Chương 16
Anita Shreve
02/04/2016
NHỮNG ĐƯỜNG NÉT CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ GÂY ẤN TƯỢNG MẠNH lên Kathryn, như axít ăn mòn một cuộn phim ảnh. Mắt nâu, lông mi đen dày. Quần jean ôm, chân dài. Giày đế bằng màu trắng ngà, mang nhiều lần, giống như dép. Áo sơ mi hồng, tay áo xăn lên. Hàng nghìn câu hỏi tranh nhau giành sự chú ý của Kathryn. Khi nào? Bao lâu? Như thế nào? Tại sao?
Đứa bé trong tay người phụ nữ ấy là một bé trai. Một bé trai có mắt xanh. Màu mắt hơi khác nhau một chút, dù sự khác nhau đó không rõ rệt như mắt bố nó.
Lớp vỏ bọc thời gian xé toạc ra, và Kathryn bước vào.
Cô gắng gượng để không tựa vào cánh cửa trước cú sốc khi nhìn thấy người phụ nữ và khuôn mặt đứa bé.
“Mời vào.”
Lời mời phá vỡ sự im lặng kéo dài giữa hai người phụ nữ. Dù đó hoàn toàn không phải là một lời mời, không phải theo kiểu những lời mời chào thông thường, với một nụ cười và một bước lùi lại để nhường đường. Mà nó nghe như một mệnh lệnh, đơn giản không nao núng, như thể người phụ nữ ấy thực ra đã nói: Bây giờ chẳng ai còn lựa chọn nào khác đâu.
Và bản năng mách bảo cô phải bước vào nhà, đương nhiên, tránh khỏi cơn mưa đang trút. Phải ngồi xuống.
Kathryn hạ chiếc ô xuống và thu nó lại trong lúc bước qua bậu cửa. Người phụ nữ trong nhà dùng một tay giữ cửa, tay kia bồng đứa bé. Đứa bé, có lẽ đã nhận ra sự im lặng, nhìn người lạ với ánh mắt tò mò cực độ. Một đứa trẻ trong hành lang đã dừng trò chơi của nó lại để quan sát.
Kathryn để cho chiếc ô nhểu nước xuống sàn gỗ bóng loáng. Trong vài giây khi hai người phụ nữ đứng ở lối vào, Kathryn nhận thấy tóc cô ta lắc lư quanh cằm. Chúng được cắt tỉa công phu, trong khi tóc của Kathryn thì không. Cô đưa tay sờ tóc mình và thấy hối hận vì đã làm thế.
Trong hành lang rất nóng, oi bức và ngột ngạt. Kathryn có thể cảm thấy mồ hôi nhỏ giọt trong làn áo kiểu sau lớp áo vest dưới lớp áo choàng len.
“Cô là Muire Boland,” Kathryn nói.
Đứa bé trong tay Muire Boland, dù khác giới tính, dù màu tóc có vẻ sậm hơn, vẫn giống hệt Mattie ở độ tuổi ấy - năm tháng tuổi, Kathryn phỏng đoán. Phát hiện này tạo ra một sự chói tai, một tiếng ken két trong tai cô, như thể người phụ nữ Kathryn chưa từng gặp mặt này đang bồng con của cô.
Jack đã có một đứa con trai.
Người phụ nữ tóc đen quay lưng rời khỏi hành lang để đi vào phòng khách, buộc lòng Kathryn phải đi theo sau. Đứa trẻ trên hành lang, một bé gái xinh xắn có đồng tử giãn to và khuôn miệng thiên thần, nhặt lên một đống khối xây dựng, ấn vào ngực, và, vẫn không rời mắt khỏi Kathryn, đi sát bức tường để vào phòng khách, tiến đến gần chân mẹ nó. Đứa bé rất giống mẹ, còn cậu con trai thì lại giống bố.
Kathryn đặt ô xuống góc phòng rồi đi vào phòng khách. Muire Boland đứng quay lưng về phía lò sưởi, chờ đợi cô, dù không hề có lời mời ngồi xuống, sẽ không có.
Căn phòng có trần cao và sơn màu vàng chanh. Những món đồ trang trí sáng loáng nhờ lớp sơn bóng trắng. Ở phía trước, những khung cửa sổ uốn cong treo rèm dài mỏng nhẹ trên thanh treo kiểu Pháp. Vài chiếc ghế thấp bằng sắt uốn, lót gối trắng khổ to, xếp quanh một chiếc bàn cocktail bằng gỗ chạm trổ, khiến Kathryn liên tưởng đến những căn phòng Ả Rập. Phía trên lò sưởi, ở sau đầu của người phụ nữ, là một tấm gương lớn màu vàng, phản chiếu hình ảnh của Kathryn ở lối vào, thành ra, Kathryn và Muire Boland đứng trong cùng một khung hình. Trên lò sưởi là một tấm ảnh lồng trong khung hoa văn bằng gỗ ngà, một chiếc lọ thủy tinh màu vàng ánh hồng, một bức tượng đồng. Ở hai bên khung cửa sổ hình cánh cung là những kệ sách cao. Một tấm thảm màu xám và xanh thẫm trải dưới chân. Căn phòng tươi tắn từ hiệu ứng của ánh sáng và không khí, bất kể kiến trúc đồ sộ của căn nhà và tiết trời ảm đạm.
Kathryn phải ngồi xuống. Cô đặt một tay lên chiếc ghế gỗ nằm ngay bên trong lối vào. Cô nặng nề ngồi xuống, như thể đôi chân cô đột nhiên mất hết sức lực.
Cô cảm thấy già nua, già hơn cả người phụ nữ trước mặt cô, dù cô ta gần bằng tuổi cô. Chính là đứa bé, Kathryn nghĩ, chính nó là minh chứng cho sự mới mẻ của tình yêu, chắc chắn cho sự gần gũi của tình dục. Hoặc là chiếc quần jean tương phản với bộ đồ vest sậm màu của Kathryn. Hoặc là cách Kathryn đang ngồi, chiếc xắc tay đặt nghiêm nghị trên đùi.
Dưới lớp áo choàng, chân phải của cô đang co giật, như cô vừa mới leo lên một ngọn núi.
Đứa bé bắt đầu quấy khóc, phát ra những tiếc ngằn ngặt nho nhỏ. Muire Boland cúi xuống để nhặt lên một chiếc núm vú nhựa từ bàn cocktail, nhét đầu núm vú vào miệng mình, mút vài cái, rồi nhét vào miệng đứa bé. Đứa bé mặc quần yếm bằng nhung kẻ màu xanh dương và một chiếc áo thun kẻ sọc. Người phụ nữ tóc đen có đôi môi dày đều đặn và không thoa son.
Rời mắt khỏi người phụ nữ và đứa bé, Kathryn bắt gặp bức ảnh trên bệ lò sưởi. Khi tập trung nhìn kỹ bức ảnh, cô bắt đầu, gần như đứng dậy khỏi ghế. Đó là ảnh của Jack, cô có thể nhận ra ngay cả từ phía xa. Từ chỗ ngồi của cô, điều đó càng không thể nhầm lẫn. Jack đang ẵm một đứa trẻ, một bé sơ sinh. Bàn tay kia của anh xoa đầu một đứa bé khác, cô bé đang ở trong căn phòng cùng với họ. Trong ảnh, con bé có khuôn mặt rất trang nghiêm. Ba người có vẻ như đang đứng trên bãi biển. Jack cười tươi rạng rỡ.
Bằng chứng không thể chối cãi về một cuộc sống khác. Dù Kathryn chẳng cần bằng chứng gì.
“Cô đang đeo nhẫn,” Kathryn nói gần như miễn cưỡng.
Muire dùng ngón tay xoay chiếc nhẫn vàng.
“Cô kết hôn rồi à?” Kathryn hỏi, vẻ nghi ngờ.
“Tôi đã từng kết hôn.”
Kathryn bối rối một chốc, cho đến khi cô hiểu nghĩa của thì quá khứ.
Muire chuyển đứa bé sang hông bên kia.
“Khi nào?” Kathryn hỏi.
“Bốn năm rưỡi trước.”
Người phụ nữ hầu như không di chuyển khuôn miệng trong lúc nói. Những nguyên âm và phụ âm tuôn ra từ lưỡi cô ta với một sự du dương khó lẫn. Chắc là giọng Ireland.
“Chúng tôi kết hôn trong một nhà thờ Công giáo,” Muire tự nguyện nói.
Kathryn cảm thấy thân người lùi lại trước thông tin này, như lùi lại trước một cú đấm.
“Và cô biết là...?” cô hỏi.
“Về chị ư? Vâng, tất nhiên.”
Như thể đó là chuyện hiển nhiên. Rằng người phụ nữ tóc đen này đã biết mọi thứ. Còn Kathryn thì không.
Kathryn đặt xắc tay xuống, lắc cánh tay khỏi dính vào áo choàng. Căn hộ nóng quá mức, và Kathryn đang đổ mồ hôi như tắm. Cô có thể cảm thấy mồ hôi tuôn dưới tóc và sau gáy.
“Nó tên gì?” Kathryn hỏi, ngụ ý tên đứa bé. Cô bất ngờ trước sự lịch thiệp của mình ngay cả khi cô hỏi câu đó.
“Dermot,” Muire đáp. “Theo tên anh trai tôi.”
Người phụ nữ chợt cúi đầu xuống, hôn lên đầu đứa bé.
“Nó bao nhiêu tuổi?” Kathryn hỏi.
“Năm tháng. Tính đến hôm nay.”
Và Kathryn lập tức nghĩ, vì ai mà không làm thế, rằng Jack hẳn sẽ có mặt ở đấy, trong căn hộ này, để chia sẻ cột mốc đó.
Đứa bé sau khi được cho ngậm núm vú giờ đã thiu thiu ngủ. Mặc cho những tiết lộ trong vài phút vừa qua, mặc cho mối quan hệ không bình thường giữa cô và đứa bé (mặc cho thực tế rằng đứa bé này tồn tại trên đời), Kathryn vẫn cảm thấy một cảm giác thôi thúc, gần giống như sự thôi thúc về thể xác, phải ôm đứa bé vào lòng, áp nó vào cái khoảng trống vẫn luôn khao khát ôm ấp một đứa bé. Nét giống nhau giữa đứa bé với Mattie lúc năm tháng tuổi thật kỳ lạ. Đó có thể chính là Mattie. Kathryn nhắm mắt lại.
“Chị có sao không?” Muire hỏi.
Kathryn mở mắt ra, lau trán bằng tay áo khoác.
“Tôi đã nghĩ... ,” Muire bắt đầu. “Tôi đã tự hỏi liệu chị có đến hay không. Khi chị gọi, tôi chắc rằng chị đã biết. Tôi đã biết chắc khi anh ấy chết là chuyện này sẽ xảy ra.”
“Tôi đã không biết,” Kathryn nói. “Không hẳn là biết. Chỉ đến khi tôi nhìn thấy đứa bé. Vừa khi nãy.”
Hay là cô đã biết? Kathryn tự hỏi. Cô đã biết kể từ giây phút cô nghe thấy sự im lặng xuyên đại dương ấy?
Quanh mắt người phụ nữ tóc đen có nếp nhăn, hai khóe miệng có dấu vết của những nếp nhăn ngày nào đó sẽ hình thành. Đứa bé chợt thức giấc và bắt đầu khóc toáng lên thật to, kiểu khóc từng rất đỗi quen thuộc với Kathryn. Muire cố gắng dỗ đứa bé, đặt nó lên vai, vỗ lưng nó. Nhưng chẳng có tác dụng gì.
“Để tôi bế nó vào phòng,” Muire nói giữa tiếng khóc của đứa trẻ.
Khi cô rời khỏi phòng, đứa bé gái lẽo đẽo theo sau, không muốn bị bỏ lại một mình với người lạ.
Jack đã kết hôn trong một nhà thờ Công giáo. Người phụ nữ tóc đen đã biết rằng anh đã có gia đình.
Kathryn cố đứng lên, nhưng cô cảm thấy không đứng nổi. Cô bắt chéo chân để trông không có vẻ quá xúc động. Không có vẻ quá rã rời. Cô từ từ xoay chân, cố gắng quan sát toàn bộ căn phòng. Những chiếc đèn áp tường bằng đồng với nến bằng điện trên tường. Những quyển tạp chí trên bàn cocktail, một bức tranh sơn dầu vẽ một con phố của tầng lớp lao động. Cô tự hỏi tại sao mình không cảm thấy giận dữ. Cảm giác như cô bị cắt, con dao cứa sâu đến nỗi vết thương chưa kịp đau; nó chỉ gây sốc. Và cú sốc có vẻ như khiến cô cư xử có văn hóa.
Muire đã biết, đã tưởng tượng đến ngày này. Kathryn thì không.
Dọc một bức tường có một chiếc tủ mà Kathryn đoán là chứa tivi và dàn âm thanh. Cô chợt nghĩ đến những bộ phim Điệp viên báo hồng, những phim mà cô, Jack và Mattie đã thuê, những phim luôn làm cho Jack và Mattie cười ngặt nghẽo không dứt. Họ rất tự hào khi có thể thuộc lòng những đoạn đối thoại dài dằng dặc.
Kathryn quay đầu sang phía phát ra tiếng động. Muire Boland đứng ở lối vào, quan sát cô từ một phía. Cô ta bước vào phòng, đi đến một chiếc ghế trắng, rồi ngồi xuống. Ngay lập tức, cô ta mở một chiếc hộp gỗ trên bàn cocktail rồi lấy ra một điếu thuốc, châm lửa bằng một chiếc bật lửa bằng nhựa đặt cạnh chiếc hộp.
Jack không thể chịu nổi ở chung phòng với người hút thuốc, anh đã nói như thế.
“Chị muốn biết chuyện này xảy ra như thế nào,” Muire nói.
Mặc dù gầy gò nhưng có thể mô tả Muire là một người quyến rũ. Do đứa bé, Kathryn thầm nghĩ. Do việc cho bú. Có thể chỉ có một chút dấu hiệu của mỡ bụng, nhưng đó cũng là do đứa bé.
Kathryn chợt nhớ đến một kỷ niệm vào lúc đó, thật ra là một bức ảnh do Jack chụp. Kathryn đang úp mặt nằm ngủ trong bộ áo choàng tắm chần bông trên một chiếc giường bề bộn, hai tay nhét dưới người. Jack đang ẵm Mattie năm tháng tuổi, anh đã đặt con bé đang ngủ, cũng úp mặt xuống, lên phần nhô lên giữa mông và cuối lưng cô. Kathryn và Mattie cùng nhau ngủ trưa, và Jack, cảm động trước cảnh tượng của mẹ và bé, đã chụp bức ảnh đó.
Muire ngả người ra ghế đệm, khoác một tay ra phía sau thành ghế. Cô ta gác chéo chân. Kathryn ước chừng cô ta cao khoảng một mét tám, gần bằng Jack. Kathryn cố gắng tưởng tượng cơ thể cô ta trông như thế nào dưới lớp áo quần, cô ta ở bên Jack sẽ như thế nào.
Nhưng tâm trí cô phản đối và nổi loạn, và những hình ảnh ấy không chịu hình thành. Cũng như hình ảnh về thi thể của Jack khi rơi xuống biển thoạt đầu đã không chịu hình thành. Những hình ảnh đó sẽ đến sau, Kathryn biết, khi cô ít mong muốn nhất.
“Đúng,” Kathryn đáp.
Muire rít một hơi thuốc lá, chồm về trước, gạt tàn thuốc. “Tôi bay cùng anh ấy năm năm rưỡi trước. Tôi là tiếp viên hàng không của hãng Vision.”
“Tôi biết.”
“Chúng tôi yêu nhau,” người phụ nữ nói đơn giản. “Tôi sẽ không đi vào chi tiết. Tôi chỉ có thể nói rằng cả hai chúng tôi đều đắm đuối. Chúng tôi đã sống chung với nhau một tháng trong lần đầu tiên đó. Chúng tôi đã...” Người phụ nữ do dự, có thể vì lịch sự, có thể đang cố gắng tìm cách nói tốt hơn. “Chúng tôi đã ngoại tình,” cuối cùng cô ta nói. “Jack rất dằn vặt. Anh ấy nói sẽ không bỏ Mattie. Anh ấy không thể làm thế với con gái mình.”
Cái tên Mattie gây một cơn rùng mình trong không khí, một sự căng thẳng run rẩy giữa hai người phụ nữ. Muire Boland đã gọi cái tên đó một cách quá dễ dàng, cứ như cô ta đã quen biết con bé.
Kathryn nghĩ: Anh ấy không thể bỏ con gái, nhưng anh ấy có thể phản bội vợ mình.
“Chuyện này chính xác là khi nào?” Kathryn hỏi. “Mối quan hệ này.”
“Tháng sáu năm 1991.”
“Ồ.”
Bản thân cô đã làm gì vào tháng sáu năm 1991? Kathryn tự hỏi.
Người phụ nữ có nước da trắng thanh khiết, làn da gần như không có khuyết điểm. Làn da của một người ít khi ra ngoài. Dù cô ta có thể là một người ưa chạy bộ.
“Cô biết về tôi,” Kathryn lặp lại. Giọng cô nghe như không phải của cô nữa. Nó quá chậm và cân nhắc, như cô đã bị trúng thuốc mê.
“Tôi biết về chị ngay từ lúc đầu. Jack và tôi không có bí mật nào cả.”
Hóa ra là thân thiết hơn, Kathryn nghĩ. Một vết thương bằng dao có chủ ý.
Mưa trượt trên những ô cửa sổ hình cánh cung, mây mù khiến người ta dễ nhầm lẫn trời đã nhá nhem tối. Kathryn nghe thấy từ một căn phòng ở trên lầu tiếng léo nhéo xa xa của một nhân vật hoạt hình trên tivi. Vẫn còn đổ mồ hôi, cô cởi áo khoác ra và đứng dậy, lúc đó cô nhận ra chiếc áo kiểu đã bung ra khỏi váy. Cô cố nhét nó vào váy trở lại. Ý thức rõ sự quan sát của người phụ nữ đối diện, một người phụ nữ có thể biết về Jack rõ hơn cả cô, Kathryn thầm mong đôi chân sẽ không phản bội mình. Cô đi ngang qua căn phòng đến bệ lò sưởi.
Cô lấy tấm ảnh lồng khung bằng ngà xuống. Jack mặc một chiếc áo mà Kathryn chưa từng nhìn thấy, một chiếc áo thun polo đen đã cũ. Anh bế đứa bé sơ sinh nhỏ xíu. Đứa con gái, Kathryn vừa thấy khi nãy đang chơi với các khối xây dựng, có những lọn tóc và chân mày giống Jack, nhưng mắt thì không giống.
“Con bé tên gì?” Kathryn hỏi.
“Dierde.”
Các ngón tay của Jack luồn sâu vào mái tóc con bé. Jack có đối xử với Dierde giống như cách anh đã đối xử với Mattie không?
Kathryn nhắm mắt lại trong chốc lát. Cô nghĩ sự tổn thương gây ra với cô là gần như không thể chịu đựng nổi. Nhưng còn sự tổn thương đến Mattie thì thật ghê tởm. Ai cũng có thể thấy - làm sao mà họ không nhận ra được? - rằng con bé trong bức ảnh xinh đẹp tuyệt trần. Một khuôn mặt hấp dẫn, đôi mắt đen, lông mi dài, môi đỏ. Bạch Tuyết đích thực. Liệu những kỷ niệm mà Mattie nâng niu như báu vật có được lặp lại, được làm sống lại, với một đứa bé khác không?
“Sao cô có thể?” Kathryn khóc, quay cuồng, và cô cũng đã có thể nói câu đó với Jack.
Mồ hôi làm những ngón tay cô trơn trượt, khiến khung hình rơi xuống. Nó trượt ra khỏi tay cô, vỡ toang trên một chiếc tủ nhỏ. Cô không cố tình làm thế, và cô cảm thấy sự đổ vỡ nhỏ nhoi ấy là một sự phơi bày. Người phụ nữ trên ghế thoáng rùng mình, dù cô ta không ngoái đầu lại để nhìn thiệt hại. Đó là một câu hỏi không thể trả lời. Mặc dù cô ta muốn trả lời nó.
“Tôi yêu anh ấy,” Muire đáp. “Chúng tôi yêu nhau.”
Như thể chừng đấy là đủ.
Kathryn đứng nhìn Muire dụi tắt điếu thuốc. Cô ta thật bình thản, Kathryn nghĩ. Thậm chí lạnh lùng.
“Có những việc tôi không thể nói,” Muire nói.
Con khốn, Kathryn thầm nghĩ, một bong bóng giận dữ nổi lên. Cô cố gắng bình tĩnh lại. Thật khó để hình dung người phụ nữ ngồi trên ghế kia trong bộ đồng phục tiếp viên hàng không với đôi cánh nhỏ trên ve áo. Mỉm cười với hành khách khi họ lên máy bay.
Những việc mà Muire Boland không thể nói là gì?
Cô đặt tay lên bệ lò sưởi, ngả đầu về trước. Cô hít sâu để bình tĩnh lại. Một cơn thịnh nộ tạo ra tiếng động như tiếng ồn trong tai cô.
Cô đẩy người ra khỏi bệ lò sưởi rồi đi băng qua căn phòng. Cô dừng lại gần chiếc ghế gỗ, như cô có thể, vào bất cứ lúc nào, đứng dậy và ra về.
“Tôi đã sẵn lòng làm mọi việc cần phải làm,” Muire Boland nói. Cô ta vén tóc khỏi trán. “Tôi đã từng đuổi anh ấy ra khỏi nhà. Nhưng tôi không thể.”
Kathryn nắm hai tay lại đặt lên đùi, xem đây là lời tự thú đúng kiểu tính cách cô ta. Vẻ khêu gợi của người đang trong thời kỳ cho con bú, biểu hiện của vòng eo đẫy đà, kết hợp với chiều cao, đôi vai gầy guộc, cánh tay dài, thật khó cưỡng lại, hấp dẫn không thể chối từ.
“Cô làm chuyện đó thế nào?” Kathryn hỏi. “Ý tôi là, làm sao chuyện đó có thể trót lọt được?”
Muire Boland nâng cằm lên. “Chúng tôi có quá ít thời gian ở bên nhau. Chúng tôi đã làm bất cứ chuyện gì có thể làm. Tôi thường đến đón anh ấy ở một địa điểm hẹn trước gần căn hộ phi hành đoàn rồi đưa anh ấy về đây. Đôi khi, chúng tôi chỉ ở bên nhau được một đêm. Khi khác...” Cô ta lại do dự. “Đôi khi Jack đăng ký lịch bay ngược lại,” Muire nói.
Kathryn nghe những từ ngữ của một người vợ phi công.
“Tôi không hiểu,” Kathryn nói nhanh. Dù đau lòng thay, cô nghĩ rằng mình hiểu.
“Thỉnh thoảng anh ấy có thể sắp xếp để cho London là điểm quay về. Nhưng, tất nhiên, việc này rất rủi ro.”
Kathryn nhớ lại những tháng mà Jack dường như có lịch bay rất kinh khủng. Năm ngày liên tiếp, nghỉ hai ngày, chỉ về nhà được một đêm.
“Như chị biết đấy, anh ấy không phải lúc nào cũng được bay chặng London,” Muire tiếp tục. “Thỉnh thoảng anh ấy phải bay chuyến Amsterdam-Nairobi. Những lúc ấy tôi thuê một căn hộ ở Amsterdam.”
“Anh ấy trả tiền cho chuyện này?” Kathryn chợt hỏi, cô nghĩ: Anh ấy lấy tiền từ tôi. Từ Mattie.
“Đây là của tôi,” Muire nói, ra dấu về phía các căn phòng. “Tôi được một người cô để lại căn nhà này. Tôi có thể bán rồi dọn ra vùng ngoại ô, nhưng nghĩ đến việc dọn ra ngoại ô đôi khi khiến tôi thấy nản.”
Kathryn, tất nhiên, sống ở một nơi có thể mô tả là vùng ngoại ô.
“Anh ấy cho cô tiền à?” Kathryn vẫn quyết làm cho ra lẽ.
Muire nhìn lảng đi, như đang chia sẻ với Kathryn, trong một khoảnh khắc, hành động bội bạc của việc lấy tiền từ gia đình này cho gia đình khác.
“Thỉnh thoảng thôi,” cô ta đáp. “Tôi cũng có tiền riêng.”
Kathryn nghĩ ngợi về sự nồng nhiệt trong tình cảm mà việc cách li liên tục có thể tạo ra. Sự nồng nhiệt sinh ra một cách tự nhiên từ hành động lén lút và bí mật. Cô đưa tay lên miệng, ấn môi lên những đốt tay. Chẳng lẽ tình yêu cô dành cho Jack chưa đủ mạnh mẽ hay sao? Liệu cô có thể khẳng định rằng mình vẫn còn yêu chồng sau khi anh ấy qua đời? Phải chăng cô đã không biết trân trọng anh? Tệ hơn nữa là, liệu Jack có bao giờ gợi ý cho Muire Boland rằng Kathryn không yêu anh đủ nhiều? Cô nhói lòng khi nghĩ đến khả năng đó. Cô hít một hơi dài và cố gắng ngồi thẳng hơn.
“Cô từ đâu đến?” Kathryn hỏi khi cô đã tin tưởng giọng nói của mình.
“Antrim.”
Kathryn nhìn đi nơi khác. Bài thơ, cô thầm nghĩ. Tất nhiên rồi. Ở đây trong ngõ hẹp và phương bắc khắc nghiệt, những bội phản vĩnh viễn...
“Nhưng cô gặp anh ấy ở đây,” Kathryn nói. “Cô gặp Jack ở London.”
“Chúng tôi gặp nhau trên không trung.”
Kathryn liếc nhìn xuống thảm, tưởng tượng về cuộc gặp trên không đó.
“Chị đang ở đâu?” Muire hỏi.
Kathryn nhìn người phụ nữ và chớp mắt. Cô không nhớ nổi tên khách sạn. Muire chồm về trước và rút một điếu thuốc ra khỏi hộp.
“The Kensington Exeter,” Kathryn nói khi đã nhớ lại.
“Nếu điều này có làm cho chị cảm thấy khá hơn,” Muire nói, “tôi khá chắc chắn rằng không còn ai khác nữa.”
Điều đó không khiến cô cảm thấy khá hơn chút nào.
“Làm sao cô biết?”
Ánh sáng bên ngoài đang nhạt nhòa dần. Muire bật đèn bàn lên rồi đưa một tay ra sau gáy.
“Làm sao chị tìm ra?” Muire hỏi. “Phát hiện ra chuyện chúng tôi?”
Chúng tôi, Kathryn nghe thấy từ đó.
Cô không muốn trả lời câu hỏi này. Việc tìm kiếm manh mối giờ đây không còn ý nghĩa nữa.
“Chuyện gì đã xảy ra trên máy bay của Jack?” Kathryn hỏi thay vì trả lời.
Muire lắc đầu, mái tóc mềm mượt lắc lư. “Tôi không biết,” cô ta đáp. Nhưng giọng nói của cô mang hơi hướm lảng tránh, vì trông cô có vẻ như tái nhợt hẳn. “Ý nghĩ đây là một vụ tự sát thật kinh khủng,” cô ta nói, cúi người về trước, đặt cùi chỏ lên đầu gối, đầu úp vào hai tay. Khói thuốc luồn qua tóc cô ta. “Jack sẽ không bao giờ, không bao giờ...”
Kathryn bất ngờ trước cảm xúc mãnh liệt đột ngột của người phụ nữ này, cảm xúc mà cô tưởng ở một chừng mực nào đó rằng chỉ mình cô có. Đó là cảm xúc duy nhất mà Muire thể hiện kể từ khi Kathryn đặt chân vào căn hộ này.
“Tôi ganh tị với chị vì đã tổ chức được lễ tưởng niệm,” Muire nói, ngước lên. “Một linh mục. Tôi ước gì mình đến đó được.”
Chúa ơi, Kathryn tự nhủ.
“Tôi đã thấy ảnh của chị,” Muire nói tiếp. “Ở trên báo. FBI đang điều tra vụ việc phải không?”
“Tôi nghe bảo vậy.”
“Họ có nói chuyện với chị không?”
“Không. Họ có gọi cho cô không?”
“Không,” Muire đáp. “Chị biết là Jack sẽ không bao giờ làm chuyện này.”
“Tất nhiên là tôi biết,” Kathryn đáp.
Nói gì đi nữa, Kathryn cũng là người vợ đầu tiên, vợ cả, đúng không nhỉ? Nhưng khi đó cô tự hỏi: Trong tâm trí một người đàn ông, ai là người vợ quan trọng hơn? - Người phụ nữ mà anh quyết bảo vệ bằng cách không tiết lộ về người kia? Hay là người mà anh kể hết mọi bí mật của mình?
“Lần cuối cùng cô gặp anh ấy...” Kathryn bắt đầu.
“Sáng hôm đó. Khoảng bốn giờ sáng. Ngay trước khi anh ấy đi làm. Tôi tỉnh dậy...” Cô ta bỏ lửng câu nói.
“Hai người đi ăn tối với nhau,” Kathryn nói.
“Phải,” Muire đáp, trông thoáng ngạc nhiên vì Kathryn biết chuyện này. Cô ta không hỏi tại sao.
Kathryn cố gắng nhớ lại xem có lần nào cô nghi ngờ một cách nghiêm túc chuyện Jack có nhân tình. Cô nghĩ là không. Niềm tin cô dành cho anh trọn vẹn đến tai hại.
“Chị đến đây chỉ vì chuyện này thôi à?” Muire hỏi, gỡ một vụn thuốc lá khỏi môi dưới. Trông cô ta có vẻ như đã lấy lại được thần thái.
“Chừng đó không đủ hay sao?” Kathryn hỏi.
Muire thở ra một cụm khói dài. “Ý tôi là chị có đi tiếp đến Malin Head không?”
“Không. Cô đến đó chưa?”
“Tôi không đi được.”
Còn điều gì đó nữa. Kathryn có thể cảm nhận được.
“Là chuyện gì?” Kathryn hỏi.
Muire chà tay lên trán. “Không có gì,” cô ta đáp, khẽ lắc đầu. “Chúng tôi đã ngoại tình,” cô ta nói thêm, như để giải thích điều mình đang nghĩ. “Tôi có thai và phải nghỉ làm ở hãng hàng không. Jack muốn kết hôn. Điều đó không quá quan trọng đối với tôi. Việc kết hôn ấy mà. Anh ấy muốn kết hôn trong một nhà thờ Công giáo.”
“Anh ấy không bao giờ đi nhà thờ.”
“Anh ấy sùng đạo lắm,” Muire nói và nhìn Kathryn chăm chú.
“Nếu vậy thì anh ấy là hai người khác nhau,” Kathryn nói vẻ ngờ vực. Làm lễ cưới ở một nhà thờ Công giáo vì người yêu của mình muốn thế là một chuyện, còn làm một người sùng đạo lại là chuyện hoàn toàn khác. Kathryn đan các ngón tay vào nhau, cố gắng giữ yên chúng.
“Anh ấy đi dự các buổi giảng đạo bất cứ khi nào có thể,” Muire nói.
Ở Ely, Jack thậm chí chưa bao giờ bước chân vào một nhà thờ nào. Làm sao một người đàn ông lại có thể là hai người khác xa nhau đến vậy? Nhưng rồi một ý nghĩ mới lóe lên trong đầu Kathryn, một ý nghĩ không mong đợi: Jack không thể lúc nào cũng là hai người khác nhau, phải không? Chẳng hạn như khi là người tình. Liệu anh có cùng chia sẻ với Muire Boland một số sự thân mật mà anh đã chia sẻ với Kathryn hay không? Nếu Kathryn đủ can đảm để hỏi, liệu có một sự thừa nhận nào đó từ phía người phụ nữ đang ngồi đối diện với cô hay không? Hay đó là một vở kịch hoàn toàn khác? Một kịch bản khác? Lời thoại khác? Những đạo cụ không thể nhận ra? Kathryn thả các ngón tay ra, đè bàn tay lên đùi. Muire nhìn cô chăm chú. Có lẽ cả cô ta cũng đang phỏng đoán.
“Tôi cần dùng nhà tắm,” Kathryn nói, đột ngột đứng dậy. Như một người say.
Muire cũng đứng dậy theo. “Nó ở ngay trên lầu,” cô ta nói.
Cô ta dẫn Kathryn ra khỏi phòng khách, đi qua hành lang. Cô ta đứng ở chân cầu thang, ra dấu bằng tay. Kathryn phải đi qua trước mặt cô ta, và cơ thể họ suýt chạm vào nhau. Kathryn cảm thấy bị áp đảo trước chiều cao của người phụ nữ này.
Phòng tắm rất đáng sợ và khiến tim của Kathryn đập loạn xạ. Cô liếc nhìn vào gương, thấy khuôn mặt mình đã đỏ bừng bừng và hằn vết. Cô kéo chiếc kẹp tóc ra rồi xổ tung mái tóc. Cô ngồi xuống bồn cầu. Họa tiết hoa trên tường khiến cô chóng mặt.
Bốn năm rưỡi trời. Jack và Muire Boland đã kết hôn trong một nhà thờ cách đây bốn năm rưỡi. Có thể khách khứa đã đến tham gia buổi lễ. Có ai trong số họ biết sự thật không? Jack có ngập ngừng khi đọc lời tuyên thệ không?
Cô lắc mạnh đầu. Mỗi suy nghĩ chứa một hình ảnh mà Kathryn không muốn nhìn thấy. Đó là điều khó khăn - cho phép những câu hỏi nhưng giữ lại những hình ảnh. Jack mặc áo vest, quỳ xuống trước một linh mục. Jack mở cửa xe, ngồi vào trong. Một bé gái có tóc xoăn màu đen ôm lấy chân Jack.
Từ xa, có tiếng chuông điện thoại.
Làm sao Jack có thể xoay xở được chuyện này, Kathryn tự hỏi. Những lời nói dối, sự dối lừa, sự thiếu ngủ? Một ngày nọ anh rời khỏi Kathryn để đi làm, và chỉ vài giờ sau đã đứng trong một nhà thờ tại lễ cưới của chính anh. Kathryn và Mattie đã làm gì ngày hôm đó, vào đúng giờ phút đó? Làm sao Jack có thể nhìn mặt hai mẹ con họ khi anh trở về nhà? Anh có làm tình với Kathryn vào đêm đó, đêm hôm sau, tuần đó không? Cô rùng mình khi nghĩ đến chuyện đó.
Những câu hỏi bật ra tanh tách từ bức tường này sang bức tường khác, lặp đi lặp lại không dứt. Rồi cô nhớ ra, bụng cô quặn thắt, khóa tập huấn hai lần mỗi năm ở London. Mỗi lần hai tuần.
Cô nhận ra, nếu không bao giờ nghi ngờ một ai đó, ta sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện phải nghi ngờ.
Cô đứng phắt dậy, mắt cô nhìn một vòng quanh phòng tắm. Cô vốc nước lên mặt, rồi lau khô bằng một chiếc khăn thêu. Cô mở cửa phòng tắm và thấy ở bên kia hành lang có một chiếc giường cỡ lớn. Ở dưới nhà, Kathryn nghe tiếng Muire nói chuyện điện thoại, những từ ngữ hết lên lại xuống trong giọng nói nước ngoài của cô ta. Nếu Jack chưa chết, cô sẽ không có quyền bước vào phòng ngủ, nhưng giờ thì chẳng có gì quan trọng nữa cả. Cô có quyền xem xét căn nhà này. Cô có quyền biết về căn nhà này. Nói gì thì nói, chẳng phải Muire Boland đã biết tất cả về cô đó sao?
Kathryn đau đớn khi nghĩ đến thực tế đó. Chính xác thì Muire đã được nghe kể bao nhiêu chi tiết? Và những chi tiết đó riêng tư đến mức nào?
Cô bước qua khung cửa và nghĩ đến sự cố gắng của mình để làm Jack vui lòng, về sự điều chỉnh cô đã làm vì anh. Về cách cô đã tạo ra cả một giả thuyết về sự gần gũi tình dục giảm dần. Về cách cô đã từng chất vấn Jack trước sự thoái lui của anh, và anh đã chối bỏ điều đó, làm cho nó có vẻ như không nằm trong phạm vi quan tâm của anh, hay của cô. Toàn bộ việc này đã được cô cho là bình thường, trong phạm vi của một cuộc hôn nhân bình thường. Thực ra, cô đã nghĩ họ có một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Cô cảm thấy ngốc nghếch, bị lừa phỉnh, và cô tự hỏi phải chăng cô cũng không hề bận tâm điều đó.
Đây hẳn là phòng chính. Nó dài và hẹp, bừa bộn kỳ lạ, thật sự thì bừa bộn một cách bất thường so với sự ngăn nắp của những căn phòng tầng dưới. Có những tách trà và một lọ sữa chua còn một nửa trên bàn, những chiếc gạt tàn chứa đầy đuôi thuốc lá. Những lọ mỹ phẩm trên một chiếc bàn trang điểm, dính lấm tấm kem nền dạng lỏng. Một bên của chiếc giường gỗ chưa được dọn. Kathryn nhận thấy ga trải giường loại đắt tiền, viền thêu. Vài món đồ nội y bằng ren trên gối. Phía kia của giường, còn nguyên vẹn, là của Jack - cô có thể thấy trên chiếc tủ đầu giường đặt một chiếc đèn bàn halogen, một quyển sách về cuộc chiến tranh Việt Nam. Khi ở đây Jack có đọc sách khác so với khi ở nhà không? Anh có mặc quần áo khác không? Trông anh có thật sự khác hẳn trong ngôi nhà này, trong đất nước này, so với khi ở nhà hay không? Trông già hơn hay trẻ hơn?
Nhà, cô thầm nghĩ. Giờ thì đó là một khái niệm thú vị.
Cô đi đến phần giường của Jack rồi giật tung chăn lên. Cô cúi đầu xuống ga giường và hít vào thật sâu. Anh không ở đó; cô không ngửi thấy mùi của anh.
Cô đi qua phần giường bên kia, phần của Muire. Trên tủ đầu giường có một chiếc đồng hồ vàng nhỏ và một chiếc đèn. Như đang thực hiện một cuộc khám xét, cô mở ngăn kéo tủ ra. Bên trong là những mảnh giấy, hóa đơn, vài thỏi son, một lọ kem dưỡng da, xu lẻ, vài cây bút, một cái điều khiển tivi, một vật gì đó trong một túi nhung màu xanh. Không nghĩ ngợi, Kathryn cầm chiếc túi lên và trút nó xuống. Cô thả món đồ rơi ra như bị bỏng. Lẽ ra cô đã phải đoán được từ hình dạng của nó. Chiếc máy tạo rung rơi khỏi tay cô xuống ngăn kéo và tạo ra tiếng động.
Cô quỳ xuống sàn nhà, úp mặt lên giường. Cô đưa hai tay ôm đầu. Cô muốn các câu hỏi ngừng lại, và cô cố gắng làm cho đầu óc mình trống rỗng, nhưng vô ích. Cô chà đi chà lại mặt mình trên tấm ga giường. Cô ngẩng mặt lên và nhận thấy đã để lại một vệt mascara trên tấm trải giường.
Cô đứng dậy, đi về phía tủ quần áo lắp kính bên ngoài và mở cửa tủ ra.
Quần áo bên trong là của Muire, không phải của Jack. Quần tây dài màu đen, váy dạ. Áo sơ mi cotton, áo kiểu bằng vải linen. Một chiếc áo choàng lông thú. Trong lúc tìm kiếm, tay cô chạm phải một thứ mà cô nghĩ là áo lụa. Tách các móc áo ra, cô nhận ra đó không phải là áo kiểu mà là một chiếc áo choàng, một chiếc áo choàng lụa dài đến mắt cá chân, áo choàng lụa có dải thắt lưng tua rua. Một chiếc áo tuyệt đẹp màu xanh ngọc bích thẫm. Khẽ rùng mình, cô nhấc cổ áo lên khỏi móc áo và nhìn vào nhãn mác.
Bergdorf Goodman.
Cô đã biết sẽ là nó.
Cô đi qua phòng ngủ đến phòng tắm, để ý tất cả, như thể một ngày nào đó cô sẽ mua ngôi nhà này.
Treo trên móc cạnh bồn tắm là một chiếc áo choàng tắm sọc ca rô màu mận chín của nam. Ở nhà Jack không bao giờ mặc áo choàng. Trong tủ thuốc, cô thấy một chiếc dao cạo râu và một chiếc lược. Có một chai nước hoa của Anh mà cô không biết hiệu. Kiểm tra chiếc lược, Kathryn thấy có những sợi tóc ngắn màu đen.
Cô nhìn chiếc lược một lúc lâu.
Cô đã nhìn thấy đủ rồi.
Giờ đây cô chỉ muốn đi ra khỏi ngôi nhà này. Cô đóng cửa phòng ngủ chính. Ở dưới nhà, cô vẫn nghe tiếng Muire Boland nói chuyện điện thoại, giọng nói lúc này đã to hơn, như đang cãi nhau. Kathryn đi ngang qua căn phòng để cửa mở của đứa con gái. Dierdre nằm sấp trên giường, tay chống cằm, khuôn mặt vẫn giữ vẻ hết sức trang nghiêm. Nó mặc một chiếc áo thun màu xanh tay dài và quần yếm. Tất màu xanh đến mắt cá chân. Đứa bé say sưa với bộ phim đến nỗi lúc đầu nó không nhận ra có người lạ ở cửa.
“Chào cháu,” Kathryn nói.
Đứa bé liếc nhìn về hướng cô, sau đó quay lại để nhìn trực diện người mới đến.
“Cháu đang xem gì đấy?” Kathryn hỏi.
“Danger Mouse.”
“Bác xem phim đấy rồi. Người ta từng chiếu nó ở Mỹ. Con gái bác thì thích Road Runner. Bây giờ chị ấy lớn rồi. Chị ấy cao gần bằng bác.”
“Chị ấy tên gì ạ?” Con bé ngồi dậy, tỏ vẻ quan tâm hơn đến người lạ.
“Mattie.”
Dierdre ngẫm nghĩ về cái tên này.
Kathryn tiến thêm một bước rồi nhìn quanh căn phòng. Cô nhận thấy con gấu bông Paddington, gần như giống hệt con gấu bông trước đây của Mattie. Một bức ảnh của Jack đội mũ lưỡi trai và mặc áo thun trắng. Một bức tranh của trẻ con vẽ một người đàn ông và một cô bé có mái tóc xoăn màu đen, có lẽ vừa được vẽ gần đây. Một chiếc bàn nhỏ màu trắng bị viết đầy những nét nguệch ngoạc bằng bút lông, vẽ bầu trời xanh bị lem ra từ trang giấy. Con bé đã được nghe điều gì? Nó có biết bố nó đã chết không?
Kathryn nhớ đến một trận bóng rổ của Mattie khi con bé được tám tuổi, cả Kathryn và Jack đều lau nước mắt hạnh phúc khi chứng kiến niềm kiêu hãnh gần như không che giấu của cô con gái với chiếc cúp vô địch bé nhỏ xinh xắn.
“Bác nói chuyện buồn cười quá,” Dierdre nói.
“Vậy sao?”
Con bé nói giọng Anh - không hề có giọng Ireland, không giọng Mỹ.
“Bác nói giống bố cháu,” nó nói.
Kathryn chậm rãi gật đầu.
“Bác có muốn xem búp bê Molly của cháu không?” Dierdre hỏi.
“Có,” Kathryn đáp, hắng giọng. “Bác muốn xem lắm.”
“Bác phải đến đây,” Dierdre nói, ra dấu. Nó nhảy xuống giường rồi đi đến góc phòng. Kathryn nhận ra tủ quần áo và chiếc rương của búp bê từ bộ sưu tập American Girl quen thuộc. “Bố cháu tặng cháu làm quà Giáng sinh đấy,” Dierdre nói, chìa con búp bê ra cho Kathryn.
“Bác thích cặp kính của nó lắm,” Kathryn nói.
“Bác muốn xem tủ quần áo của nó không?”
“Tất nhiên rồi.”
“Tốt lắm, bác ngồi lên giường cháu đi, bác sẽ thấy hết các món đồ của cháu.”
Dierdre lấy ra những chiếc đầm, một chiếc bàn học, một cái xắc tay màu đỏ, một chiếc áo len màu đỏ và xanh. Một cây bút chì tí hon. Một đồng xu bằng thép.
“Bố cháu tặng cháu tất cả những thứ này làm quà Giáng sinh à?”
Con bé dẩu môi nghĩ ngợi. “Vài món là của Thánh Nicholas tặng cho cháu.”
“Bác thích tóc của búp bê,” Kathryn nói. “Mattie cũng từng có một con búp bê như thế này, nhưng chị ấy cắt tóc của búp bê đi. Cháu biết là với búp bê thì tóc không mọc dài ra, vì thế cháu không nên cắt tóc nó. Mattie rất buồn vì đã làm thế.”
Kathryn có một kỷ niệm khác. Mattie, năm lên sáu tuổi, chạy xuống đồi trên một chiếc xe đạp mới, chiếc xe tâng nảy lên bên dưới nó như được làm bằng thạch, Jack và Kathryn chỉ biết bất lực đứng nhìn. Mattie, khi quay lại, tự hào khoe với bố mẹ,Đấy, con làm được mà.
Và một kỷ niệm khác: Mattie một hôm ngủ quên khi đeo mắt kính với chiếc mũi buồn cười đính kèm.
Và một kỷ niệm khác: Lễ Tạ ơn mà Mattie, năm đó chỉ mới bốn tuổi, tuyên bố với bố nó rằng mẹ đã nấu xong món Thổ Nhĩ Kỳ[3].
[3] Theo phong tục, người Mỹ thường ăn thịt gà tây trong lễ Tạ ơn. Mattie nói nhầm “gà tây” (turkey) thành “Thổ Nhĩ Kỳ” (Turkish).
Giờ đây Kathryn phải cất những kỷ niệm này ở đâu? Cô nghĩ mình giống như một người phụ nữ sau khi li dị, đang ngắm nhìn chiếc váy cưới. Phải chăng chiếc váy cưới sẽ không còn được nâng niu nữa nếu cuộc hôn nhân thất bại?
“Cháu sẽ không cắt tóc nó đâu,” Dierdre hứa.
“Tốt lắm. Bố cháu có ở đây vào dịp Giáng sinh không? Đôi khi các ông bố phải đi làm vào lễ Giáng sinh mà.”
“Bố có ở đây,” Dierdre đáp. “Cháu làm một chiếc thẻ kẹp sách tặng bố. Nó có hình cháu và bố. Cháu muốn lấy nó lại, nên bố bảo là cháu có thể dùng chung với bố. Bác có muốn xem không?”
“Có chứ.”
Dierdre tìm ở dưới giường món đồ quý dùng chung với bố. Nó lấy lên một quyển album ảnh. Chiếc thẻ kẹp sách kẹp ở trong là một miếng giấy màu đã được ép nhựa. Bức ảnh chụp Jack và Dierdre ngồi trên đùi anh. Anh đang rướn cổ về trước để nhìn mặt con bé.
Kathryn nghe tiếng bước chân trên cầu thang.
Trên gác mái ngôi nhà ở Fortune’s Rocks có một chiếc hộp quần áo búp bê American Girl. Trong một thoáng, khá điên rồ, Kathryn nghĩ đến việc gửi chiếc hộp ấy cho Dierdre.
Muire đứng ở khung cửa ra vẻ bảo vệ, hai tay khoanh trước ngực.
“Bác rất thích búp bê của cháu,” Kathryn nói và đứng dậy.
“Bác phải đi rồi à?” Dierdre hỏi.
“Bác e là vậy,” Kathryn đáp.
Dierdre nhìn theo trong lúc cô bước ra. Muire tránh qua một bên để Kathryn đi qua. Kathryn đi nhanh xuống cầu thang, ý thức rõ người phụ nữ kia đang đi sau lưng mình. Kathryn với tay lấy áo khoác. “Dierdre có nói là Jack đã đến đây vào Giáng sinh,” cô nói trong lúc mặc áo.
“Chúng tôi đón Giáng sinh sớm,” Muire đáp. “Phải chịu thôi.”
Kathryn biết tất cả về cảm giác phải mừng lễ sớm.
Giờ đây tò mò, cô đi đến kệ sách và xem qua các tiêu đề. Những lời nói dối im lặng, tác giả Brian Moore; Cal, tác giả Bernard McLaverty; Những trái tim nổi loạn, tác giả Kevin Toolis; Trận đói lớn, tác giả Cecil Woodham-Smith. Một tiêu đề cô không thể đọc ra. Cô lấy quyển sách ra khỏi kệ.
“Đây là ngôn ngữ Gaelic à?” Kathryn hỏi.
“Phải.”
“Cô đi học ở đâu?”
“Queens. Ở Belfast.”
“Thật sao. Vậy mà cô trở thành...”
“Tiếp viên hàng không. Vâng, tôi biết. Lực lượng lao động có học thức nhất ở châu Âu: người Ireland.”
“Con gái cô biết chuyện của Jack chưa?” Kathryn hỏi, nhét quyển sách lên kệ và cầm áo choàng lên.
“Nó biết rồi,” Muire nói từ lối vào, “nhưng tôi không chắc nó có hiểu hay không. Bố nó thường xuyên đi vắng. Tôi nghĩ đây cũng chỉ là một chuyến đi khác đối với nó thôi.”
Bố nó.
“Còn mẹ của Jack,” Kathryn nói vẻ không quan tâm. “Dierdre có biết về bà nội Matigan không?”
“Có, tất nhiên.”
Kathryn im lặng. Run rẩy bởi chính những câu hỏi của cô cũng như câu trả lời.
“Nhưng mà, như chị biết đấy, mẹ anh ấy mắc bệnh Alzheimer,” Muire nói thêm, “nên Dierdre chưa bao giờ thực sự nói chuyện với bà.”
“Vâng, tôi biết,” Kathryn nói dối.
Nếu Jack chưa chết, cô tự hỏi liệu có phải bây giờ anh đang ở trong ngôi nhà này hay không? Liệu Kathryn có bao giờ phát hiện ra một gia đình khác hay không? Liệu mối quan hệ này - cuộc hôn nhân này - sẽ còn tiếp diễn trong bao nhiêu năm nữa?
Hai người phụ nữ đứng trên sàn nhà lót gỗ. Kathryn đưa mắt nhìn những bức tường, trần nhà, người phụ nữ trước mặt cô. Cô muốn thu nhận toàn bộ căn nhà, nhớ tất cả mọi thứ mà cô đã thấy. Cô biết cô sẽ không bao giờ trở lại.
Cô nghĩ đến chuyện không bao giờ biết về một người nào đó. Về sự mỏng manh trong những kết cấu mà con người tạo nên. Một cuộc hôn nhân chẳng hạn. Một gia đình.
“Có những việc... ,” Muire mở lời. Cô ta dừng lại. “Tôi ước gì...”
Kathryn chờ đợi.
Muire ngửa lòng bàn tay lên, trông như bỏ cuộc. “Có những việc tôi không thể...” Cô ta thở dài não nề, nhét hai tay vào túi quần jean. “Tôi không hối tiếc vì đã cưới anh ấy,” cuối cùng Muire nói. “Tôi chỉ tiếc vì đã làm tổn thương chị.”
Kathryn sẽ không nói lời tạm biệt; có vẻ không cần thiết.
Dù có một việc Kathryn muốn biết - bất kể lòng tự ái của cô, phải hỏi.
“Chiếc áo choàng,” cô lên tiếng. “Chiếc áo choàng lụa màu xanh. Trong tủ của cô.”
“Nó đến sau khi anh ấy mất,” Muire đáp. “Đó là quà Giáng sinh của tôi.”
“Tôi cũng nghĩ là như vậy,” Kathryn nói.
Cô với tay ra đặt lên núm cửa, như với tay chạm lấy phao cứu sinh.
“Chị nên về nhà,” Muire nói khi Kathryn bước ra trời mưa, và Kathryn nghĩ đó là một mệnh lệnh kỳ quặc và táo bạo.
“Chuyện này tồi tệ hơn đối với tôi,” Muire nói, và Kathryn quay lại, chú ý bởi lời nhắn nhủ khá ai oán này, một vết rách trên vẻ ngoài dửng dưng.
“Tôi đã biết về chị,” Muire Boland nói. “Chị không cần phải biết về tôi.”
Đứa bé trong tay người phụ nữ ấy là một bé trai. Một bé trai có mắt xanh. Màu mắt hơi khác nhau một chút, dù sự khác nhau đó không rõ rệt như mắt bố nó.
Lớp vỏ bọc thời gian xé toạc ra, và Kathryn bước vào.
Cô gắng gượng để không tựa vào cánh cửa trước cú sốc khi nhìn thấy người phụ nữ và khuôn mặt đứa bé.
“Mời vào.”
Lời mời phá vỡ sự im lặng kéo dài giữa hai người phụ nữ. Dù đó hoàn toàn không phải là một lời mời, không phải theo kiểu những lời mời chào thông thường, với một nụ cười và một bước lùi lại để nhường đường. Mà nó nghe như một mệnh lệnh, đơn giản không nao núng, như thể người phụ nữ ấy thực ra đã nói: Bây giờ chẳng ai còn lựa chọn nào khác đâu.
Và bản năng mách bảo cô phải bước vào nhà, đương nhiên, tránh khỏi cơn mưa đang trút. Phải ngồi xuống.
Kathryn hạ chiếc ô xuống và thu nó lại trong lúc bước qua bậu cửa. Người phụ nữ trong nhà dùng một tay giữ cửa, tay kia bồng đứa bé. Đứa bé, có lẽ đã nhận ra sự im lặng, nhìn người lạ với ánh mắt tò mò cực độ. Một đứa trẻ trong hành lang đã dừng trò chơi của nó lại để quan sát.
Kathryn để cho chiếc ô nhểu nước xuống sàn gỗ bóng loáng. Trong vài giây khi hai người phụ nữ đứng ở lối vào, Kathryn nhận thấy tóc cô ta lắc lư quanh cằm. Chúng được cắt tỉa công phu, trong khi tóc của Kathryn thì không. Cô đưa tay sờ tóc mình và thấy hối hận vì đã làm thế.
Trong hành lang rất nóng, oi bức và ngột ngạt. Kathryn có thể cảm thấy mồ hôi nhỏ giọt trong làn áo kiểu sau lớp áo vest dưới lớp áo choàng len.
“Cô là Muire Boland,” Kathryn nói.
Đứa bé trong tay Muire Boland, dù khác giới tính, dù màu tóc có vẻ sậm hơn, vẫn giống hệt Mattie ở độ tuổi ấy - năm tháng tuổi, Kathryn phỏng đoán. Phát hiện này tạo ra một sự chói tai, một tiếng ken két trong tai cô, như thể người phụ nữ Kathryn chưa từng gặp mặt này đang bồng con của cô.
Jack đã có một đứa con trai.
Người phụ nữ tóc đen quay lưng rời khỏi hành lang để đi vào phòng khách, buộc lòng Kathryn phải đi theo sau. Đứa trẻ trên hành lang, một bé gái xinh xắn có đồng tử giãn to và khuôn miệng thiên thần, nhặt lên một đống khối xây dựng, ấn vào ngực, và, vẫn không rời mắt khỏi Kathryn, đi sát bức tường để vào phòng khách, tiến đến gần chân mẹ nó. Đứa bé rất giống mẹ, còn cậu con trai thì lại giống bố.
Kathryn đặt ô xuống góc phòng rồi đi vào phòng khách. Muire Boland đứng quay lưng về phía lò sưởi, chờ đợi cô, dù không hề có lời mời ngồi xuống, sẽ không có.
Căn phòng có trần cao và sơn màu vàng chanh. Những món đồ trang trí sáng loáng nhờ lớp sơn bóng trắng. Ở phía trước, những khung cửa sổ uốn cong treo rèm dài mỏng nhẹ trên thanh treo kiểu Pháp. Vài chiếc ghế thấp bằng sắt uốn, lót gối trắng khổ to, xếp quanh một chiếc bàn cocktail bằng gỗ chạm trổ, khiến Kathryn liên tưởng đến những căn phòng Ả Rập. Phía trên lò sưởi, ở sau đầu của người phụ nữ, là một tấm gương lớn màu vàng, phản chiếu hình ảnh của Kathryn ở lối vào, thành ra, Kathryn và Muire Boland đứng trong cùng một khung hình. Trên lò sưởi là một tấm ảnh lồng trong khung hoa văn bằng gỗ ngà, một chiếc lọ thủy tinh màu vàng ánh hồng, một bức tượng đồng. Ở hai bên khung cửa sổ hình cánh cung là những kệ sách cao. Một tấm thảm màu xám và xanh thẫm trải dưới chân. Căn phòng tươi tắn từ hiệu ứng của ánh sáng và không khí, bất kể kiến trúc đồ sộ của căn nhà và tiết trời ảm đạm.
Kathryn phải ngồi xuống. Cô đặt một tay lên chiếc ghế gỗ nằm ngay bên trong lối vào. Cô nặng nề ngồi xuống, như thể đôi chân cô đột nhiên mất hết sức lực.
Cô cảm thấy già nua, già hơn cả người phụ nữ trước mặt cô, dù cô ta gần bằng tuổi cô. Chính là đứa bé, Kathryn nghĩ, chính nó là minh chứng cho sự mới mẻ của tình yêu, chắc chắn cho sự gần gũi của tình dục. Hoặc là chiếc quần jean tương phản với bộ đồ vest sậm màu của Kathryn. Hoặc là cách Kathryn đang ngồi, chiếc xắc tay đặt nghiêm nghị trên đùi.
Dưới lớp áo choàng, chân phải của cô đang co giật, như cô vừa mới leo lên một ngọn núi.
Đứa bé bắt đầu quấy khóc, phát ra những tiếc ngằn ngặt nho nhỏ. Muire Boland cúi xuống để nhặt lên một chiếc núm vú nhựa từ bàn cocktail, nhét đầu núm vú vào miệng mình, mút vài cái, rồi nhét vào miệng đứa bé. Đứa bé mặc quần yếm bằng nhung kẻ màu xanh dương và một chiếc áo thun kẻ sọc. Người phụ nữ tóc đen có đôi môi dày đều đặn và không thoa son.
Rời mắt khỏi người phụ nữ và đứa bé, Kathryn bắt gặp bức ảnh trên bệ lò sưởi. Khi tập trung nhìn kỹ bức ảnh, cô bắt đầu, gần như đứng dậy khỏi ghế. Đó là ảnh của Jack, cô có thể nhận ra ngay cả từ phía xa. Từ chỗ ngồi của cô, điều đó càng không thể nhầm lẫn. Jack đang ẵm một đứa trẻ, một bé sơ sinh. Bàn tay kia của anh xoa đầu một đứa bé khác, cô bé đang ở trong căn phòng cùng với họ. Trong ảnh, con bé có khuôn mặt rất trang nghiêm. Ba người có vẻ như đang đứng trên bãi biển. Jack cười tươi rạng rỡ.
Bằng chứng không thể chối cãi về một cuộc sống khác. Dù Kathryn chẳng cần bằng chứng gì.
“Cô đang đeo nhẫn,” Kathryn nói gần như miễn cưỡng.
Muire dùng ngón tay xoay chiếc nhẫn vàng.
“Cô kết hôn rồi à?” Kathryn hỏi, vẻ nghi ngờ.
“Tôi đã từng kết hôn.”
Kathryn bối rối một chốc, cho đến khi cô hiểu nghĩa của thì quá khứ.
Muire chuyển đứa bé sang hông bên kia.
“Khi nào?” Kathryn hỏi.
“Bốn năm rưỡi trước.”
Người phụ nữ hầu như không di chuyển khuôn miệng trong lúc nói. Những nguyên âm và phụ âm tuôn ra từ lưỡi cô ta với một sự du dương khó lẫn. Chắc là giọng Ireland.
“Chúng tôi kết hôn trong một nhà thờ Công giáo,” Muire tự nguyện nói.
Kathryn cảm thấy thân người lùi lại trước thông tin này, như lùi lại trước một cú đấm.
“Và cô biết là...?” cô hỏi.
“Về chị ư? Vâng, tất nhiên.”
Như thể đó là chuyện hiển nhiên. Rằng người phụ nữ tóc đen này đã biết mọi thứ. Còn Kathryn thì không.
Kathryn đặt xắc tay xuống, lắc cánh tay khỏi dính vào áo choàng. Căn hộ nóng quá mức, và Kathryn đang đổ mồ hôi như tắm. Cô có thể cảm thấy mồ hôi tuôn dưới tóc và sau gáy.
“Nó tên gì?” Kathryn hỏi, ngụ ý tên đứa bé. Cô bất ngờ trước sự lịch thiệp của mình ngay cả khi cô hỏi câu đó.
“Dermot,” Muire đáp. “Theo tên anh trai tôi.”
Người phụ nữ chợt cúi đầu xuống, hôn lên đầu đứa bé.
“Nó bao nhiêu tuổi?” Kathryn hỏi.
“Năm tháng. Tính đến hôm nay.”
Và Kathryn lập tức nghĩ, vì ai mà không làm thế, rằng Jack hẳn sẽ có mặt ở đấy, trong căn hộ này, để chia sẻ cột mốc đó.
Đứa bé sau khi được cho ngậm núm vú giờ đã thiu thiu ngủ. Mặc cho những tiết lộ trong vài phút vừa qua, mặc cho mối quan hệ không bình thường giữa cô và đứa bé (mặc cho thực tế rằng đứa bé này tồn tại trên đời), Kathryn vẫn cảm thấy một cảm giác thôi thúc, gần giống như sự thôi thúc về thể xác, phải ôm đứa bé vào lòng, áp nó vào cái khoảng trống vẫn luôn khao khát ôm ấp một đứa bé. Nét giống nhau giữa đứa bé với Mattie lúc năm tháng tuổi thật kỳ lạ. Đó có thể chính là Mattie. Kathryn nhắm mắt lại.
“Chị có sao không?” Muire hỏi.
Kathryn mở mắt ra, lau trán bằng tay áo khoác.
“Tôi đã nghĩ... ,” Muire bắt đầu. “Tôi đã tự hỏi liệu chị có đến hay không. Khi chị gọi, tôi chắc rằng chị đã biết. Tôi đã biết chắc khi anh ấy chết là chuyện này sẽ xảy ra.”
“Tôi đã không biết,” Kathryn nói. “Không hẳn là biết. Chỉ đến khi tôi nhìn thấy đứa bé. Vừa khi nãy.”
Hay là cô đã biết? Kathryn tự hỏi. Cô đã biết kể từ giây phút cô nghe thấy sự im lặng xuyên đại dương ấy?
Quanh mắt người phụ nữ tóc đen có nếp nhăn, hai khóe miệng có dấu vết của những nếp nhăn ngày nào đó sẽ hình thành. Đứa bé chợt thức giấc và bắt đầu khóc toáng lên thật to, kiểu khóc từng rất đỗi quen thuộc với Kathryn. Muire cố gắng dỗ đứa bé, đặt nó lên vai, vỗ lưng nó. Nhưng chẳng có tác dụng gì.
“Để tôi bế nó vào phòng,” Muire nói giữa tiếng khóc của đứa trẻ.
Khi cô rời khỏi phòng, đứa bé gái lẽo đẽo theo sau, không muốn bị bỏ lại một mình với người lạ.
Jack đã kết hôn trong một nhà thờ Công giáo. Người phụ nữ tóc đen đã biết rằng anh đã có gia đình.
Kathryn cố đứng lên, nhưng cô cảm thấy không đứng nổi. Cô bắt chéo chân để trông không có vẻ quá xúc động. Không có vẻ quá rã rời. Cô từ từ xoay chân, cố gắng quan sát toàn bộ căn phòng. Những chiếc đèn áp tường bằng đồng với nến bằng điện trên tường. Những quyển tạp chí trên bàn cocktail, một bức tranh sơn dầu vẽ một con phố của tầng lớp lao động. Cô tự hỏi tại sao mình không cảm thấy giận dữ. Cảm giác như cô bị cắt, con dao cứa sâu đến nỗi vết thương chưa kịp đau; nó chỉ gây sốc. Và cú sốc có vẻ như khiến cô cư xử có văn hóa.
Muire đã biết, đã tưởng tượng đến ngày này. Kathryn thì không.
Dọc một bức tường có một chiếc tủ mà Kathryn đoán là chứa tivi và dàn âm thanh. Cô chợt nghĩ đến những bộ phim Điệp viên báo hồng, những phim mà cô, Jack và Mattie đã thuê, những phim luôn làm cho Jack và Mattie cười ngặt nghẽo không dứt. Họ rất tự hào khi có thể thuộc lòng những đoạn đối thoại dài dằng dặc.
Kathryn quay đầu sang phía phát ra tiếng động. Muire Boland đứng ở lối vào, quan sát cô từ một phía. Cô ta bước vào phòng, đi đến một chiếc ghế trắng, rồi ngồi xuống. Ngay lập tức, cô ta mở một chiếc hộp gỗ trên bàn cocktail rồi lấy ra một điếu thuốc, châm lửa bằng một chiếc bật lửa bằng nhựa đặt cạnh chiếc hộp.
Jack không thể chịu nổi ở chung phòng với người hút thuốc, anh đã nói như thế.
“Chị muốn biết chuyện này xảy ra như thế nào,” Muire nói.
Mặc dù gầy gò nhưng có thể mô tả Muire là một người quyến rũ. Do đứa bé, Kathryn thầm nghĩ. Do việc cho bú. Có thể chỉ có một chút dấu hiệu của mỡ bụng, nhưng đó cũng là do đứa bé.
Kathryn chợt nhớ đến một kỷ niệm vào lúc đó, thật ra là một bức ảnh do Jack chụp. Kathryn đang úp mặt nằm ngủ trong bộ áo choàng tắm chần bông trên một chiếc giường bề bộn, hai tay nhét dưới người. Jack đang ẵm Mattie năm tháng tuổi, anh đã đặt con bé đang ngủ, cũng úp mặt xuống, lên phần nhô lên giữa mông và cuối lưng cô. Kathryn và Mattie cùng nhau ngủ trưa, và Jack, cảm động trước cảnh tượng của mẹ và bé, đã chụp bức ảnh đó.
Muire ngả người ra ghế đệm, khoác một tay ra phía sau thành ghế. Cô ta gác chéo chân. Kathryn ước chừng cô ta cao khoảng một mét tám, gần bằng Jack. Kathryn cố gắng tưởng tượng cơ thể cô ta trông như thế nào dưới lớp áo quần, cô ta ở bên Jack sẽ như thế nào.
Nhưng tâm trí cô phản đối và nổi loạn, và những hình ảnh ấy không chịu hình thành. Cũng như hình ảnh về thi thể của Jack khi rơi xuống biển thoạt đầu đã không chịu hình thành. Những hình ảnh đó sẽ đến sau, Kathryn biết, khi cô ít mong muốn nhất.
“Đúng,” Kathryn đáp.
Muire rít một hơi thuốc lá, chồm về trước, gạt tàn thuốc. “Tôi bay cùng anh ấy năm năm rưỡi trước. Tôi là tiếp viên hàng không của hãng Vision.”
“Tôi biết.”
“Chúng tôi yêu nhau,” người phụ nữ nói đơn giản. “Tôi sẽ không đi vào chi tiết. Tôi chỉ có thể nói rằng cả hai chúng tôi đều đắm đuối. Chúng tôi đã sống chung với nhau một tháng trong lần đầu tiên đó. Chúng tôi đã...” Người phụ nữ do dự, có thể vì lịch sự, có thể đang cố gắng tìm cách nói tốt hơn. “Chúng tôi đã ngoại tình,” cuối cùng cô ta nói. “Jack rất dằn vặt. Anh ấy nói sẽ không bỏ Mattie. Anh ấy không thể làm thế với con gái mình.”
Cái tên Mattie gây một cơn rùng mình trong không khí, một sự căng thẳng run rẩy giữa hai người phụ nữ. Muire Boland đã gọi cái tên đó một cách quá dễ dàng, cứ như cô ta đã quen biết con bé.
Kathryn nghĩ: Anh ấy không thể bỏ con gái, nhưng anh ấy có thể phản bội vợ mình.
“Chuyện này chính xác là khi nào?” Kathryn hỏi. “Mối quan hệ này.”
“Tháng sáu năm 1991.”
“Ồ.”
Bản thân cô đã làm gì vào tháng sáu năm 1991? Kathryn tự hỏi.
Người phụ nữ có nước da trắng thanh khiết, làn da gần như không có khuyết điểm. Làn da của một người ít khi ra ngoài. Dù cô ta có thể là một người ưa chạy bộ.
“Cô biết về tôi,” Kathryn lặp lại. Giọng cô nghe như không phải của cô nữa. Nó quá chậm và cân nhắc, như cô đã bị trúng thuốc mê.
“Tôi biết về chị ngay từ lúc đầu. Jack và tôi không có bí mật nào cả.”
Hóa ra là thân thiết hơn, Kathryn nghĩ. Một vết thương bằng dao có chủ ý.
Mưa trượt trên những ô cửa sổ hình cánh cung, mây mù khiến người ta dễ nhầm lẫn trời đã nhá nhem tối. Kathryn nghe thấy từ một căn phòng ở trên lầu tiếng léo nhéo xa xa của một nhân vật hoạt hình trên tivi. Vẫn còn đổ mồ hôi, cô cởi áo khoác ra và đứng dậy, lúc đó cô nhận ra chiếc áo kiểu đã bung ra khỏi váy. Cô cố nhét nó vào váy trở lại. Ý thức rõ sự quan sát của người phụ nữ đối diện, một người phụ nữ có thể biết về Jack rõ hơn cả cô, Kathryn thầm mong đôi chân sẽ không phản bội mình. Cô đi ngang qua căn phòng đến bệ lò sưởi.
Cô lấy tấm ảnh lồng khung bằng ngà xuống. Jack mặc một chiếc áo mà Kathryn chưa từng nhìn thấy, một chiếc áo thun polo đen đã cũ. Anh bế đứa bé sơ sinh nhỏ xíu. Đứa con gái, Kathryn vừa thấy khi nãy đang chơi với các khối xây dựng, có những lọn tóc và chân mày giống Jack, nhưng mắt thì không giống.
“Con bé tên gì?” Kathryn hỏi.
“Dierde.”
Các ngón tay của Jack luồn sâu vào mái tóc con bé. Jack có đối xử với Dierde giống như cách anh đã đối xử với Mattie không?
Kathryn nhắm mắt lại trong chốc lát. Cô nghĩ sự tổn thương gây ra với cô là gần như không thể chịu đựng nổi. Nhưng còn sự tổn thương đến Mattie thì thật ghê tởm. Ai cũng có thể thấy - làm sao mà họ không nhận ra được? - rằng con bé trong bức ảnh xinh đẹp tuyệt trần. Một khuôn mặt hấp dẫn, đôi mắt đen, lông mi dài, môi đỏ. Bạch Tuyết đích thực. Liệu những kỷ niệm mà Mattie nâng niu như báu vật có được lặp lại, được làm sống lại, với một đứa bé khác không?
“Sao cô có thể?” Kathryn khóc, quay cuồng, và cô cũng đã có thể nói câu đó với Jack.
Mồ hôi làm những ngón tay cô trơn trượt, khiến khung hình rơi xuống. Nó trượt ra khỏi tay cô, vỡ toang trên một chiếc tủ nhỏ. Cô không cố tình làm thế, và cô cảm thấy sự đổ vỡ nhỏ nhoi ấy là một sự phơi bày. Người phụ nữ trên ghế thoáng rùng mình, dù cô ta không ngoái đầu lại để nhìn thiệt hại. Đó là một câu hỏi không thể trả lời. Mặc dù cô ta muốn trả lời nó.
“Tôi yêu anh ấy,” Muire đáp. “Chúng tôi yêu nhau.”
Như thể chừng đấy là đủ.
Kathryn đứng nhìn Muire dụi tắt điếu thuốc. Cô ta thật bình thản, Kathryn nghĩ. Thậm chí lạnh lùng.
“Có những việc tôi không thể nói,” Muire nói.
Con khốn, Kathryn thầm nghĩ, một bong bóng giận dữ nổi lên. Cô cố gắng bình tĩnh lại. Thật khó để hình dung người phụ nữ ngồi trên ghế kia trong bộ đồng phục tiếp viên hàng không với đôi cánh nhỏ trên ve áo. Mỉm cười với hành khách khi họ lên máy bay.
Những việc mà Muire Boland không thể nói là gì?
Cô đặt tay lên bệ lò sưởi, ngả đầu về trước. Cô hít sâu để bình tĩnh lại. Một cơn thịnh nộ tạo ra tiếng động như tiếng ồn trong tai cô.
Cô đẩy người ra khỏi bệ lò sưởi rồi đi băng qua căn phòng. Cô dừng lại gần chiếc ghế gỗ, như cô có thể, vào bất cứ lúc nào, đứng dậy và ra về.
“Tôi đã sẵn lòng làm mọi việc cần phải làm,” Muire Boland nói. Cô ta vén tóc khỏi trán. “Tôi đã từng đuổi anh ấy ra khỏi nhà. Nhưng tôi không thể.”
Kathryn nắm hai tay lại đặt lên đùi, xem đây là lời tự thú đúng kiểu tính cách cô ta. Vẻ khêu gợi của người đang trong thời kỳ cho con bú, biểu hiện của vòng eo đẫy đà, kết hợp với chiều cao, đôi vai gầy guộc, cánh tay dài, thật khó cưỡng lại, hấp dẫn không thể chối từ.
“Cô làm chuyện đó thế nào?” Kathryn hỏi. “Ý tôi là, làm sao chuyện đó có thể trót lọt được?”
Muire Boland nâng cằm lên. “Chúng tôi có quá ít thời gian ở bên nhau. Chúng tôi đã làm bất cứ chuyện gì có thể làm. Tôi thường đến đón anh ấy ở một địa điểm hẹn trước gần căn hộ phi hành đoàn rồi đưa anh ấy về đây. Đôi khi, chúng tôi chỉ ở bên nhau được một đêm. Khi khác...” Cô ta lại do dự. “Đôi khi Jack đăng ký lịch bay ngược lại,” Muire nói.
Kathryn nghe những từ ngữ của một người vợ phi công.
“Tôi không hiểu,” Kathryn nói nhanh. Dù đau lòng thay, cô nghĩ rằng mình hiểu.
“Thỉnh thoảng anh ấy có thể sắp xếp để cho London là điểm quay về. Nhưng, tất nhiên, việc này rất rủi ro.”
Kathryn nhớ lại những tháng mà Jack dường như có lịch bay rất kinh khủng. Năm ngày liên tiếp, nghỉ hai ngày, chỉ về nhà được một đêm.
“Như chị biết đấy, anh ấy không phải lúc nào cũng được bay chặng London,” Muire tiếp tục. “Thỉnh thoảng anh ấy phải bay chuyến Amsterdam-Nairobi. Những lúc ấy tôi thuê một căn hộ ở Amsterdam.”
“Anh ấy trả tiền cho chuyện này?” Kathryn chợt hỏi, cô nghĩ: Anh ấy lấy tiền từ tôi. Từ Mattie.
“Đây là của tôi,” Muire nói, ra dấu về phía các căn phòng. “Tôi được một người cô để lại căn nhà này. Tôi có thể bán rồi dọn ra vùng ngoại ô, nhưng nghĩ đến việc dọn ra ngoại ô đôi khi khiến tôi thấy nản.”
Kathryn, tất nhiên, sống ở một nơi có thể mô tả là vùng ngoại ô.
“Anh ấy cho cô tiền à?” Kathryn vẫn quyết làm cho ra lẽ.
Muire nhìn lảng đi, như đang chia sẻ với Kathryn, trong một khoảnh khắc, hành động bội bạc của việc lấy tiền từ gia đình này cho gia đình khác.
“Thỉnh thoảng thôi,” cô ta đáp. “Tôi cũng có tiền riêng.”
Kathryn nghĩ ngợi về sự nồng nhiệt trong tình cảm mà việc cách li liên tục có thể tạo ra. Sự nồng nhiệt sinh ra một cách tự nhiên từ hành động lén lút và bí mật. Cô đưa tay lên miệng, ấn môi lên những đốt tay. Chẳng lẽ tình yêu cô dành cho Jack chưa đủ mạnh mẽ hay sao? Liệu cô có thể khẳng định rằng mình vẫn còn yêu chồng sau khi anh ấy qua đời? Phải chăng cô đã không biết trân trọng anh? Tệ hơn nữa là, liệu Jack có bao giờ gợi ý cho Muire Boland rằng Kathryn không yêu anh đủ nhiều? Cô nhói lòng khi nghĩ đến khả năng đó. Cô hít một hơi dài và cố gắng ngồi thẳng hơn.
“Cô từ đâu đến?” Kathryn hỏi khi cô đã tin tưởng giọng nói của mình.
“Antrim.”
Kathryn nhìn đi nơi khác. Bài thơ, cô thầm nghĩ. Tất nhiên rồi. Ở đây trong ngõ hẹp và phương bắc khắc nghiệt, những bội phản vĩnh viễn...
“Nhưng cô gặp anh ấy ở đây,” Kathryn nói. “Cô gặp Jack ở London.”
“Chúng tôi gặp nhau trên không trung.”
Kathryn liếc nhìn xuống thảm, tưởng tượng về cuộc gặp trên không đó.
“Chị đang ở đâu?” Muire hỏi.
Kathryn nhìn người phụ nữ và chớp mắt. Cô không nhớ nổi tên khách sạn. Muire chồm về trước và rút một điếu thuốc ra khỏi hộp.
“The Kensington Exeter,” Kathryn nói khi đã nhớ lại.
“Nếu điều này có làm cho chị cảm thấy khá hơn,” Muire nói, “tôi khá chắc chắn rằng không còn ai khác nữa.”
Điều đó không khiến cô cảm thấy khá hơn chút nào.
“Làm sao cô biết?”
Ánh sáng bên ngoài đang nhạt nhòa dần. Muire bật đèn bàn lên rồi đưa một tay ra sau gáy.
“Làm sao chị tìm ra?” Muire hỏi. “Phát hiện ra chuyện chúng tôi?”
Chúng tôi, Kathryn nghe thấy từ đó.
Cô không muốn trả lời câu hỏi này. Việc tìm kiếm manh mối giờ đây không còn ý nghĩa nữa.
“Chuyện gì đã xảy ra trên máy bay của Jack?” Kathryn hỏi thay vì trả lời.
Muire lắc đầu, mái tóc mềm mượt lắc lư. “Tôi không biết,” cô ta đáp. Nhưng giọng nói của cô mang hơi hướm lảng tránh, vì trông cô có vẻ như tái nhợt hẳn. “Ý nghĩ đây là một vụ tự sát thật kinh khủng,” cô ta nói, cúi người về trước, đặt cùi chỏ lên đầu gối, đầu úp vào hai tay. Khói thuốc luồn qua tóc cô ta. “Jack sẽ không bao giờ, không bao giờ...”
Kathryn bất ngờ trước cảm xúc mãnh liệt đột ngột của người phụ nữ này, cảm xúc mà cô tưởng ở một chừng mực nào đó rằng chỉ mình cô có. Đó là cảm xúc duy nhất mà Muire thể hiện kể từ khi Kathryn đặt chân vào căn hộ này.
“Tôi ganh tị với chị vì đã tổ chức được lễ tưởng niệm,” Muire nói, ngước lên. “Một linh mục. Tôi ước gì mình đến đó được.”
Chúa ơi, Kathryn tự nhủ.
“Tôi đã thấy ảnh của chị,” Muire nói tiếp. “Ở trên báo. FBI đang điều tra vụ việc phải không?”
“Tôi nghe bảo vậy.”
“Họ có nói chuyện với chị không?”
“Không. Họ có gọi cho cô không?”
“Không,” Muire đáp. “Chị biết là Jack sẽ không bao giờ làm chuyện này.”
“Tất nhiên là tôi biết,” Kathryn đáp.
Nói gì đi nữa, Kathryn cũng là người vợ đầu tiên, vợ cả, đúng không nhỉ? Nhưng khi đó cô tự hỏi: Trong tâm trí một người đàn ông, ai là người vợ quan trọng hơn? - Người phụ nữ mà anh quyết bảo vệ bằng cách không tiết lộ về người kia? Hay là người mà anh kể hết mọi bí mật của mình?
“Lần cuối cùng cô gặp anh ấy...” Kathryn bắt đầu.
“Sáng hôm đó. Khoảng bốn giờ sáng. Ngay trước khi anh ấy đi làm. Tôi tỉnh dậy...” Cô ta bỏ lửng câu nói.
“Hai người đi ăn tối với nhau,” Kathryn nói.
“Phải,” Muire đáp, trông thoáng ngạc nhiên vì Kathryn biết chuyện này. Cô ta không hỏi tại sao.
Kathryn cố gắng nhớ lại xem có lần nào cô nghi ngờ một cách nghiêm túc chuyện Jack có nhân tình. Cô nghĩ là không. Niềm tin cô dành cho anh trọn vẹn đến tai hại.
“Chị đến đây chỉ vì chuyện này thôi à?” Muire hỏi, gỡ một vụn thuốc lá khỏi môi dưới. Trông cô ta có vẻ như đã lấy lại được thần thái.
“Chừng đó không đủ hay sao?” Kathryn hỏi.
Muire thở ra một cụm khói dài. “Ý tôi là chị có đi tiếp đến Malin Head không?”
“Không. Cô đến đó chưa?”
“Tôi không đi được.”
Còn điều gì đó nữa. Kathryn có thể cảm nhận được.
“Là chuyện gì?” Kathryn hỏi.
Muire chà tay lên trán. “Không có gì,” cô ta đáp, khẽ lắc đầu. “Chúng tôi đã ngoại tình,” cô ta nói thêm, như để giải thích điều mình đang nghĩ. “Tôi có thai và phải nghỉ làm ở hãng hàng không. Jack muốn kết hôn. Điều đó không quá quan trọng đối với tôi. Việc kết hôn ấy mà. Anh ấy muốn kết hôn trong một nhà thờ Công giáo.”
“Anh ấy không bao giờ đi nhà thờ.”
“Anh ấy sùng đạo lắm,” Muire nói và nhìn Kathryn chăm chú.
“Nếu vậy thì anh ấy là hai người khác nhau,” Kathryn nói vẻ ngờ vực. Làm lễ cưới ở một nhà thờ Công giáo vì người yêu của mình muốn thế là một chuyện, còn làm một người sùng đạo lại là chuyện hoàn toàn khác. Kathryn đan các ngón tay vào nhau, cố gắng giữ yên chúng.
“Anh ấy đi dự các buổi giảng đạo bất cứ khi nào có thể,” Muire nói.
Ở Ely, Jack thậm chí chưa bao giờ bước chân vào một nhà thờ nào. Làm sao một người đàn ông lại có thể là hai người khác xa nhau đến vậy? Nhưng rồi một ý nghĩ mới lóe lên trong đầu Kathryn, một ý nghĩ không mong đợi: Jack không thể lúc nào cũng là hai người khác nhau, phải không? Chẳng hạn như khi là người tình. Liệu anh có cùng chia sẻ với Muire Boland một số sự thân mật mà anh đã chia sẻ với Kathryn hay không? Nếu Kathryn đủ can đảm để hỏi, liệu có một sự thừa nhận nào đó từ phía người phụ nữ đang ngồi đối diện với cô hay không? Hay đó là một vở kịch hoàn toàn khác? Một kịch bản khác? Lời thoại khác? Những đạo cụ không thể nhận ra? Kathryn thả các ngón tay ra, đè bàn tay lên đùi. Muire nhìn cô chăm chú. Có lẽ cả cô ta cũng đang phỏng đoán.
“Tôi cần dùng nhà tắm,” Kathryn nói, đột ngột đứng dậy. Như một người say.
Muire cũng đứng dậy theo. “Nó ở ngay trên lầu,” cô ta nói.
Cô ta dẫn Kathryn ra khỏi phòng khách, đi qua hành lang. Cô ta đứng ở chân cầu thang, ra dấu bằng tay. Kathryn phải đi qua trước mặt cô ta, và cơ thể họ suýt chạm vào nhau. Kathryn cảm thấy bị áp đảo trước chiều cao của người phụ nữ này.
Phòng tắm rất đáng sợ và khiến tim của Kathryn đập loạn xạ. Cô liếc nhìn vào gương, thấy khuôn mặt mình đã đỏ bừng bừng và hằn vết. Cô kéo chiếc kẹp tóc ra rồi xổ tung mái tóc. Cô ngồi xuống bồn cầu. Họa tiết hoa trên tường khiến cô chóng mặt.
Bốn năm rưỡi trời. Jack và Muire Boland đã kết hôn trong một nhà thờ cách đây bốn năm rưỡi. Có thể khách khứa đã đến tham gia buổi lễ. Có ai trong số họ biết sự thật không? Jack có ngập ngừng khi đọc lời tuyên thệ không?
Cô lắc mạnh đầu. Mỗi suy nghĩ chứa một hình ảnh mà Kathryn không muốn nhìn thấy. Đó là điều khó khăn - cho phép những câu hỏi nhưng giữ lại những hình ảnh. Jack mặc áo vest, quỳ xuống trước một linh mục. Jack mở cửa xe, ngồi vào trong. Một bé gái có tóc xoăn màu đen ôm lấy chân Jack.
Từ xa, có tiếng chuông điện thoại.
Làm sao Jack có thể xoay xở được chuyện này, Kathryn tự hỏi. Những lời nói dối, sự dối lừa, sự thiếu ngủ? Một ngày nọ anh rời khỏi Kathryn để đi làm, và chỉ vài giờ sau đã đứng trong một nhà thờ tại lễ cưới của chính anh. Kathryn và Mattie đã làm gì ngày hôm đó, vào đúng giờ phút đó? Làm sao Jack có thể nhìn mặt hai mẹ con họ khi anh trở về nhà? Anh có làm tình với Kathryn vào đêm đó, đêm hôm sau, tuần đó không? Cô rùng mình khi nghĩ đến chuyện đó.
Những câu hỏi bật ra tanh tách từ bức tường này sang bức tường khác, lặp đi lặp lại không dứt. Rồi cô nhớ ra, bụng cô quặn thắt, khóa tập huấn hai lần mỗi năm ở London. Mỗi lần hai tuần.
Cô nhận ra, nếu không bao giờ nghi ngờ một ai đó, ta sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện phải nghi ngờ.
Cô đứng phắt dậy, mắt cô nhìn một vòng quanh phòng tắm. Cô vốc nước lên mặt, rồi lau khô bằng một chiếc khăn thêu. Cô mở cửa phòng tắm và thấy ở bên kia hành lang có một chiếc giường cỡ lớn. Ở dưới nhà, Kathryn nghe tiếng Muire nói chuyện điện thoại, những từ ngữ hết lên lại xuống trong giọng nói nước ngoài của cô ta. Nếu Jack chưa chết, cô sẽ không có quyền bước vào phòng ngủ, nhưng giờ thì chẳng có gì quan trọng nữa cả. Cô có quyền xem xét căn nhà này. Cô có quyền biết về căn nhà này. Nói gì thì nói, chẳng phải Muire Boland đã biết tất cả về cô đó sao?
Kathryn đau đớn khi nghĩ đến thực tế đó. Chính xác thì Muire đã được nghe kể bao nhiêu chi tiết? Và những chi tiết đó riêng tư đến mức nào?
Cô bước qua khung cửa và nghĩ đến sự cố gắng của mình để làm Jack vui lòng, về sự điều chỉnh cô đã làm vì anh. Về cách cô đã tạo ra cả một giả thuyết về sự gần gũi tình dục giảm dần. Về cách cô đã từng chất vấn Jack trước sự thoái lui của anh, và anh đã chối bỏ điều đó, làm cho nó có vẻ như không nằm trong phạm vi quan tâm của anh, hay của cô. Toàn bộ việc này đã được cô cho là bình thường, trong phạm vi của một cuộc hôn nhân bình thường. Thực ra, cô đã nghĩ họ có một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Cô cảm thấy ngốc nghếch, bị lừa phỉnh, và cô tự hỏi phải chăng cô cũng không hề bận tâm điều đó.
Đây hẳn là phòng chính. Nó dài và hẹp, bừa bộn kỳ lạ, thật sự thì bừa bộn một cách bất thường so với sự ngăn nắp của những căn phòng tầng dưới. Có những tách trà và một lọ sữa chua còn một nửa trên bàn, những chiếc gạt tàn chứa đầy đuôi thuốc lá. Những lọ mỹ phẩm trên một chiếc bàn trang điểm, dính lấm tấm kem nền dạng lỏng. Một bên của chiếc giường gỗ chưa được dọn. Kathryn nhận thấy ga trải giường loại đắt tiền, viền thêu. Vài món đồ nội y bằng ren trên gối. Phía kia của giường, còn nguyên vẹn, là của Jack - cô có thể thấy trên chiếc tủ đầu giường đặt một chiếc đèn bàn halogen, một quyển sách về cuộc chiến tranh Việt Nam. Khi ở đây Jack có đọc sách khác so với khi ở nhà không? Anh có mặc quần áo khác không? Trông anh có thật sự khác hẳn trong ngôi nhà này, trong đất nước này, so với khi ở nhà hay không? Trông già hơn hay trẻ hơn?
Nhà, cô thầm nghĩ. Giờ thì đó là một khái niệm thú vị.
Cô đi đến phần giường của Jack rồi giật tung chăn lên. Cô cúi đầu xuống ga giường và hít vào thật sâu. Anh không ở đó; cô không ngửi thấy mùi của anh.
Cô đi qua phần giường bên kia, phần của Muire. Trên tủ đầu giường có một chiếc đồng hồ vàng nhỏ và một chiếc đèn. Như đang thực hiện một cuộc khám xét, cô mở ngăn kéo tủ ra. Bên trong là những mảnh giấy, hóa đơn, vài thỏi son, một lọ kem dưỡng da, xu lẻ, vài cây bút, một cái điều khiển tivi, một vật gì đó trong một túi nhung màu xanh. Không nghĩ ngợi, Kathryn cầm chiếc túi lên và trút nó xuống. Cô thả món đồ rơi ra như bị bỏng. Lẽ ra cô đã phải đoán được từ hình dạng của nó. Chiếc máy tạo rung rơi khỏi tay cô xuống ngăn kéo và tạo ra tiếng động.
Cô quỳ xuống sàn nhà, úp mặt lên giường. Cô đưa hai tay ôm đầu. Cô muốn các câu hỏi ngừng lại, và cô cố gắng làm cho đầu óc mình trống rỗng, nhưng vô ích. Cô chà đi chà lại mặt mình trên tấm ga giường. Cô ngẩng mặt lên và nhận thấy đã để lại một vệt mascara trên tấm trải giường.
Cô đứng dậy, đi về phía tủ quần áo lắp kính bên ngoài và mở cửa tủ ra.
Quần áo bên trong là của Muire, không phải của Jack. Quần tây dài màu đen, váy dạ. Áo sơ mi cotton, áo kiểu bằng vải linen. Một chiếc áo choàng lông thú. Trong lúc tìm kiếm, tay cô chạm phải một thứ mà cô nghĩ là áo lụa. Tách các móc áo ra, cô nhận ra đó không phải là áo kiểu mà là một chiếc áo choàng, một chiếc áo choàng lụa dài đến mắt cá chân, áo choàng lụa có dải thắt lưng tua rua. Một chiếc áo tuyệt đẹp màu xanh ngọc bích thẫm. Khẽ rùng mình, cô nhấc cổ áo lên khỏi móc áo và nhìn vào nhãn mác.
Bergdorf Goodman.
Cô đã biết sẽ là nó.
Cô đi qua phòng ngủ đến phòng tắm, để ý tất cả, như thể một ngày nào đó cô sẽ mua ngôi nhà này.
Treo trên móc cạnh bồn tắm là một chiếc áo choàng tắm sọc ca rô màu mận chín của nam. Ở nhà Jack không bao giờ mặc áo choàng. Trong tủ thuốc, cô thấy một chiếc dao cạo râu và một chiếc lược. Có một chai nước hoa của Anh mà cô không biết hiệu. Kiểm tra chiếc lược, Kathryn thấy có những sợi tóc ngắn màu đen.
Cô nhìn chiếc lược một lúc lâu.
Cô đã nhìn thấy đủ rồi.
Giờ đây cô chỉ muốn đi ra khỏi ngôi nhà này. Cô đóng cửa phòng ngủ chính. Ở dưới nhà, cô vẫn nghe tiếng Muire Boland nói chuyện điện thoại, giọng nói lúc này đã to hơn, như đang cãi nhau. Kathryn đi ngang qua căn phòng để cửa mở của đứa con gái. Dierdre nằm sấp trên giường, tay chống cằm, khuôn mặt vẫn giữ vẻ hết sức trang nghiêm. Nó mặc một chiếc áo thun màu xanh tay dài và quần yếm. Tất màu xanh đến mắt cá chân. Đứa bé say sưa với bộ phim đến nỗi lúc đầu nó không nhận ra có người lạ ở cửa.
“Chào cháu,” Kathryn nói.
Đứa bé liếc nhìn về hướng cô, sau đó quay lại để nhìn trực diện người mới đến.
“Cháu đang xem gì đấy?” Kathryn hỏi.
“Danger Mouse.”
“Bác xem phim đấy rồi. Người ta từng chiếu nó ở Mỹ. Con gái bác thì thích Road Runner. Bây giờ chị ấy lớn rồi. Chị ấy cao gần bằng bác.”
“Chị ấy tên gì ạ?” Con bé ngồi dậy, tỏ vẻ quan tâm hơn đến người lạ.
“Mattie.”
Dierdre ngẫm nghĩ về cái tên này.
Kathryn tiến thêm một bước rồi nhìn quanh căn phòng. Cô nhận thấy con gấu bông Paddington, gần như giống hệt con gấu bông trước đây của Mattie. Một bức ảnh của Jack đội mũ lưỡi trai và mặc áo thun trắng. Một bức tranh của trẻ con vẽ một người đàn ông và một cô bé có mái tóc xoăn màu đen, có lẽ vừa được vẽ gần đây. Một chiếc bàn nhỏ màu trắng bị viết đầy những nét nguệch ngoạc bằng bút lông, vẽ bầu trời xanh bị lem ra từ trang giấy. Con bé đã được nghe điều gì? Nó có biết bố nó đã chết không?
Kathryn nhớ đến một trận bóng rổ của Mattie khi con bé được tám tuổi, cả Kathryn và Jack đều lau nước mắt hạnh phúc khi chứng kiến niềm kiêu hãnh gần như không che giấu của cô con gái với chiếc cúp vô địch bé nhỏ xinh xắn.
“Bác nói chuyện buồn cười quá,” Dierdre nói.
“Vậy sao?”
Con bé nói giọng Anh - không hề có giọng Ireland, không giọng Mỹ.
“Bác nói giống bố cháu,” nó nói.
Kathryn chậm rãi gật đầu.
“Bác có muốn xem búp bê Molly của cháu không?” Dierdre hỏi.
“Có,” Kathryn đáp, hắng giọng. “Bác muốn xem lắm.”
“Bác phải đến đây,” Dierdre nói, ra dấu. Nó nhảy xuống giường rồi đi đến góc phòng. Kathryn nhận ra tủ quần áo và chiếc rương của búp bê từ bộ sưu tập American Girl quen thuộc. “Bố cháu tặng cháu làm quà Giáng sinh đấy,” Dierdre nói, chìa con búp bê ra cho Kathryn.
“Bác thích cặp kính của nó lắm,” Kathryn nói.
“Bác muốn xem tủ quần áo của nó không?”
“Tất nhiên rồi.”
“Tốt lắm, bác ngồi lên giường cháu đi, bác sẽ thấy hết các món đồ của cháu.”
Dierdre lấy ra những chiếc đầm, một chiếc bàn học, một cái xắc tay màu đỏ, một chiếc áo len màu đỏ và xanh. Một cây bút chì tí hon. Một đồng xu bằng thép.
“Bố cháu tặng cháu tất cả những thứ này làm quà Giáng sinh à?”
Con bé dẩu môi nghĩ ngợi. “Vài món là của Thánh Nicholas tặng cho cháu.”
“Bác thích tóc của búp bê,” Kathryn nói. “Mattie cũng từng có một con búp bê như thế này, nhưng chị ấy cắt tóc của búp bê đi. Cháu biết là với búp bê thì tóc không mọc dài ra, vì thế cháu không nên cắt tóc nó. Mattie rất buồn vì đã làm thế.”
Kathryn có một kỷ niệm khác. Mattie, năm lên sáu tuổi, chạy xuống đồi trên một chiếc xe đạp mới, chiếc xe tâng nảy lên bên dưới nó như được làm bằng thạch, Jack và Kathryn chỉ biết bất lực đứng nhìn. Mattie, khi quay lại, tự hào khoe với bố mẹ,Đấy, con làm được mà.
Và một kỷ niệm khác: Mattie một hôm ngủ quên khi đeo mắt kính với chiếc mũi buồn cười đính kèm.
Và một kỷ niệm khác: Lễ Tạ ơn mà Mattie, năm đó chỉ mới bốn tuổi, tuyên bố với bố nó rằng mẹ đã nấu xong món Thổ Nhĩ Kỳ[3].
[3] Theo phong tục, người Mỹ thường ăn thịt gà tây trong lễ Tạ ơn. Mattie nói nhầm “gà tây” (turkey) thành “Thổ Nhĩ Kỳ” (Turkish).
Giờ đây Kathryn phải cất những kỷ niệm này ở đâu? Cô nghĩ mình giống như một người phụ nữ sau khi li dị, đang ngắm nhìn chiếc váy cưới. Phải chăng chiếc váy cưới sẽ không còn được nâng niu nữa nếu cuộc hôn nhân thất bại?
“Cháu sẽ không cắt tóc nó đâu,” Dierdre hứa.
“Tốt lắm. Bố cháu có ở đây vào dịp Giáng sinh không? Đôi khi các ông bố phải đi làm vào lễ Giáng sinh mà.”
“Bố có ở đây,” Dierdre đáp. “Cháu làm một chiếc thẻ kẹp sách tặng bố. Nó có hình cháu và bố. Cháu muốn lấy nó lại, nên bố bảo là cháu có thể dùng chung với bố. Bác có muốn xem không?”
“Có chứ.”
Dierdre tìm ở dưới giường món đồ quý dùng chung với bố. Nó lấy lên một quyển album ảnh. Chiếc thẻ kẹp sách kẹp ở trong là một miếng giấy màu đã được ép nhựa. Bức ảnh chụp Jack và Dierdre ngồi trên đùi anh. Anh đang rướn cổ về trước để nhìn mặt con bé.
Kathryn nghe tiếng bước chân trên cầu thang.
Trên gác mái ngôi nhà ở Fortune’s Rocks có một chiếc hộp quần áo búp bê American Girl. Trong một thoáng, khá điên rồ, Kathryn nghĩ đến việc gửi chiếc hộp ấy cho Dierdre.
Muire đứng ở khung cửa ra vẻ bảo vệ, hai tay khoanh trước ngực.
“Bác rất thích búp bê của cháu,” Kathryn nói và đứng dậy.
“Bác phải đi rồi à?” Dierdre hỏi.
“Bác e là vậy,” Kathryn đáp.
Dierdre nhìn theo trong lúc cô bước ra. Muire tránh qua một bên để Kathryn đi qua. Kathryn đi nhanh xuống cầu thang, ý thức rõ người phụ nữ kia đang đi sau lưng mình. Kathryn với tay lấy áo khoác. “Dierdre có nói là Jack đã đến đây vào Giáng sinh,” cô nói trong lúc mặc áo.
“Chúng tôi đón Giáng sinh sớm,” Muire đáp. “Phải chịu thôi.”
Kathryn biết tất cả về cảm giác phải mừng lễ sớm.
Giờ đây tò mò, cô đi đến kệ sách và xem qua các tiêu đề. Những lời nói dối im lặng, tác giả Brian Moore; Cal, tác giả Bernard McLaverty; Những trái tim nổi loạn, tác giả Kevin Toolis; Trận đói lớn, tác giả Cecil Woodham-Smith. Một tiêu đề cô không thể đọc ra. Cô lấy quyển sách ra khỏi kệ.
“Đây là ngôn ngữ Gaelic à?” Kathryn hỏi.
“Phải.”
“Cô đi học ở đâu?”
“Queens. Ở Belfast.”
“Thật sao. Vậy mà cô trở thành...”
“Tiếp viên hàng không. Vâng, tôi biết. Lực lượng lao động có học thức nhất ở châu Âu: người Ireland.”
“Con gái cô biết chuyện của Jack chưa?” Kathryn hỏi, nhét quyển sách lên kệ và cầm áo choàng lên.
“Nó biết rồi,” Muire nói từ lối vào, “nhưng tôi không chắc nó có hiểu hay không. Bố nó thường xuyên đi vắng. Tôi nghĩ đây cũng chỉ là một chuyến đi khác đối với nó thôi.”
Bố nó.
“Còn mẹ của Jack,” Kathryn nói vẻ không quan tâm. “Dierdre có biết về bà nội Matigan không?”
“Có, tất nhiên.”
Kathryn im lặng. Run rẩy bởi chính những câu hỏi của cô cũng như câu trả lời.
“Nhưng mà, như chị biết đấy, mẹ anh ấy mắc bệnh Alzheimer,” Muire nói thêm, “nên Dierdre chưa bao giờ thực sự nói chuyện với bà.”
“Vâng, tôi biết,” Kathryn nói dối.
Nếu Jack chưa chết, cô tự hỏi liệu có phải bây giờ anh đang ở trong ngôi nhà này hay không? Liệu Kathryn có bao giờ phát hiện ra một gia đình khác hay không? Liệu mối quan hệ này - cuộc hôn nhân này - sẽ còn tiếp diễn trong bao nhiêu năm nữa?
Hai người phụ nữ đứng trên sàn nhà lót gỗ. Kathryn đưa mắt nhìn những bức tường, trần nhà, người phụ nữ trước mặt cô. Cô muốn thu nhận toàn bộ căn nhà, nhớ tất cả mọi thứ mà cô đã thấy. Cô biết cô sẽ không bao giờ trở lại.
Cô nghĩ đến chuyện không bao giờ biết về một người nào đó. Về sự mỏng manh trong những kết cấu mà con người tạo nên. Một cuộc hôn nhân chẳng hạn. Một gia đình.
“Có những việc... ,” Muire mở lời. Cô ta dừng lại. “Tôi ước gì...”
Kathryn chờ đợi.
Muire ngửa lòng bàn tay lên, trông như bỏ cuộc. “Có những việc tôi không thể...” Cô ta thở dài não nề, nhét hai tay vào túi quần jean. “Tôi không hối tiếc vì đã cưới anh ấy,” cuối cùng Muire nói. “Tôi chỉ tiếc vì đã làm tổn thương chị.”
Kathryn sẽ không nói lời tạm biệt; có vẻ không cần thiết.
Dù có một việc Kathryn muốn biết - bất kể lòng tự ái của cô, phải hỏi.
“Chiếc áo choàng,” cô lên tiếng. “Chiếc áo choàng lụa màu xanh. Trong tủ của cô.”
“Nó đến sau khi anh ấy mất,” Muire đáp. “Đó là quà Giáng sinh của tôi.”
“Tôi cũng nghĩ là như vậy,” Kathryn nói.
Cô với tay ra đặt lên núm cửa, như với tay chạm lấy phao cứu sinh.
“Chị nên về nhà,” Muire nói khi Kathryn bước ra trời mưa, và Kathryn nghĩ đó là một mệnh lệnh kỳ quặc và táo bạo.
“Chuyện này tồi tệ hơn đối với tôi,” Muire nói, và Kathryn quay lại, chú ý bởi lời nhắn nhủ khá ai oán này, một vết rách trên vẻ ngoài dửng dưng.
“Tôi đã biết về chị,” Muire Boland nói. “Chị không cần phải biết về tôi.”
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.