Chương 1
A Thất
06/02/2023
Họ Quý (季) – ghép bởi chữ hòa (禾) và chữ tử (子) – tên chỉ một chữ Đằng.
Phải tên này không nhỉ?
Sảnh xét xử của Âm Dương Đạo, thềm phỉ, bệ thúy [1], rèm pha lê lóng lánh, trong vẻ hào nhoáng vẫn toát lên cái rét lạnh.
Hình Tu ngồi nghiêm chỉnh sau rèm, tên tùy tùng bịt mắt bằng một dải gấm đang điều động đám lính hành hình, lúc bấy giờ y mới chợt nhớ đến cái tên này. Từ thuở đất trời sơ khai đã bắt đầu chấp chưởng Âm Dương Đạo, chuyên xử phạt ác thần, lệ quỷ. Suốt dòng thời gian dài dằng dặc ấy, đã thấy qua biết bao kiểu phạm nhân, hung ác có, dữ tợn có, ngông cuồng có, nịnh bợ cũng có nốt, nhưng tại sao cứ nhất định phải nhớ tới cái tên này?
Bản thân Hình Tu cũng chẳng hiểu nổi.
Y chỉ biết, Quý Đằng là một kẻ yếu ớt.
Có một hôm, đúng lúc Hình Tu đang thảnh thơi dạo chơi bên ngoài điện Thập Môn, chợt nghe thấy tiếng cười vọng ra từ sảnh xét xử nhỏ chỗ cửa hông, thế là mặt mày hầm hầm bước vào xem thử, liền trông thấy một vị phán quan một tay chỉ về phía phạm nhân đang quỳ dưới đất, một tay vỗ bàn cười hô hố, hoàn toàn đánh mất tác phong chuyên nghiệp, nghiêm trang thường ngày.
Ngày hôm ấy, kẻ quỳ giữa sảnh chính là Quý Đằng.
Quý Đằng khi đó, cũng nào có hay người vừa bước vào chính là Hình Tu, càng chẳng hề biết Hình Tu là thần thánh phương nào, chỉ biết run lập cập quỳ rạp trên sàn nhà sáng bóng như gương, len lén quan sát người mới đến thông qua ảnh phản chiếu dưới đất.
Đám tùy tùng nối đuôi nhau tiến vào, vải gấm sặc sỡ, chỉ thêu kim tuyến, lòe loẹt chói hết cả mắt, tất cả vây quanh một nhân vật. Người này mặc trang phục tím, eo thắt đai ngọc, dung mạo đẹp tựa trong tranh, phục sức xa hoa lộng lẫy. Chẳng qua trên người y luôn toát ra luồng lệ khí hung ác sắc lẻm, gây nên áp lực lớn đến nỗi làm người khác đầu không ngóc dậy nổi, mà thân thể cũng chẳng dám động đậy, chỉ có ngón tay đang không ngừng run lẩy bẩy.
Phán quan vốn dĩ cao cao tại thượng, ấy thế mà lúc này lại hốt hoảng đến độ ngã chỏng vó khỏi chỗ ngồi, quýnh quáng bò lăn bò toài xuống quỳ chung với Quý Đằng, dập đầu lia lịa, nhiệt tình hơn cả Quý Đằng.
Quý Đằng trông thấy bộ dạng run như cầy sấy của phán quan thì cũng sợ lây theo, lại nghĩ, đến phán quan mà còn phải quỳ lạy hăng hái như thế, cỡ mình sao dám thất lễ, bèn vội vàng dập đầu kịch liệt hơn. Hành động này khiến phán quan kích động không thôi, nên lại tăng tốc độ dập đầu lên, Quý Đằng cảm thấy quái lạ, ai biết quy củ chốn này ra sao, lẽ nào ai dập đầu chậm hơn thì sẽ bị phạt à?
Thế là trong đại sảnh trống trải ấy, hai cái đầu thi nhau nhào vô PK bôm bốp với mặt sàn lạnh ngắt sạch bong kin kít.
Ở Âm Dương Đạo, hồn phách sẽ được thực thể hóa, Quý Đằng dù gì cũng chỉ là phàm nhân, lạy tới lạy lui một hồi cũng sẽ chóng hết cả mặt, tốc độ dĩ nhiên là chậm dần đều, cậu lé mắt nhìn trộm sang chỗ phán quan, thấy anh ta cũng đang đưa mắt nhìn lại mình. Vào khoảnh khắc sự chú ý của ta đã va phải vào ánh mắt của chàng ấy, hai kẻ bị cụng sưng vêu đầu đã có một màn trao đổi chớp nhoáng bằng mắt như sau:
“Đau không?”
“Đau chứ!”
“Giờ làm sao?”
“Ngưng chứ sao!”
Nụ cười vừa chớm nở trên môi đôi bạn cùng tiến sau khi đạt thành hiệp nghị, bỗng đâu trên lưng họ cảm nhận được một tia nhìn sắc lẹm quét qua, thật chậm rãi, từng chút từng chút một, lả lướt trên tấm lưng mỗi người, như có mũi dao bén ngót đang từ tốn xẻ từng thớ cơ trên lưng ra, cảm giác chân thật đến nỗi con tim rét lạnh.
Ánh mắt nhìn nhau của Quý Đằng và phán quan bất chợt dại ra, “Không được dừng, dừng là sẽ chết đó!” Đại sảnh vừa mới yên tĩnh được chốc lát, lại tiếp tục vang lên tiếng đập đầu dồn dập, liên tục không ngừng nghỉ, liên miên vô cùng tận.
Ba canh giờ sau đó, phán quan trực tiếp xỉu ngang. Quý Đằng tuy nhờ có sức trẻ dẻo dai, đầu cứng như đá, song cũng sức cùng lực kiệt. Không chỉ nghe lùng bùng lỗ tai, mà mắt cũng hoa cả đi. Đến khi cậu tỉnh táo lại, ngẩng đầu lên, chỉ thấy vây xung quanh mình là một đống áo gấm, cộng thêm bóng người áo tím đai ngọc lượn lờ tới lui. Trong lòng Quý Đằng ngộ ra ngay vị áo tím này ắt hẳn chính là kẻ trị vì, người nắm giữ vận mệnh của cậu trong tay, bèn hấp tấp xốc lại tinh thần, định bò qua quỳ lạy tiếp.
Cậu nhắm về phía Hình Tu, bò bò lết lết, nhưng sao trước mắt lại không phải chân của vị áo tím kia, mà biến thành thềm cửa rồi.
Quý Đằng ngớ người ra, ngước mặt lên dòm, rõ ràng mình định bò về phía Hình Tu đang đứng giữa sảnh kia, thế quái nào lại bò ra tận cửa luôn rồi. Cậu chàng tự cốc đầu mình, nheo mắt lại canh cho ngay ngắn, một lần nữa nhắm thẳng hướng Hình Tu mà bò qua.
Chẳng bao lâu sau, cậu phát hiện ra mình lại bò nhầm về phía cửa rồi.
Không lẽ bị bỏ bùa mê thuốc lú gì rồi ta? Cho dù có bò tới cỡ nào cũng không tiếp cận được vị kia? Cậu lại nghĩ bụng, có lẽ kỳ thực mình vốn dĩ chẳng thể nào chạm được tới người kia?
Quý Đằng ngẫm lại, nơi mình đang ở chính là Âm Dương Đạo trong truyền thuyết, ở nơi này bất luận xảy ra bất cứ chuyện gì trái ngược với quy luật tự nhiên, thì cũng chẳng có gì đáng kinh ngạc cả.
Trong lúc cậu còn đang mải mê dùng hết tất cả lòng thành để mà ngưỡng mộ sức mạnh thần bí chưa biết tên, thì chợt nghe thấy một giọng nói trong trẻo nhưng tràn đầy nghi hoặc vang lên từ chỗ vị áo tím kia, “Cậu ta —”
Người áo tím chỉ vừa mở miệng thốt lên một từ, tiếp sau đó là một tràng âm thanh vun vút như xé gió vang lên, đến khi Quý Đằng định thần lại mới nhận ra những ngọn kích bằng vàng và bạc đã gác trên cần cổ cậu tự bao giờ, đám tùy tùng bao vây lấy cậu tỏa ra sát khí kinh hồn, có ngon thì thử động đậy đi~~~~
“Kẻ đã rơi vào Âm Dương Đạo mà vẫn mang tư tưởng trốn chạy, theo luật phán tội tử hình hai lần!” Tùy tùng bịt mắt thái độ hung tợn cất giọng đanh thép, Quý Đằng toan kêu oan, ngọn kích nhọn hoắm đã thọc ngay vào họng, mọi lý lẽ đều không cách nào tỏ bày.
May mắn làm sao, ngài phán quan mới rồi dập đầu tới bất tỉnh nhân sự đúng lúc này bừng tỉnh dậy, sau khi đánh giá sơ bộ về tình hình hiện thời, mới dè dặt lên tiếng giải thích, “Quân thượng, có vẻ như phạm nhân chỉ định bò tới chỗ ngài thôi, chẳng qua, không biết là do cậu ta bị mù hướng bẩm sinh hay tại quỳ lạy đến chóng mặt luôn rồi, nên hết lần này tới lần khác đều bò lố khỏi chỗ ngài đang đứng, chắc tại không bò theo đường thẳng nổi, mà cứ cong cong vẹo vẹo nên mới ra tới ngoài cửa đấy.”
Lúc bấy giờ mũi kích đáng sợ kia mới được rút ra khỏi miệng Quý Đằng, cậu chàng chẳng biết nói gì hơn ngoài luôn mồm xin tha, “Đại nhân, đại nhân, tiểu nhân sai rồi, tiểu nhân sai rồi!”
Phán quan lật đật kéo cậu ta dậy, nhỏ tiếng trách, “Ngươi có xin tha thì cũng phải nhắm đúng đối tượng chứ, xin cái cổng làm gì, đại nhân ở bên kia kìa.”
Đầu óc Quý Đằng lúc này đã đặc quánh như hồ rồi, bò lịch bịch lòng vòng mãi vẫn chẳng tới được đúng nơi cần tới, đành khóc rống lên nghe đến là thảm thương, “Bẩm đại nhân, tiểu nhân thật lòng không phải cố ý đâu, quả tình là choáng đến mức tìm không thấy ngài nữa rồi!”
Người áo tím trầm ngâm hồi lâu, mới buông ra một câu thế này, “Đưa cho cậu ta cái la bàn.”
Đến khi Quý Đằng thanh tỉnh trở lại, cậu mới bắt đầu trần tình cớ sự.
Nhà họ Quý vốn là danh gia vọng tộc ở vùng Giang Chiết [2], thuở bé do trong nhà xảy ra chuyện, nên Quý Đằng theo chân phụ mẫu di cư đến một ngôi làng nhỏ ở miền biên cương. Ở đó, nhà cậu có thể xem như phú hộ duy nhất trong vùng, cũng bởi phép vua thua lệ làng, nên nhà họ Quý khi ấy hầu như nắm quyền kiểm soát cả làng.
Hai anh em họ Quý chẳng thân nhau mấy, huynh trưởng Quý Quân kết hôn sớm, năm thê bảy thiếp, tạm thời vẫn chưa có con nối dòng, sau khi phụ mẫu qua đời, liền lên làm chủ nhà họ Quý; Quý Đằng là con vợ lẽ, sự tồn tại của cậu trong căn nhà này có thể nói là có cũng được mà không có cũng chẳng sao. Quý Quân chưa từng ngược đãi cậu, song cũng chẳng đoái hoài gì tới, cứ thế mặc cậu sống qua ngày.
Quý Đằng rất thích đi săn, song không phải vì cậu là kẻ khát máu, trên thực tế cậu chỉ là thích thú với cảm giác du ngoạn săn bắn ở chốn sơn dã mà thôi, mỗi lần về nhà, cũng chỉ là để bổ sung lương thực, trang bị, chưa được bao lâu đã lại cuốn gói ra đi.
Có một ngày, cậu tình cờ cứu được một con chim sẻ bị thương ở dưới chân núi, bèn mang về nhà chăm sóc chữa trị.
Bé con này hồi phục rất nhanh, mới mấy ngày đã có thể nhảy nhót khắp nơi rồi, đến khi lành hẳn cũng chưa chịu bay đi. Một buổi trưa nọ, khi cậu đang chơi với nó, ghẹo tới ghẹo lui một hồi, bỗng dưng mất đi ý thức, rồi cậu thấy mình bước vào một giấc mộng lạ.
Linh hồn cậu như thể mọc cánh, từ bên cửa sổ bay đi mất, lượn một vòng đến thẳng gian nhà phía đông nơi huynh trưởng đang trú ngụ, không chỉ có thế, thậm chí còn băng ngang qua đó, xộc thẳng vào nơi đám thê thiếp của huynh trưởng ở—
Như thế này sao mà được!
Quý Đằng vội vàng nhắm tịt mắt lại, song hai tai lại chẳng cách nào bịt kín được, dường như cậu đã bay vào bên trong sương phòng [3], để rồi nghe thấy một cuộc nói chuyện. Càng nghe lại càng thấy túa hết mồ hôi hột ra, cả người run lên cầm cập.
Nhân vật chính của cuộc trò chuyện này, hẳn chính là vợ cả của huynh trưởng và con hầu của thị.
Hoá ra, nàng thiếp mà Quý Quân sủng ái dám tằng tịu với một người bà con xa, trong lúc hai người đang mèo mỡ thì bị cô hầu này phát giác, liền lén mách với chính thất, hai người dự định báo cáo chuyện này cho Quý Quân.
Bà cả họ Lý chợt ngăn nàng ta lại, vì hiện tại không bằng không cớ, Quý Quân chắc gì sẽ tin, trái lại chỉ e bứt dây động rừng. Lý thị [4] ngẫm nghĩ một hồi, lại nói, nghe bảo trong nước năm nay bông vải được mùa, gấm vóc tồn kho nhiều lắm, chi bằng thuyết phục Quý Quân vào nội ô thu mua về tích trữ.
Cô hầu chẳng hiểu mô tê gì, sao lại phải nghĩ cách cho Quý Quân rời đi chứ, há chẳng phải tạo cơ hội cho người vợ lẽ kia à.
Lý thị cười cười, đúng là tạo cơ hội cho ả ta đấy, hơn nữa đây còn là chiêu nhất tiễn song điêu. Từ khi cha mẹ mất, Quý Quân chưa từng đi xa lần nào, nếu chuyến này rời nhà đi, ắt sẽ phải giao phó lại mọi việc cho cậu hai Quý Đằng. Quý Đằng sẽ không can dự vào chuyện trong nhà, chỉ cần ta tranh thủ tạo cơ hội cho chúng nó tòm tem với nhau, sau đó đợi Quý Quân trở về, liền thẳng tay bóc trần vụ bê bối này.
Cô hầu hỏi, việc này thì có gì mà nhất tiễn song điêu?
Lý thị đáp, mi còn chưa hiểu sao, đến lúc đó ta âm thầm xử lý tên họ hàng xa kia, sau đó vu khống cho Quý Đằng, bảo là cậu ta với cô ả kia mèo mả gà đồng, Quý Quân khi ấy bị cơn giận che mờ mắt rồi, nào có tâm tư tra xét thực hư chi nữa, thế là một hòn đá giết hai con chim, cứ thế mà ả vợ lẽ kia với Quý Đằng đều bị trừ khử, chẳng phải quá tốt rồi hay sao?
Quý Đằng nghe tới đó thì nổi trận lôi đình, mưu mô xảo quyệt đến nhường này, cậu vừa tính lên tiếng vạch mặt, ngờ đâu bỗng dưng xây xẩm hết cả mặt mày, đến khi mở choàng mắt ra, thì lại thấy bản thân vẫn còn đang nằm trên sập gỗ.
Trong lúc cậu còn đang vội mừng vì cứ ngỡ mình chỉ nằm mơ, thì chợt nghe thấy tiếng chiêm chiếp vang lên bên ngoài cửa sổ, thì ra là con chim sẻ mà cậu đã cứu, nó đang vỗ cánh nhìn cậu. Còn chưa kịp chỉnh đốn lại tâm trạng, đã nghe thấy có người đẩy cửa bước vào.
Vừa quay sang nhìn, người đến chính là ông anh Quý Quân của cậu, mà chuyện anh ta định thông báo, lại in hệt như trong giấc mơ vừa rồi.
Quý Quân chốt hạ lại bằng một câu, “Việc này cấp bách, ngày mai huynh đã phải lên đường rồi, mọi chuyện trong nhà giao hết cho đệ đấy.” Nói xong cũng không đợi Quý Đằng kịp ý kiến ý cò gì, lập tức bỏ đi ngay.
Chuyện này rốt cục là sao?
Quý Đằng ngoảnh đầu lại ngó về phía con chim sẻ, cậu thề rằng đã chính mắt trông thấy ánh nhìn đầy cảm thông, đọc được ý niệm muốn báo ân trong đôi mắt nó.
Vậy nhưng phải làm thế nào đây?
Nếu muốn mách lại những gì mình biết cho Quý Quân, thế thì tất phải giải thích xem bằng cách nào mà cậu nghe được vụ này, thường ngày cậu đều chẳng tiếp xúc với đám nữ quyến, chứ đừng nói chi là thảo luận mấy chuyện riêng tư kiểu này. Trong tay không nắm chứng cứ, trái lại còn dễ khiến người ta nghi ngờ.
Hay là nhân lúc nửa đêm bỏ trốn? Không ổn, nếu trốn đi rồi, lại chẳng phải tạo cớ cho bọn họ đặt điều hay sao?
Ôi ôi ôi! Chung quy thì nên làm sao bây giờ?
Quý Đằng sốt ruột xà quần trong phòng một hồi, tầm mắt chợt đáp xuống chỗ quyển sách đặt trên bàn, trong sách kể rất nhiều câu chuyện về lòng hy sinh của đức Phật. Quý Đằng dần dần cúi gằm mặt, dần dần đưa ra một quyết định có thể gọi là biến thái.
Lúc kể tới đoạn này, nước mắt của Quý Đằng đã lã chã rơi đầy đất, giọng nói cũng trở nên nấc nghẹn.
Một tên tùy tùng khổ sở đợi mãi, sau cùng nhịn không nổi nữa, lấy hết can đảm cất tiếng hỏi, “Ngươi đã quyết tâm làm chuyện gì?”
Quý Đằng nhìn gã với ánh mắt ngập tràn căm phẫn, “Khi đó tôi thật sự không nghĩ ra biện pháp nào khác!!! Nên đã—”
Phán quan tỏ vẻ đồng cảm mà thở dài, “Người đầu tiên trên thế giới dám tự t.h.i.ế.n.”
Trong buổi hoàng hôn có ráng chiều rực rỡ ấy, chỉ có mỗi chú chim sẻ đậu trên nhành cây bên ngoài cửa sổ chịu bầu bạn bên Quý Đằng trong lúc trọng thương. Cậu gắng gượng ngồi dậy mài mực viết chữ, một bài 《Văn tế c-ủ-a-q-u-ý》 xứng đáng được lưu truyền đến nghìn đời sau đã lặng lẽ ra đời ngay trong đêm ấy.
“Sẻ ơi sẻ à, ta chỉ có thể đọc cho mi nghe thôi đó.” Quý Đằng chậm rãi ngâm nga bên cửa sổ, “Xuân Đinh Hợi, tiễn đưa người anh em vào hòm gỗ, cùng điếu văn rằng: Than ôi! Than ôi! Mi sinh ra ở vùng Chiết mà nay táng thân tại nơi này; bỏ lại cố hương bảy trăm dặm trường, hỡi ơi. Lúc bé thơ mộng mơ khờ dại, có ngờ đâu vùi thây ở chốn đây? Ta vốn một lòng trung trinh, giờ đây đôi mình chia ly, bỏ mặc mi bơ vơ đơn độc. Tuy số kiếp mi đã định, do trời cao sắp đặt. Song lại khiến mi ra nông nỗi này, âu cũng là lỗi do ta—” [5]
“Này, bạn hiền chim sẻ, mi bay đi đâu đấy? Bộ văn ta viết í ẹ đến vậy sao? Quay lại đây coi?!”
Chim sẻ chẳng buồn ngoái lại nhìn mà bay vút lên tận mây xanh.
Gặp phải sự đả kích về cả thể xác lẫn tinh thần, khiến Quý Đằng suy sụp hoàn toàn, kết quả là bài 《Văn tế c-ủ-a-q-u-ý》 xứng đáng được lưu truyền đến nghìn đời sau này, đã lặng lẽ hóa tro tàn bởi chính tay Quý Đằng.
Vào ngày hôm sau, khi mọi người tiễn Quý Quân lên đường, Quý Đằng cáo ốm không đến, nhưng có sai đầy tớ đưa qua cho Quý Quân một cái tráp bằng gỗ đàn đã được khóa kỹ, dặn anh hãy cất giữ cẩn thận.
Quan hệ giữa hai anh em nhà họ Quý tương đối nhạt nhòa, nên lúc Quý Quân nhận được cái tráp nọ, cho rằng đứa em này cũng có lòng với mình, nên rất cảm động và mừng rỡ, thế là lúc nào cũng mang cái tráp theo bên người.
Đằng đẵng suốt bốn tháng trời Quý Đằng không bước chân ra khỏi cửa lấy lần nào, càng chưa từng hỏi tới chuyện trong nhà ngoài ngõ, viện cớ tinh thần và thể xác đều kiệt quệ, phải tĩnh tâm dưỡng bệnh.
Khi trời vào thu, Quý Quân cuối cùng cũng trở về, quả nhiên Lý thị cùng với đám nữ quyến trong nhà hùa nhau tố cáo Quý Đằng gian díu với nàng tiểu thiếp, Quý Quân liền giận tím mặt, lập tức sai người lôi Quý Đằng tới, chất vấn sự tình.
Quý Đằng vẫn điềm nhiên mà rằng, “Khỏi hỏi nhiều, anh mở cái tráp mà em tặng ra tất sẽ hiểu rõ chân tướng.”
Kể đến đây, Quý Đằng lại khóc òa lên, giọng càng thêm nghẹn ngào.
“Nếu thấy thứ bên trong rồi, dĩ nhiên sẽ hiểu rõ ngọn ngành mọi chuyện, xóa bỏ mọi hiềm nghi giữa hai anh em rồi mới phải chứ?” Lại một tên tùy tùng thích xía mồm vào.
Quý Đằng phẫn hận kể tiếp, “Khi đó tôi nào có ngờ huynh trưởng lại đi lâu đến thế, mà tiết trời thì nóng bức—”
Ông anh vốn mắc bệnh sạch sẽ vừa mở tráp ra ngó thử, liền sững sờ, mặt mày tái mét, lại nhớ đến việc mình cứ thế mà đeo theo thứ này đi khắp nơi suốt bốn tháng trời, nộ khí công tâm, vừa tức vừa ngượng, trong nháy mắt nằm thẳng cẳng mắt trợn trắng, cũng không rõ là bị tức chết hay là tởm chết nữa.
Quý Đằng nhất thời bàng hoàng quá độ, không nói được tiếng nào, cứ thế bị gán cho cái tội giết anh, rồi bị người ta xúm lại đánh đến chết.
Một giây tĩnh lặng trôi qua, bầu không khí trầm mặc trong sảnh xét xử liền bị phá tan bởi những tràng cười giòn giã trước nay chưa từng thấy.
Biết trách ai bây giờ, tự bản thân Quý Đằng còn cảm thấy cái chết của mình lãng xẹt quá mà. Cơ mà chết theo cách buồn cười như vậy lẽ nào là lỗi ở cậu sao?
Mà điều đáng sợ hơn cả là, Hình Tu đến một cái nhếch mép cũng chẳng có, như thể hoàn toàn vô cảm trước câu chuyện đời cậu, y giữ nguyên bộ mặt lạnh như tiền liếc mắt nhìn một vòng, đến khi toàn bộ những người có mặt đều khiếp hãi mà câm như hến cả, mới giũ áo bỏ đi. Đám tùy tùng cũng đồng loạt rút lui, vũ bão y như lúc tới.
Để lại một đại sảnh trống huơ trống hoác, cùng với một phán quan và một Quý Đằng với vầng trán sưng vêu bóng lưỡng.
“Vừa rồi ngài thật sự cụng đầu tới hôn mê luôn à?”
“Ngốc vừa thôi, ta mà không giả vờ té xỉu ấy à, quân thượng còn chẳng phải sẽ bắt hai ta quỳ lạy tới chết mới thôi.”
Gần đến nửa đêm, ở Cửu Uyên [6] thuộc Âm Dương Đạo, chợt lóe lên tia sáng kỳ lạ, báo hiệu đêm nay Hình Tu – Quân vương của Âm Dương Đạo – sẽ xuất tuần đến nhân gian một chuyến trong giây lát như thường lệ. Trong tẩm cung, các tùy tùng đang hầu hạ Hình Tu sửa soạn, bên ngoài tẩm cung [7], đội nhân mã đã tề tựu đông đủ, sẵn sàng lên đường.
Y trang tươm tất rồi, khi nhóm tùy tùng định lui xuống, Hình Tu chợt khoát tay ý bảo bọn họ đứng lại, rồi nhận lấy một cái tráp gỗ từ trong tay họ, sau khi mở nó ra xem xét một hồi, mới đeo lên người đi tới đi lui thử, chơi đã rồi mới tháo xuống, trầm tư hồi lâu, rồi bất thình lình phá lên cười ngặt nghẽo, cười đến ngả nghiêng ngả ngửa, chân bước xiêu vẹo, cười một hồi bò lăn bò toài ra giường luôn.
Đêm đó Hình Tu không cách nào xuất hành được. Không chỉ thế, còn có cả tiếng cười thường trực vọng ra từ trong tẩm cung Âm Dương Đạo, rùng rợn đến độ đám tùy tùng không dám hó hé cục cựa gì, ai cũng đồn đoán rằng đây là điềm báo thiên địa sắp xảy ra dị tượng.
Kỳ thật Hình Tu – Quân vương của Âm Dương Đạo, nào có phải kẻ nghiêm khắc kiệm lời gì đâu, chẳng qua là đầu óc “chậm tiêu” đến mức trì độn, phải mất hẳn một lúc lâu mới “tiêu hóa” xong câu chuyện ấy mà.
-Hết chương 1-
Chú thích:Ý bảo làm từ ngọc phỉ thúy, trong đó loại màu xanh là thúy, màu đỏ là phỉ. ↑
2. Là tên gọi chung của khu vực hạ lưu sông Trường Giang, bao gồm 2 tỉnh Giang Tô và Chiết Giang ↑
3. Thời xưa ở TQ, cả gia đình thường sống trong một khu nhà gọi là tứ hợp viện, tức là phòng ốc ở bốn phía, cửa hướng về sân vườn ở giữa. Từ giữa nhìn về phía bắc là “chính phòng”, phía nam được gọi là “đảo tọa”, hai bên đông tây gọi là “sương phòng”. ↑
4. “Họ + thị” là cách gọi người phụ nữ nhà họ nào đó theo Nho giáo. ↑
5. Bản gốc của là bài Văn tế em gái của thi nhân Viên Mai đời Thanh, chị Bảy chém gió thành thế này cho hợp với cốt truyện XD. Mình không biết phong cách điếu văn viết như nào nên đành dịch word-by-word vậy. ↑
6. Cửu uyên là từ để chỉ vực nước sâu thẳm, nhưng trong này chắc chỉ là tên địa danh ^^ ↑
7. Nôm na là nhà riêng của hoàng đế và hậu phi, có thể xem như nơi cực kỳ riêng tư, như kiểu phòng ngủ của người hiện đại á. ↑
T/N: Khiếp cái chương dài thòn dài thượt:(( Về xưng hô của bộ này thì mình hơi lăn tăn, em thụ mình vẫn để là cậu như mấy bộ trước, còn anh công vì là nhân vật có máu mặt nên nếu để là anh thì nghe tầm thường quá, thành ra mình chuyển sang gọi là y vậy ^^
Bonus cái hình QĐ bên bài văn tế của ẻm (Tranh của Mộc Mộc)
Phải tên này không nhỉ?
Sảnh xét xử của Âm Dương Đạo, thềm phỉ, bệ thúy [1], rèm pha lê lóng lánh, trong vẻ hào nhoáng vẫn toát lên cái rét lạnh.
Hình Tu ngồi nghiêm chỉnh sau rèm, tên tùy tùng bịt mắt bằng một dải gấm đang điều động đám lính hành hình, lúc bấy giờ y mới chợt nhớ đến cái tên này. Từ thuở đất trời sơ khai đã bắt đầu chấp chưởng Âm Dương Đạo, chuyên xử phạt ác thần, lệ quỷ. Suốt dòng thời gian dài dằng dặc ấy, đã thấy qua biết bao kiểu phạm nhân, hung ác có, dữ tợn có, ngông cuồng có, nịnh bợ cũng có nốt, nhưng tại sao cứ nhất định phải nhớ tới cái tên này?
Bản thân Hình Tu cũng chẳng hiểu nổi.
Y chỉ biết, Quý Đằng là một kẻ yếu ớt.
Có một hôm, đúng lúc Hình Tu đang thảnh thơi dạo chơi bên ngoài điện Thập Môn, chợt nghe thấy tiếng cười vọng ra từ sảnh xét xử nhỏ chỗ cửa hông, thế là mặt mày hầm hầm bước vào xem thử, liền trông thấy một vị phán quan một tay chỉ về phía phạm nhân đang quỳ dưới đất, một tay vỗ bàn cười hô hố, hoàn toàn đánh mất tác phong chuyên nghiệp, nghiêm trang thường ngày.
Ngày hôm ấy, kẻ quỳ giữa sảnh chính là Quý Đằng.
Quý Đằng khi đó, cũng nào có hay người vừa bước vào chính là Hình Tu, càng chẳng hề biết Hình Tu là thần thánh phương nào, chỉ biết run lập cập quỳ rạp trên sàn nhà sáng bóng như gương, len lén quan sát người mới đến thông qua ảnh phản chiếu dưới đất.
Đám tùy tùng nối đuôi nhau tiến vào, vải gấm sặc sỡ, chỉ thêu kim tuyến, lòe loẹt chói hết cả mắt, tất cả vây quanh một nhân vật. Người này mặc trang phục tím, eo thắt đai ngọc, dung mạo đẹp tựa trong tranh, phục sức xa hoa lộng lẫy. Chẳng qua trên người y luôn toát ra luồng lệ khí hung ác sắc lẻm, gây nên áp lực lớn đến nỗi làm người khác đầu không ngóc dậy nổi, mà thân thể cũng chẳng dám động đậy, chỉ có ngón tay đang không ngừng run lẩy bẩy.
Phán quan vốn dĩ cao cao tại thượng, ấy thế mà lúc này lại hốt hoảng đến độ ngã chỏng vó khỏi chỗ ngồi, quýnh quáng bò lăn bò toài xuống quỳ chung với Quý Đằng, dập đầu lia lịa, nhiệt tình hơn cả Quý Đằng.
Quý Đằng trông thấy bộ dạng run như cầy sấy của phán quan thì cũng sợ lây theo, lại nghĩ, đến phán quan mà còn phải quỳ lạy hăng hái như thế, cỡ mình sao dám thất lễ, bèn vội vàng dập đầu kịch liệt hơn. Hành động này khiến phán quan kích động không thôi, nên lại tăng tốc độ dập đầu lên, Quý Đằng cảm thấy quái lạ, ai biết quy củ chốn này ra sao, lẽ nào ai dập đầu chậm hơn thì sẽ bị phạt à?
Thế là trong đại sảnh trống trải ấy, hai cái đầu thi nhau nhào vô PK bôm bốp với mặt sàn lạnh ngắt sạch bong kin kít.
Ở Âm Dương Đạo, hồn phách sẽ được thực thể hóa, Quý Đằng dù gì cũng chỉ là phàm nhân, lạy tới lạy lui một hồi cũng sẽ chóng hết cả mặt, tốc độ dĩ nhiên là chậm dần đều, cậu lé mắt nhìn trộm sang chỗ phán quan, thấy anh ta cũng đang đưa mắt nhìn lại mình. Vào khoảnh khắc sự chú ý của ta đã va phải vào ánh mắt của chàng ấy, hai kẻ bị cụng sưng vêu đầu đã có một màn trao đổi chớp nhoáng bằng mắt như sau:
“Đau không?”
“Đau chứ!”
“Giờ làm sao?”
“Ngưng chứ sao!”
Nụ cười vừa chớm nở trên môi đôi bạn cùng tiến sau khi đạt thành hiệp nghị, bỗng đâu trên lưng họ cảm nhận được một tia nhìn sắc lẹm quét qua, thật chậm rãi, từng chút từng chút một, lả lướt trên tấm lưng mỗi người, như có mũi dao bén ngót đang từ tốn xẻ từng thớ cơ trên lưng ra, cảm giác chân thật đến nỗi con tim rét lạnh.
Ánh mắt nhìn nhau của Quý Đằng và phán quan bất chợt dại ra, “Không được dừng, dừng là sẽ chết đó!” Đại sảnh vừa mới yên tĩnh được chốc lát, lại tiếp tục vang lên tiếng đập đầu dồn dập, liên tục không ngừng nghỉ, liên miên vô cùng tận.
Ba canh giờ sau đó, phán quan trực tiếp xỉu ngang. Quý Đằng tuy nhờ có sức trẻ dẻo dai, đầu cứng như đá, song cũng sức cùng lực kiệt. Không chỉ nghe lùng bùng lỗ tai, mà mắt cũng hoa cả đi. Đến khi cậu tỉnh táo lại, ngẩng đầu lên, chỉ thấy vây xung quanh mình là một đống áo gấm, cộng thêm bóng người áo tím đai ngọc lượn lờ tới lui. Trong lòng Quý Đằng ngộ ra ngay vị áo tím này ắt hẳn chính là kẻ trị vì, người nắm giữ vận mệnh của cậu trong tay, bèn hấp tấp xốc lại tinh thần, định bò qua quỳ lạy tiếp.
Cậu nhắm về phía Hình Tu, bò bò lết lết, nhưng sao trước mắt lại không phải chân của vị áo tím kia, mà biến thành thềm cửa rồi.
Quý Đằng ngớ người ra, ngước mặt lên dòm, rõ ràng mình định bò về phía Hình Tu đang đứng giữa sảnh kia, thế quái nào lại bò ra tận cửa luôn rồi. Cậu chàng tự cốc đầu mình, nheo mắt lại canh cho ngay ngắn, một lần nữa nhắm thẳng hướng Hình Tu mà bò qua.
Chẳng bao lâu sau, cậu phát hiện ra mình lại bò nhầm về phía cửa rồi.
Không lẽ bị bỏ bùa mê thuốc lú gì rồi ta? Cho dù có bò tới cỡ nào cũng không tiếp cận được vị kia? Cậu lại nghĩ bụng, có lẽ kỳ thực mình vốn dĩ chẳng thể nào chạm được tới người kia?
Quý Đằng ngẫm lại, nơi mình đang ở chính là Âm Dương Đạo trong truyền thuyết, ở nơi này bất luận xảy ra bất cứ chuyện gì trái ngược với quy luật tự nhiên, thì cũng chẳng có gì đáng kinh ngạc cả.
Trong lúc cậu còn đang mải mê dùng hết tất cả lòng thành để mà ngưỡng mộ sức mạnh thần bí chưa biết tên, thì chợt nghe thấy một giọng nói trong trẻo nhưng tràn đầy nghi hoặc vang lên từ chỗ vị áo tím kia, “Cậu ta —”
Người áo tím chỉ vừa mở miệng thốt lên một từ, tiếp sau đó là một tràng âm thanh vun vút như xé gió vang lên, đến khi Quý Đằng định thần lại mới nhận ra những ngọn kích bằng vàng và bạc đã gác trên cần cổ cậu tự bao giờ, đám tùy tùng bao vây lấy cậu tỏa ra sát khí kinh hồn, có ngon thì thử động đậy đi~~~~
“Kẻ đã rơi vào Âm Dương Đạo mà vẫn mang tư tưởng trốn chạy, theo luật phán tội tử hình hai lần!” Tùy tùng bịt mắt thái độ hung tợn cất giọng đanh thép, Quý Đằng toan kêu oan, ngọn kích nhọn hoắm đã thọc ngay vào họng, mọi lý lẽ đều không cách nào tỏ bày.
May mắn làm sao, ngài phán quan mới rồi dập đầu tới bất tỉnh nhân sự đúng lúc này bừng tỉnh dậy, sau khi đánh giá sơ bộ về tình hình hiện thời, mới dè dặt lên tiếng giải thích, “Quân thượng, có vẻ như phạm nhân chỉ định bò tới chỗ ngài thôi, chẳng qua, không biết là do cậu ta bị mù hướng bẩm sinh hay tại quỳ lạy đến chóng mặt luôn rồi, nên hết lần này tới lần khác đều bò lố khỏi chỗ ngài đang đứng, chắc tại không bò theo đường thẳng nổi, mà cứ cong cong vẹo vẹo nên mới ra tới ngoài cửa đấy.”
Lúc bấy giờ mũi kích đáng sợ kia mới được rút ra khỏi miệng Quý Đằng, cậu chàng chẳng biết nói gì hơn ngoài luôn mồm xin tha, “Đại nhân, đại nhân, tiểu nhân sai rồi, tiểu nhân sai rồi!”
Phán quan lật đật kéo cậu ta dậy, nhỏ tiếng trách, “Ngươi có xin tha thì cũng phải nhắm đúng đối tượng chứ, xin cái cổng làm gì, đại nhân ở bên kia kìa.”
Đầu óc Quý Đằng lúc này đã đặc quánh như hồ rồi, bò lịch bịch lòng vòng mãi vẫn chẳng tới được đúng nơi cần tới, đành khóc rống lên nghe đến là thảm thương, “Bẩm đại nhân, tiểu nhân thật lòng không phải cố ý đâu, quả tình là choáng đến mức tìm không thấy ngài nữa rồi!”
Người áo tím trầm ngâm hồi lâu, mới buông ra một câu thế này, “Đưa cho cậu ta cái la bàn.”
Đến khi Quý Đằng thanh tỉnh trở lại, cậu mới bắt đầu trần tình cớ sự.
Nhà họ Quý vốn là danh gia vọng tộc ở vùng Giang Chiết [2], thuở bé do trong nhà xảy ra chuyện, nên Quý Đằng theo chân phụ mẫu di cư đến một ngôi làng nhỏ ở miền biên cương. Ở đó, nhà cậu có thể xem như phú hộ duy nhất trong vùng, cũng bởi phép vua thua lệ làng, nên nhà họ Quý khi ấy hầu như nắm quyền kiểm soát cả làng.
Hai anh em họ Quý chẳng thân nhau mấy, huynh trưởng Quý Quân kết hôn sớm, năm thê bảy thiếp, tạm thời vẫn chưa có con nối dòng, sau khi phụ mẫu qua đời, liền lên làm chủ nhà họ Quý; Quý Đằng là con vợ lẽ, sự tồn tại của cậu trong căn nhà này có thể nói là có cũng được mà không có cũng chẳng sao. Quý Quân chưa từng ngược đãi cậu, song cũng chẳng đoái hoài gì tới, cứ thế mặc cậu sống qua ngày.
Quý Đằng rất thích đi săn, song không phải vì cậu là kẻ khát máu, trên thực tế cậu chỉ là thích thú với cảm giác du ngoạn săn bắn ở chốn sơn dã mà thôi, mỗi lần về nhà, cũng chỉ là để bổ sung lương thực, trang bị, chưa được bao lâu đã lại cuốn gói ra đi.
Có một ngày, cậu tình cờ cứu được một con chim sẻ bị thương ở dưới chân núi, bèn mang về nhà chăm sóc chữa trị.
Bé con này hồi phục rất nhanh, mới mấy ngày đã có thể nhảy nhót khắp nơi rồi, đến khi lành hẳn cũng chưa chịu bay đi. Một buổi trưa nọ, khi cậu đang chơi với nó, ghẹo tới ghẹo lui một hồi, bỗng dưng mất đi ý thức, rồi cậu thấy mình bước vào một giấc mộng lạ.
Linh hồn cậu như thể mọc cánh, từ bên cửa sổ bay đi mất, lượn một vòng đến thẳng gian nhà phía đông nơi huynh trưởng đang trú ngụ, không chỉ có thế, thậm chí còn băng ngang qua đó, xộc thẳng vào nơi đám thê thiếp của huynh trưởng ở—
Như thế này sao mà được!
Quý Đằng vội vàng nhắm tịt mắt lại, song hai tai lại chẳng cách nào bịt kín được, dường như cậu đã bay vào bên trong sương phòng [3], để rồi nghe thấy một cuộc nói chuyện. Càng nghe lại càng thấy túa hết mồ hôi hột ra, cả người run lên cầm cập.
Nhân vật chính của cuộc trò chuyện này, hẳn chính là vợ cả của huynh trưởng và con hầu của thị.
Hoá ra, nàng thiếp mà Quý Quân sủng ái dám tằng tịu với một người bà con xa, trong lúc hai người đang mèo mỡ thì bị cô hầu này phát giác, liền lén mách với chính thất, hai người dự định báo cáo chuyện này cho Quý Quân.
Bà cả họ Lý chợt ngăn nàng ta lại, vì hiện tại không bằng không cớ, Quý Quân chắc gì sẽ tin, trái lại chỉ e bứt dây động rừng. Lý thị [4] ngẫm nghĩ một hồi, lại nói, nghe bảo trong nước năm nay bông vải được mùa, gấm vóc tồn kho nhiều lắm, chi bằng thuyết phục Quý Quân vào nội ô thu mua về tích trữ.
Cô hầu chẳng hiểu mô tê gì, sao lại phải nghĩ cách cho Quý Quân rời đi chứ, há chẳng phải tạo cơ hội cho người vợ lẽ kia à.
Lý thị cười cười, đúng là tạo cơ hội cho ả ta đấy, hơn nữa đây còn là chiêu nhất tiễn song điêu. Từ khi cha mẹ mất, Quý Quân chưa từng đi xa lần nào, nếu chuyến này rời nhà đi, ắt sẽ phải giao phó lại mọi việc cho cậu hai Quý Đằng. Quý Đằng sẽ không can dự vào chuyện trong nhà, chỉ cần ta tranh thủ tạo cơ hội cho chúng nó tòm tem với nhau, sau đó đợi Quý Quân trở về, liền thẳng tay bóc trần vụ bê bối này.
Cô hầu hỏi, việc này thì có gì mà nhất tiễn song điêu?
Lý thị đáp, mi còn chưa hiểu sao, đến lúc đó ta âm thầm xử lý tên họ hàng xa kia, sau đó vu khống cho Quý Đằng, bảo là cậu ta với cô ả kia mèo mả gà đồng, Quý Quân khi ấy bị cơn giận che mờ mắt rồi, nào có tâm tư tra xét thực hư chi nữa, thế là một hòn đá giết hai con chim, cứ thế mà ả vợ lẽ kia với Quý Đằng đều bị trừ khử, chẳng phải quá tốt rồi hay sao?
Quý Đằng nghe tới đó thì nổi trận lôi đình, mưu mô xảo quyệt đến nhường này, cậu vừa tính lên tiếng vạch mặt, ngờ đâu bỗng dưng xây xẩm hết cả mặt mày, đến khi mở choàng mắt ra, thì lại thấy bản thân vẫn còn đang nằm trên sập gỗ.
Trong lúc cậu còn đang vội mừng vì cứ ngỡ mình chỉ nằm mơ, thì chợt nghe thấy tiếng chiêm chiếp vang lên bên ngoài cửa sổ, thì ra là con chim sẻ mà cậu đã cứu, nó đang vỗ cánh nhìn cậu. Còn chưa kịp chỉnh đốn lại tâm trạng, đã nghe thấy có người đẩy cửa bước vào.
Vừa quay sang nhìn, người đến chính là ông anh Quý Quân của cậu, mà chuyện anh ta định thông báo, lại in hệt như trong giấc mơ vừa rồi.
Quý Quân chốt hạ lại bằng một câu, “Việc này cấp bách, ngày mai huynh đã phải lên đường rồi, mọi chuyện trong nhà giao hết cho đệ đấy.” Nói xong cũng không đợi Quý Đằng kịp ý kiến ý cò gì, lập tức bỏ đi ngay.
Chuyện này rốt cục là sao?
Quý Đằng ngoảnh đầu lại ngó về phía con chim sẻ, cậu thề rằng đã chính mắt trông thấy ánh nhìn đầy cảm thông, đọc được ý niệm muốn báo ân trong đôi mắt nó.
Vậy nhưng phải làm thế nào đây?
Nếu muốn mách lại những gì mình biết cho Quý Quân, thế thì tất phải giải thích xem bằng cách nào mà cậu nghe được vụ này, thường ngày cậu đều chẳng tiếp xúc với đám nữ quyến, chứ đừng nói chi là thảo luận mấy chuyện riêng tư kiểu này. Trong tay không nắm chứng cứ, trái lại còn dễ khiến người ta nghi ngờ.
Hay là nhân lúc nửa đêm bỏ trốn? Không ổn, nếu trốn đi rồi, lại chẳng phải tạo cớ cho bọn họ đặt điều hay sao?
Ôi ôi ôi! Chung quy thì nên làm sao bây giờ?
Quý Đằng sốt ruột xà quần trong phòng một hồi, tầm mắt chợt đáp xuống chỗ quyển sách đặt trên bàn, trong sách kể rất nhiều câu chuyện về lòng hy sinh của đức Phật. Quý Đằng dần dần cúi gằm mặt, dần dần đưa ra một quyết định có thể gọi là biến thái.
Lúc kể tới đoạn này, nước mắt của Quý Đằng đã lã chã rơi đầy đất, giọng nói cũng trở nên nấc nghẹn.
Một tên tùy tùng khổ sở đợi mãi, sau cùng nhịn không nổi nữa, lấy hết can đảm cất tiếng hỏi, “Ngươi đã quyết tâm làm chuyện gì?”
Quý Đằng nhìn gã với ánh mắt ngập tràn căm phẫn, “Khi đó tôi thật sự không nghĩ ra biện pháp nào khác!!! Nên đã—”
Phán quan tỏ vẻ đồng cảm mà thở dài, “Người đầu tiên trên thế giới dám tự t.h.i.ế.n.”
Trong buổi hoàng hôn có ráng chiều rực rỡ ấy, chỉ có mỗi chú chim sẻ đậu trên nhành cây bên ngoài cửa sổ chịu bầu bạn bên Quý Đằng trong lúc trọng thương. Cậu gắng gượng ngồi dậy mài mực viết chữ, một bài 《Văn tế c-ủ-a-q-u-ý》 xứng đáng được lưu truyền đến nghìn đời sau đã lặng lẽ ra đời ngay trong đêm ấy.
“Sẻ ơi sẻ à, ta chỉ có thể đọc cho mi nghe thôi đó.” Quý Đằng chậm rãi ngâm nga bên cửa sổ, “Xuân Đinh Hợi, tiễn đưa người anh em vào hòm gỗ, cùng điếu văn rằng: Than ôi! Than ôi! Mi sinh ra ở vùng Chiết mà nay táng thân tại nơi này; bỏ lại cố hương bảy trăm dặm trường, hỡi ơi. Lúc bé thơ mộng mơ khờ dại, có ngờ đâu vùi thây ở chốn đây? Ta vốn một lòng trung trinh, giờ đây đôi mình chia ly, bỏ mặc mi bơ vơ đơn độc. Tuy số kiếp mi đã định, do trời cao sắp đặt. Song lại khiến mi ra nông nỗi này, âu cũng là lỗi do ta—” [5]
“Này, bạn hiền chim sẻ, mi bay đi đâu đấy? Bộ văn ta viết í ẹ đến vậy sao? Quay lại đây coi?!”
Chim sẻ chẳng buồn ngoái lại nhìn mà bay vút lên tận mây xanh.
Gặp phải sự đả kích về cả thể xác lẫn tinh thần, khiến Quý Đằng suy sụp hoàn toàn, kết quả là bài 《Văn tế c-ủ-a-q-u-ý》 xứng đáng được lưu truyền đến nghìn đời sau này, đã lặng lẽ hóa tro tàn bởi chính tay Quý Đằng.
Vào ngày hôm sau, khi mọi người tiễn Quý Quân lên đường, Quý Đằng cáo ốm không đến, nhưng có sai đầy tớ đưa qua cho Quý Quân một cái tráp bằng gỗ đàn đã được khóa kỹ, dặn anh hãy cất giữ cẩn thận.
Quan hệ giữa hai anh em nhà họ Quý tương đối nhạt nhòa, nên lúc Quý Quân nhận được cái tráp nọ, cho rằng đứa em này cũng có lòng với mình, nên rất cảm động và mừng rỡ, thế là lúc nào cũng mang cái tráp theo bên người.
Đằng đẵng suốt bốn tháng trời Quý Đằng không bước chân ra khỏi cửa lấy lần nào, càng chưa từng hỏi tới chuyện trong nhà ngoài ngõ, viện cớ tinh thần và thể xác đều kiệt quệ, phải tĩnh tâm dưỡng bệnh.
Khi trời vào thu, Quý Quân cuối cùng cũng trở về, quả nhiên Lý thị cùng với đám nữ quyến trong nhà hùa nhau tố cáo Quý Đằng gian díu với nàng tiểu thiếp, Quý Quân liền giận tím mặt, lập tức sai người lôi Quý Đằng tới, chất vấn sự tình.
Quý Đằng vẫn điềm nhiên mà rằng, “Khỏi hỏi nhiều, anh mở cái tráp mà em tặng ra tất sẽ hiểu rõ chân tướng.”
Kể đến đây, Quý Đằng lại khóc òa lên, giọng càng thêm nghẹn ngào.
“Nếu thấy thứ bên trong rồi, dĩ nhiên sẽ hiểu rõ ngọn ngành mọi chuyện, xóa bỏ mọi hiềm nghi giữa hai anh em rồi mới phải chứ?” Lại một tên tùy tùng thích xía mồm vào.
Quý Đằng phẫn hận kể tiếp, “Khi đó tôi nào có ngờ huynh trưởng lại đi lâu đến thế, mà tiết trời thì nóng bức—”
Ông anh vốn mắc bệnh sạch sẽ vừa mở tráp ra ngó thử, liền sững sờ, mặt mày tái mét, lại nhớ đến việc mình cứ thế mà đeo theo thứ này đi khắp nơi suốt bốn tháng trời, nộ khí công tâm, vừa tức vừa ngượng, trong nháy mắt nằm thẳng cẳng mắt trợn trắng, cũng không rõ là bị tức chết hay là tởm chết nữa.
Quý Đằng nhất thời bàng hoàng quá độ, không nói được tiếng nào, cứ thế bị gán cho cái tội giết anh, rồi bị người ta xúm lại đánh đến chết.
Một giây tĩnh lặng trôi qua, bầu không khí trầm mặc trong sảnh xét xử liền bị phá tan bởi những tràng cười giòn giã trước nay chưa từng thấy.
Biết trách ai bây giờ, tự bản thân Quý Đằng còn cảm thấy cái chết của mình lãng xẹt quá mà. Cơ mà chết theo cách buồn cười như vậy lẽ nào là lỗi ở cậu sao?
Mà điều đáng sợ hơn cả là, Hình Tu đến một cái nhếch mép cũng chẳng có, như thể hoàn toàn vô cảm trước câu chuyện đời cậu, y giữ nguyên bộ mặt lạnh như tiền liếc mắt nhìn một vòng, đến khi toàn bộ những người có mặt đều khiếp hãi mà câm như hến cả, mới giũ áo bỏ đi. Đám tùy tùng cũng đồng loạt rút lui, vũ bão y như lúc tới.
Để lại một đại sảnh trống huơ trống hoác, cùng với một phán quan và một Quý Đằng với vầng trán sưng vêu bóng lưỡng.
“Vừa rồi ngài thật sự cụng đầu tới hôn mê luôn à?”
“Ngốc vừa thôi, ta mà không giả vờ té xỉu ấy à, quân thượng còn chẳng phải sẽ bắt hai ta quỳ lạy tới chết mới thôi.”
Gần đến nửa đêm, ở Cửu Uyên [6] thuộc Âm Dương Đạo, chợt lóe lên tia sáng kỳ lạ, báo hiệu đêm nay Hình Tu – Quân vương của Âm Dương Đạo – sẽ xuất tuần đến nhân gian một chuyến trong giây lát như thường lệ. Trong tẩm cung, các tùy tùng đang hầu hạ Hình Tu sửa soạn, bên ngoài tẩm cung [7], đội nhân mã đã tề tựu đông đủ, sẵn sàng lên đường.
Y trang tươm tất rồi, khi nhóm tùy tùng định lui xuống, Hình Tu chợt khoát tay ý bảo bọn họ đứng lại, rồi nhận lấy một cái tráp gỗ từ trong tay họ, sau khi mở nó ra xem xét một hồi, mới đeo lên người đi tới đi lui thử, chơi đã rồi mới tháo xuống, trầm tư hồi lâu, rồi bất thình lình phá lên cười ngặt nghẽo, cười đến ngả nghiêng ngả ngửa, chân bước xiêu vẹo, cười một hồi bò lăn bò toài ra giường luôn.
Đêm đó Hình Tu không cách nào xuất hành được. Không chỉ thế, còn có cả tiếng cười thường trực vọng ra từ trong tẩm cung Âm Dương Đạo, rùng rợn đến độ đám tùy tùng không dám hó hé cục cựa gì, ai cũng đồn đoán rằng đây là điềm báo thiên địa sắp xảy ra dị tượng.
Kỳ thật Hình Tu – Quân vương của Âm Dương Đạo, nào có phải kẻ nghiêm khắc kiệm lời gì đâu, chẳng qua là đầu óc “chậm tiêu” đến mức trì độn, phải mất hẳn một lúc lâu mới “tiêu hóa” xong câu chuyện ấy mà.
-Hết chương 1-
Chú thích:Ý bảo làm từ ngọc phỉ thúy, trong đó loại màu xanh là thúy, màu đỏ là phỉ. ↑
2. Là tên gọi chung của khu vực hạ lưu sông Trường Giang, bao gồm 2 tỉnh Giang Tô và Chiết Giang ↑
3. Thời xưa ở TQ, cả gia đình thường sống trong một khu nhà gọi là tứ hợp viện, tức là phòng ốc ở bốn phía, cửa hướng về sân vườn ở giữa. Từ giữa nhìn về phía bắc là “chính phòng”, phía nam được gọi là “đảo tọa”, hai bên đông tây gọi là “sương phòng”. ↑
4. “Họ + thị” là cách gọi người phụ nữ nhà họ nào đó theo Nho giáo. ↑
5. Bản gốc của là bài Văn tế em gái của thi nhân Viên Mai đời Thanh, chị Bảy chém gió thành thế này cho hợp với cốt truyện XD. Mình không biết phong cách điếu văn viết như nào nên đành dịch word-by-word vậy. ↑
6. Cửu uyên là từ để chỉ vực nước sâu thẳm, nhưng trong này chắc chỉ là tên địa danh ^^ ↑
7. Nôm na là nhà riêng của hoàng đế và hậu phi, có thể xem như nơi cực kỳ riêng tư, như kiểu phòng ngủ của người hiện đại á. ↑
T/N: Khiếp cái chương dài thòn dài thượt:(( Về xưng hô của bộ này thì mình hơi lăn tăn, em thụ mình vẫn để là cậu như mấy bộ trước, còn anh công vì là nhân vật có máu mặt nên nếu để là anh thì nghe tầm thường quá, thành ra mình chuyển sang gọi là y vậy ^^
Bonus cái hình QĐ bên bài văn tế của ẻm (Tranh của Mộc Mộc)
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.