Thập Niên 70: Đoán Mệnh Sư

Chương 279

Túy Cai Ngoạn Tử

12/10/2022

Chú thích:

(1)Câu Trần: là một phần của Hắc đạo (chúng bao gồm Thiên Hình, Chu Tước, Câu Trần, Nguyên Vũ, Thiên Lao và Bạch Hổ). Các vị thần này đều chủ về tai họa, bất lợi, thiên tai. Đặc biệt với ngày Câu Trần, đây là ngày chủ về bất hòa, mâu thuẫn vợ chồng cũng như rắc rối trong công việc, khó khăn trên đường công danh.

(2)Quy luật của vũ trụ là vấn đề đã được chiêm tinh học, các học giả từ thời cổ đại cũng đã quan tâm và nghiên cứu. Việc quan sát các vì sao, bầu trời cũng như các hiện tượng thiên văn, địa lý, tự nhiên cũng như sự vận động và vận hành của các vì sao đã đưa ra được nhiều học thuyết. Các học thuyết này được vận dụng vào trong dự đoán vận mệnh, số mệnh của con người. Và quan niệm về ngày hoàng đạo và hắc đạo là một trong số những học thuyết được ứng dụng đó. Học thuyết này dựa trên nghiên cứu về chuyển động của mặt trời từ phía tây sang phía đông, với các cung tương ứng với vị trí của 12 vì sao. Nhờ đó họ sẽ tính được thời tiết sắp xảy ra như thế nào, thời vụ nên tiến hành ra sao. 12 cung sẽ chia thành 2 phần: 1 bên là hắc đạo 1 bên là hoàng đạo. Mỗi cung có 1 vị thần và 1 tính chất cát hung riêng biệt.

(3) Sao Thiên Hình:

Đặc Điểm

- Hành: Hỏa

- Loại: Hung tinh

- Chủ về: Cô khắc, hình thương, tai vạ, yểu vong

- Tên gọi tắt: Hình

Sao Thiên Hình là sao Hung Tinh, là sao xấu. Tuy nhiên khi nhìn thấy sao này thì cũng đừng lo nghĩ đến sự xấu xa của nó mà cần phải xem xét đầy đủ các yếu tố tác động rồi mới đưa ra nhận định đúng sai, tốt xấu của một cung, vận hạn…

Phân loại theo tính chất là Hình Tinh. Sao này là sao xấu. Một trong 4 sao của cách Binh Hình Tướng Ấn (Phục Binh, Thiên Hình, Tướng Quân, Quốc Ấn). Cũng là 1 trong 4 sao của cách Hình Riêu Không Kiếp (Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không, Địa Kiếp).

 

Vị Trí Ở Các Cung

-Nếu sao Thiên hình nằm ở đắc địa: Dần, Thân, Mão, Dậu.

-Nếu sao Thiên Hình hãm địa: đó là Tý, Sửu, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Tuất, Hợi.

(4)Phép “Cân xương tính số” là lấy giờ ngày tháng năm sinh (Âm lịch) phối với nhau, mỗi can chi, ngày tháng được định lượng theo kiểu “vàng” tức là lượng chỉ. Cộng lại số lượng chỉ sau khi quy đổi ra sẽ được số cuối cùng.

Phép toán trọng lượng của năm, tháng, ngày, giờ sinh chỉ có một mục tiêu là biết xem người nào đó có số cao hay thấp chủ yếu liên quan đến mức độ giàu nghèo, chứ nó không xem xét được tất cả các khía cạnh của đời người như bệnh tật, hôn nhân, con cái… Đây chỉ là lượng số chung, nó là một trong nhiều môn coi số mệnh dùng để tham khảo, so sánh chứ không nên tin tuyệt đối.

Trong phép Cân xương tính số có tổng cộng 60 hoa giáp, 12 tháng, 30 ngày, 12 giờ phối với nhau thành các cách cục có số cân lượng cao thấp khác nhau.

Lượng số thấp nhất là 2,2 lượng (2 lượng 2 chỉ), còn lượng cao nhất là 7,1 lượng, nghĩa là có tất cả 60 cân lượng. Thông thường số cân lượng càng thấp thì số mệnh càng chịu nhiều cơ cực vất vả bần hàn, số cân lượng càng cao thì càng được hưởng nhiều vinh hoa phú quý.

Còn lại đa số người bình thường nếu số cân lượng nằm trong khoảng trên 3,5 đến 6,0; như thế cũng là hợp lẽ bởi vì nếu cao quá thì cũng thường gắn liền với thị phi họa hại, còn thấp quá thì nghèo hèn cực khổ.

Cách tính cân lượng như ở bảng sau đây :

Ví dụ một người sinh giờ Tý ngày 30/2 năm Quý Mùi thì có cân lượng như sau:

Cân lượng năm sinh: Quý Mùi 0,7

Cân lượng tháng sinh: Tháng 2 là 0,7

Cân lượng ngày sinh: Ngày 30 là 0,6

Cân lượng giờ sinh: Giờ Tý là 1,6

Tổng cân lượng là 3,6.

Sơ lược luận giải số cân lượng:

2 lượng 2 chỉ

Số này thân hàn cốt lạnh, khổ sở linh đinh, quanh năm lo kiếm ăn độ nhật mà còn thiếu thốn, rồi có thể trở thành ăn mày vì số mạng vậy.

2 lượng 3 chỉ

Số này hễ mưu toan làm việc gì cũng khó nên được. Chẳng trông cậy nơi anh em họ hàng, đành chịu tha phương cầu thực.

2 lượng 4 chỉ

Số này suy ra không có phúc lộc gia đình, khó gây dựng nên sự nghiệp, không nương cậy nơi họ hàng cốt nhục, chỉ lưu lạc tha phương cầu thực tới già mà thôi.

2 lượng 5 chỉ

Suy ra số này tổ nghiệp suy vi, ít có phần gây dựng nên gia đình được, họ hàng cốt nhục thì như than với giá, một đời khổ sở, chỉ tự mình tìm sống mà thôi.

2 lượng 6 chỉ

Số này trọn đời khốn khổ, một mình mưu tính công việc làm ăn luôn luôn nhưng chẳng thành. Nên lìa xa quê cha đất tổ mới có thể được đủ ăn và may ra lúc già mới được thanh nhàn.

2 lượng 7 chỉ

Số này một đời làm công việc ít có được người khác mưu toan giúp đỡ, khó nhờ cậy phước đức của tổ tông làm chủ trương cho. Chỉ tự lực một mình làm ăn, từ bé đến lớn cũng chẳng có gì hay cả.

2 lượng 8 chỉ

Số này làm ăn lộn xộn rối ren như bòng bong, về sản nghiệp của tổ tông thì như giấc mộng. Nếu chẳng làm con nuôi người ta hay là không đổi họ thì cũng phải dời đổi di cư tới đôi ba lần.

2 lượng 9 chỉ



Số này năm xưa thì lẩn quẩn chưa hề được hạnh thông, dầu có công danh thì cũng trễ muộn, phải tới ngoài bốn mươi tuổi mới có thể đặng an nhàn, nhưng phải dời đổi nhà cửa hay là đổi họ mới hay

3 lượng 0 chỉ

Số này lao lực phong trần, trong đời gặp lắm cảnh lầm than. Dầu có siêng năng hà tiện, thì tới tuổi già chỉ đỡ ưu sầu chút đỉnh thôi

3 lượng 1 chỉ

Số này cũng vất vả lao đao vì sanh kế, khó nhờ sự nghiệp của tổ tông mà nên nhà nên cửa. Từ nửa đời người trở lên mới gọi là đặng đủ ăn đủ mặc.

3 lượng 2 chỉ

số này năm xưa gặp vận rủi, khó mưu đặng công việc gì. Về sau mới có tài lợi như nước chảy lần tới. Từ nửa đời người trở lên thì sự ăn mặc đặng no đủ, lúc ấy công danh lợi lộc sẽ hạnh thông.

3 lượng 3 chỉ

Số này lúc ban sơ làm ăn công việc chi cũng khó thành, mưu tính trăm đường chỉ uổng công thôi. Từ nửa đời người sắp lên mới gặp vận hay sẽ tới như dòng nước chảy lại, sau này tài lợi tấn phát đặng nhiều.

3 lượng 4 chỉ

Số này có phước khí tăng đạo, phải xa quê hương cha mẹ mà xuất giá nương cửa Phật, hằng ngày tụng niệm thì mới đặng y lộc viên mãn.

3 lượng 5 chỉ

Số này phước lượng sanh bình chẳng đặng chu toàn, chẳng hưởng phần căn cơ của tổ nghiệp truyền lại. Còn sự sanh nhai phải chờ khi vận tới rồi mới no đủ hơn xưa.

3 lượng 6 chỉ

Số này một đời chẳng cần lao lực chi lắm, một tay gầy dựng nên gia nghiệp, cái phước chẳng phải vừa, vì sớm có ngôi phước tinh thường chiếu tới mạng mình, mặc dầu cho làm qua trăm bề đều đặng thành đạt.

3 lượng 7 chỉ

Số này làm chẳng đặng thành công, anh em ít giúp sức, chỉ một thân cô lập. Tuy rằng cũng có tổ nghiệp chút đỉnh, nhưng lúc lại thì rành rành đó, mà lúc đi thì chẳng biết hết bao giờ.

3 lượng 8 chỉ

Số này cốt cách rất thanh cao, sớm đặng thi đổ, tên họ ghi tên bảng vàng. từ năm 36 tuổi, sẽ được phú quý vinh hoa.

3 lượng 9 chỉ

Số này trọn đời vận mạng chẳng đặng thông đạt, làm việc thành rồi cũng hư. Khổ tâm kiệt lực dựng nên gia kế tới sau này cũng như giấc mộng

4 lượng 0 chỉ

Số này phước lộc đặng lâu dài, nhưng xưa phải chịu qua nhiều nỗi phong ba vất vả. Sau này đặng hưởng an nhàn phú quý.

4 lượng 1 chỉ

Số này là người tài ba lỗi lạc, công việc trước sau chẳng đồng nhau; từ nửa đời sắp lên lai cọ phước tiêu diêu, chớ chẳng như xưa kia vận chưa đạt.

4 lượng 2 chỉ

Số này sẽ được nhiều thoả nguyện. Từ nửa đời người thì vận mạng đặng nên, lúc ấy tài lợi công danh thảy đều tấn phát.

4 lượng 3 chỉ

Số này là người tánh rất thông minh, làm việc lỗi lạc hiên ngang gần với người sang quí. Một đời phước lộc tự trời định sẵn, chẳng cần phải lao lực mà tự nhiên đặng hanh thông.

4 lượng 4 chỉ

Phàm sự chi cũng bởi trời đem lại, chẳng cần cầu làm chi cho mệt, phước lộc về sau sẽ đặng hơn nhiều lúc khi xưa. Tuy rằng lúc trẻ cung Tài Bạch khó đặng như ý, nhưng tới tuổi già đặng an nhàn.

4 lượng 5 chỉ

Số này phần công danh lợi lộc trước phải tân khổ, mà sau này cũng phải bôn ba; số hiếm hoi con cái vì khó nuôi; anh em cốt nhục cũng ít đặng phù trợ giúp sức.

4 lượng 6 chỉ

Số này đi đâu cũng đều đặng hạnh thông, nhứt là đổi họ dời nhà lại càng thịnh vượng. Ăn mặc đầy đủ tự số trời định sẵn. Từ nửa đời cho tới lúc già đồng một mực trung bình.

4 lượng 7 chỉ

Số này tính ra vượng về lúc tuổi già, vợ con phú quí, vì nguyên có cái phước sẵn như nước chảy lại.

4 lượng 8 chỉ

Số này, tuổi trẻ cũng như lúc tuổi lớn, cũng chẳng đặng hưng vượng. Anh em họ hàng đều không đặng nhờ cậy giúp sức. Tới lúc già rồi mới đặng đôi phần an khương.

4 lượng 9 chỉ

Số này suy ra có hậu phước lớn lắm, tự tay gầy nên sự nghiệp vẻ vang gia đình. Người sang đều kính trọng. Một đời sung sướng.

5 lượng 0 chỉ



Số này hằng ngày chỉ lao lực về đàng công danh tài lợi. Lúc nửa đời cũng có nhiều phen gặp phước lộc; tới già có ngôi Tài Tinh chiếu mạng sẽ đặng an nhàn.

5 lượng 1 chỉ

Số này một đời vinh hoa, mọi việc thảy đều tấn phát, chẳng cần lao lực, tự nhiên hạnh thông. Anh em chú cháu đều đặng như ý, gia nghiệp và phước lộc đặng đầy đủ.

5 lượng 2 chỉ

Số này trọn đời hạnh thông, việc gì cũng hay, chẳng cần nhọc lòng mà tự nhiên yên ổn. Họ hàng cốt nhục thảy đều giúp sức; sự nghiệp hiển đạt.

5 lượng 3 chỉ

Số này xem ra khí tượng chơn thật, nghiệp nhà mà đặng phát đạt cũng ở trong đó. Phước lộc một đời có số định sẵn vinh hoa phú quí.

5 lượng 4 chỉ

Số này là người có tánh trung hậu và thanh cao, học hành minh mẫn, ăn mặc phong túc, tự nhiên an ổn, chính là người có phước trên đời.

5 lượng 5 chỉ

Số này lúc trẻ hằng bôn ba trên đàng danh lợi, nhưng uổng công phí sức mà thôi. Ngày kia, phước lộc sẽ tới như nước chảy lại, rồi tự nhiên phú quí vinh hiển.

5 lượng 6 chỉ

Số này suy ra là người lễ nghĩa thông thái, một đời phước lộc; nếm đủ mùi chua cay, nguồn tài lợi thì cuồn cuộn, an ổn và phong hậu.

5 lượng 7 chỉ

Số này phước lộc dẫy đầy, mọi sự hạnh thông, quang hiển mẹ cha,oai vọng chấn dương, người đều kính trọng, riêng chiếm bầu xuân.

5 lượng 8 chỉ

Số này là số bảng vàng áo gấm, quan cả khoa cao, phước lộc một đời tự nhiên đem lại, phú thọ đều đủ, danh lợi kiêm toàn.

5 lượng 9 chỉ

Suy ra số này là người diệu xảo không có thanh cốt, chắc hẳn tài cao học rộng có phận đậu khoa bảng, có mạng làm quan sang.

6 lượng 0 chỉ

Số này tên đậu bảng vàng, lập nên công lớn, vinh quang tông tổ, điền sản phong túc, y lộc dư giả.

6 lượng 1 chỉ

Số này tư chất thông minh, học hỏi rộng rãi, tự nhiên vinh diệu, tên đậu bảng vàng. Dầu chẳng được quan sang, chắc cũng là một nhà phú hộ.

6 lượng 2 chỉ

Số này phước lộc vô cùng, học giỏi làm nên, vinh hiển mẹ cha, đai vàng áo gấm, phú quí vinh hoa, mọi đường đầy đủ.

6 lượng 3 chỉ

Số này là số đậu khoa cao, làm quan lớn, giàu sang cực phẩm, toại danh thiên hạ; phước lộc phi thường, gia đình vinh hiển.

6 lượng 4 chỉ

Số này phú quí vinh hoa, ít ai bì kịp; oai quyền lộc vị, không kẻ sánh bằng. Áo tía đai vàng, ngôi cao chung đỉnh, trọn đời hạnh phúc.

6 lượng 5 chỉ

Số này suy ra thì phước lộc chẳng nhỏ, tài cao giúp nước, công cả yên dân; chức trọng trào đình, giàu sang tột bực, vang danh thiên hạ.

6 lượng 6 chỉ

Số này phú quí định sẵn tự trời, phước lộc hơn thiên hạ, quan cao quyền trọng, châu báu đầy vơi, ấm phong thê tử.

6 lượng 7 chỉ

Số này sanh ra tự nhiên có phước lớn, điền viên gia nghiệp thật hưng long, trọn đời phú quí vinh hoa, muôn việc hạnh thông hoàn hảo.

6 lượng 8 chỉ

Số này giàu sang tự trời ban, khỏi phải khó nhọc, gia tư có muôn vàng; nhưng mười năm sau chẳng có như hồi trước, căn cơ tổ nghiệp trôi đi như thuyền trên mặt nước sóng bão.

6 lượng 9 chỉ

Số này là một vì sao y lộc ở nhơn gian, một thân phú quí, mọi người đều kính nể. tóm lại, là phước lộc do tự trời định, an hưởng vinh hoa trọn đời.

7 lượng 0 chỉ

Số này suy ra phước chẳng nhỏ, không cần phải sầu lo làm chi cho mệt nhọc, vì trời đã đinh sẵn y lộc phong danh, một đời vinh hiển giàu sang.

7 lượng 1 chỉ

Số này sanh ra rất khác với người thường, công hầu khanh tướng đều đặng hoàn hảo, một đời tự nhiên có phước tiêu diêu khoái lạc, cực phẩm hưng long.

Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net

truyện bách hợp
truyện sắc

Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.

truyện bách hợp

Nhận xét của độc giả về truyện Thập Niên 70: Đoán Mệnh Sư

Số ký tự: 0

    Bình luận Facebook