấy ông quan hay đập lúc thăng đường đó:v Quen hong?)
Bộ dáng này của y rõ là nham hiểm, trông còn đáng sợ hơn cả ra vẻ gào thét quát tháo. Đầu ngón tay chủ xưởng đã bị kẹp đến bật máu, tay đứt ruột xót khiến gã đau đớn khôn cùng, bây giờ hỏi cái gì gã cũng khai hết, chỉ mong không phải chịu phạt nữa.
“Đại nhân tha mạng! Tiểu nhân cũng hỏi qua chứ đâu có hồ đồ. Ông ta nói đây là tồn kho năm nay, theo thông lệ hàng năm thì sẽ phải tiêu hủy, nếu không để đến cuối năm tuần phủ đến tra xét, biết được ở địa phương không cần dùng đến nhiều nam châm như vậy thì sang năm sẽ giảm bớt số lượng, gây bất lợi cho Đô Tác viện. Tiểu nhân, tiểu nhân thực sự cũng chỉ vì…… phân ưu với Đô Tác viện thôi ạ.”
Thì ra tham quan khó dứt, hối lộ khó ngừng, là bởi trên dưới cấu kết, đều mục ruỗng như nhau.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.