Thuận Thiên Kiếm Rồng Không Đuôi
Chương 48: Thuận Thiên Kiếm tiền truyện - Hồi một (5)
Nghịch Tử
05/06/2018
Ngân Kê hét lên thất thanh, nhưng tiếc là đã quá muộn mất rồi. Hồ Đỗ
nghiến răng cười gằn, quyền trái đang đấm ra lại đột nhiên thu về. Tay
phải giấu sau người thì rút phắt luôn thanh kiếm cắm ở thắt lưng ra.
Lưỡi kiếm uốn lượn dài tuốt trần, ánh thép trắng muốt như muốn nuốt cả
linh hồn Đồng Kê vào.
Chỉ nghe phập một cái ngọt xớt, đã có nửa cánh tay rơi xuống đất lăn lóc trong vũng máu.
“ Anh cả!! ”
Cả Ngân Kê và Đồng Kê đều hét lên thất thanh, sự bi thống hằn trong từng câu từng chữ. Thì ra ngay lúc nguy hiểm nhất, anh cả Gia Nghĩa đã xô Gia Tín ra chỗ an toàn. Thành thử người hứng trọn nhát chém lại là Kim Kê.
Phải nói, âu cũng tại Đồng Kê khinh địch. Qua một lần giao thủ là y biết ngay võ công của Đỗ chẳng cao. Đỗ lại mới bị đánh bay binh khí. Thành ra Gia Tín nghĩ chẳng cần đến hai anh mình cũng xử ngon đối thủ, nên mới phá vỡ trận cước.
Nào ngờ kẻ địch lại cầm một nửa thanh Thư Hùng kiếm mà chém.
Nếu lúc đó Đồng Kê chỉ chăm chăm việc thủ cho vững, nhường thế công cho anh thì e Hồ Đỗ đã phải nuốt hận bởi ngọn cước của Kim Kê. Thế nên y lúc này hối lắm, chỉ mong thời gian quay trở lại để y hứng nhát kiếm thay anh trai.
Gia Nghĩa ôm chặt khuỷu tay cụt, nén đau hú lên một tiếng. Y tung mình, đôi chân phóng ra liên tiếp ba cước vào ngực Hồ Đỗ đang cười đắc ý. Ba đòn này nhằm toàn vào những chỗ yếu hại đã đành, kình lực lại còn quỷ dị cộng hưởng lẫn nhau. Thật đúng là độc chiêu.
Trúng đến đòn thứ ba là Hỗ Đỗ đã ngã bật ngửa, ộc máu bất tỉnh. Phạm Lục Bình phải lướt đến, dùng Hùng Kiếm dẫn dư kình trên người Hồ Đỗ xuống đất mới hoá giải được nguy cơ mất mạng của y.
Đây vốn là một trong ba tuyệt chiêu tất sát của võ gà, tên là Thất Đao Thiên. Tương truyền trong giới chọi gà, muốn biết gà hay gà dở thì phải nhìn hình vảy ở chân. Mà phàm là con có thế Thất Đao Thiên này thì ắt là Sát Kê tung hoành vô địch khắp các xới chọi. Nguyên bản đây vốn là một đòn liên hoàn thất cước, phải đá liên tiếp bảy phát mới là cảnh giới cuối cùng. Nhưng Kim Kê chỉ mới học không lâu, tung được ba đòn đã hết khả năng rồi.
Một chiêu phản kích bất ngờ của Kim Kê khiến nội phủ Hồ Đỗ hầu như dập nát. Đá xong sát chiêu, y mới loạng choạng hạ xuống trên đôi chân mình. Cả người Gia Nghĩa thoáng run lên vì cơn đau mất đi cánh tay.
“ Anh cả! ”
Gia Tín, Gia Lễ chạy đến đỡ Kim Kê. Hắn cố gắng gượng dậy, nhưng đã quá yếu để làm điều ấy.
Ngân Kê giúp anh nằm xuống dựa vào gốc cây si già, rồi quay ngoắt về phía Phạm Lục Bình. Cặp kê trảo cứa mạnh vào nhau đến toé cả lửa. Ánh nhìn của đôi bên va chạm, ác liệt chẳng thua gì sấm sét.
Phạm Lục Bình bình tĩnh đặt Hồ Đỗ xuống, đoạn nhặt thanh Thư kiếm lên. Một cơn gió lướt từ hồ vào, làm mái tóc và vạt áo y bay phấp phới. Con trăng dần hạ xuống khỏi thiên không khi trời tản dần về sáng. Ánh bạc xuyên qua tàng cây si như một con suối, vỡ tan trên đôi vai của người kiếm khách.
“ Dẹp con mẹ nó luật với chả lệ đi! Hôm nay có một cân vàng thì chúng mày cũng phải bỏ lại ba cái mạng chó! ”
Ngân Kê rít lên the thé trong khi thủ thế, chuẩn bị giáp công.
“ Nói nhảm, có giỏi thì nhào vô mà kiếm ăn! ”
Lục Bình nào có chịu kém? Người thanh niên mà sau này sẽ trở thành Long Thành kiếm khách cầm ngược cặp trường kiếm, sẵn sàng nhảy bổ vào người đối thủ bất kì lúc nào.
Và… cái gì phải đến cũng đến.
Mây đen lững lờ lướt qua, che khuất ánh trăng bàng bạc. Chỉ còn ánh lửa nháy lên liên hồi trong vũ khúc tàn bạo của thép lạnh.
Phạm Lục Bình và Ngân Kê Gia Lễ chẳng biết tự lúc nào đã xổ vào nhau, ăn thua sống chết nhau từng chiêu một. Đánh đã hai chục chiêu qua qua lại lại, nhưng song phương xem chừng hẵng còn hăng lắm. Lục Bình, Gia Lễ đều đang nóng máu vì anh bị thương, nhưng không vì thế mà nóng giận mất bình tĩnh. Đấu pháp của song phương đều có công có thủ, có tiến có lùi, nhất thời chưa thể phân ra thắng phụ.
Ngân Kê đánh lâu đâm bực, bèn bất thình lình sử chiêu “ Giáp Thới Phong Đao ”. Trong giới đá gà, thì đây cũng là tướng của gà quý, xưng là tướng kê. Đặc điểm của chiêu là tấn công chớp nhoáng, liên hoàn như vũ bão khiến đối thủ không sao chống nổi.
Ngân Kê vung trảo công liên tiếp, biến chiêu thật là hiểm hóc. Giống như một con gà chọi nổi xung, hắn liên tục đe doạ yết hầu, thái dương, lồng ngực…v.v… của Phạm Lục Bình bằng cặp kê trảo lợi hại. Từng đòn, từng đòn đều dồn hết cảm xúc căm hận và công lực cả đời vào. Thế công mạnh không khác nào dòng sông đổ xuống từ vách đá mấy trượng.
Phạm Lục Bình vẫn bình tĩnh, chẳng vì những đòn công kích dữ dội ấy mà nao núng. Y một mực dùng thanh Hùng kiếm mà hoạ nên những đường cong uyển chuyển. Nếu như lực đạo của Ngân Kê đang nổi khùng mạnh mẽ như dòng sông dữ thì đường kiếm của Phạm Lục Bình chẳng khác nào những con mương nắn dòng. Đôi kê trảo liên tục bị Hùng kiếm đen nhánh dẫn cho đụng vào nhau chan chát, khiến kình lực tay này cứ triệt hạ lực đạo tay kia.
Ngân Kê cứ đánh hung hãn như trâu húc mả, nên chỉ một chốc là nội lực hao tổn rõ rệt, phải đứng thở hồng hộc ra đấy. Trong khi đó, Phạm Lục Bình chỉ cần gẩy thanh Hùng kiếm là các đòn cào, đâm, thọc, chém của Gia Lễ đã bị đẩy cho bạt vía, xiêu xiêu vẹo vẹo.
Phạm Lục Bình lại rung mạnh cổ tay, Thư kiếm vẩy ra tựa như chớp giật. Lưỡi kiếm gấp khúc xẹt nhanh qua mặt Ngân Kê, để lại một vết thương mảnh cỡ sợi chỉ. Chỉ cần né chậm một chút thôi thì e là má Gia Lễ đã phải rách toạc.
Song Ngân Kê trong Hùng Kê Tam Kiệt cũng chẳng phải tay mơ. Y thuận theo đà nghiêng, tung ngay một cước nhanh như trảo chớp nhắm vào mạng sườn của Phạm Lục Bình.
Chiêu này gọi là “ Nội Hoa Đăng ”, cũng phảng theo một tướng của gà quý trong môn chọi gà.
Lục Bình dựng thẳng Hùng kiếm lên, toan chuyển kình lực của cú đạp bất ngờ ra chỗ khác. Nào ngờ, chân của Ngân Kê vừa đụng lên mặt kiếm, bảy tầng ám kình đã cuồn cuộn đẩy tới, phong toả hết đường phản kích của Hùng kiếm. Chẳng những thế, ám kình xộc vào cánh tay Lục Bình, khiến chuôi kiếm suýt thì rời tay.
Biết Ngân Kê đã giở ngón tủ, Phạm Lục Bình vội vàng lui nhanh, những tưởng dùng bộ pháp truyền bảy luồng ám kình trên người xuống đất. Nhưng Gia Lễ lại nhanh hơn một bước.
Vừa đạp một phát xong, hắn đã vòng ra sau lưng Lục Bình rồi tung mình lên, ra chiêu Nội Hoa Đăng thêm một lần nữa. Đòn này vừa hay chặn luôn đường lui, không để đối thủ hoá giải ám kình của Nội Hoa Đăng.
Đối thủ biến chiêu quá nhanh, Phạm Lục Bình chỉ đành dựng kiếm cản tiếp một cước, ám kình lại theo tay truyền vào cơ thể. Y hét lên, vung Thư kiếm lên phản kích, tiếc là Ngân Kê đã kịp dùng kê trảo đón lấy lưỡi kiếm.
Ám kình đợt trước chưa tan đợt sau đã xông vào, vô cùng phiền phức. Phạm Lục Bình cứ phải phân thần ra dùng nội lực áp chế chúng, đâm ra vướng tay vướng chân.
Gà có vảy “ Nội Hoa Đăng ” lúc chọi giỏi nhất là phá chiêu của đối thủ, lối đánh lại dồn dập hiểm hóc vô cùng. Cũng như đòn Thất Đao Thiên Kim Kê vừa dùng, Nội Hoa Đăng cũng là một độc chiêu áp đáy hòm của võ gà.
Phạm Lục Bình toát mồ hôi lạnh, thầm nghĩ:
[ Hỏng bét, cứ để hắn tung chiêu này thì mình thua là cái chắc. ]
Mà sắc mặt Ngân Kê cũng đã tái xám lại. Y dừng lại điều chỉnh hô hấp của bản thân, cố không để Lục Bình biết nội lực của y đã tiêu hao quá tám thành.
Hai bên đương lâm vào thế bí, chưa biết giải quyết chuyện này ra làm sao thì bỗng nhiên ở gần đó có tiếng trẻ con cất lên:
“ Bớ làng nước ơi, có người giết nhau này! ”
Kế ấy lại vang lên tiếng bước chân nện đất rầm rập. Thọ Cú đứng ngoài, một mặt làm giám khảo mặt khác cũng cẩn thận cảnh giới cho cả bọn. Y nghe thấy dị thanh trước tiên, bèn la lớn:
“ Hỏng! Quân thủ thành mà đến, phạt vạ như chơi đấy. Đi mau! ”
Kim Kê Gia Nghĩa bèn thều thào:
“ Tín, đừng để chuyện bé xé to. Lần sau tìm chúng nó trả thù cũng được. Đi ngay thôi. ”
Đồng Kê gật đầu, vội vàng gọi Gia Lễ trở lại. Bốn người dìu nhau, nhanh chóng biến mất về phía ngôi làng đằng xa. Đúng lúc này, vầng trăng mới vượt ra khỏi những áng mây bồng bềnh, soi xuống bãi cỏ lưa thưa bên hồ.
Hồ Xạ bước nhanh đến chỗ Phạm Lục Bình, hỏi:
“ Chú không sao đấy chứ? ”
“ Không sao… ” - Lục Bình thở dài, ngồi phịch xuống. Ám kình của Ngân Kê trong thể nội đã bị hắn áp chế, nên tạm thời chưa có gì đáng ngại.
Y nhìn Hồ Đỗ nằm hôn mê dưới đất, thở dài.
“ Lần này là chúng ta gặp may. ”
Hồ Xạ không phản bác. Dù chẳng muốn thừa nhận, nhưng sự thật rành rành ra đó. Đoàn chiến họ thua, đơn đấu cũng chẳng thắng nổi. May mà đối thủ khinh địch.
“ Để anh đưa cô gái kia về, chú còn dìu được Hồ Đỗ không? ”
“ Cố thì chắc là được. ”
Phạm Lục Bình chống kiếm đứng dậy. Chờ cho nghĩa huynh dẫn cô gái về trước, y mới chắp tay vái về phương xa, vận công nói to:
“ Không biết vị cao nhân nào giúp đỡ, có thể hiện thân gặp mặt để Lục Bình nói lời cảm tạ hay chăng? ”
“ Không dám, không dám. Đều là tên nhóc này bày trò phá làng phá xóm cả. Hai vị anh hùng đừng để bụng. ”
Từ phía bãi sen đi tới hai bóng người, một lớn một nhỏ. Phạm Lục Bình nheo mắt nhìn, dưới ánh trăng hiện rõ hình dáng của một chàng trai với một thằng nhóc.
Người thanh niên nọ ăn vận theo kiểu quý tộc, giao lĩnh vạt chéo xanh thẫm khoác ngoài áo cổ tròn bên trong. Tay áo thõng xuống nhưng được buộc túm lại ở cổ tay, eo cài một dải thắt lưng. Lục Bình nhìn phục trang, đoán ngay y là con nhà võ. Bởi lẽ quý tộc bình thường sẽ không cài dây lưng, tay áo cũng để thõng.
Đứa nhóc đi bên cạnh thì còi như cái que, xem ra chỉ năm sáu tuổi đổ lại thôi. Tóc nó để trái đào, mũi thì tẹt dí còn da thì ngăm ngăm. Sau lưng nó đeo một cái tráp gỗ cỡ trung, lúc đi đường xóc nảy, bên trong cứ lịch cà lịch kịch đứng ngoài nghe vẫn rõ. Một bên tai nó đang bị người thanh niên đi bên cạnh véo đến đỏ bừng cả lên. Tất nhiên, y chỉ khẽ dùng sức chứ không thương hại đến thằng nhỏ. Thanh niên vừa véo tai vừa dắt đứa bé đến chỗ Lục Bình, đoạn đá nhẹ vào kheo chân nó, mắng:
“ Thằng nhãi ranh, mau xin lỗi người ta đi! ”
Nào ngờ đứa bé chỉ chun mũi, lè lưỡi nói lớn:
“ Xin lỗi? Anh à anh có quáng gà hay không? Em rõ ràng cứu mạng mấy người này, đã không cảm ơn thì chớ, lại bắt người ta xin lỗi… ”
“ Cái thằng… Ài. Anh hùng chớ có trách. Nó bé chưa biết gì. Ở nhà mẹ tôi lại chiều nó quá, đâm ra hư. ”
Phạm Lục Bình khua tay, nói:
“ Không dám. Nếu không phải hồi nãy đứa bé này hô lớn thì bốn tên nọ cũng không rời khỏi. Lúc ấy thì ai sống, ai chết khó mà nói được. Nói cho đúng, thì nhóc đối với ta có nửa cái ơn cứu mạng. ”
“ Ơn cứu mạng sao có thể chặt đôi? Không phục! ” - Thằng nhóc bất chợt phồng mang trợn má lên, nhìn chòng chọc vào Lục Bình ra chiều thách thức.
Người anh đi bên cạnh thấy nó hỗn hào, bèn đập nhẹ vào tay nó mà mắng:
“ Cái thằng nhóc này! ”
Phạm Lục Bình chỉ mỉm cười, giải thích:
“ Một mình nhóc, có la rách cổ họng cháy yết hầu cũng bằng thừa. Người cứu ta là lính tuần tra mới phải. ”
Nào ngờ thằng nhóc chỉ cười khẩy một cái, đột nhiên cung bàn tay lại, đưa lên che phần môi trên. Lục Bình đang ngơ ngác chẳng hiểu nó muốn làm gì, thì bỗng tiếng chân người bắt đầu vang lên. Trước còn thưa thớt, sau dày đặc dần, cuối cùng nghe lồng lộng như thiên quân vạn mã đang hành quân vậy.
Thể hiện xong, thằng nhóc bèn hất nhẹ cái đầu ba chỏm tóc của mình, chống nạnh:
“ Thế nào? Thiếu nửa cái ơn hay nguyên một cái?? ”
Thanh niên áo xanh cười áy náy, lại quắc mắt lườm thằng nhỏ. Đáp lại, thằng bé le lưỡi làm mặt quỷ, hai bàn tay xoè to đặt lên vành tai mà vẫy vẫy ra chiều trêu tức. Lục Bình nhún vai, nói:
“ Được, nhóc lợi hại, Phạm Lục Bình tâm phục khẩu phục. ”
“ Biết điều vậy mới tốt! Trẻ con phải biết nhận sai mới ngoan, anh nhỉ? ”
Thằng nhóc khoanh tay cười hô hố, cái mũi chun lên đắc ý trông đến là ghét. Trước câu hỏi sặc mùi trêu tức của nó, cả hai người đều chịu thua chẳng biết phải nói gì.
Hồ Đỗ nằm ở bên chợt rên lên một cái, cả người cong lên như con tôm luộc. Thanh niên áo xanh thấy vậy, không kịp giải thích dài dòng. Y bước hai bước đến bên cạnh Hồ Đỗ, đưa bàn tay phải ra, ba ngón đặt lên mạch môn đặng chẩn bệnh.
Thằng nhóc thấy Lục Bình thoáng lộ vẻ hoài nghi, bèn sẵng tiếng:
“ Sao nào? Anh trai ta hành y mát tay có tiếng cả huyện Lôi Dương, chẳng ai ở Chủ Sơn mà không biết đâu ( hai địa danh đều thuộc Thanh Hoá ngày nay)! Với lại mới bắt mạch thôi chứ đã làm cái gì đâu mà lo tới lo lui? ”
Người thanh niên bèn gắt:
“ Hổ, không được hỗn! ”
Chàng thanh niên lại tạ lỗi với Lục Bình, nói:
“ Tôi đúng thật biết chút nghề y bốc thuốc bắt mạch, song cũng chẳng phải cao minh gì. Đều tại thằng nhóc này đi đâu cũng rêu rao chút danh còm ở làng quê, thật là hổ thẹn. ”
Phạm Lục Bình vội nói:
“ Nghĩa huynh tôi nguy trong sớm tối, nay lại gặp lúc đêm hôm không biết tìm đâu ra thầy thuốc cứu trị. Chỉ mong giữ được một hơi, nào dám đòi hỏi nhiều? Huống hồ nhìn thầy bắt mạch là biêt được trân truyền của lương y rồi. ”
“ Anh à, người ta cũng khen mình thì cứ nhận đi. ”
“ Im lặng! Còn nói một câu thì chẳng có du xuân trảy kinh gì nữa! ”
Thằng bé được gọi là Hổ ấy nhanh mồm nhanh miệng là vậy, nhưng thấy anh nó nổi nóng lên thì cũng biết điều mà khoá môi mình lại. Nó phải gạ mãi, anh nó mới cho trảy kinh cùng dịp Tết. Chưa mở mang được tí nào đã bị đuổi về, nó đâu có nỡ chứ.
Nhìn gần, Lục Bình mới để ý cái tráp của nó cũng lạ chẳng kém tài giả tiếng tạo thanh. Chẳng những nó lớn gấp đôi tráp ăn hỏi thông thường, mà còn có quai để đeo sau lưng.
Ước chừng mấy hơi thở sau, việc bắt mạch cũng xong xuôi. Người thanh niên nọ khẽ thở ra một hơi, nói:
“ May mắn không tự hạ nhục mình, bệnh của người này, tôi cũng đoán được một hai. Nghĩa huynh của anh Phạm, xem chừng là bị cao thủ dùng nội kình đả thương phủ tạng. Hổ, lấy kim châm ra đây. ”
Thằng nhóc vội vâng vâng dạ dạ, tháo tráp lấy một đống kim bạc lớn có đủ loại ra. Người thanh niên không dám phí nhiều thì giờ, lập tức thi châm cứu người.
“ Đó là tử huyệt!! ”
Phạm Lục Bình đứng xem mà hãi hùng, không khỏi hét lên thất thanh. Thậm chí nếu không phải hai người có ơn cứu mạng ba anh em, thì y còn toan vung Thư Hùng lên chém hai anh em nọ nữa kìa.
Thì ra, cách thi châm của thanh niên nọ cổ quái dị thường. Y cứ nhằm những tử huyệt yếu hại vô cùng như Tâm Du, Thận Du…v.v… mà gảy châm. Thoắt một cái, mặt Hồ Đỗ đã đỏ bừng cả lên.
“ Dừng tay! ”
Đến nước này thì Lục Bình chẳng còn nhịn nổi. Không tiện ra tay với ân nhân, nên y đành phải dùng song chỉ thay cho kiếm đến toan cản thanh niên áo xanh. Nào ngờ người nọ cũng đưa tay ra, dùng ngón cái và ngón út búng một cái phá luôn chiêu kiếm chỉ của Lục Bình.
Phạm Lục Bình mới khổ chiến xong, nội lực hao tổn, trong người lại còn ám kình của Nội Hoa Đăng thì làm sao đánh lại cho được? Cũng may, thanh niên tự xưng là lang y chỉ dùng nhu lực hoá giải chiêu thức chứ không truy kích. Hai người vừa tách ra, thanh niên nọ cũng đã cắm xong xuôi mấy chục cây kim bạc lên người Hồ Đỗ. Y lại vận công vỗ một chưởng vào chính giữa ngực Đỗ.
Phụt!
Hồ Đỗ cong gập người lại, phun mạnh ra một búng máu to đùng. Máu tanh văng cả vào mặt Phạm Lục Bình đang đứng gần đó. Cảm thấy búng máu này máu đặc đặc, giơ ra dưới ánh trăng thì sắc nó nhìn sẫm hơn chứ không tươi tắn như bình thường. Y nay mới biết máu bầm trong cơ thể Đỗ đã bị ép ra ngoài, từ giận đổi thành mừng.
“ Muôn đội hậu tình, ân của hai anh em thầy tôi chẳng thể trả hết nổi. Nhà anh tôi cũng gần đây, nếu thầy lang chưa tìm được chốn dừng chân ở đất kinh kì thì xin mời thầy quá bộ đến dùng bữa cơm dưa cà. Trời đất! Nãy giờ sự tình cấp bách, quên cả lễ phép. Xin hỏi thầy lang tên họ là gì cho tiện bề xưng hô. ”
Thiếu niên nọ vỗ gáy đứa em ra hiệu, hai anh em cùng khom người trả lễ.
“ Thú thực với anh hùng, hai anh em tôi vừa mới chân ướt chân ráo lên kinh, đúng ra định nghỉ tạm ở Trấn Vũ quán cách đây hai dặm. Nếu được anh hùng cho nghỉ lại thì không còn gì tốt hơn. Anh em tôi họ Lê, cha già ở Chủ Sơn, Thanh Hoá. ”
Phạm Lục Bình thò tay xoa ba chỏm tóc của đứa bé, nói:
“ Ra là thầy Lê. Còn bé này hẳn là Lê Hổ rồi. ”
Thằng nhóc lắc đầu, rùng mình vung vẩy tay chân cố hất tay y ra, tỏ vẻ phản đối dữ lắm. Lục Bình thấy buồn cười, càng chọc nó khiến mặt nó ỉu xìu xuống như cọng bún thiu.
Hổ lại lấy hết đồ trong tráp ra, dùng một miếng vải buộc túm lại. Đoạn, nó tháo bung cả cái tráp ra thành bốn đoạn tre dài cỡ ba thước và sáu tấm ván hình vuông. Hổ thoăn thoắt ghép chúng thành một cái cáng đơn giản.
Phạm Lục Bình không khỏi bất ngờ trước cái tráp lạ. Y vừa đặt được Hồ Đỗ ngay ngắn lên cáng thì thằng Hổ cũng quải được bao hành lí lên vai.
Thanh niên họ Lê cười, đáp:
“ Tôi tên huý là Học. Còn của thằng nhóc này là Lợi. ”
Phạm Lục Bình hỏi:
“ Ồ, cơ sự thế nào mà cậu nhóc này có cái tên lạ thế? ”
“ Chẳng dám giấu anh. Khi xưa lúc mẹ tôi lâm bồn, có con hổ xám đến nằm trước cửa nhà rồi gục chết ở đấy. Con hổ này làng tôi chẳng lạ, khôn mà lành lại hay săn thú về mời dân nên mọi người quý lắm. Lúc nó chết trai tráng khắp làng trên xóm dưới hò nhau chôn dưới gốc quế nó hay lui tới. Vì tưởng nhớ hổ xám, nên cả nhà mới quen gọi đứa nhóc lém lỉnh này là Hổ. ”
“ Trên đời này lại có sự lạ kì như thế à? ”
Hai thanh niên một đứa nhóc lụi cụi khiêng một cái cán đi trong canh khuya. Trăng khuyết treo cao trên đỉnh đầu. Bóng người cứ lớn dần, rồi tan vào đêm tối.
Nửa đêm chuyển dần về canh bốn, chỉ còn chút nữa là qua giờ Sửu. Trăng càng lên càng thanh, gió càng thổi càng nhẹ, mà người thì càng nhìn càng ít. Cũng khuya lắm rồi chứ có sớm sủa gì? Người ta nói, trong năm canh buổi đêm thì cái giờ này là lúc tiết trời tối nhất, ma quỷ bắt đầu đi lại, nên hạn chế ra ngoà. Người đi trong ngõ không chong đèn, có giơ tay ra trước mặt cũng chả thấy năm ngón, mà cứ nghe gió ở đâu thốc mãi vào gáy.
Ba người Phạm Lục Bình, Lê Học cứ men theo hồ Tây mà đi, len lỏi hết hẻm trên ngõ dưới rồi cũng đến một căn nhà xập xệ nằm ngoài rìa làng Nghi Tàm, cách hồ Tây chỉ độ dăm bước chân. Quanh nhà có một hàng rào con leo đầy mồng tơi, với cây rơm to ngay gần cửa. Cơn gió hồ khẽ thổi, tiếng sáo du dương chợt vọng ra từ khoảng sân vắng trước nhà khiến ba người ai nấy cũng giật mình.
Ngoại trừ thằng Hổ, hai người Lê Học đều ít nhiều biết khinh công nên dẫu phải cáng một người theo cũng không thấy mệt, mà lại khiêng êm lạ lùng. Suốt chặng đường Hồ Đỗ nằm cáng mà chẳng kháng nào nằm trên đất bằng, không xóc nảy lấy một cái.
“ Anh Học có cái cáng này hay thật, thằng em này phục sát đất. Nếu mình tôi cõng ông anh bảy chục cân này thì chẳng biết bao giờ mới tới nơi. ”
“ Anh Bình cứ quá khen, tôi chả dám nhận. Tính tôi nó nay đây mai đó, nhỡ nơi rừng hoang núi vắng mà gặp bệnh nhân thì phải làm sao? Thành ra mới nhớ người đóng cho cái này, đi đâu cũng yên tâm. ”
Hai người vừa đi vừa nói chuyện, thấy rất hợp ý. Thành thử cách xưng hô cũng thân cận hơn trước chứ không còn quá khách sáo nữa.
Thằng Hổ theo sau chót, tranh thủ lúc hai người đặt cáng xuống bèn chạy qua gọi cổng.
“ Mở cổng! Ngoài này có người bị thương! ”
Chó trong nhà thấy hơi người lạ, bắt đầu sủa lên inh ỏi.
“ Im ngay, cái đồ mất nết!!
Trong căn nhà ọp ẹp truyền ra tiếng một trung niên độ ngũ tuần, thanh âm ông đã khàn đặc vì đờm năm tháng. Chẳng mấy chốc, cổng đã mở, một người đàn ông ốm yếu với khuôn mặt vàng vọt xuất hiện trước ba người bọn Phạm Lục Bình.
“ Các cậu tìm ai? ”
Phạm Lục Bình cất tiếng:
“ Bác ạ, con Lục Bình đây mà. ”
“ Bình hả? Mau vào đi. ”
Người đàn ông nọ nói, đoạn cất bước vào nhà trong. Suốt cả quá trình, ông chẳng buồn nhìn thằng con nằm trên cáng của mình lấy một cái. Lê Học lòng thấy lạ kì, nhưng không dám nhiều lời hỏi chuyện riêng tư của người khác. May là còn thằng Hổ. Tính nó từ bé đã thế, có chuyện gì lạ là muốn truy tra tới chân tướng mới thôi. Tức thì, thằng bé giật gấu áo Lục Bình, hỏi luôn:
“ Uây, ông ấy là cha anh kia cơ mà. Nhìn thấy con bị thương nằm bẹp trên cáng mà tỉnh như sáo thế à? Cha gì mà máu lạnh. ”
“ Hổ! Đừng có nói linh tinh!!! ”
Lê Học thấy thằng bé lại bắt đầu nói hỗn bèn nhào tới bụm miệng nó lại.
Phạm Lục Bình cười khổ, đáp:
“ Chuyện kể ra dài lắm… ”
Canh tư.
Đêm đã muộn thế này mà giữa hồ hẵng còn mấy chiếc thuyền sáng đèn. Ra là thuyền thúng của dân chài lưới. Có cái thì đủ cho một người, còn cái nào to thì ba người ngồi cũng xuể. Trong thúng để nào cần, nào mồi, nào dây, nào giỏ…v.v…
“ Hôm nay ông Hai cũng ra đây câu hở? ”
“ Đành chịu bác ạ. Nay chưa vào mùa, tôm ít mà bé, tranh thủ câu đêm đến sáng mà bán cho mấy ông phú hộ thì còn được đồng ra đồng vào. Chứ mấy nữa tát đồng thì ê hề, của mình đến phải ế. ”
“ Chưa hết tháng đã hết tiền. Hôm nay mà được mẻ to, mời bác qua quán nước đầu làng tôi. Con to đem bán, lũ lắt nhắt thì ta làm bữa nhậu chơi. Hôm trước mụ vợ về nhà thăm mẹ mang lên mấy bình rượu thơm lắm. ”
Ông Hai đáp, cười khà:
“ Muốn được thế thì cứ phải làm đã, buông cần thôi bác ơi. ”
Người người đang lúc khí thế hừng hực thì cách đó không xa, trên một chiếc thúng con có ba người đang thản nhiên ngồi thưởng trăng. Kể cũng lạ. Người ta có thưởng trăng thì cũng thưởng mãn nguyệt trong ngày rằm, chứ có ai lại đi thưởng một mảnh trăng tí tẹo ngày mùng hai đầu tháng như ba người nọ?
Nhìn gần hơn, thì thấy nhóm quái nhân này gồm một người đàn ông chừng ba mươi mặc áo tơi đội nón tre. Một ông sư vẻ kham khổ vận cà sa có chòm râu dài tới giữa ngực và một đạo sĩ tuổi chừng sáu mươi. Đúng là người kì lạ thì hành vi cũng lạ kì chẳng kém.
“ Thiên Cơ đạo huynh cất công tìm tên trộm vặt này, lại lặn lội lên tận đèo Ngang gọi Cứu Khổ thần tăng về kinh ắt là có chuyện lớn muốn bàn bạc? ”
“ Quả thực là vua trộm, ý nghĩ trong đầu ta mà bác cũng thó được, bội phục. ”
Thiên Cơ lão đạo vuốt râu, cười đắng chát.
Cứu Khổ thần tăng tiếp:
“ Đạo huynh tinh thông thuật tinh tượng, quá khứ vị lai đều chẳng giấu được mắt thần. Không biết lần này võ lâm lại có nạn gì? ”
Tiếng lão ồm ồm và khàn đặc lại, không nghe kỹ còn tưởng ấy không phải tiếng người mà là loài quỷ đang nói. Thì ra, Cứu Khổ thần tăng vì tai nạn mà bị câm. Âm thanh vừa rồi là lão kết hợp nội lực với thuật nói tiếng bụng phát ra.
Trên đườnh trảy kinh, dân tình thấy miệng lão đóng chặt mà âm thanh cứ phát ra liên hồi thì cũng hoảng hồn mấy phen.
Thiên Cơ lão đạo thở dài, nói:
“ Hai vị võ lâm chí tôn Hoả Công, Băng Bà đột nhiên mất tích, khiến cả giang hồ lạc vào một tràng gió tanh mưa máu. Hôm trước bần đạo có dạo qua chùa Trấn Quốc dâng hương, bất ngờ quan sát được điềm lạ trên vòm trời. ”
“ Ồ? ”
Quận Gió ngồi nhỏm dậy, tỏ vẻ hứng thú trước lời nói của Thiên Cơ lão đạo. Con thuyền thoáng tròng trành vì động tác của y, song Cứu Khổ thần tăng chỉ khẽ vận công là chiếc thuyền thúng chở ba người lại vững vàng như bàn thạch.
“ Vậy là đạo huynh cũng thấy được nó à? ”
Giọng nói kì lạ của Cứu Khổ thần tăng lại vang lên, nhắm ngay lúc đôi thuyền thúng của dân chài bị sóng đẩy tới gần. Ba ngư dân ngồi trên thuyền nghe được chất giọng đều đều vô cảm của lão, lông tóc ở gáy cứ dựng đứng cả lên.
“ Này! Hai người thấy cái gì mới được chứ?? ”
Trong ba người, chỉ có Quận Gió là không biết thuật quan sát sao trời, thành ra hai người càng nói y càng chẳng hiểu mô tê gì hết.
“ Tử tinh tái sinh, thiên hạ không yên. ”
Hai người, một tăng một đạo, đồng thời cất tiếng.
“ Tử tinh? Ý là gì? ”
“ Khi sao đổi ngôi, nó rơi xuống thành vẫn tinh rồi vụt tắt. Trong thuật tinh tượng người ta gọi ấy là sao chết hay tử tinh. Thế nhưng, sao đổi ngôi xong bỗng nhiên bắn ngược lên rồi toả sáng rực rỡ thì gọi là tử tinh tái sinh, cũng tức là sao đã chết mà sống lại vậy. ”
Thiên Cơ lão đạo khẽ giải thích, ngữ điệu đã ảm trầm đi nhiều.
Cứu Khổ thần tăng tiếp:
“ Lại nói, tử tinh tái sinh lần này không chỉ có một, mà là hai vì sao liên tiếp. Chứng tỏ, nước ta liên tiếp trải qua hai lần hạo kiếp. ”
Quận Gió thấy sắc mặt hai người nghiêm nghị hẳn lại, thì cũng chẳng giữ nổi vẻ cười đùa nữa. Y nói:
“ Võ lâm đại loạn phải chăng là một lần hạo kiếp? ”
“ Không! Loạn cục của giang hồ xảy ra quá sớm, nên chẳng thể là do tử tinh tái sinh gây nên. Tuy nhiên, hôm qua bần đạo đã tính thử một quẻ cho Đại Việt.
Đế tinh rọi xuống trời nam, chứng tỏ chân mạng thiên tử đã xuất sinh. Vai gánh Bắc Đẩu, tay nắm La Hầu, ấy là mệnh của người này. Tử tinh tuy mạnh, nhưng cuối cùng ắt bị người này lợi dụng, mở ra triều đại mới. ”
Phải biết những lời này, nếu như để quan binh nghe được dù chỉ một câu thôi cũng ắt sẽ gô cổ Thiên Cơ lão đạo lại vì “ đại nghịch bất đạo ”, rồi ghép ông tội phản quốc để tru di tam tộc. Thế mà ông đạo sĩ nói ra với ngữ khí thản nhiên như không, giống như một việc nhỏ chẳng đáng bận tâm.
Quận Gió nghe xong bèn xua tay, than:
“ Lão đạo à, vua có sinh ra hay chưa thì có can hệ gì tới tên bợm này?? Không phải lão không biết, các đời Quận Gió chưa từng nhúng tay vào tranh quyền đoạt vị. ”
“ Liên quan! Vì bác Quận chính là người sẽ quay bánh xe thời đại. ”
Cứu Khổ thần tăng - người vẫn giữ im lặng từ đầu tới giờ, bất chợt lên tiếng. Ông dùng tiếng bụng, ngữ khí ồ ồ đều đều nên không ai đoán được ông nghĩ gì.
Quận Gió nghe xong bèn cười, vỗ đùi đánh đét một cái:
“ Hả? Hoá ra Cứu Khổ thần tăng cũng biết đùa ư? Thay triều, hoán đại. Ấy là việc của các bạc anh hùng, của những đấng hào kiệt. Còn tôi rõ ràng chỉ là tên đầu trộm đuôi cướp, có tài gì đức gì cơ chứ? ”
“ Bác Quận nói thế, bần đạo cho rằng không phải. Một chữ anh hùng ai dám tự xưng, hai tiếng hào kiệt kẻ nào có gan tự gọi? Bác chuyên cứu nghèo giúp khó, trừng trị đảng tham quan phường giặc cướp, là bậc quân tử trong đám quỷ thâu. Thiết nghĩ ngoài bác Quận ra, giang hồ Đại Việt không còn ai xứng với hai tiếng “ anh hùng ” hơn. ”
Quận Gió lắc đầu, nói:
“ Anh hùng, hào kiệt! Không phải ai cũng muốn làm, dám làm. Song… không ai là không kính ngưỡng. Quận này tài mọn, làm bợm thì được chứ không cáng đáng nổi tiếng thơm. Thân mang hai chữ anh hùng, người đeo cái danh hào kiệt. Có khác gì đứng giữa sông Đà muôn dặm mà vùng vẫy, gánh lấy núi Tản nghìn cân mà hiên ngang? Kẻ như tôi nhàn cư đã quen, đảm đương không nổi. ”
Cứu Khổ thần tăng nhìn sang Thiên Cơ lão đạo, cả hai cùng nhún vai mà chẳng nói gì cả. Vận mệnh, đã bắt đầu vần xoay vào lúc này. Người có muốn chạy cũng không được.
“ Thôi thì chẳng mấy khi ba người bạn vong niên chúng ta tụ họp. Đêm nay trăng thanh gió mát mà không thưởng thức đúng là đáng tiếc. Nếu đã nhắc tới anh hùng hào kiệt, thì chi bằng ta bàn luận luôn xem thiên hạ trong hai mươi năm trở lại đây ai mới xứng là anh hùng thực sự. Bác Quận, đại sư thấy sao? ”
Nhận thấy không khí ngột ngạt, Thiên Cơ lão đạo bèn ho khan, lên tiếng chuyển chủ đề.
Quận Gió nói:
“ Hay lắm! ”
Cứu Khổ thần tăng thì chắp tay như đang niệm phật, im lặng.
Thiên Cơ lão đạo nói:
“ Bần đạo là chủ nhà, xin bắt đầu trước.
Gần đây ở nước Chiêm Thành xuất hiện một Chế Bồng Nga hung danh hiển hách, trí chùm thiên hạ. Nhờ có y, mà quân Chiêm từ chỗ sợ Đại Việt một phép hoá thành hổ dữ hùm beo. Bần đạo từng có lần đứng trên tường thành nhìn y công chiếm Thăng Long. Đúng là đánh như sóng dữ, rút như thuỷ triều.
Bần đạo cũng từng có dịp thách đấu với y một lần, quả là võ lực kinh người. Ba mươi sáu chiêu Thiên Cơ chưởng của tôi, hắn đỡ được hết. Nếu không nhờ có Thiên Đạo kiếm pháp, e rằng đánh ba ngày ba đêm mới khuất phục được.
Nếu bỏ qua tị hiềm dân tộc mà chỉ nhìn vào thành tựu, thì người như thế xứng là anh hùng không? ”
Cứu Khổ thần tăng lên tiếng:
“ Vua nước Chiêm thực là một nhân vật lớn. Cầm quân, tỉ võ đều uy dũng hơn người, xứng là trí dũng song toàn. Thế nhưng y gây chiến với Đại Việt, lại lấy rừng vàng bể bạc cống nạp cho nhà Minh để xưng thần. Điều ấy khiến dân nước Chiêm vốn đã nghèo, nay càng đói khổ lầm than. Đó là y ích kỷ bất nhân.
Thử hỏi, một kẻ bất nhân thì còn gọi gì là anh hùng nữa? ”
Thoáng dừng lại một chút, ông lại tiếp:
“ Nhắc tới Chế Bồng Nga thì không thể không nói tới tướng đã hạ y, ấy là Trần Khát Chân. Người này năm nay mới hai mươi, thế mà binh thư đã làu làu tinh thông.
Y lại biết đến chữ nhân nghĩa, thường hay phát chẩn gạo cơm cho người nghèo. Những nơi quân đội của y từng dừng chân, bà con chưa từng bị sĩ tốt làm phiền cướp bóc. ”
Quận Gió lại nói:
“ Ây dà, Trần Khát Chân đúng là anh hùng xuất thiếu niên. Thế nhưng tên bợm này nhàn cư vi bất thiện từng lẻn vào doanh trại của y. Người này tuổi trẻ mà tài nghệ siêu quần, dõi mắt hai chục năm nay hiếm có ai bằng, thành thử ngạo khí cũng thấm nhuần trong cốt tuỷ. Y nhiều lần nói trước mặt tướng sĩ tâm phúc sẽ thay thế vị trí của Lê Quý Li.
Quý Li nổi tiếng giảo quyệt đa đoan, mà một núi thì không chứa được hai con mãnh hổ. Không biết hai bác sao, chứ tôi nghĩ hùm thiêng họ Trần e phải thua vào miệng thuồng luồng họ Lê. ”
“ Thế theo bác Quận, ai mới là anh hùng thời nay? ”
Trước câu hỏi của hai người bạn già, Quận Gió nhẹ nhàng ngước mắt lên nhìn thẳng vào bầu không. Trăng đầu tháng, đẹp theo một cách rất riêng. Mờ mờ, huyền bí. Gương mặt mĩ nhân phủ lên một lớp hơi sương khiến ai nhìn cũng phải tò mò mà thả trí tưởng tượng bay đi. Như một hệ quả đi kèm, sao sáng hơn bình thường.
“ Anh hùng? Hào kiệt? Thế nào mới xứng là anh hùng? Tay nắm ngàn quân, chiến chinh thiên hạ thì chúng sinh đồ thán. Võ nghệ siêu quần, hành hiệp trượng nghĩa lại cứu nổi bao người? Anh hùng là gì? Hào kiệt lại là gì? Ôi… ”
Sóng vỗ mạn thuyền, dạt dào xa.
Lê Học đặt Hồ Đỗ nằm yên vị trên chiếc giường đơn trong buồng ngủ, lại ngồi kê một đơn thuốc rồi mới ra ngoài. Trăng kéo xuống đậu lên dàn mướp, đêm tản dần về sáng. Chỉ nửa canh giờ nữa là dân tình kéo nhau ra đồng làm ăn. Thằng Hổ nằm ghé vào góc tường ngủ khì.
Phạm Lục Bình đương ngồi cùng cha Hồ Đỗ, dưới mái hiên. Ấm chè thơm đã pha sẵn, hương thơm quyến luyến mà không bám riết, như có như không phả vào gió đêm, thắp sáng cả vườn khuya.
“ Chè thơm thật. ”
Lúc Lê Học định thần lại thì lời khen đã vuột ra khỏi miệng, có muốn nuốt ngược vào bụng cũng chẳng còn kịp nữa.
“ Thầy Lê ra rồi kìa bác. Thầy thứ tôi vô phép, dám hỏi bệnh tình anh Đỗ sao rồi ạ? ”
Phạm Lục Bình đứng lên, có vẻ hơi cố sức. Ám kình của Nội Hoa Đăng đã được y hoá giải, nhưng chân khí cũng hao tổn kha khá không thể phục hồi chỉ trong một chốc được.
“ Anh Đỗ trúng một đòn nặng, khiến nội phủ tổn thương. May mà địch thủ trước khi tung chiêu cũng dính một đòn nặng, khiến oai lực đòn sát thủ giảm mất mấy phần. Chỉ cần tịnh dưỡng mấy ngày, đợi lúc nội thương ổn định lại uống thuốc bồi bổ cơ thể là ổn. Ở đây có thang thuốc, phiền anh Phạm sớm mai đi cắt. Trong thời gian này, tốt nhất đừng để bệnh nhân hoạt động mạnh. ”
Lê Học vừa nói, vừa ngưng thần quan sát ông lão trung niên. Thành thử, tiếng thở phào thả lỏng sâu kín của ông chẳng thể tránh khỏi con mắt của người lương y. Chàng ho khan một tiếng, bấm bụng hỏi:
“ Kì lạ ở chỗ, lúc bắt mạch Hồ Đỗ tôi thấy cốt khí y hơi yếu hơn thường nhân. Hình như là do sinh thiếu bốn chục ngày, bác gái lúc mang thai không cẩn thận động thai. Đáng ra, anh Đỗ phải yếu ớt hơn người cùng tuổi mới đúng. Đằng này sức lại như hùm như trâu. Tôi dù bất tài, nhưng cũng hành y gần mười năm. Thế mà chưa từng chứng kiến trường hợp nào quái lạ như vậy.
Nếu như chuyện này không có ẩn tình gì khó nói, hi vọng bác đây có thể giải đáp thắc mắc cho thoả lòng hiếu kì. Không biết có được chăng? ”
“ Cảm ơn thầy, đã chữa lành cho thằng con bất hiếu. Tôi thân già côi cút, có những chuyện giấu ở trong lòng cũng mấy chục năm trời. Nay ân nhân đã muốn biết, thiết nghĩ cũng không dám giấu nữa. ”
Ông chợt ngừng lại, húng hắng ho. Thân hình còm nhom co quắp lại như con tôm, run bắn từng hồi trông thật đáng thương. Lê Học vội đến bên cạnh thôi cung quá huyệt ở lưng cho ông, một lúc sau mới dứt hẳn cơn.
“ Ân nhân xin hãy thứ lỗi cho. Dạo này trái gió trở trời, nhiễm sương nên bệnh cũ tái phát. ”
Trong một thoáng, mắt ông mất đi vẻ đục ngầu, trở nên sáng lạ thường. Người già, mỗi khi nghĩ về những ngày xưa khó quên, đều như thế cả.
“ Bà nhà tôi từ hồi còn con gái vốn đã ốm yếu hơn chị em chòm xóm, tóc lại bạc phơ như người lục tuần. Trai làng ai cũng chê xấu, chẳng chịu lấy dù nhà ngoại tôi cũng thuộc hàng khá giả ruộng sâu trâu nái. Con gái người ta, kẻ nghèo thì ra đồng đi cấy đi cầy phụ giúp cha mẹ, khá hơn thì dệt vải kéo tơ bán cho làng trên xóm dưới. Bà nhà tôi thì yếu quá, cứ làm được một lúc lại ngồi thở. Có khi làm hai ba ngày mới bằng người ta làm một buổi.
Bà ấy chỉ có một thú vui, ấy là sáo. Mẹ thằng Đỗ mê tiếng sáo lắm. Sáo lá, sáo trúc đều biết thổi. Ngặt nỗi ốm yếu, được non nửa bài là hết hơi. Thế mới lấy phải thằng trai xấu, còm nhom như que củi như tôi. Cũng chính mẹ thằng Đỗ dạy tôi làm sáo diều, nên mới có hột cơm bỏ vào mồm. ”
Ông nói về vợ với giọng nghèn nghẹt, cặp mắt già nua thỉnh thoảng lại ngước lên cây cau trước sân. Phạm Lục Bình, Lê Học ngồi bên chỉ biết yên lặng nghe, chén chè đã nắm trong tay cũng không buồn nhấp.
“ Thằng Đỗ sinh thiếu tháng, bố mẹ lại ốm lại yếu, nên nó còi như quỷ đói. Mấy bận tưởng là không nuôi nổi. May thay, gặp dịp thiền sư Tuệ Tĩnh nghe tiếng sáo ghé qua nhà, mới chữa cho nó. Từ ấy, lại bái sư bên chùa Trấn Quốc học võ mới được khoẻ mạnh như bây giờ. ”
Lê Học đặt chén chè xuống, lẩm bẩm:
“ Thì ra là tổ sư ra tay, hèn chi lại thần kì như thế… ”
Chỉ nghe phập một cái ngọt xớt, đã có nửa cánh tay rơi xuống đất lăn lóc trong vũng máu.
“ Anh cả!! ”
Cả Ngân Kê và Đồng Kê đều hét lên thất thanh, sự bi thống hằn trong từng câu từng chữ. Thì ra ngay lúc nguy hiểm nhất, anh cả Gia Nghĩa đã xô Gia Tín ra chỗ an toàn. Thành thử người hứng trọn nhát chém lại là Kim Kê.
Phải nói, âu cũng tại Đồng Kê khinh địch. Qua một lần giao thủ là y biết ngay võ công của Đỗ chẳng cao. Đỗ lại mới bị đánh bay binh khí. Thành ra Gia Tín nghĩ chẳng cần đến hai anh mình cũng xử ngon đối thủ, nên mới phá vỡ trận cước.
Nào ngờ kẻ địch lại cầm một nửa thanh Thư Hùng kiếm mà chém.
Nếu lúc đó Đồng Kê chỉ chăm chăm việc thủ cho vững, nhường thế công cho anh thì e Hồ Đỗ đã phải nuốt hận bởi ngọn cước của Kim Kê. Thế nên y lúc này hối lắm, chỉ mong thời gian quay trở lại để y hứng nhát kiếm thay anh trai.
Gia Nghĩa ôm chặt khuỷu tay cụt, nén đau hú lên một tiếng. Y tung mình, đôi chân phóng ra liên tiếp ba cước vào ngực Hồ Đỗ đang cười đắc ý. Ba đòn này nhằm toàn vào những chỗ yếu hại đã đành, kình lực lại còn quỷ dị cộng hưởng lẫn nhau. Thật đúng là độc chiêu.
Trúng đến đòn thứ ba là Hỗ Đỗ đã ngã bật ngửa, ộc máu bất tỉnh. Phạm Lục Bình phải lướt đến, dùng Hùng Kiếm dẫn dư kình trên người Hồ Đỗ xuống đất mới hoá giải được nguy cơ mất mạng của y.
Đây vốn là một trong ba tuyệt chiêu tất sát của võ gà, tên là Thất Đao Thiên. Tương truyền trong giới chọi gà, muốn biết gà hay gà dở thì phải nhìn hình vảy ở chân. Mà phàm là con có thế Thất Đao Thiên này thì ắt là Sát Kê tung hoành vô địch khắp các xới chọi. Nguyên bản đây vốn là một đòn liên hoàn thất cước, phải đá liên tiếp bảy phát mới là cảnh giới cuối cùng. Nhưng Kim Kê chỉ mới học không lâu, tung được ba đòn đã hết khả năng rồi.
Một chiêu phản kích bất ngờ của Kim Kê khiến nội phủ Hồ Đỗ hầu như dập nát. Đá xong sát chiêu, y mới loạng choạng hạ xuống trên đôi chân mình. Cả người Gia Nghĩa thoáng run lên vì cơn đau mất đi cánh tay.
“ Anh cả! ”
Gia Tín, Gia Lễ chạy đến đỡ Kim Kê. Hắn cố gắng gượng dậy, nhưng đã quá yếu để làm điều ấy.
Ngân Kê giúp anh nằm xuống dựa vào gốc cây si già, rồi quay ngoắt về phía Phạm Lục Bình. Cặp kê trảo cứa mạnh vào nhau đến toé cả lửa. Ánh nhìn của đôi bên va chạm, ác liệt chẳng thua gì sấm sét.
Phạm Lục Bình bình tĩnh đặt Hồ Đỗ xuống, đoạn nhặt thanh Thư kiếm lên. Một cơn gió lướt từ hồ vào, làm mái tóc và vạt áo y bay phấp phới. Con trăng dần hạ xuống khỏi thiên không khi trời tản dần về sáng. Ánh bạc xuyên qua tàng cây si như một con suối, vỡ tan trên đôi vai của người kiếm khách.
“ Dẹp con mẹ nó luật với chả lệ đi! Hôm nay có một cân vàng thì chúng mày cũng phải bỏ lại ba cái mạng chó! ”
Ngân Kê rít lên the thé trong khi thủ thế, chuẩn bị giáp công.
“ Nói nhảm, có giỏi thì nhào vô mà kiếm ăn! ”
Lục Bình nào có chịu kém? Người thanh niên mà sau này sẽ trở thành Long Thành kiếm khách cầm ngược cặp trường kiếm, sẵn sàng nhảy bổ vào người đối thủ bất kì lúc nào.
Và… cái gì phải đến cũng đến.
Mây đen lững lờ lướt qua, che khuất ánh trăng bàng bạc. Chỉ còn ánh lửa nháy lên liên hồi trong vũ khúc tàn bạo của thép lạnh.
Phạm Lục Bình và Ngân Kê Gia Lễ chẳng biết tự lúc nào đã xổ vào nhau, ăn thua sống chết nhau từng chiêu một. Đánh đã hai chục chiêu qua qua lại lại, nhưng song phương xem chừng hẵng còn hăng lắm. Lục Bình, Gia Lễ đều đang nóng máu vì anh bị thương, nhưng không vì thế mà nóng giận mất bình tĩnh. Đấu pháp của song phương đều có công có thủ, có tiến có lùi, nhất thời chưa thể phân ra thắng phụ.
Ngân Kê đánh lâu đâm bực, bèn bất thình lình sử chiêu “ Giáp Thới Phong Đao ”. Trong giới đá gà, thì đây cũng là tướng của gà quý, xưng là tướng kê. Đặc điểm của chiêu là tấn công chớp nhoáng, liên hoàn như vũ bão khiến đối thủ không sao chống nổi.
Ngân Kê vung trảo công liên tiếp, biến chiêu thật là hiểm hóc. Giống như một con gà chọi nổi xung, hắn liên tục đe doạ yết hầu, thái dương, lồng ngực…v.v… của Phạm Lục Bình bằng cặp kê trảo lợi hại. Từng đòn, từng đòn đều dồn hết cảm xúc căm hận và công lực cả đời vào. Thế công mạnh không khác nào dòng sông đổ xuống từ vách đá mấy trượng.
Phạm Lục Bình vẫn bình tĩnh, chẳng vì những đòn công kích dữ dội ấy mà nao núng. Y một mực dùng thanh Hùng kiếm mà hoạ nên những đường cong uyển chuyển. Nếu như lực đạo của Ngân Kê đang nổi khùng mạnh mẽ như dòng sông dữ thì đường kiếm của Phạm Lục Bình chẳng khác nào những con mương nắn dòng. Đôi kê trảo liên tục bị Hùng kiếm đen nhánh dẫn cho đụng vào nhau chan chát, khiến kình lực tay này cứ triệt hạ lực đạo tay kia.
Ngân Kê cứ đánh hung hãn như trâu húc mả, nên chỉ một chốc là nội lực hao tổn rõ rệt, phải đứng thở hồng hộc ra đấy. Trong khi đó, Phạm Lục Bình chỉ cần gẩy thanh Hùng kiếm là các đòn cào, đâm, thọc, chém của Gia Lễ đã bị đẩy cho bạt vía, xiêu xiêu vẹo vẹo.
Phạm Lục Bình lại rung mạnh cổ tay, Thư kiếm vẩy ra tựa như chớp giật. Lưỡi kiếm gấp khúc xẹt nhanh qua mặt Ngân Kê, để lại một vết thương mảnh cỡ sợi chỉ. Chỉ cần né chậm một chút thôi thì e là má Gia Lễ đã phải rách toạc.
Song Ngân Kê trong Hùng Kê Tam Kiệt cũng chẳng phải tay mơ. Y thuận theo đà nghiêng, tung ngay một cước nhanh như trảo chớp nhắm vào mạng sườn của Phạm Lục Bình.
Chiêu này gọi là “ Nội Hoa Đăng ”, cũng phảng theo một tướng của gà quý trong môn chọi gà.
Lục Bình dựng thẳng Hùng kiếm lên, toan chuyển kình lực của cú đạp bất ngờ ra chỗ khác. Nào ngờ, chân của Ngân Kê vừa đụng lên mặt kiếm, bảy tầng ám kình đã cuồn cuộn đẩy tới, phong toả hết đường phản kích của Hùng kiếm. Chẳng những thế, ám kình xộc vào cánh tay Lục Bình, khiến chuôi kiếm suýt thì rời tay.
Biết Ngân Kê đã giở ngón tủ, Phạm Lục Bình vội vàng lui nhanh, những tưởng dùng bộ pháp truyền bảy luồng ám kình trên người xuống đất. Nhưng Gia Lễ lại nhanh hơn một bước.
Vừa đạp một phát xong, hắn đã vòng ra sau lưng Lục Bình rồi tung mình lên, ra chiêu Nội Hoa Đăng thêm một lần nữa. Đòn này vừa hay chặn luôn đường lui, không để đối thủ hoá giải ám kình của Nội Hoa Đăng.
Đối thủ biến chiêu quá nhanh, Phạm Lục Bình chỉ đành dựng kiếm cản tiếp một cước, ám kình lại theo tay truyền vào cơ thể. Y hét lên, vung Thư kiếm lên phản kích, tiếc là Ngân Kê đã kịp dùng kê trảo đón lấy lưỡi kiếm.
Ám kình đợt trước chưa tan đợt sau đã xông vào, vô cùng phiền phức. Phạm Lục Bình cứ phải phân thần ra dùng nội lực áp chế chúng, đâm ra vướng tay vướng chân.
Gà có vảy “ Nội Hoa Đăng ” lúc chọi giỏi nhất là phá chiêu của đối thủ, lối đánh lại dồn dập hiểm hóc vô cùng. Cũng như đòn Thất Đao Thiên Kim Kê vừa dùng, Nội Hoa Đăng cũng là một độc chiêu áp đáy hòm của võ gà.
Phạm Lục Bình toát mồ hôi lạnh, thầm nghĩ:
[ Hỏng bét, cứ để hắn tung chiêu này thì mình thua là cái chắc. ]
Mà sắc mặt Ngân Kê cũng đã tái xám lại. Y dừng lại điều chỉnh hô hấp của bản thân, cố không để Lục Bình biết nội lực của y đã tiêu hao quá tám thành.
Hai bên đương lâm vào thế bí, chưa biết giải quyết chuyện này ra làm sao thì bỗng nhiên ở gần đó có tiếng trẻ con cất lên:
“ Bớ làng nước ơi, có người giết nhau này! ”
Kế ấy lại vang lên tiếng bước chân nện đất rầm rập. Thọ Cú đứng ngoài, một mặt làm giám khảo mặt khác cũng cẩn thận cảnh giới cho cả bọn. Y nghe thấy dị thanh trước tiên, bèn la lớn:
“ Hỏng! Quân thủ thành mà đến, phạt vạ như chơi đấy. Đi mau! ”
Kim Kê Gia Nghĩa bèn thều thào:
“ Tín, đừng để chuyện bé xé to. Lần sau tìm chúng nó trả thù cũng được. Đi ngay thôi. ”
Đồng Kê gật đầu, vội vàng gọi Gia Lễ trở lại. Bốn người dìu nhau, nhanh chóng biến mất về phía ngôi làng đằng xa. Đúng lúc này, vầng trăng mới vượt ra khỏi những áng mây bồng bềnh, soi xuống bãi cỏ lưa thưa bên hồ.
Hồ Xạ bước nhanh đến chỗ Phạm Lục Bình, hỏi:
“ Chú không sao đấy chứ? ”
“ Không sao… ” - Lục Bình thở dài, ngồi phịch xuống. Ám kình của Ngân Kê trong thể nội đã bị hắn áp chế, nên tạm thời chưa có gì đáng ngại.
Y nhìn Hồ Đỗ nằm hôn mê dưới đất, thở dài.
“ Lần này là chúng ta gặp may. ”
Hồ Xạ không phản bác. Dù chẳng muốn thừa nhận, nhưng sự thật rành rành ra đó. Đoàn chiến họ thua, đơn đấu cũng chẳng thắng nổi. May mà đối thủ khinh địch.
“ Để anh đưa cô gái kia về, chú còn dìu được Hồ Đỗ không? ”
“ Cố thì chắc là được. ”
Phạm Lục Bình chống kiếm đứng dậy. Chờ cho nghĩa huynh dẫn cô gái về trước, y mới chắp tay vái về phương xa, vận công nói to:
“ Không biết vị cao nhân nào giúp đỡ, có thể hiện thân gặp mặt để Lục Bình nói lời cảm tạ hay chăng? ”
“ Không dám, không dám. Đều là tên nhóc này bày trò phá làng phá xóm cả. Hai vị anh hùng đừng để bụng. ”
Từ phía bãi sen đi tới hai bóng người, một lớn một nhỏ. Phạm Lục Bình nheo mắt nhìn, dưới ánh trăng hiện rõ hình dáng của một chàng trai với một thằng nhóc.
Người thanh niên nọ ăn vận theo kiểu quý tộc, giao lĩnh vạt chéo xanh thẫm khoác ngoài áo cổ tròn bên trong. Tay áo thõng xuống nhưng được buộc túm lại ở cổ tay, eo cài một dải thắt lưng. Lục Bình nhìn phục trang, đoán ngay y là con nhà võ. Bởi lẽ quý tộc bình thường sẽ không cài dây lưng, tay áo cũng để thõng.
Đứa nhóc đi bên cạnh thì còi như cái que, xem ra chỉ năm sáu tuổi đổ lại thôi. Tóc nó để trái đào, mũi thì tẹt dí còn da thì ngăm ngăm. Sau lưng nó đeo một cái tráp gỗ cỡ trung, lúc đi đường xóc nảy, bên trong cứ lịch cà lịch kịch đứng ngoài nghe vẫn rõ. Một bên tai nó đang bị người thanh niên đi bên cạnh véo đến đỏ bừng cả lên. Tất nhiên, y chỉ khẽ dùng sức chứ không thương hại đến thằng nhỏ. Thanh niên vừa véo tai vừa dắt đứa bé đến chỗ Lục Bình, đoạn đá nhẹ vào kheo chân nó, mắng:
“ Thằng nhãi ranh, mau xin lỗi người ta đi! ”
Nào ngờ đứa bé chỉ chun mũi, lè lưỡi nói lớn:
“ Xin lỗi? Anh à anh có quáng gà hay không? Em rõ ràng cứu mạng mấy người này, đã không cảm ơn thì chớ, lại bắt người ta xin lỗi… ”
“ Cái thằng… Ài. Anh hùng chớ có trách. Nó bé chưa biết gì. Ở nhà mẹ tôi lại chiều nó quá, đâm ra hư. ”
Phạm Lục Bình khua tay, nói:
“ Không dám. Nếu không phải hồi nãy đứa bé này hô lớn thì bốn tên nọ cũng không rời khỏi. Lúc ấy thì ai sống, ai chết khó mà nói được. Nói cho đúng, thì nhóc đối với ta có nửa cái ơn cứu mạng. ”
“ Ơn cứu mạng sao có thể chặt đôi? Không phục! ” - Thằng nhóc bất chợt phồng mang trợn má lên, nhìn chòng chọc vào Lục Bình ra chiều thách thức.
Người anh đi bên cạnh thấy nó hỗn hào, bèn đập nhẹ vào tay nó mà mắng:
“ Cái thằng nhóc này! ”
Phạm Lục Bình chỉ mỉm cười, giải thích:
“ Một mình nhóc, có la rách cổ họng cháy yết hầu cũng bằng thừa. Người cứu ta là lính tuần tra mới phải. ”
Nào ngờ thằng nhóc chỉ cười khẩy một cái, đột nhiên cung bàn tay lại, đưa lên che phần môi trên. Lục Bình đang ngơ ngác chẳng hiểu nó muốn làm gì, thì bỗng tiếng chân người bắt đầu vang lên. Trước còn thưa thớt, sau dày đặc dần, cuối cùng nghe lồng lộng như thiên quân vạn mã đang hành quân vậy.
Thể hiện xong, thằng nhóc bèn hất nhẹ cái đầu ba chỏm tóc của mình, chống nạnh:
“ Thế nào? Thiếu nửa cái ơn hay nguyên một cái?? ”
Thanh niên áo xanh cười áy náy, lại quắc mắt lườm thằng nhỏ. Đáp lại, thằng bé le lưỡi làm mặt quỷ, hai bàn tay xoè to đặt lên vành tai mà vẫy vẫy ra chiều trêu tức. Lục Bình nhún vai, nói:
“ Được, nhóc lợi hại, Phạm Lục Bình tâm phục khẩu phục. ”
“ Biết điều vậy mới tốt! Trẻ con phải biết nhận sai mới ngoan, anh nhỉ? ”
Thằng nhóc khoanh tay cười hô hố, cái mũi chun lên đắc ý trông đến là ghét. Trước câu hỏi sặc mùi trêu tức của nó, cả hai người đều chịu thua chẳng biết phải nói gì.
Hồ Đỗ nằm ở bên chợt rên lên một cái, cả người cong lên như con tôm luộc. Thanh niên áo xanh thấy vậy, không kịp giải thích dài dòng. Y bước hai bước đến bên cạnh Hồ Đỗ, đưa bàn tay phải ra, ba ngón đặt lên mạch môn đặng chẩn bệnh.
Thằng nhóc thấy Lục Bình thoáng lộ vẻ hoài nghi, bèn sẵng tiếng:
“ Sao nào? Anh trai ta hành y mát tay có tiếng cả huyện Lôi Dương, chẳng ai ở Chủ Sơn mà không biết đâu ( hai địa danh đều thuộc Thanh Hoá ngày nay)! Với lại mới bắt mạch thôi chứ đã làm cái gì đâu mà lo tới lo lui? ”
Người thanh niên bèn gắt:
“ Hổ, không được hỗn! ”
Chàng thanh niên lại tạ lỗi với Lục Bình, nói:
“ Tôi đúng thật biết chút nghề y bốc thuốc bắt mạch, song cũng chẳng phải cao minh gì. Đều tại thằng nhóc này đi đâu cũng rêu rao chút danh còm ở làng quê, thật là hổ thẹn. ”
Phạm Lục Bình vội nói:
“ Nghĩa huynh tôi nguy trong sớm tối, nay lại gặp lúc đêm hôm không biết tìm đâu ra thầy thuốc cứu trị. Chỉ mong giữ được một hơi, nào dám đòi hỏi nhiều? Huống hồ nhìn thầy bắt mạch là biêt được trân truyền của lương y rồi. ”
“ Anh à, người ta cũng khen mình thì cứ nhận đi. ”
“ Im lặng! Còn nói một câu thì chẳng có du xuân trảy kinh gì nữa! ”
Thằng bé được gọi là Hổ ấy nhanh mồm nhanh miệng là vậy, nhưng thấy anh nó nổi nóng lên thì cũng biết điều mà khoá môi mình lại. Nó phải gạ mãi, anh nó mới cho trảy kinh cùng dịp Tết. Chưa mở mang được tí nào đã bị đuổi về, nó đâu có nỡ chứ.
Nhìn gần, Lục Bình mới để ý cái tráp của nó cũng lạ chẳng kém tài giả tiếng tạo thanh. Chẳng những nó lớn gấp đôi tráp ăn hỏi thông thường, mà còn có quai để đeo sau lưng.
Ước chừng mấy hơi thở sau, việc bắt mạch cũng xong xuôi. Người thanh niên nọ khẽ thở ra một hơi, nói:
“ May mắn không tự hạ nhục mình, bệnh của người này, tôi cũng đoán được một hai. Nghĩa huynh của anh Phạm, xem chừng là bị cao thủ dùng nội kình đả thương phủ tạng. Hổ, lấy kim châm ra đây. ”
Thằng nhóc vội vâng vâng dạ dạ, tháo tráp lấy một đống kim bạc lớn có đủ loại ra. Người thanh niên không dám phí nhiều thì giờ, lập tức thi châm cứu người.
“ Đó là tử huyệt!! ”
Phạm Lục Bình đứng xem mà hãi hùng, không khỏi hét lên thất thanh. Thậm chí nếu không phải hai người có ơn cứu mạng ba anh em, thì y còn toan vung Thư Hùng lên chém hai anh em nọ nữa kìa.
Thì ra, cách thi châm của thanh niên nọ cổ quái dị thường. Y cứ nhằm những tử huyệt yếu hại vô cùng như Tâm Du, Thận Du…v.v… mà gảy châm. Thoắt một cái, mặt Hồ Đỗ đã đỏ bừng cả lên.
“ Dừng tay! ”
Đến nước này thì Lục Bình chẳng còn nhịn nổi. Không tiện ra tay với ân nhân, nên y đành phải dùng song chỉ thay cho kiếm đến toan cản thanh niên áo xanh. Nào ngờ người nọ cũng đưa tay ra, dùng ngón cái và ngón út búng một cái phá luôn chiêu kiếm chỉ của Lục Bình.
Phạm Lục Bình mới khổ chiến xong, nội lực hao tổn, trong người lại còn ám kình của Nội Hoa Đăng thì làm sao đánh lại cho được? Cũng may, thanh niên tự xưng là lang y chỉ dùng nhu lực hoá giải chiêu thức chứ không truy kích. Hai người vừa tách ra, thanh niên nọ cũng đã cắm xong xuôi mấy chục cây kim bạc lên người Hồ Đỗ. Y lại vận công vỗ một chưởng vào chính giữa ngực Đỗ.
Phụt!
Hồ Đỗ cong gập người lại, phun mạnh ra một búng máu to đùng. Máu tanh văng cả vào mặt Phạm Lục Bình đang đứng gần đó. Cảm thấy búng máu này máu đặc đặc, giơ ra dưới ánh trăng thì sắc nó nhìn sẫm hơn chứ không tươi tắn như bình thường. Y nay mới biết máu bầm trong cơ thể Đỗ đã bị ép ra ngoài, từ giận đổi thành mừng.
“ Muôn đội hậu tình, ân của hai anh em thầy tôi chẳng thể trả hết nổi. Nhà anh tôi cũng gần đây, nếu thầy lang chưa tìm được chốn dừng chân ở đất kinh kì thì xin mời thầy quá bộ đến dùng bữa cơm dưa cà. Trời đất! Nãy giờ sự tình cấp bách, quên cả lễ phép. Xin hỏi thầy lang tên họ là gì cho tiện bề xưng hô. ”
Thiếu niên nọ vỗ gáy đứa em ra hiệu, hai anh em cùng khom người trả lễ.
“ Thú thực với anh hùng, hai anh em tôi vừa mới chân ướt chân ráo lên kinh, đúng ra định nghỉ tạm ở Trấn Vũ quán cách đây hai dặm. Nếu được anh hùng cho nghỉ lại thì không còn gì tốt hơn. Anh em tôi họ Lê, cha già ở Chủ Sơn, Thanh Hoá. ”
Phạm Lục Bình thò tay xoa ba chỏm tóc của đứa bé, nói:
“ Ra là thầy Lê. Còn bé này hẳn là Lê Hổ rồi. ”
Thằng nhóc lắc đầu, rùng mình vung vẩy tay chân cố hất tay y ra, tỏ vẻ phản đối dữ lắm. Lục Bình thấy buồn cười, càng chọc nó khiến mặt nó ỉu xìu xuống như cọng bún thiu.
Hổ lại lấy hết đồ trong tráp ra, dùng một miếng vải buộc túm lại. Đoạn, nó tháo bung cả cái tráp ra thành bốn đoạn tre dài cỡ ba thước và sáu tấm ván hình vuông. Hổ thoăn thoắt ghép chúng thành một cái cáng đơn giản.
Phạm Lục Bình không khỏi bất ngờ trước cái tráp lạ. Y vừa đặt được Hồ Đỗ ngay ngắn lên cáng thì thằng Hổ cũng quải được bao hành lí lên vai.
Thanh niên họ Lê cười, đáp:
“ Tôi tên huý là Học. Còn của thằng nhóc này là Lợi. ”
Phạm Lục Bình hỏi:
“ Ồ, cơ sự thế nào mà cậu nhóc này có cái tên lạ thế? ”
“ Chẳng dám giấu anh. Khi xưa lúc mẹ tôi lâm bồn, có con hổ xám đến nằm trước cửa nhà rồi gục chết ở đấy. Con hổ này làng tôi chẳng lạ, khôn mà lành lại hay săn thú về mời dân nên mọi người quý lắm. Lúc nó chết trai tráng khắp làng trên xóm dưới hò nhau chôn dưới gốc quế nó hay lui tới. Vì tưởng nhớ hổ xám, nên cả nhà mới quen gọi đứa nhóc lém lỉnh này là Hổ. ”
“ Trên đời này lại có sự lạ kì như thế à? ”
Hai thanh niên một đứa nhóc lụi cụi khiêng một cái cán đi trong canh khuya. Trăng khuyết treo cao trên đỉnh đầu. Bóng người cứ lớn dần, rồi tan vào đêm tối.
Nửa đêm chuyển dần về canh bốn, chỉ còn chút nữa là qua giờ Sửu. Trăng càng lên càng thanh, gió càng thổi càng nhẹ, mà người thì càng nhìn càng ít. Cũng khuya lắm rồi chứ có sớm sủa gì? Người ta nói, trong năm canh buổi đêm thì cái giờ này là lúc tiết trời tối nhất, ma quỷ bắt đầu đi lại, nên hạn chế ra ngoà. Người đi trong ngõ không chong đèn, có giơ tay ra trước mặt cũng chả thấy năm ngón, mà cứ nghe gió ở đâu thốc mãi vào gáy.
Ba người Phạm Lục Bình, Lê Học cứ men theo hồ Tây mà đi, len lỏi hết hẻm trên ngõ dưới rồi cũng đến một căn nhà xập xệ nằm ngoài rìa làng Nghi Tàm, cách hồ Tây chỉ độ dăm bước chân. Quanh nhà có một hàng rào con leo đầy mồng tơi, với cây rơm to ngay gần cửa. Cơn gió hồ khẽ thổi, tiếng sáo du dương chợt vọng ra từ khoảng sân vắng trước nhà khiến ba người ai nấy cũng giật mình.
Ngoại trừ thằng Hổ, hai người Lê Học đều ít nhiều biết khinh công nên dẫu phải cáng một người theo cũng không thấy mệt, mà lại khiêng êm lạ lùng. Suốt chặng đường Hồ Đỗ nằm cáng mà chẳng kháng nào nằm trên đất bằng, không xóc nảy lấy một cái.
“ Anh Học có cái cáng này hay thật, thằng em này phục sát đất. Nếu mình tôi cõng ông anh bảy chục cân này thì chẳng biết bao giờ mới tới nơi. ”
“ Anh Bình cứ quá khen, tôi chả dám nhận. Tính tôi nó nay đây mai đó, nhỡ nơi rừng hoang núi vắng mà gặp bệnh nhân thì phải làm sao? Thành ra mới nhớ người đóng cho cái này, đi đâu cũng yên tâm. ”
Hai người vừa đi vừa nói chuyện, thấy rất hợp ý. Thành thử cách xưng hô cũng thân cận hơn trước chứ không còn quá khách sáo nữa.
Thằng Hổ theo sau chót, tranh thủ lúc hai người đặt cáng xuống bèn chạy qua gọi cổng.
“ Mở cổng! Ngoài này có người bị thương! ”
Chó trong nhà thấy hơi người lạ, bắt đầu sủa lên inh ỏi.
“ Im ngay, cái đồ mất nết!!
Trong căn nhà ọp ẹp truyền ra tiếng một trung niên độ ngũ tuần, thanh âm ông đã khàn đặc vì đờm năm tháng. Chẳng mấy chốc, cổng đã mở, một người đàn ông ốm yếu với khuôn mặt vàng vọt xuất hiện trước ba người bọn Phạm Lục Bình.
“ Các cậu tìm ai? ”
Phạm Lục Bình cất tiếng:
“ Bác ạ, con Lục Bình đây mà. ”
“ Bình hả? Mau vào đi. ”
Người đàn ông nọ nói, đoạn cất bước vào nhà trong. Suốt cả quá trình, ông chẳng buồn nhìn thằng con nằm trên cáng của mình lấy một cái. Lê Học lòng thấy lạ kì, nhưng không dám nhiều lời hỏi chuyện riêng tư của người khác. May là còn thằng Hổ. Tính nó từ bé đã thế, có chuyện gì lạ là muốn truy tra tới chân tướng mới thôi. Tức thì, thằng bé giật gấu áo Lục Bình, hỏi luôn:
“ Uây, ông ấy là cha anh kia cơ mà. Nhìn thấy con bị thương nằm bẹp trên cáng mà tỉnh như sáo thế à? Cha gì mà máu lạnh. ”
“ Hổ! Đừng có nói linh tinh!!! ”
Lê Học thấy thằng bé lại bắt đầu nói hỗn bèn nhào tới bụm miệng nó lại.
Phạm Lục Bình cười khổ, đáp:
“ Chuyện kể ra dài lắm… ”
Canh tư.
Đêm đã muộn thế này mà giữa hồ hẵng còn mấy chiếc thuyền sáng đèn. Ra là thuyền thúng của dân chài lưới. Có cái thì đủ cho một người, còn cái nào to thì ba người ngồi cũng xuể. Trong thúng để nào cần, nào mồi, nào dây, nào giỏ…v.v…
“ Hôm nay ông Hai cũng ra đây câu hở? ”
“ Đành chịu bác ạ. Nay chưa vào mùa, tôm ít mà bé, tranh thủ câu đêm đến sáng mà bán cho mấy ông phú hộ thì còn được đồng ra đồng vào. Chứ mấy nữa tát đồng thì ê hề, của mình đến phải ế. ”
“ Chưa hết tháng đã hết tiền. Hôm nay mà được mẻ to, mời bác qua quán nước đầu làng tôi. Con to đem bán, lũ lắt nhắt thì ta làm bữa nhậu chơi. Hôm trước mụ vợ về nhà thăm mẹ mang lên mấy bình rượu thơm lắm. ”
Ông Hai đáp, cười khà:
“ Muốn được thế thì cứ phải làm đã, buông cần thôi bác ơi. ”
Người người đang lúc khí thế hừng hực thì cách đó không xa, trên một chiếc thúng con có ba người đang thản nhiên ngồi thưởng trăng. Kể cũng lạ. Người ta có thưởng trăng thì cũng thưởng mãn nguyệt trong ngày rằm, chứ có ai lại đi thưởng một mảnh trăng tí tẹo ngày mùng hai đầu tháng như ba người nọ?
Nhìn gần hơn, thì thấy nhóm quái nhân này gồm một người đàn ông chừng ba mươi mặc áo tơi đội nón tre. Một ông sư vẻ kham khổ vận cà sa có chòm râu dài tới giữa ngực và một đạo sĩ tuổi chừng sáu mươi. Đúng là người kì lạ thì hành vi cũng lạ kì chẳng kém.
“ Thiên Cơ đạo huynh cất công tìm tên trộm vặt này, lại lặn lội lên tận đèo Ngang gọi Cứu Khổ thần tăng về kinh ắt là có chuyện lớn muốn bàn bạc? ”
“ Quả thực là vua trộm, ý nghĩ trong đầu ta mà bác cũng thó được, bội phục. ”
Thiên Cơ lão đạo vuốt râu, cười đắng chát.
Cứu Khổ thần tăng tiếp:
“ Đạo huynh tinh thông thuật tinh tượng, quá khứ vị lai đều chẳng giấu được mắt thần. Không biết lần này võ lâm lại có nạn gì? ”
Tiếng lão ồm ồm và khàn đặc lại, không nghe kỹ còn tưởng ấy không phải tiếng người mà là loài quỷ đang nói. Thì ra, Cứu Khổ thần tăng vì tai nạn mà bị câm. Âm thanh vừa rồi là lão kết hợp nội lực với thuật nói tiếng bụng phát ra.
Trên đườnh trảy kinh, dân tình thấy miệng lão đóng chặt mà âm thanh cứ phát ra liên hồi thì cũng hoảng hồn mấy phen.
Thiên Cơ lão đạo thở dài, nói:
“ Hai vị võ lâm chí tôn Hoả Công, Băng Bà đột nhiên mất tích, khiến cả giang hồ lạc vào một tràng gió tanh mưa máu. Hôm trước bần đạo có dạo qua chùa Trấn Quốc dâng hương, bất ngờ quan sát được điềm lạ trên vòm trời. ”
“ Ồ? ”
Quận Gió ngồi nhỏm dậy, tỏ vẻ hứng thú trước lời nói của Thiên Cơ lão đạo. Con thuyền thoáng tròng trành vì động tác của y, song Cứu Khổ thần tăng chỉ khẽ vận công là chiếc thuyền thúng chở ba người lại vững vàng như bàn thạch.
“ Vậy là đạo huynh cũng thấy được nó à? ”
Giọng nói kì lạ của Cứu Khổ thần tăng lại vang lên, nhắm ngay lúc đôi thuyền thúng của dân chài bị sóng đẩy tới gần. Ba ngư dân ngồi trên thuyền nghe được chất giọng đều đều vô cảm của lão, lông tóc ở gáy cứ dựng đứng cả lên.
“ Này! Hai người thấy cái gì mới được chứ?? ”
Trong ba người, chỉ có Quận Gió là không biết thuật quan sát sao trời, thành ra hai người càng nói y càng chẳng hiểu mô tê gì hết.
“ Tử tinh tái sinh, thiên hạ không yên. ”
Hai người, một tăng một đạo, đồng thời cất tiếng.
“ Tử tinh? Ý là gì? ”
“ Khi sao đổi ngôi, nó rơi xuống thành vẫn tinh rồi vụt tắt. Trong thuật tinh tượng người ta gọi ấy là sao chết hay tử tinh. Thế nhưng, sao đổi ngôi xong bỗng nhiên bắn ngược lên rồi toả sáng rực rỡ thì gọi là tử tinh tái sinh, cũng tức là sao đã chết mà sống lại vậy. ”
Thiên Cơ lão đạo khẽ giải thích, ngữ điệu đã ảm trầm đi nhiều.
Cứu Khổ thần tăng tiếp:
“ Lại nói, tử tinh tái sinh lần này không chỉ có một, mà là hai vì sao liên tiếp. Chứng tỏ, nước ta liên tiếp trải qua hai lần hạo kiếp. ”
Quận Gió thấy sắc mặt hai người nghiêm nghị hẳn lại, thì cũng chẳng giữ nổi vẻ cười đùa nữa. Y nói:
“ Võ lâm đại loạn phải chăng là một lần hạo kiếp? ”
“ Không! Loạn cục của giang hồ xảy ra quá sớm, nên chẳng thể là do tử tinh tái sinh gây nên. Tuy nhiên, hôm qua bần đạo đã tính thử một quẻ cho Đại Việt.
Đế tinh rọi xuống trời nam, chứng tỏ chân mạng thiên tử đã xuất sinh. Vai gánh Bắc Đẩu, tay nắm La Hầu, ấy là mệnh của người này. Tử tinh tuy mạnh, nhưng cuối cùng ắt bị người này lợi dụng, mở ra triều đại mới. ”
Phải biết những lời này, nếu như để quan binh nghe được dù chỉ một câu thôi cũng ắt sẽ gô cổ Thiên Cơ lão đạo lại vì “ đại nghịch bất đạo ”, rồi ghép ông tội phản quốc để tru di tam tộc. Thế mà ông đạo sĩ nói ra với ngữ khí thản nhiên như không, giống như một việc nhỏ chẳng đáng bận tâm.
Quận Gió nghe xong bèn xua tay, than:
“ Lão đạo à, vua có sinh ra hay chưa thì có can hệ gì tới tên bợm này?? Không phải lão không biết, các đời Quận Gió chưa từng nhúng tay vào tranh quyền đoạt vị. ”
“ Liên quan! Vì bác Quận chính là người sẽ quay bánh xe thời đại. ”
Cứu Khổ thần tăng - người vẫn giữ im lặng từ đầu tới giờ, bất chợt lên tiếng. Ông dùng tiếng bụng, ngữ khí ồ ồ đều đều nên không ai đoán được ông nghĩ gì.
Quận Gió nghe xong bèn cười, vỗ đùi đánh đét một cái:
“ Hả? Hoá ra Cứu Khổ thần tăng cũng biết đùa ư? Thay triều, hoán đại. Ấy là việc của các bạc anh hùng, của những đấng hào kiệt. Còn tôi rõ ràng chỉ là tên đầu trộm đuôi cướp, có tài gì đức gì cơ chứ? ”
“ Bác Quận nói thế, bần đạo cho rằng không phải. Một chữ anh hùng ai dám tự xưng, hai tiếng hào kiệt kẻ nào có gan tự gọi? Bác chuyên cứu nghèo giúp khó, trừng trị đảng tham quan phường giặc cướp, là bậc quân tử trong đám quỷ thâu. Thiết nghĩ ngoài bác Quận ra, giang hồ Đại Việt không còn ai xứng với hai tiếng “ anh hùng ” hơn. ”
Quận Gió lắc đầu, nói:
“ Anh hùng, hào kiệt! Không phải ai cũng muốn làm, dám làm. Song… không ai là không kính ngưỡng. Quận này tài mọn, làm bợm thì được chứ không cáng đáng nổi tiếng thơm. Thân mang hai chữ anh hùng, người đeo cái danh hào kiệt. Có khác gì đứng giữa sông Đà muôn dặm mà vùng vẫy, gánh lấy núi Tản nghìn cân mà hiên ngang? Kẻ như tôi nhàn cư đã quen, đảm đương không nổi. ”
Cứu Khổ thần tăng nhìn sang Thiên Cơ lão đạo, cả hai cùng nhún vai mà chẳng nói gì cả. Vận mệnh, đã bắt đầu vần xoay vào lúc này. Người có muốn chạy cũng không được.
“ Thôi thì chẳng mấy khi ba người bạn vong niên chúng ta tụ họp. Đêm nay trăng thanh gió mát mà không thưởng thức đúng là đáng tiếc. Nếu đã nhắc tới anh hùng hào kiệt, thì chi bằng ta bàn luận luôn xem thiên hạ trong hai mươi năm trở lại đây ai mới xứng là anh hùng thực sự. Bác Quận, đại sư thấy sao? ”
Nhận thấy không khí ngột ngạt, Thiên Cơ lão đạo bèn ho khan, lên tiếng chuyển chủ đề.
Quận Gió nói:
“ Hay lắm! ”
Cứu Khổ thần tăng thì chắp tay như đang niệm phật, im lặng.
Thiên Cơ lão đạo nói:
“ Bần đạo là chủ nhà, xin bắt đầu trước.
Gần đây ở nước Chiêm Thành xuất hiện một Chế Bồng Nga hung danh hiển hách, trí chùm thiên hạ. Nhờ có y, mà quân Chiêm từ chỗ sợ Đại Việt một phép hoá thành hổ dữ hùm beo. Bần đạo từng có lần đứng trên tường thành nhìn y công chiếm Thăng Long. Đúng là đánh như sóng dữ, rút như thuỷ triều.
Bần đạo cũng từng có dịp thách đấu với y một lần, quả là võ lực kinh người. Ba mươi sáu chiêu Thiên Cơ chưởng của tôi, hắn đỡ được hết. Nếu không nhờ có Thiên Đạo kiếm pháp, e rằng đánh ba ngày ba đêm mới khuất phục được.
Nếu bỏ qua tị hiềm dân tộc mà chỉ nhìn vào thành tựu, thì người như thế xứng là anh hùng không? ”
Cứu Khổ thần tăng lên tiếng:
“ Vua nước Chiêm thực là một nhân vật lớn. Cầm quân, tỉ võ đều uy dũng hơn người, xứng là trí dũng song toàn. Thế nhưng y gây chiến với Đại Việt, lại lấy rừng vàng bể bạc cống nạp cho nhà Minh để xưng thần. Điều ấy khiến dân nước Chiêm vốn đã nghèo, nay càng đói khổ lầm than. Đó là y ích kỷ bất nhân.
Thử hỏi, một kẻ bất nhân thì còn gọi gì là anh hùng nữa? ”
Thoáng dừng lại một chút, ông lại tiếp:
“ Nhắc tới Chế Bồng Nga thì không thể không nói tới tướng đã hạ y, ấy là Trần Khát Chân. Người này năm nay mới hai mươi, thế mà binh thư đã làu làu tinh thông.
Y lại biết đến chữ nhân nghĩa, thường hay phát chẩn gạo cơm cho người nghèo. Những nơi quân đội của y từng dừng chân, bà con chưa từng bị sĩ tốt làm phiền cướp bóc. ”
Quận Gió lại nói:
“ Ây dà, Trần Khát Chân đúng là anh hùng xuất thiếu niên. Thế nhưng tên bợm này nhàn cư vi bất thiện từng lẻn vào doanh trại của y. Người này tuổi trẻ mà tài nghệ siêu quần, dõi mắt hai chục năm nay hiếm có ai bằng, thành thử ngạo khí cũng thấm nhuần trong cốt tuỷ. Y nhiều lần nói trước mặt tướng sĩ tâm phúc sẽ thay thế vị trí của Lê Quý Li.
Quý Li nổi tiếng giảo quyệt đa đoan, mà một núi thì không chứa được hai con mãnh hổ. Không biết hai bác sao, chứ tôi nghĩ hùm thiêng họ Trần e phải thua vào miệng thuồng luồng họ Lê. ”
“ Thế theo bác Quận, ai mới là anh hùng thời nay? ”
Trước câu hỏi của hai người bạn già, Quận Gió nhẹ nhàng ngước mắt lên nhìn thẳng vào bầu không. Trăng đầu tháng, đẹp theo một cách rất riêng. Mờ mờ, huyền bí. Gương mặt mĩ nhân phủ lên một lớp hơi sương khiến ai nhìn cũng phải tò mò mà thả trí tưởng tượng bay đi. Như một hệ quả đi kèm, sao sáng hơn bình thường.
“ Anh hùng? Hào kiệt? Thế nào mới xứng là anh hùng? Tay nắm ngàn quân, chiến chinh thiên hạ thì chúng sinh đồ thán. Võ nghệ siêu quần, hành hiệp trượng nghĩa lại cứu nổi bao người? Anh hùng là gì? Hào kiệt lại là gì? Ôi… ”
Sóng vỗ mạn thuyền, dạt dào xa.
Lê Học đặt Hồ Đỗ nằm yên vị trên chiếc giường đơn trong buồng ngủ, lại ngồi kê một đơn thuốc rồi mới ra ngoài. Trăng kéo xuống đậu lên dàn mướp, đêm tản dần về sáng. Chỉ nửa canh giờ nữa là dân tình kéo nhau ra đồng làm ăn. Thằng Hổ nằm ghé vào góc tường ngủ khì.
Phạm Lục Bình đương ngồi cùng cha Hồ Đỗ, dưới mái hiên. Ấm chè thơm đã pha sẵn, hương thơm quyến luyến mà không bám riết, như có như không phả vào gió đêm, thắp sáng cả vườn khuya.
“ Chè thơm thật. ”
Lúc Lê Học định thần lại thì lời khen đã vuột ra khỏi miệng, có muốn nuốt ngược vào bụng cũng chẳng còn kịp nữa.
“ Thầy Lê ra rồi kìa bác. Thầy thứ tôi vô phép, dám hỏi bệnh tình anh Đỗ sao rồi ạ? ”
Phạm Lục Bình đứng lên, có vẻ hơi cố sức. Ám kình của Nội Hoa Đăng đã được y hoá giải, nhưng chân khí cũng hao tổn kha khá không thể phục hồi chỉ trong một chốc được.
“ Anh Đỗ trúng một đòn nặng, khiến nội phủ tổn thương. May mà địch thủ trước khi tung chiêu cũng dính một đòn nặng, khiến oai lực đòn sát thủ giảm mất mấy phần. Chỉ cần tịnh dưỡng mấy ngày, đợi lúc nội thương ổn định lại uống thuốc bồi bổ cơ thể là ổn. Ở đây có thang thuốc, phiền anh Phạm sớm mai đi cắt. Trong thời gian này, tốt nhất đừng để bệnh nhân hoạt động mạnh. ”
Lê Học vừa nói, vừa ngưng thần quan sát ông lão trung niên. Thành thử, tiếng thở phào thả lỏng sâu kín của ông chẳng thể tránh khỏi con mắt của người lương y. Chàng ho khan một tiếng, bấm bụng hỏi:
“ Kì lạ ở chỗ, lúc bắt mạch Hồ Đỗ tôi thấy cốt khí y hơi yếu hơn thường nhân. Hình như là do sinh thiếu bốn chục ngày, bác gái lúc mang thai không cẩn thận động thai. Đáng ra, anh Đỗ phải yếu ớt hơn người cùng tuổi mới đúng. Đằng này sức lại như hùm như trâu. Tôi dù bất tài, nhưng cũng hành y gần mười năm. Thế mà chưa từng chứng kiến trường hợp nào quái lạ như vậy.
Nếu như chuyện này không có ẩn tình gì khó nói, hi vọng bác đây có thể giải đáp thắc mắc cho thoả lòng hiếu kì. Không biết có được chăng? ”
“ Cảm ơn thầy, đã chữa lành cho thằng con bất hiếu. Tôi thân già côi cút, có những chuyện giấu ở trong lòng cũng mấy chục năm trời. Nay ân nhân đã muốn biết, thiết nghĩ cũng không dám giấu nữa. ”
Ông chợt ngừng lại, húng hắng ho. Thân hình còm nhom co quắp lại như con tôm, run bắn từng hồi trông thật đáng thương. Lê Học vội đến bên cạnh thôi cung quá huyệt ở lưng cho ông, một lúc sau mới dứt hẳn cơn.
“ Ân nhân xin hãy thứ lỗi cho. Dạo này trái gió trở trời, nhiễm sương nên bệnh cũ tái phát. ”
Trong một thoáng, mắt ông mất đi vẻ đục ngầu, trở nên sáng lạ thường. Người già, mỗi khi nghĩ về những ngày xưa khó quên, đều như thế cả.
“ Bà nhà tôi từ hồi còn con gái vốn đã ốm yếu hơn chị em chòm xóm, tóc lại bạc phơ như người lục tuần. Trai làng ai cũng chê xấu, chẳng chịu lấy dù nhà ngoại tôi cũng thuộc hàng khá giả ruộng sâu trâu nái. Con gái người ta, kẻ nghèo thì ra đồng đi cấy đi cầy phụ giúp cha mẹ, khá hơn thì dệt vải kéo tơ bán cho làng trên xóm dưới. Bà nhà tôi thì yếu quá, cứ làm được một lúc lại ngồi thở. Có khi làm hai ba ngày mới bằng người ta làm một buổi.
Bà ấy chỉ có một thú vui, ấy là sáo. Mẹ thằng Đỗ mê tiếng sáo lắm. Sáo lá, sáo trúc đều biết thổi. Ngặt nỗi ốm yếu, được non nửa bài là hết hơi. Thế mới lấy phải thằng trai xấu, còm nhom như que củi như tôi. Cũng chính mẹ thằng Đỗ dạy tôi làm sáo diều, nên mới có hột cơm bỏ vào mồm. ”
Ông nói về vợ với giọng nghèn nghẹt, cặp mắt già nua thỉnh thoảng lại ngước lên cây cau trước sân. Phạm Lục Bình, Lê Học ngồi bên chỉ biết yên lặng nghe, chén chè đã nắm trong tay cũng không buồn nhấp.
“ Thằng Đỗ sinh thiếu tháng, bố mẹ lại ốm lại yếu, nên nó còi như quỷ đói. Mấy bận tưởng là không nuôi nổi. May thay, gặp dịp thiền sư Tuệ Tĩnh nghe tiếng sáo ghé qua nhà, mới chữa cho nó. Từ ấy, lại bái sư bên chùa Trấn Quốc học võ mới được khoẻ mạnh như bây giờ. ”
Lê Học đặt chén chè xuống, lẩm bẩm:
“ Thì ra là tổ sư ra tay, hèn chi lại thần kì như thế… ”
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.