Chương 2: Sơ thiệp hồng trần
Tiểu Chu Dữ Mặc
31/12/2020
Mùng ba tháng Giêng.
Trong suốt hai mươi bảy năm tu đạo tại Thục Sơn, việc xuống núi đối với Từ Trường Khanh mà nói đã trở nên vô cùng quen thuộc rồi. Chỉ có lần này là khác hẳn, không chỉ sư phụ căn dặn mãi, mà ngay cả vị chưởng môn luôn bình tĩnh bất động như sơn Thanh Vy đạo trưởng cũng nhắc đi nhắc lại y phải làm cách nào đối phó với những tình huống cấp bách. Đi tới lưng chừng núi, Từ Trường Khanh khẽ nhíu mày, trong lòng thầm nghĩ tại sao các vị sư tôn lại có thái độ khác thường như vậy?
Khi y đang cưỡi trên “Kiến Ngôn” kiếm tới ngoài thành Du Châu thì có một tiếng gọi từ phía sau truyền đến: “Đại sư huynh!”.
Thì ra là sư đệ Thường Dận đuổi theo đến đây.
“Có phải Thục Sơn xảy ra chuyện gì rồi?”
Thường Dận sửng sốt nói: “Đại sư huynh đừng lo lắng, Thục Sơn có chưởng môn cùng bốn vị trưởng lão trấn thủ, tà vật gì trong thiên hạ cũng không thể gây hại mảy may. Chỉ là Nguyên Thần trưởng lão lo lắng chuyến này huynh đi gặp phải bất trắc, bảo đệ mang vật này giao cho huynh. Huynh nhất định phải cẩn thận!”.
Nhìn miếng đá phát ra thứ ánh sáng rực rỡ trong lòng bàn tay Thường Dận, Từ Trường Khanh thốt lên: “Nữ Oa thạch! Sư phụ mang bảo vật quý giá như vậy của Thục Sơn giao lại cho ta sao?”. Y lắc đầu, “Trường Khanh không có vật này cũng có thể tự bảo vệ mình. Phiền sư đệ mang nó về Thục Sơn. Trường Khanh hổ thẹn không dám nhận!”.
Thường Dận nghiêm mặt nói, “Nữ Oa linh thạch tuy là chí bảo, nhưng nếu đem để một chỗ, khác gì thứ vô dụng. Sư huynh cứ nhận lấy bảo quản cẩn thận, sau này tự mình trả lại sư tôn cũng được”.
Từ Trường Khanh gật đầu, cẩn thận nhét vào trong nhẫn Tu Di, ngẩng đầu trông thấy thần sắc Thường Dận, kinh ngạc nói: “Sư đệ còn có chuyện gì sao?”.
Lúc này Thường Dận mới hoàn hồn, nhìn chiếc nhẫn Tu Di đen nhánh, ánh mắt vô cùng phức tạp: “Đại sư huynh, nhiều năm như vậy, huynh vẫn giữ chiếc nhẫn này sao?”. Trường Khanh mỉm cười: “Nhẫn này là bảo vật hai chúng ta lần đầu luyện ra, sao có thể không giữ cẩn thận chứ”.
“Nhẫn vốn là một đôi, đáng tiếc chiếc kia của đệ trong lúc thu yêu đã mất rồi.”
Trường Khanh nghe được ý không vui trong câu nói của Thường Dận, liền nói: “Trường Khanh hứa với đệ, đợi lần này trở về Thục Sơn, ta sẽ cùng đệ luyện ra một chiếc nhẫn Tu Di khác”.
Thường Dận gật đầu, xoay người định đi, bỗng nhiên quay đầu lại, nghiêm túc nói: “Là một đôi, đến lúc đó huynh một chiếc, đệ một chiếc”.
“Được!”.
“Sư huynh bảo trọng! Tam nguyên trai nhật, sư huynh đệ chúng ta gặp lại ở Thục Sơn!”.
“Mười lăm tháng Giêng, Trường Khanh nhất định trở về!”.
Mùng năm tháng Giêng.
Du Châu tuy không phải Tam Ngô đô hội, nhưng cũng là đất Thục địa Ba sơn, tự cổ phồn hoa. Lúc này lại chính hội Thượng Nguyên, chợ đêm ồn ào náo nhiệt, đèn hoa rực rỡ.
Du Châu là nơi giao nhau của những con đường huyết mạch, cho nên phú thương qua đây rất nhiều, kẻ sĩ phong nhã cũng không ít. Thành Du Châu mỗi năm một lần tổ chức “Giám bảo đại hội” ngay khi màn đêm vừa buông xuống. Hàng năm cứ vào ngày hội Thượng Nguyên, những nhà lắm tiền nhiều của lại đem bảo vật ra trưng bày. Thứ nhất là để biểu thị khí thế nhà mình, kế đến là để thỏa mãn tâm lý muốn mở rộng tầm mắt của thường dân bách tính.
Lúc này dưới đài, người người tấp nập, tiếng huyên náo không dứt.
Trên đài ba tấm lụa mỏng được kéo ra, ba người đẹp tràn đầy tình ý giữ trên tay trân bảo, ngồi nghiêm chỉnh để mọi người giám định.
Dưới đài không ít kẻ chỉ trỏ, xì xào bàn tán: “Đây là Tiểu Loan cô nương, quốc sắc thiên hương không ai sánh bằng…”, “Hoa đăng minh nguyệt, thưởng hoa, thưởng bảo, thưởng mỹ nhân, quả là chuyện khoái trá nhất đời người”.
“Lão đại lão đại, cầu sáng này thật đẹp quá. Giữa ngày đông lại có cầu hoa nở rộ rực rỡ thế này”. Mậu Sơn đeo sọt nan đầy đồ ăn trên lưng, chỉ vào cầu hoa đủ thứ sắc màu trên đài, lớn tiếng hét: “Huynh nói đêm nay vị lão gia nào sẽ đứng đầu đây?”.
“Mậu Mậu, chúng ta tới giúp Trần lão gia giám định bảo vật, không phải giám định nữ nhân. Ngươi đến lúc đó chăm chú nhìn bảo bối, đừng chăm chú nhìn nữ nhân nghe chưa.”
“Nhưng mà, lão đại, người ngày thường thích nhìn ngắm nữ nhân hình như là huynh mà.”
Lúc này, màn che đã dần dần được kéo ra, bên trong lớp vải, một mỹ nhân áo tím đang ngồi, hơi cúi đầu, hai gò má trắng nõn giữa một thân áo tím càng làm nổi bật vẻ e thẹn xinh đẹp, say đắm lòng người. Trong lòng nàng ôm một chiếc đàn cổ toát ra vẻ ớn lạnh âm u, trên đàn cổ, năm dây đàn trắng thuần như nước, ẩn chứa khí lạnh thấu xương. Cảnh Thiên vừa nhìn qua, trong lòng không khỏi đông cứng.
Một tiếng thở dài tựa vạn năm vọng lại, xuyên qua sương chiều dày đặc, quanh quẩn sâu trong nội tâm:
“Tại sao lại là áo tím, sao người không khoác bạch y?”.
Mậu Sơn thấy lão đại nhà mình nhìn đàn cổ chằm chằm, thầm nghĩ, đàn cổ đó có gì kỳ lạ sao?
Hắn cẩn thận nhìn lại, dưới ngọi đèn dầu chiếu rọi, quan sát đàn cổ thật kỹ không sót một điểm nào, vẫn không phát hiện ra có chỗ nào đặc biệt.
À, không đúng, phải là rất đặc biệt!
Là vì đàn này chỉ có năm dây.
“Thất Sát! Thất Sát Cầm!”.
“Lão đại ! Đàn này gọi là gì cơ? Thất Sát là cái gì? Rõ ràng chỉ có năm dây, sao lại là Thất Sát?”. Mậu Sơn quay lại, chỉ thấy trong thần sắc lão đại xưa nay chỉ có cợt nhả trêu tức, lại toát ra ba phần bi thương.
Cảnh Thiên hoảng hốt nhìn lên nữ tử áo tím trên đài, “Dây đứt âm hết, khuynh thành khó nghe! Thất Sát này vốn dĩ có bảy dây, chủ nhân đàn cổ phải vì kẻ quyền quý mà hiến nghệ, cho nên nổi cơn giận dữ cắt đứt hai dây đàn. Từ đó về sau, Thất Sát Cầm bảy âm tề minh, đã thất truyền mãi mãi!”.
Mậu Sơn lắc đầu: “Thất Sát? Cái tên này không cát lợi, chi bằng gọi Thất Phúc cho xuôi tai!”.
“Thất Sát đứng đầu trong mười bốn ngôi sao chính của tử vi, là một ngôi sao cứng cỏi kiên nghị, đại biểu cho tướng tinh, xông pha trận mạc huyết nhiễm sa trường, cực kỳ lợi hại!”.
Mậu Sơn quay đầu “Hả” một tiếng, “Đạo trưởng, là ngài à!”.
“Là ta! Thì ra tiểu huynh đệ còn nhớ rõ ta?”.
Cảnh Thiên quay phắt lại, đối diện với đôi ngươi trong suốt, trong tim không hiểu sao đập loạn một nhịp. Người nọ tố y trường kiếm, đang nở nụ cười nhàn nhạt nhìn hắn. Nếu muốn hắn nói ra ấn tượng của mình với nam tử này như thế nào, thì cũng chưa chắc hắn nói ra được. Đằng sau nụ cười ôn hòa của người này, là vẻ thản nhiên nhìn hồng trần thế tục, vẻ xa cách của người chuyên tâm tu hành, xem ra không phải người dễ dàng thân cận được.
Nhưng mà, vừa rồi bất chợt như tắc nghẹn, cảm giác hít thở khó khăn ấy khiến Cảnh Thiên thầm cảm thấy kỳ lạ. Chút biến đổi này chỉ là rất nhẹ, rất nhanh chóng, Cảnh đại gia lập tức khôi phục bản tính thường ngày.
“Thì ra chính là huynh vị Thục Sơn đệ tử này, dám sai phái Mậu Mậu của ta chạy ngược chạy xuôi, chạy đi khắp nơi nghe ngóng cho huynh cái gì mà người hữu duyên, đưa đây đưa đây…”
Từ Trường Khanh khó hiểu, nhíu mày: “Đưa cái gì?”
“Đưa phí khổ cực đó!”
“Thế nhưng, Trường Khanh có bắt Mậu Sơn huynh đệ chạy ngược chạy xuôi đâu.”
“Ồ, huynh tên Trường Khanh?”
Nhìn thẳng Cảnh Thiên, y sửa lại cho đúng: “Là Từ Trường Khanh!”
“Ta biết, Từ Trường Khanh Từ đạo trưởng à, huynh nói nghe coi, thời này tiền công thuê lao động đắt lắm, nếu như huynh không có bạc, tốt nhất đừng có tùy tiện mời chúng ta làm việc…”.
Lời của Cảnh Thiên không có tiếp tục, bởi vì, trong nháy mắt mặt đối phương đã biến sắc.
Chỉ thấy hàn quang chợt lóe, tiếng kiếm rít dài, Từ Trường Khanh đột ngột rút kiếm ra khỏi vỏ. Cảnh Thiên kêu to một tiếng, ôm chầm lấy đầu: “Quân tử động khẩu không động thủ! Có chuyện gì từ từ thương lượng. Người xuất gia tính tình quá nóng không có lợi cho tu hành đâu”.
“Lão đại! Từ đại hiệp đâu có nói muốn giết huynh. Huynh ấy đi bắt yêu rồi!”
“Bắt yêu!”, Cảnh Thiên ngẩn người, nói: “Không phải tức giận! Nhìn bộ dạng thổi râu trợn mắt mới rồi của hắn, ta còn tưởng…”.
“Lão đại! Từ đạo trưởng có râu mà thổi sao?”.
“Phi, phi, là đàn ông thì phải có râu mép, lẽ nào Từ Trường Khanh không phải đàn ông. Lúc hắn cạo râu hắn để ngươi thấy chắc?”.
Mậu Mậu cười khà khà: “Đạo trưởng cạo râu đệ chưa thấy qua, có điều đạo trưởng tắm rửa thì đệ đã thấy rồi. Huynh không biết đâu, trên ngực huynh ấy…”.
“Ở đó mà khoác lác đi!”.
“Trai nhật” là ngày ăn chay giữ giới luật. Đạo giáo đã đặt ra trai nhật vô cùng chặt chẽ. Trong ngày này các đệ tử cần phải ăn chay và tuân thủ một cách nghiêm chỉnh nhất giới luật Đạo giáo. Trai nhật của Đạo giáo được chia ra làm: Thập trực trai nhật (mỗi tháng ăn chay mười ngày vào mùng một, mùng tám, mười bốn, mười lăm, mười tám, hai ba, hai tư, hai tám, hai chín, ba mươi); Bát tiết trai nhật (Một năm ăn chay vào ngày lập xuân, xuân phân, lập hạ, hạ chí, lập thu, thu phân, lập đông, đông chí); Tam nguyên trai nhật (ăn chay vào mười lăm tháng Giêng, mười lăm tháng bảy, mười lăm tháng mười); Tứ thủy trai nhật (ăn chay vào ngày mùng một các tháng: giêng, tư, bảy, mười một) và Tam hội trai nhật (mùng bảy tháng giêng, mùng bảy tháng bảy và mùng năm tháng mười).
Ở đây, Thường Dận hẹn Từ Trường Khanh gặp lại vào tam nguyên trai nhật, tức là mười lăm tháng giêng.
Tam Ngô là khu vực địa lý hành chính hình thành bởi ba quận thuộc tỉnh Chiết Giang, bao gồm Ngô Hưng (nay là Hồ Châu), Ngô Quận (nay là Tô Châu) và Hội Kê (nay là Thiệu Hưng), “Tam Ngô” vốn được coi là mảnh đất vô cùng phồn hoa náo nhiệt, đã đi vào văn chương của không ít tài tử văn nhân, trong đó nổi tiếng nhất là bài “Vọng Hải Triều” của Liễu Vĩnh thời Tống, với những câu thơ đậm cảnh tình như: “Đông Nam hình thắng, Tam Ngô đô hội, Tiền Đường tự cổ phồn hoa…”
Nguyên văn”吹胡子瞪眼睛”, tức thổi râu trợn mắt, nghĩa là nổi giận đùng đùng, tương đương với “phùng mang trợn mắt” của Việt Nam.
Trong suốt hai mươi bảy năm tu đạo tại Thục Sơn, việc xuống núi đối với Từ Trường Khanh mà nói đã trở nên vô cùng quen thuộc rồi. Chỉ có lần này là khác hẳn, không chỉ sư phụ căn dặn mãi, mà ngay cả vị chưởng môn luôn bình tĩnh bất động như sơn Thanh Vy đạo trưởng cũng nhắc đi nhắc lại y phải làm cách nào đối phó với những tình huống cấp bách. Đi tới lưng chừng núi, Từ Trường Khanh khẽ nhíu mày, trong lòng thầm nghĩ tại sao các vị sư tôn lại có thái độ khác thường như vậy?
Khi y đang cưỡi trên “Kiến Ngôn” kiếm tới ngoài thành Du Châu thì có một tiếng gọi từ phía sau truyền đến: “Đại sư huynh!”.
Thì ra là sư đệ Thường Dận đuổi theo đến đây.
“Có phải Thục Sơn xảy ra chuyện gì rồi?”
Thường Dận sửng sốt nói: “Đại sư huynh đừng lo lắng, Thục Sơn có chưởng môn cùng bốn vị trưởng lão trấn thủ, tà vật gì trong thiên hạ cũng không thể gây hại mảy may. Chỉ là Nguyên Thần trưởng lão lo lắng chuyến này huynh đi gặp phải bất trắc, bảo đệ mang vật này giao cho huynh. Huynh nhất định phải cẩn thận!”.
Nhìn miếng đá phát ra thứ ánh sáng rực rỡ trong lòng bàn tay Thường Dận, Từ Trường Khanh thốt lên: “Nữ Oa thạch! Sư phụ mang bảo vật quý giá như vậy của Thục Sơn giao lại cho ta sao?”. Y lắc đầu, “Trường Khanh không có vật này cũng có thể tự bảo vệ mình. Phiền sư đệ mang nó về Thục Sơn. Trường Khanh hổ thẹn không dám nhận!”.
Thường Dận nghiêm mặt nói, “Nữ Oa linh thạch tuy là chí bảo, nhưng nếu đem để một chỗ, khác gì thứ vô dụng. Sư huynh cứ nhận lấy bảo quản cẩn thận, sau này tự mình trả lại sư tôn cũng được”.
Từ Trường Khanh gật đầu, cẩn thận nhét vào trong nhẫn Tu Di, ngẩng đầu trông thấy thần sắc Thường Dận, kinh ngạc nói: “Sư đệ còn có chuyện gì sao?”.
Lúc này Thường Dận mới hoàn hồn, nhìn chiếc nhẫn Tu Di đen nhánh, ánh mắt vô cùng phức tạp: “Đại sư huynh, nhiều năm như vậy, huynh vẫn giữ chiếc nhẫn này sao?”. Trường Khanh mỉm cười: “Nhẫn này là bảo vật hai chúng ta lần đầu luyện ra, sao có thể không giữ cẩn thận chứ”.
“Nhẫn vốn là một đôi, đáng tiếc chiếc kia của đệ trong lúc thu yêu đã mất rồi.”
Trường Khanh nghe được ý không vui trong câu nói của Thường Dận, liền nói: “Trường Khanh hứa với đệ, đợi lần này trở về Thục Sơn, ta sẽ cùng đệ luyện ra một chiếc nhẫn Tu Di khác”.
Thường Dận gật đầu, xoay người định đi, bỗng nhiên quay đầu lại, nghiêm túc nói: “Là một đôi, đến lúc đó huynh một chiếc, đệ một chiếc”.
“Được!”.
“Sư huynh bảo trọng! Tam nguyên trai nhật, sư huynh đệ chúng ta gặp lại ở Thục Sơn!”.
“Mười lăm tháng Giêng, Trường Khanh nhất định trở về!”.
Mùng năm tháng Giêng.
Du Châu tuy không phải Tam Ngô đô hội, nhưng cũng là đất Thục địa Ba sơn, tự cổ phồn hoa. Lúc này lại chính hội Thượng Nguyên, chợ đêm ồn ào náo nhiệt, đèn hoa rực rỡ.
Du Châu là nơi giao nhau của những con đường huyết mạch, cho nên phú thương qua đây rất nhiều, kẻ sĩ phong nhã cũng không ít. Thành Du Châu mỗi năm một lần tổ chức “Giám bảo đại hội” ngay khi màn đêm vừa buông xuống. Hàng năm cứ vào ngày hội Thượng Nguyên, những nhà lắm tiền nhiều của lại đem bảo vật ra trưng bày. Thứ nhất là để biểu thị khí thế nhà mình, kế đến là để thỏa mãn tâm lý muốn mở rộng tầm mắt của thường dân bách tính.
Lúc này dưới đài, người người tấp nập, tiếng huyên náo không dứt.
Trên đài ba tấm lụa mỏng được kéo ra, ba người đẹp tràn đầy tình ý giữ trên tay trân bảo, ngồi nghiêm chỉnh để mọi người giám định.
Dưới đài không ít kẻ chỉ trỏ, xì xào bàn tán: “Đây là Tiểu Loan cô nương, quốc sắc thiên hương không ai sánh bằng…”, “Hoa đăng minh nguyệt, thưởng hoa, thưởng bảo, thưởng mỹ nhân, quả là chuyện khoái trá nhất đời người”.
“Lão đại lão đại, cầu sáng này thật đẹp quá. Giữa ngày đông lại có cầu hoa nở rộ rực rỡ thế này”. Mậu Sơn đeo sọt nan đầy đồ ăn trên lưng, chỉ vào cầu hoa đủ thứ sắc màu trên đài, lớn tiếng hét: “Huynh nói đêm nay vị lão gia nào sẽ đứng đầu đây?”.
“Mậu Mậu, chúng ta tới giúp Trần lão gia giám định bảo vật, không phải giám định nữ nhân. Ngươi đến lúc đó chăm chú nhìn bảo bối, đừng chăm chú nhìn nữ nhân nghe chưa.”
“Nhưng mà, lão đại, người ngày thường thích nhìn ngắm nữ nhân hình như là huynh mà.”
Lúc này, màn che đã dần dần được kéo ra, bên trong lớp vải, một mỹ nhân áo tím đang ngồi, hơi cúi đầu, hai gò má trắng nõn giữa một thân áo tím càng làm nổi bật vẻ e thẹn xinh đẹp, say đắm lòng người. Trong lòng nàng ôm một chiếc đàn cổ toát ra vẻ ớn lạnh âm u, trên đàn cổ, năm dây đàn trắng thuần như nước, ẩn chứa khí lạnh thấu xương. Cảnh Thiên vừa nhìn qua, trong lòng không khỏi đông cứng.
Một tiếng thở dài tựa vạn năm vọng lại, xuyên qua sương chiều dày đặc, quanh quẩn sâu trong nội tâm:
“Tại sao lại là áo tím, sao người không khoác bạch y?”.
Mậu Sơn thấy lão đại nhà mình nhìn đàn cổ chằm chằm, thầm nghĩ, đàn cổ đó có gì kỳ lạ sao?
Hắn cẩn thận nhìn lại, dưới ngọi đèn dầu chiếu rọi, quan sát đàn cổ thật kỹ không sót một điểm nào, vẫn không phát hiện ra có chỗ nào đặc biệt.
À, không đúng, phải là rất đặc biệt!
Là vì đàn này chỉ có năm dây.
“Thất Sát! Thất Sát Cầm!”.
“Lão đại ! Đàn này gọi là gì cơ? Thất Sát là cái gì? Rõ ràng chỉ có năm dây, sao lại là Thất Sát?”. Mậu Sơn quay lại, chỉ thấy trong thần sắc lão đại xưa nay chỉ có cợt nhả trêu tức, lại toát ra ba phần bi thương.
Cảnh Thiên hoảng hốt nhìn lên nữ tử áo tím trên đài, “Dây đứt âm hết, khuynh thành khó nghe! Thất Sát này vốn dĩ có bảy dây, chủ nhân đàn cổ phải vì kẻ quyền quý mà hiến nghệ, cho nên nổi cơn giận dữ cắt đứt hai dây đàn. Từ đó về sau, Thất Sát Cầm bảy âm tề minh, đã thất truyền mãi mãi!”.
Mậu Sơn lắc đầu: “Thất Sát? Cái tên này không cát lợi, chi bằng gọi Thất Phúc cho xuôi tai!”.
“Thất Sát đứng đầu trong mười bốn ngôi sao chính của tử vi, là một ngôi sao cứng cỏi kiên nghị, đại biểu cho tướng tinh, xông pha trận mạc huyết nhiễm sa trường, cực kỳ lợi hại!”.
Mậu Sơn quay đầu “Hả” một tiếng, “Đạo trưởng, là ngài à!”.
“Là ta! Thì ra tiểu huynh đệ còn nhớ rõ ta?”.
Cảnh Thiên quay phắt lại, đối diện với đôi ngươi trong suốt, trong tim không hiểu sao đập loạn một nhịp. Người nọ tố y trường kiếm, đang nở nụ cười nhàn nhạt nhìn hắn. Nếu muốn hắn nói ra ấn tượng của mình với nam tử này như thế nào, thì cũng chưa chắc hắn nói ra được. Đằng sau nụ cười ôn hòa của người này, là vẻ thản nhiên nhìn hồng trần thế tục, vẻ xa cách của người chuyên tâm tu hành, xem ra không phải người dễ dàng thân cận được.
Nhưng mà, vừa rồi bất chợt như tắc nghẹn, cảm giác hít thở khó khăn ấy khiến Cảnh Thiên thầm cảm thấy kỳ lạ. Chút biến đổi này chỉ là rất nhẹ, rất nhanh chóng, Cảnh đại gia lập tức khôi phục bản tính thường ngày.
“Thì ra chính là huynh vị Thục Sơn đệ tử này, dám sai phái Mậu Mậu của ta chạy ngược chạy xuôi, chạy đi khắp nơi nghe ngóng cho huynh cái gì mà người hữu duyên, đưa đây đưa đây…”
Từ Trường Khanh khó hiểu, nhíu mày: “Đưa cái gì?”
“Đưa phí khổ cực đó!”
“Thế nhưng, Trường Khanh có bắt Mậu Sơn huynh đệ chạy ngược chạy xuôi đâu.”
“Ồ, huynh tên Trường Khanh?”
Nhìn thẳng Cảnh Thiên, y sửa lại cho đúng: “Là Từ Trường Khanh!”
“Ta biết, Từ Trường Khanh Từ đạo trưởng à, huynh nói nghe coi, thời này tiền công thuê lao động đắt lắm, nếu như huynh không có bạc, tốt nhất đừng có tùy tiện mời chúng ta làm việc…”.
Lời của Cảnh Thiên không có tiếp tục, bởi vì, trong nháy mắt mặt đối phương đã biến sắc.
Chỉ thấy hàn quang chợt lóe, tiếng kiếm rít dài, Từ Trường Khanh đột ngột rút kiếm ra khỏi vỏ. Cảnh Thiên kêu to một tiếng, ôm chầm lấy đầu: “Quân tử động khẩu không động thủ! Có chuyện gì từ từ thương lượng. Người xuất gia tính tình quá nóng không có lợi cho tu hành đâu”.
“Lão đại! Từ đại hiệp đâu có nói muốn giết huynh. Huynh ấy đi bắt yêu rồi!”
“Bắt yêu!”, Cảnh Thiên ngẩn người, nói: “Không phải tức giận! Nhìn bộ dạng thổi râu trợn mắt mới rồi của hắn, ta còn tưởng…”.
“Lão đại! Từ đạo trưởng có râu mà thổi sao?”.
“Phi, phi, là đàn ông thì phải có râu mép, lẽ nào Từ Trường Khanh không phải đàn ông. Lúc hắn cạo râu hắn để ngươi thấy chắc?”.
Mậu Mậu cười khà khà: “Đạo trưởng cạo râu đệ chưa thấy qua, có điều đạo trưởng tắm rửa thì đệ đã thấy rồi. Huynh không biết đâu, trên ngực huynh ấy…”.
“Ở đó mà khoác lác đi!”.
“Trai nhật” là ngày ăn chay giữ giới luật. Đạo giáo đã đặt ra trai nhật vô cùng chặt chẽ. Trong ngày này các đệ tử cần phải ăn chay và tuân thủ một cách nghiêm chỉnh nhất giới luật Đạo giáo. Trai nhật của Đạo giáo được chia ra làm: Thập trực trai nhật (mỗi tháng ăn chay mười ngày vào mùng một, mùng tám, mười bốn, mười lăm, mười tám, hai ba, hai tư, hai tám, hai chín, ba mươi); Bát tiết trai nhật (Một năm ăn chay vào ngày lập xuân, xuân phân, lập hạ, hạ chí, lập thu, thu phân, lập đông, đông chí); Tam nguyên trai nhật (ăn chay vào mười lăm tháng Giêng, mười lăm tháng bảy, mười lăm tháng mười); Tứ thủy trai nhật (ăn chay vào ngày mùng một các tháng: giêng, tư, bảy, mười một) và Tam hội trai nhật (mùng bảy tháng giêng, mùng bảy tháng bảy và mùng năm tháng mười).
Ở đây, Thường Dận hẹn Từ Trường Khanh gặp lại vào tam nguyên trai nhật, tức là mười lăm tháng giêng.
Tam Ngô là khu vực địa lý hành chính hình thành bởi ba quận thuộc tỉnh Chiết Giang, bao gồm Ngô Hưng (nay là Hồ Châu), Ngô Quận (nay là Tô Châu) và Hội Kê (nay là Thiệu Hưng), “Tam Ngô” vốn được coi là mảnh đất vô cùng phồn hoa náo nhiệt, đã đi vào văn chương của không ít tài tử văn nhân, trong đó nổi tiếng nhất là bài “Vọng Hải Triều” của Liễu Vĩnh thời Tống, với những câu thơ đậm cảnh tình như: “Đông Nam hình thắng, Tam Ngô đô hội, Tiền Đường tự cổ phồn hoa…”
Nguyên văn”吹胡子瞪眼睛”, tức thổi râu trợn mắt, nghĩa là nổi giận đùng đùng, tương đương với “phùng mang trợn mắt” của Việt Nam.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.