Chương 101: Chiếc váy màu đỏ (3)
Kim Thập Tứ Thoa
10/08/2023
Chào tạm biệt Chu Minh Vũ, Tạ Lam Sơn và Thẩm Lưu Phi tiếp tục tới thăm bệnh viện thị trấn đã cứu chữa cho Tiểu Mạn hồi ấy dựa theo thông tin ông cụ cung cấp. Dù gì thì cũng đã hai mươi năm trôi qua, bọn họ cũng không chắc có thể tra được manh mối. Ai dè may mắn lại nở nụ cười với bọn họ, y tá nhỏ tuổi từng trải qua chuyện năm đó giờ đã là y tá trưởng, bà vẫn nhớ như in ký ức về vụ án chấn động một thời đó.
Người đó nói trong lúc Tiểu Mạn bị bắt cóc và xâm hại đã phải chịu tàn phá về cả thể xác lẫn tinh thần, vậy nên sau khi được giải cứu, tinh thần của cô bé đã hoàn toàn sụp đổ, và nảy sinh những vấn đề tâm lý vô cùng nghiêm trọng. Vì không thể có được thêm thông tin từ cô bé nên sau khi chữa trị những vết thương trên người, cô bé đã được gửi tới tu viện dành cho nữ tu do viện phúc lợi xã hội tại địa phương và trung tâm trợ giúp pháp lý chịu trách nhiệm.
Bình thường thì nếu những đứa trẻ bị lừa bán, bắt cóc hoặc lạm dụng này không thể tìm thấy cha mẹ ruột hoặc những người giám hộ khác sau khi được giải cứu, chúng sẽ được đưa vào trại trẻ mồ côi địa phương. Tạ Lam Sơn ngạc nhiên nói: “Sao lại đưa tới tu viện dành cho nữ tu?”
“Tu viện dành cho nữ tu đó cũng có tính chất phúc lợi, mà viện trưởng là người lương thiện, tốt bụng và nhân từ nhất tôi từng biết.” Y tá trưởng thở dài, “Cô bé ấy rất đáng thương, không những bị xâm hại mà còn phải chứng kiến những cô bé bất lực giống như mình lần lượt bị hành hạ tra tấn đến chết, khi tội ác và đau khổ tột cùng ập đến cùng một lúc, có lẽ chỉ tinh thần và tín ngưỡng mới có thể cho cô bé ấy một cõi thanh tịnh.”
Thương Nam đã phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây với tư cách là một huyện lớn nằm trên ba tỉnh, việc “bỏ huyện lên thành phố” cũng được đưa vào chương trình nghị sự. Tu viện của nữ tu nằm giáp huyện Lâm*, vì để gặp được viện trưởng càng sớm càng tốt, sau khi xác nhận địa điểm, Tạ Lam Sơn gọi thẳng cho người nọ nói rõ mục đích tới rồi tranh thủ xuất phát luôn cùng Thẩm Lưu Phi.
*Lâm là một huyện thuộc địa cấp thị Lữ Lương, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.
Tiết trời đầu đông nhiều mây, gió thổi ào ào. Bọn họ vội vàng bắt một chiếc xe chạy tới, đập vào mắt là sự ồn ã và hỗn loạn trong quá trình phát triển của một thành phố, bê tông cốt thép mọc lên như rừng rậm, mãi đến khi tới được tu viện dành cho nữ tu thì bọn họ mới cảm thấy thoáng yên bình thư thái.
Tu viện được xây dựng bởi các nhà truyền giáo nước ngoài từ một trăm năm trước, bình thường không mở cửa cho công chúng tham quan, từng cây thường xanh bao quanh tu viện ngói xanh tường trắng nhìn trông y như những người lính đang cố thủ tại chiến trường. Dòng suối nhỏ uốn lượn xung quanh, thời tiết này vẫn còn cá bơi tung tăng dưới nước, con đường đá xanh dẫn đến cổng tu viện, bên trên cửa có mấy chữ lớn:
“Đấng cứu rỗi nhân loại, từ bi chiếu muôn nơi.”
Tạ Lam Sơn ngẩng đầu lặng lẽ ngắm nhìn, anh thầm nói với bản thân nơi đây đúng là biệt lập hẳn với thế giới bên ngoài, là một chốn tuyệt vời để tĩnh tâm và thư giãn.
Viện trưởng đang định ra ngoài cùng hai nữ tu, Tạ Lam Sơn cũng không muốn lãng phí thời gian, anh bỏ qua hết những câu mào đầu chào hỏi mà bày tỏ thẳng thắn mục đích tới đây của mình, anh muốn hỏi thăm hiện giờ Tiểu Mạn đang ở đâu.
Viện trưởng đã qua sáu mươi, vóc người gầy gò dong dỏng, ánh mắt lại sáng ngời, cũng không có những nếp nhăn mà độ tuổi này nên có, chỉ có hai đường rãnh cười khắc sâu, khóe miệng vì thế mà cũng hơi kéo xuống, mặt mũi nhìn hiền lành nhưng cũng hết sức uy nghiêm. Bà đưa bọn họ đi thăm nhà nguyện và trường học ở đây, nói về cuộc sống và việc học tập của Tiểu Mạn ở nơi này: “Tiểu Mạn đã tìm thấy sự bình yên và chỗ dựa mà mình muốn ở nơi đây, khi rời khỏi tu viện thì con bé đã khỏi bệnh về tâm lý rồi. Tôi nghĩ không việc gì phải quấy rầy tới cuộc sống của con bé bây giờ.”
Thẩm Lưu Phi giải thích với viện trưởng: “Gần đây có một vụ án rất giống vụ án năm đó xảy ra, vì để tránh có thêm những nạn nhân như Tiểu Mạn, chúng tôi chỉ có thể tìm manh mối để phá án từ những trải nghiệm của cô ấy.”
Dường như không có hứng thú với việc hỗ trợ cảnh sát phá án, viện trưởng vừa nói vừa đi về phía một cô bé đang ngồi một mình ở ngoài nhà nguyện.
Cô bé này chắc khoảng mười hai mười ba tuổi, trắng trẻo thanh tú, nó đang cầm bảng vẽ và bút chì, tập trung hết sức vào vẽ tranh. Vì không thể giao tiếp với thế giới bên ngoài bằng lời nói nên cô bé rất trầm tính kiệm lời, dường như tất cả thú tiêu khiển chỉ là cầm bút chì vẽ tranh bên ngoài nhà nguyện. Nhìn từ góc độ chuyên môn, Thẩm Lưu Phi cảm thấy cô bé này có năng khiếu.
Cũng vì thế mà viện trưởng rất yêu thương đứa bé này, bà ra dấu bằng ngôn ngữ ký hiệu với cô bé, còn trìu mến xoa đầu nó.
Khi quay lại, viện trưởng khẽ thở dài: “Cô bé này cũng rất đáng thương, vừa ra đời đã bị sốt dẫn đến điếc tai, còn bị người nhà vứt bỏ.”
Thời gian có hạn, vụ án lại cấp bách, Tạ Lam Sơn không hơi sức đâu chú ý đến cô bé này, anh cố gắng hướng chủ đề quay về Tiểu Mạn: “Hiện tại chúng tôi hoàn toàn không biết gì về hung thủ, chúng tôi chỉ có thể biết hung thủ phạm tội bừa bãi hay có động cơ gì khác nhờ Tiểu Mạn mà thôi, chuyện này liên quan mật thiết đến việc có thể nhanh chóng phá được vụ án hay không.”
“Cậu cứ nói đi nói lại về chuyện phá án, chẳng nhẽ các vị không nghĩ đến việc nếu nhắc lại chuyện ngày xưa sẽ gây ra thương tổn thế nào với cô bé ấy hay sao?” Thái độ của viện trưởng rất kiên quyết, bà nói cô bé kia giờ đã ổn, không biết hiện tại đang ở đâu, cũng không mong muốn tiết lộ quá khứ đau buồn của cô gái đó.
“Sao bà biết cô ấy sống tốt?” Tạ Lam Sơn túm được kẽ hở trong câu này, anh tiến lại gần, hỏi một đống câu hỏi như súng liên thanh, “Cô gái đó luôn giữ liên lạc với bà phải không? Bao lâu liên lạc một lần? Dạo này có tới thăm bà không? Hai tháng, hay là ba tháng? Giờ hẳn là cô ấy đã ba mươi hai tuổi rồi nhỉ, đã kết hôn chưa? Có con chưa?”
Loại hỏi dồn tốc độ cao này là một kỹ thuật lừa người. Vẻ mặt của Tạ Lam Sơn rất nghiêm túc, thậm chí còn khá sắc bén, anh nhìn gương mặt đối phương không chớp mắt, trong một chuyên gia điều tra hình sự như anh thì mọi lời nói dối đều có thể lần theo dấu vết, chỉ một chút thay đổi rất nhỏ trong biểu cảm cũng tiết lộ đáp án vấn đề.
Một lát sau, Tạ Lam Sơn đã có đáp án mình muốn, giọng anh chậm lại: “Gần đây cô ấy mới tới thăm bà, đúng không.”
Viện trưởng thật sự hết cách trước sự bám riết của người này, bà đành nói: “Con bé sắp kết hôn rồi, có thể tha cho đứa bé đáng thương ấy không, để con bé có một gia đình đầy đủ!”
Tạ Lam Sơn vẫn cố giải thích: “Tôi thật sự không muốn quấy rầy cuộc sống của cô ấy, nhưng hung thủ vẫn còn đang nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.”
Viện trưởng lại thở dài, im lặng rất lâu sau mới nói: “Vậy pháp luật có quy định nhân chứng có thể từ chối làm chứng không?”
“‘Luật Tố tụng Hình sự’ quy định bất kỳ ai biết tình tiết của vụ án đều có nghĩa vụ phải đứng ra làm chứng.” Dưới sự chứng kiến của Chúa, Tạ Lam Sơn không sợ bị sét đánh do nói hươu nói vượn, nhưng anh tôn trọng người phụ nữ đã cống hiến cả đời mình cho tín ngưỡng và tình yêu vĩ đại trên đời này, vậy nên vẫn quyết định nói ra sự thật, “Đương nhiên ngay cả khi từ chối nghĩa vụ thì người đó cũng sẽ không chịu trừng phạt hay buộc tội. Vậy nên quyền quyết định nằm trong tay bà.”
“Vậy thì tôi quyết định, tôi không nói gì hết.” Áo khoác của mục sư khẽ bay lên, viện trưởng nói mình còn việc khác phải làm, bà bỏ lại bọn họ rồi rời khỏi tu viện.
Một nữ tu trẻ đưa bọn họ ra ngoài, Tạ Lam Sơn thầm nghĩ gừng non không cay bằng gừng già, chưa biết chừng lại là cửa đột phá, anh lập tức đổi mục tiêu, hỏi người nọ xem đã từng gặp Tiểu Mạn chưa.
“Trước giờ tôi chưa từng nghe viện trưởng nhắc đến Tiểu Mạn nào cả,” Chẳng biết là không biết thật hay đã được dặn dò không thể tiết lộ, nữ tu trẻ lắc đầu nói, “nhưng tôi có thể đưa mọi người tiếp tục đi dạo và tham quan trong này, còn lại thì tôi không biết gì hết.”
Dù người nọ là nữ tu nhưng cũng vẫn là một cô gái trẻ. Mà chỉ cần là phụ nữ trẻ thì chắc chắn sẽ nằm trong phạm vi ảnh hưởng bởi sức hấp dẫn của mình, Tạ Lam Sơn cực kỳ tự tin, còn định nói mấy câu tán tỉnh sáo rỗng nhưng ai ngờ lại bị ánh mắt của Thẩm Lưu Phi chặn lại.
Rời ánh mắt khỏi cô bé vẫn đang tập trung vẽ tranh kia, Thẩm Lưu Phi khách sáo gật đầu với nữ tu: “Vậy phiền cô tiếp tục đưa chúng tôi đi tham quan xung quanh.”
Nữ tu trẻ mỉm cười tiếp tục dẫn bọn họ đi loanh quanh. Tạ Lam Sơn cố tình bước chậm lại, chờ nữ tu cách bọn họ vài bước dài thì mới ngẩng đầu ghé lại nhỏ giọng trách Thẩm Lưu Phi: “Khó nhằn thật đấy.”
Manh mối tới đây bị đứt, Thẩm Lưu Phi nhíu mày rồi lại nhìn cô bé câm điếc sau lưng.
“‘Nghĩa vụ làm chứng của công dân’ gì chứ, khác nào lời nói suông đâu.” Sợ bị nữ tu trẻ nghe thấy, Tạ Lam Sơn chỉ có thể hạ thấp tông giọng, “Khi xử lý một vụ án, chắc chắn điều tra viên sẽ gặp phải những người hoặc những chuyện khó giải quyết, nhưng lại không thể dùng còng tay bắt người cho xong chuyện, nếu gặp phải những kẻ gian xảo hay cố chấp thì còn có thể dọa nạt hay dụ dỗ, nhưng gặp người nhân ái cao thượng như viện trưởng thì tôi thật sự bó tay.”
Dường như Thẩm Lưu Phi bỏ ngoài tai toàn bộ những gì Tạ Lam Sơn nói, y bỗng lên tiếng gọi người đi phía trước, chờ cô ta quay đầu lại mới hỏi: “Cô có biết ngôn ngữ ký hiệu của người câm điếc không? Tôi thấy chỗ các cô có trẻ con câm điếc.”
“Tôi không biết,” Nữ tu trẻ cười xấu hổ, “những người biết ngôn ngữ ký hiệu thì đều đã đi giảng bài với viện trưởng ở giáo phận* rồi.”
*Giáo phận, hay đầy đủ hơn là giáo phận chính tòa, là một đơn vị lãnh thổ gồm nhiều giáo xứ (xứ đạo) hay giáo họ (họ đạo), dưới quyền cai quản của một Giám mục.
“Tôi là họa sĩ, tôi có thể qua dạy cô bé kia vẽ tranh không?” Thể hiện rõ bản thân chỉ là người đi cùng chuyến này, Thẩm Lưu Phi hướng ánh nhìn về phía cô bé đang vẽ tranh một mình kia, ánh mắt y đầy chân thành, giọng nói cũng ôn hòa, “Cô bé ấy có năng khiếu, chỉ thiếu chút hướng dẫn chuyên môn thôi.”
Tạ Lam Sơn lập tức hiểu ra, thấy nữ tu trẻ đi về phía trước thì nhanh chóng ghé lại bên tai Thẩm Lưu Phi và nói: “Anh muốn phác thảo chân dung thông qua cô bé đó à? Không lẽ anh biết ngôn ngữ ký hiệu?”
Thẩm Lưu Phi bình thản nhìn anh, giọng nói đầy tự nhiên: “Không biết.”
Tạ Lam Sơn suýt thì thốt lên: “Thế anh…”
Thẩm Lưu Phi thản nhiên ngắt lời anh: “Cọ vẽ là công cụ giao tiếp tốt nhất giữa họa sĩ với nhau, còn về phương thức mở đầu đơn giản thì giờ cậu học là được.”
Tạ Lam Sơn suýt trợn ngược mắt lên. Thẩm Lưu Phi chỉ cho anh năm phút đồng hồ, nói anh bất chấp dùng mạng hay xin trợ giúp từ người quen cũng phải học bằng hết những câu hỏi thông thường khi mô phỏng chân dung.
Tạ Lam Sơn lấy cớ đi vệ sinh rồi bước nhanh rời khỏi tu viện sóng yếu, anh móc điện thoại ra tra bài giảng ngôn ngữ ký hiệu online. Bên kia Thẩm Lưu Phi đã đi tới trước mặt cô bé, y thấy cô bé đang vẽ một góc nhà nguyện, sau khi dùng ánh mắt và động tác tay để nhận được sự đồng ý, y mới cầm bút và tranh của cô bé lên.
Đúng là không cần nhiều lời, chỉ vài nét bút vẽ rồng điểm mắt đã thu hẹp khoảng cách giữa hai người, cô bé khâm phục kỹ năng hội họa của người kia, không cầm lòng được mà nở nụ cười.
Hai người sóng vai ngồi vẽ cùng nhau một lát thì Tạ Lam Sơn đã trở lại, anh đi tới trước mặt cô bé, ngồi xổm xuống nhìn thẳng vào mắt đối phương rồi dùng ngôn ngữ ký hiệu để hỏi một câu: Em vẽ đẹp ghê, có muốn tâm sự với anh không?
Cô bé rất thích hai anh đẹp trai này, háo hức cười gật đầu.
Tạ Lam Sơn cũng cười, anh tiếp tục hỏi bằng ngôn ngữ ký hiệu: Em đã bao giờ gặp một người cực kỳ xinh đẹp, giống một chị gái nước ngoài chưa? Chị ấy rất ít khi đến đây nhưng lần nào tới cũng sẽ đi cùng với viện trưởng của mấy em?
Tạ Lam Sơn đã đoán rằng tu viện hẻo lánh này sẽ hiếm khi có người đẹp máu lai tới thăm viện trưởng, mà một người đẹp tới mức một cảnh sát già nhớ mãi không quên dù đã qua hơn hai mươi năm thì kiểu gì cũng sẽ khiến cô bé này ấn tượng sâu sắc.
Đứa bé gái ngẫm nghĩ, sau đó quả nhiên gật đầu.
Thế thì dễ rồi, Tạ Lam Sơn lại dùng ngôn ngữ ký hiệu để hỏi: Em vẽ đẹp như vậy, thế thì chúng ta cùng vẽ lại chị xinh đẹp kia nhé?
Cô bé gật đầu lia lịa, hứng khởi nhìn sang Thẩm Lưu Phi bên cạnh.
Cô bé vẽ trước, nhưng vì kỹ năng vẽ còn non nên không biết nên tiếp tục thế nào. Thẩm Lưu Phi kiên nhẫn dùng bút hướng dẫn, sau khi vẽ ít nhất hai mươi bức chân dung vừa giống lại vừa khác để cô bé so sánh, cuối cùng mới chọn ra được bức gần giống Tiểu Mạn nhất.
Không cần dùng tới đống ngôn ngữ ký hiệu tự nhiên bị bắt phải học, hiện tại Tạ Lam Sơn hoàn toàn không hiểu hai họa sĩ đang trao đổi chuyện gì, anh chỉ có thể nhàn nhã ngồi bên cạnh, nhìn chằm chằm sườn mặt của Thẩm Lưu Phi.
Mũi thẳng, lông mi mảnh dài hơi cong lên, sườn mặt của Thẩm Lưu Phi nhìn cực kỳ quyến rũ, cảm giác tuấn tú khôi ngô gần như phụ nữ.
Đây là một người rất lạnh lùng, bình thường luôn tỏ ra thờ ơ bình tĩnh trước mọi chuyện, chỉ khi bắt tay làm việc mới nghiêm túc tập trung. Dưới ánh nắng Mặt Trời dịu dàng, khuôn mặt y toát ra cảm giác đầy mơ mộng, Tạ Lam Sơn nhìn mà mê đắm, cảm thấy giết thời gian cũng chẳng mấy khó khăn.
Dường như đã để ý tới ánh mắt vẫn luôn hướng về phía mình, Thẩm Lưu Phi cũng quay đầu lại nhìn anh.
Bốn mắt va vào nhau, Tạ Lam Sơn mỉm cười rồi làm một động tác ngôn ngữ ký hiệu.
Anh mới tranh thủ học thêm một câu, ba chữ gửi gắm những tình cảm nồng đậm nhất trong cuộc đời.
Tôi yêu anh.
Thẩm Lưu Phi chưa bao giờ học ngôn ngữ ký hiệu nhưng y vẫn đọc ra được ý nghĩa trong câu này từ ánh mắt của Tạ Lam Sơn. Y quay đầu tập trung vào giấy bút trong tay, nhưng khóe môi đã vô thức nhếch lên thành một đường cong rất nhạt.
Chẳng biết qua bao lâu, Tạ Lam Sơn chống tay lên cằm, cảm thấy mình sắp chết ngạt trong sự tò mò và chán nản, cuối cùng cô bé cũng cầm giấy vẽ lên, nhìn sang phải rồi gật đầu quả quyết.
Tạ Lam Sơn lập tức đứng dậy, vội vã hỏi Thẩm Lưu Phi: “Xong rồi à?”
Thẩm Lưu Phi cầm giấy lên xem, chần chừ một lát mới đi về phía Tạ Lam Sơn, đôi mày nhíu lại một cách kỳ lạ.
Tạ Lam Sơn không xem bức chân dung Tiểu Mạn vội, anh chỉ hỏi y: “Ở đây nhiều trẻ con như thế, sao anh lại cố tình lựa chọn một đứa bé không biết nói?”
“Tranh của con bé rất sinh động, chứng tỏ đây là người có năng lực quan sát thẩm mỹ mạnh, chắc chắn khả năng cảm nhận và ghi nhớ khuôn mặt cũng hơn hẳn bạn bè đồng trang lứa. Hơn nữa chính vì không nói được nên có thể thấy viện trưởng rất yêu thương cô bé, thân phận của Tiểu Mạn rất đặc biệt, khi cô ta tới thăm viện trưởng thì có lẽ cô bé này sẽ ở cùng một phòng.”
Nghe khá hợp lý, Tạ Lam Sơn phục sát đất, chỉ chờ xem chân dung của Tiểu Mạn. Nhưng Thẩm Lưu Phi lại chần chừ mãi không đưa, anh đành chủ động vươn tay ra cầm lấy bức tranh.
Vừa mới nhìn đã đơ toàn tập, mãi sau Tạ Lam Sơn mới ấp úng lên tiếng: “Đây là… là pháp y Tô mà?”
Tuy người phụ nữ trong tranh không giống Tô Mạn Thanh trăm phần trăm, nhưng chắc chắn là một người.
Cuối cùng nhân vật then chốt để phá án đã xuất hiện nhưng lại nằm ngoài dự kiến của bọn họ, đang cân nhắc xem nên làm gì tiếp theo thì điện thoại của Thẩm Lưu Phi lại đổ chuông.
Tạ Lam Sơn bị loại khỏi vụ án nên Đinh Ly gặp chuyện chỉ có thể tìm tới Thẩm Lưu Phi. Cô nàng nói với y Đào Long Dược đã gặp tên giết người lột da kia khi hẹn hò với Tô Mạn Thanh, sau đó bị kẻ này đâm một nhát dao vào bụng.
Thẩm Lưu Phi hỏi: “Có nghiêm trọng không?”
Đinh Ly nói: “Chắc chắn không chết được. Nhưng mà thầy Thẩm và đàn anh Tạ vẫn nên nhanh chóng quay về đi ạ, đội trưởng Tiểu Đào đã cứu được một cô gái trong tay tên bi3n thái kia, đây có thể là người sống sót duy nhất nhìn thấy mặt thật của kẻ tình nghi đó!”
Người đó nói trong lúc Tiểu Mạn bị bắt cóc và xâm hại đã phải chịu tàn phá về cả thể xác lẫn tinh thần, vậy nên sau khi được giải cứu, tinh thần của cô bé đã hoàn toàn sụp đổ, và nảy sinh những vấn đề tâm lý vô cùng nghiêm trọng. Vì không thể có được thêm thông tin từ cô bé nên sau khi chữa trị những vết thương trên người, cô bé đã được gửi tới tu viện dành cho nữ tu do viện phúc lợi xã hội tại địa phương và trung tâm trợ giúp pháp lý chịu trách nhiệm.
Bình thường thì nếu những đứa trẻ bị lừa bán, bắt cóc hoặc lạm dụng này không thể tìm thấy cha mẹ ruột hoặc những người giám hộ khác sau khi được giải cứu, chúng sẽ được đưa vào trại trẻ mồ côi địa phương. Tạ Lam Sơn ngạc nhiên nói: “Sao lại đưa tới tu viện dành cho nữ tu?”
“Tu viện dành cho nữ tu đó cũng có tính chất phúc lợi, mà viện trưởng là người lương thiện, tốt bụng và nhân từ nhất tôi từng biết.” Y tá trưởng thở dài, “Cô bé ấy rất đáng thương, không những bị xâm hại mà còn phải chứng kiến những cô bé bất lực giống như mình lần lượt bị hành hạ tra tấn đến chết, khi tội ác và đau khổ tột cùng ập đến cùng một lúc, có lẽ chỉ tinh thần và tín ngưỡng mới có thể cho cô bé ấy một cõi thanh tịnh.”
Thương Nam đã phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây với tư cách là một huyện lớn nằm trên ba tỉnh, việc “bỏ huyện lên thành phố” cũng được đưa vào chương trình nghị sự. Tu viện của nữ tu nằm giáp huyện Lâm*, vì để gặp được viện trưởng càng sớm càng tốt, sau khi xác nhận địa điểm, Tạ Lam Sơn gọi thẳng cho người nọ nói rõ mục đích tới rồi tranh thủ xuất phát luôn cùng Thẩm Lưu Phi.
*Lâm là một huyện thuộc địa cấp thị Lữ Lương, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.
Tiết trời đầu đông nhiều mây, gió thổi ào ào. Bọn họ vội vàng bắt một chiếc xe chạy tới, đập vào mắt là sự ồn ã và hỗn loạn trong quá trình phát triển của một thành phố, bê tông cốt thép mọc lên như rừng rậm, mãi đến khi tới được tu viện dành cho nữ tu thì bọn họ mới cảm thấy thoáng yên bình thư thái.
Tu viện được xây dựng bởi các nhà truyền giáo nước ngoài từ một trăm năm trước, bình thường không mở cửa cho công chúng tham quan, từng cây thường xanh bao quanh tu viện ngói xanh tường trắng nhìn trông y như những người lính đang cố thủ tại chiến trường. Dòng suối nhỏ uốn lượn xung quanh, thời tiết này vẫn còn cá bơi tung tăng dưới nước, con đường đá xanh dẫn đến cổng tu viện, bên trên cửa có mấy chữ lớn:
“Đấng cứu rỗi nhân loại, từ bi chiếu muôn nơi.”
Tạ Lam Sơn ngẩng đầu lặng lẽ ngắm nhìn, anh thầm nói với bản thân nơi đây đúng là biệt lập hẳn với thế giới bên ngoài, là một chốn tuyệt vời để tĩnh tâm và thư giãn.
Viện trưởng đang định ra ngoài cùng hai nữ tu, Tạ Lam Sơn cũng không muốn lãng phí thời gian, anh bỏ qua hết những câu mào đầu chào hỏi mà bày tỏ thẳng thắn mục đích tới đây của mình, anh muốn hỏi thăm hiện giờ Tiểu Mạn đang ở đâu.
Viện trưởng đã qua sáu mươi, vóc người gầy gò dong dỏng, ánh mắt lại sáng ngời, cũng không có những nếp nhăn mà độ tuổi này nên có, chỉ có hai đường rãnh cười khắc sâu, khóe miệng vì thế mà cũng hơi kéo xuống, mặt mũi nhìn hiền lành nhưng cũng hết sức uy nghiêm. Bà đưa bọn họ đi thăm nhà nguyện và trường học ở đây, nói về cuộc sống và việc học tập của Tiểu Mạn ở nơi này: “Tiểu Mạn đã tìm thấy sự bình yên và chỗ dựa mà mình muốn ở nơi đây, khi rời khỏi tu viện thì con bé đã khỏi bệnh về tâm lý rồi. Tôi nghĩ không việc gì phải quấy rầy tới cuộc sống của con bé bây giờ.”
Thẩm Lưu Phi giải thích với viện trưởng: “Gần đây có một vụ án rất giống vụ án năm đó xảy ra, vì để tránh có thêm những nạn nhân như Tiểu Mạn, chúng tôi chỉ có thể tìm manh mối để phá án từ những trải nghiệm của cô ấy.”
Dường như không có hứng thú với việc hỗ trợ cảnh sát phá án, viện trưởng vừa nói vừa đi về phía một cô bé đang ngồi một mình ở ngoài nhà nguyện.
Cô bé này chắc khoảng mười hai mười ba tuổi, trắng trẻo thanh tú, nó đang cầm bảng vẽ và bút chì, tập trung hết sức vào vẽ tranh. Vì không thể giao tiếp với thế giới bên ngoài bằng lời nói nên cô bé rất trầm tính kiệm lời, dường như tất cả thú tiêu khiển chỉ là cầm bút chì vẽ tranh bên ngoài nhà nguyện. Nhìn từ góc độ chuyên môn, Thẩm Lưu Phi cảm thấy cô bé này có năng khiếu.
Cũng vì thế mà viện trưởng rất yêu thương đứa bé này, bà ra dấu bằng ngôn ngữ ký hiệu với cô bé, còn trìu mến xoa đầu nó.
Khi quay lại, viện trưởng khẽ thở dài: “Cô bé này cũng rất đáng thương, vừa ra đời đã bị sốt dẫn đến điếc tai, còn bị người nhà vứt bỏ.”
Thời gian có hạn, vụ án lại cấp bách, Tạ Lam Sơn không hơi sức đâu chú ý đến cô bé này, anh cố gắng hướng chủ đề quay về Tiểu Mạn: “Hiện tại chúng tôi hoàn toàn không biết gì về hung thủ, chúng tôi chỉ có thể biết hung thủ phạm tội bừa bãi hay có động cơ gì khác nhờ Tiểu Mạn mà thôi, chuyện này liên quan mật thiết đến việc có thể nhanh chóng phá được vụ án hay không.”
“Cậu cứ nói đi nói lại về chuyện phá án, chẳng nhẽ các vị không nghĩ đến việc nếu nhắc lại chuyện ngày xưa sẽ gây ra thương tổn thế nào với cô bé ấy hay sao?” Thái độ của viện trưởng rất kiên quyết, bà nói cô bé kia giờ đã ổn, không biết hiện tại đang ở đâu, cũng không mong muốn tiết lộ quá khứ đau buồn của cô gái đó.
“Sao bà biết cô ấy sống tốt?” Tạ Lam Sơn túm được kẽ hở trong câu này, anh tiến lại gần, hỏi một đống câu hỏi như súng liên thanh, “Cô gái đó luôn giữ liên lạc với bà phải không? Bao lâu liên lạc một lần? Dạo này có tới thăm bà không? Hai tháng, hay là ba tháng? Giờ hẳn là cô ấy đã ba mươi hai tuổi rồi nhỉ, đã kết hôn chưa? Có con chưa?”
Loại hỏi dồn tốc độ cao này là một kỹ thuật lừa người. Vẻ mặt của Tạ Lam Sơn rất nghiêm túc, thậm chí còn khá sắc bén, anh nhìn gương mặt đối phương không chớp mắt, trong một chuyên gia điều tra hình sự như anh thì mọi lời nói dối đều có thể lần theo dấu vết, chỉ một chút thay đổi rất nhỏ trong biểu cảm cũng tiết lộ đáp án vấn đề.
Một lát sau, Tạ Lam Sơn đã có đáp án mình muốn, giọng anh chậm lại: “Gần đây cô ấy mới tới thăm bà, đúng không.”
Viện trưởng thật sự hết cách trước sự bám riết của người này, bà đành nói: “Con bé sắp kết hôn rồi, có thể tha cho đứa bé đáng thương ấy không, để con bé có một gia đình đầy đủ!”
Tạ Lam Sơn vẫn cố giải thích: “Tôi thật sự không muốn quấy rầy cuộc sống của cô ấy, nhưng hung thủ vẫn còn đang nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.”
Viện trưởng lại thở dài, im lặng rất lâu sau mới nói: “Vậy pháp luật có quy định nhân chứng có thể từ chối làm chứng không?”
“‘Luật Tố tụng Hình sự’ quy định bất kỳ ai biết tình tiết của vụ án đều có nghĩa vụ phải đứng ra làm chứng.” Dưới sự chứng kiến của Chúa, Tạ Lam Sơn không sợ bị sét đánh do nói hươu nói vượn, nhưng anh tôn trọng người phụ nữ đã cống hiến cả đời mình cho tín ngưỡng và tình yêu vĩ đại trên đời này, vậy nên vẫn quyết định nói ra sự thật, “Đương nhiên ngay cả khi từ chối nghĩa vụ thì người đó cũng sẽ không chịu trừng phạt hay buộc tội. Vậy nên quyền quyết định nằm trong tay bà.”
“Vậy thì tôi quyết định, tôi không nói gì hết.” Áo khoác của mục sư khẽ bay lên, viện trưởng nói mình còn việc khác phải làm, bà bỏ lại bọn họ rồi rời khỏi tu viện.
Một nữ tu trẻ đưa bọn họ ra ngoài, Tạ Lam Sơn thầm nghĩ gừng non không cay bằng gừng già, chưa biết chừng lại là cửa đột phá, anh lập tức đổi mục tiêu, hỏi người nọ xem đã từng gặp Tiểu Mạn chưa.
“Trước giờ tôi chưa từng nghe viện trưởng nhắc đến Tiểu Mạn nào cả,” Chẳng biết là không biết thật hay đã được dặn dò không thể tiết lộ, nữ tu trẻ lắc đầu nói, “nhưng tôi có thể đưa mọi người tiếp tục đi dạo và tham quan trong này, còn lại thì tôi không biết gì hết.”
Dù người nọ là nữ tu nhưng cũng vẫn là một cô gái trẻ. Mà chỉ cần là phụ nữ trẻ thì chắc chắn sẽ nằm trong phạm vi ảnh hưởng bởi sức hấp dẫn của mình, Tạ Lam Sơn cực kỳ tự tin, còn định nói mấy câu tán tỉnh sáo rỗng nhưng ai ngờ lại bị ánh mắt của Thẩm Lưu Phi chặn lại.
Rời ánh mắt khỏi cô bé vẫn đang tập trung vẽ tranh kia, Thẩm Lưu Phi khách sáo gật đầu với nữ tu: “Vậy phiền cô tiếp tục đưa chúng tôi đi tham quan xung quanh.”
Nữ tu trẻ mỉm cười tiếp tục dẫn bọn họ đi loanh quanh. Tạ Lam Sơn cố tình bước chậm lại, chờ nữ tu cách bọn họ vài bước dài thì mới ngẩng đầu ghé lại nhỏ giọng trách Thẩm Lưu Phi: “Khó nhằn thật đấy.”
Manh mối tới đây bị đứt, Thẩm Lưu Phi nhíu mày rồi lại nhìn cô bé câm điếc sau lưng.
“‘Nghĩa vụ làm chứng của công dân’ gì chứ, khác nào lời nói suông đâu.” Sợ bị nữ tu trẻ nghe thấy, Tạ Lam Sơn chỉ có thể hạ thấp tông giọng, “Khi xử lý một vụ án, chắc chắn điều tra viên sẽ gặp phải những người hoặc những chuyện khó giải quyết, nhưng lại không thể dùng còng tay bắt người cho xong chuyện, nếu gặp phải những kẻ gian xảo hay cố chấp thì còn có thể dọa nạt hay dụ dỗ, nhưng gặp người nhân ái cao thượng như viện trưởng thì tôi thật sự bó tay.”
Dường như Thẩm Lưu Phi bỏ ngoài tai toàn bộ những gì Tạ Lam Sơn nói, y bỗng lên tiếng gọi người đi phía trước, chờ cô ta quay đầu lại mới hỏi: “Cô có biết ngôn ngữ ký hiệu của người câm điếc không? Tôi thấy chỗ các cô có trẻ con câm điếc.”
“Tôi không biết,” Nữ tu trẻ cười xấu hổ, “những người biết ngôn ngữ ký hiệu thì đều đã đi giảng bài với viện trưởng ở giáo phận* rồi.”
*Giáo phận, hay đầy đủ hơn là giáo phận chính tòa, là một đơn vị lãnh thổ gồm nhiều giáo xứ (xứ đạo) hay giáo họ (họ đạo), dưới quyền cai quản của một Giám mục.
“Tôi là họa sĩ, tôi có thể qua dạy cô bé kia vẽ tranh không?” Thể hiện rõ bản thân chỉ là người đi cùng chuyến này, Thẩm Lưu Phi hướng ánh nhìn về phía cô bé đang vẽ tranh một mình kia, ánh mắt y đầy chân thành, giọng nói cũng ôn hòa, “Cô bé ấy có năng khiếu, chỉ thiếu chút hướng dẫn chuyên môn thôi.”
Tạ Lam Sơn lập tức hiểu ra, thấy nữ tu trẻ đi về phía trước thì nhanh chóng ghé lại bên tai Thẩm Lưu Phi và nói: “Anh muốn phác thảo chân dung thông qua cô bé đó à? Không lẽ anh biết ngôn ngữ ký hiệu?”
Thẩm Lưu Phi bình thản nhìn anh, giọng nói đầy tự nhiên: “Không biết.”
Tạ Lam Sơn suýt thì thốt lên: “Thế anh…”
Thẩm Lưu Phi thản nhiên ngắt lời anh: “Cọ vẽ là công cụ giao tiếp tốt nhất giữa họa sĩ với nhau, còn về phương thức mở đầu đơn giản thì giờ cậu học là được.”
Tạ Lam Sơn suýt trợn ngược mắt lên. Thẩm Lưu Phi chỉ cho anh năm phút đồng hồ, nói anh bất chấp dùng mạng hay xin trợ giúp từ người quen cũng phải học bằng hết những câu hỏi thông thường khi mô phỏng chân dung.
Tạ Lam Sơn lấy cớ đi vệ sinh rồi bước nhanh rời khỏi tu viện sóng yếu, anh móc điện thoại ra tra bài giảng ngôn ngữ ký hiệu online. Bên kia Thẩm Lưu Phi đã đi tới trước mặt cô bé, y thấy cô bé đang vẽ một góc nhà nguyện, sau khi dùng ánh mắt và động tác tay để nhận được sự đồng ý, y mới cầm bút và tranh của cô bé lên.
Đúng là không cần nhiều lời, chỉ vài nét bút vẽ rồng điểm mắt đã thu hẹp khoảng cách giữa hai người, cô bé khâm phục kỹ năng hội họa của người kia, không cầm lòng được mà nở nụ cười.
Hai người sóng vai ngồi vẽ cùng nhau một lát thì Tạ Lam Sơn đã trở lại, anh đi tới trước mặt cô bé, ngồi xổm xuống nhìn thẳng vào mắt đối phương rồi dùng ngôn ngữ ký hiệu để hỏi một câu: Em vẽ đẹp ghê, có muốn tâm sự với anh không?
Cô bé rất thích hai anh đẹp trai này, háo hức cười gật đầu.
Tạ Lam Sơn cũng cười, anh tiếp tục hỏi bằng ngôn ngữ ký hiệu: Em đã bao giờ gặp một người cực kỳ xinh đẹp, giống một chị gái nước ngoài chưa? Chị ấy rất ít khi đến đây nhưng lần nào tới cũng sẽ đi cùng với viện trưởng của mấy em?
Tạ Lam Sơn đã đoán rằng tu viện hẻo lánh này sẽ hiếm khi có người đẹp máu lai tới thăm viện trưởng, mà một người đẹp tới mức một cảnh sát già nhớ mãi không quên dù đã qua hơn hai mươi năm thì kiểu gì cũng sẽ khiến cô bé này ấn tượng sâu sắc.
Đứa bé gái ngẫm nghĩ, sau đó quả nhiên gật đầu.
Thế thì dễ rồi, Tạ Lam Sơn lại dùng ngôn ngữ ký hiệu để hỏi: Em vẽ đẹp như vậy, thế thì chúng ta cùng vẽ lại chị xinh đẹp kia nhé?
Cô bé gật đầu lia lịa, hứng khởi nhìn sang Thẩm Lưu Phi bên cạnh.
Cô bé vẽ trước, nhưng vì kỹ năng vẽ còn non nên không biết nên tiếp tục thế nào. Thẩm Lưu Phi kiên nhẫn dùng bút hướng dẫn, sau khi vẽ ít nhất hai mươi bức chân dung vừa giống lại vừa khác để cô bé so sánh, cuối cùng mới chọn ra được bức gần giống Tiểu Mạn nhất.
Không cần dùng tới đống ngôn ngữ ký hiệu tự nhiên bị bắt phải học, hiện tại Tạ Lam Sơn hoàn toàn không hiểu hai họa sĩ đang trao đổi chuyện gì, anh chỉ có thể nhàn nhã ngồi bên cạnh, nhìn chằm chằm sườn mặt của Thẩm Lưu Phi.
Mũi thẳng, lông mi mảnh dài hơi cong lên, sườn mặt của Thẩm Lưu Phi nhìn cực kỳ quyến rũ, cảm giác tuấn tú khôi ngô gần như phụ nữ.
Đây là một người rất lạnh lùng, bình thường luôn tỏ ra thờ ơ bình tĩnh trước mọi chuyện, chỉ khi bắt tay làm việc mới nghiêm túc tập trung. Dưới ánh nắng Mặt Trời dịu dàng, khuôn mặt y toát ra cảm giác đầy mơ mộng, Tạ Lam Sơn nhìn mà mê đắm, cảm thấy giết thời gian cũng chẳng mấy khó khăn.
Dường như đã để ý tới ánh mắt vẫn luôn hướng về phía mình, Thẩm Lưu Phi cũng quay đầu lại nhìn anh.
Bốn mắt va vào nhau, Tạ Lam Sơn mỉm cười rồi làm một động tác ngôn ngữ ký hiệu.
Anh mới tranh thủ học thêm một câu, ba chữ gửi gắm những tình cảm nồng đậm nhất trong cuộc đời.
Tôi yêu anh.
Thẩm Lưu Phi chưa bao giờ học ngôn ngữ ký hiệu nhưng y vẫn đọc ra được ý nghĩa trong câu này từ ánh mắt của Tạ Lam Sơn. Y quay đầu tập trung vào giấy bút trong tay, nhưng khóe môi đã vô thức nhếch lên thành một đường cong rất nhạt.
Chẳng biết qua bao lâu, Tạ Lam Sơn chống tay lên cằm, cảm thấy mình sắp chết ngạt trong sự tò mò và chán nản, cuối cùng cô bé cũng cầm giấy vẽ lên, nhìn sang phải rồi gật đầu quả quyết.
Tạ Lam Sơn lập tức đứng dậy, vội vã hỏi Thẩm Lưu Phi: “Xong rồi à?”
Thẩm Lưu Phi cầm giấy lên xem, chần chừ một lát mới đi về phía Tạ Lam Sơn, đôi mày nhíu lại một cách kỳ lạ.
Tạ Lam Sơn không xem bức chân dung Tiểu Mạn vội, anh chỉ hỏi y: “Ở đây nhiều trẻ con như thế, sao anh lại cố tình lựa chọn một đứa bé không biết nói?”
“Tranh của con bé rất sinh động, chứng tỏ đây là người có năng lực quan sát thẩm mỹ mạnh, chắc chắn khả năng cảm nhận và ghi nhớ khuôn mặt cũng hơn hẳn bạn bè đồng trang lứa. Hơn nữa chính vì không nói được nên có thể thấy viện trưởng rất yêu thương cô bé, thân phận của Tiểu Mạn rất đặc biệt, khi cô ta tới thăm viện trưởng thì có lẽ cô bé này sẽ ở cùng một phòng.”
Nghe khá hợp lý, Tạ Lam Sơn phục sát đất, chỉ chờ xem chân dung của Tiểu Mạn. Nhưng Thẩm Lưu Phi lại chần chừ mãi không đưa, anh đành chủ động vươn tay ra cầm lấy bức tranh.
Vừa mới nhìn đã đơ toàn tập, mãi sau Tạ Lam Sơn mới ấp úng lên tiếng: “Đây là… là pháp y Tô mà?”
Tuy người phụ nữ trong tranh không giống Tô Mạn Thanh trăm phần trăm, nhưng chắc chắn là một người.
Cuối cùng nhân vật then chốt để phá án đã xuất hiện nhưng lại nằm ngoài dự kiến của bọn họ, đang cân nhắc xem nên làm gì tiếp theo thì điện thoại của Thẩm Lưu Phi lại đổ chuông.
Tạ Lam Sơn bị loại khỏi vụ án nên Đinh Ly gặp chuyện chỉ có thể tìm tới Thẩm Lưu Phi. Cô nàng nói với y Đào Long Dược đã gặp tên giết người lột da kia khi hẹn hò với Tô Mạn Thanh, sau đó bị kẻ này đâm một nhát dao vào bụng.
Thẩm Lưu Phi hỏi: “Có nghiêm trọng không?”
Đinh Ly nói: “Chắc chắn không chết được. Nhưng mà thầy Thẩm và đàn anh Tạ vẫn nên nhanh chóng quay về đi ạ, đội trưởng Tiểu Đào đã cứu được một cô gái trong tay tên bi3n thái kia, đây có thể là người sống sót duy nhất nhìn thấy mặt thật của kẻ tình nghi đó!”
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.