Chương 7
Hồ Trường An
29/04/2014
Cô Thiệt Nguyện buông chiếc lược sừng trâu xuống chiếc bàn hình hột xoài, bảo cô Hai Túy Ngọc:
- Khuôn mặt em đúng là có hồng quang phát hiện. Em có tướng sang bẩm sinh. Trời sanh em ra để em làm mạng phụ phu nhơn đó.
Cô Hai Túy Ngọc nhìn lom lom bóng mình trong kiến. Tóc cô chải bảy ba, đen bóng như huyền giồi, mặt cô ửng hồng và sáng rỡ, môi cô mọng thắm, mắt ngời ngợi sóng thu. Hôm nay cô Thiệt Nguyện dạy cô bới đầu lèo, cái búi tóc hình bánh tiêu được bao lưới giắt trâm nhấp nháy.
Cách đây ba ngày, ông Huyện Khải cậy hai bác của mình là ông bà Hai Trưởng đứng chủ hôn và vợ chồng thầy giÿo Thiệt làm mai đi coi mắt cô Hai Túy Ngọc. Bà Chín Thẹo và cô Thiệt Nguyện lãnh phần lo trà rượu tiệc tùng. Đàng trai đưa cho đàng gái hai trăm đồng lo lễ cưới. Sình lễ gồm đôi vòng cẩm thạch xanh nước lý mà ông Huyện Khải đào được ở nền nhà cũ, một đôi bông hột xoàn cỡ năm ly rưỡi, một chiếc kiềng vàng nặng một lượng, một chiếc trâm cẩn sáu hột xoàn hai ly, một chiếc cà rá nhận hột ngọc lựu. Ngoài ra ông còn tặng cô dâu xấp gấm đỏ, xấp nhiễu xanh da trời để may áo cặp, một xấp cẩm nhung trắng để may quần.
Cô Ba Túy Nguyệt được chị mình tặng những món nữ trang do ông bà Năm Tảo sắm cho gồm chiếc vòng vàng chạm bát bửu, sợi dây chuyền có miếng mề đay cẩm thạch tạc hình tượng Quan Âm. Cô rất mừng cho chị mình lấy được chồng sang.
Bà Bang biện Huỡn cùng hai cô con gái đi Tịnh Biên về, mặt mày cả ba đều hớn hở. Thạch Eng và Cà Nựng đã dắt bà đến thầy của họ là Lâm Xâu để chuộc bùa, chuộc niệc đeo cổ hầu chống lại sự báo oán của các oan hồn. Kỳ về nầy, bà mua nào là lụa cẩm châu, lãnh tân châu, mắm thái, khô sặt, mắm cá trèn để dùng và biếu xén những nơi quen biết.
Ông Huyện Khải cậy ông Năm Tảo sắm bàn ghế khi túp nhà lá gần bên đã sử chữa xong. Ông cũng bỏ tiền ra mua chiếc divan cẩm lai đặt ngăn bên chái túp nhà. Sau đó ông mới chở ông Bác vật Cảnh, người em họ nhà chú của ông về dưỡng bịnh.
Ông Năm Tảo có qua chẩn mạch, hốt thuốc cho người đờn ông bất hạnh kia để ngăn bịnh cùi chậm phát tác và làm giảm đau. Ông khuyên đương sự:
- Bịnh chửa khỏi hay không chi do thấy thuốc có một, nhưng do số trời, do nghiệp quả tới mười.. Ông Bác vật nên tụng thêm kinh Phổ Môn và kinh Dược sư Lưu ly quang để nhờ tha lực của đức Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát cùng đức Dược Sư độ trì.
Bác vật Cảnh làm thinh, không nói gì.. Ông Năm Tảo đi thăm thú khắp vườn sao ngõ ngoài, chỗ ẳn cư mới của Bác vật Cảnh. Đâu đó được làm cỏ và quét tước sạch sẽ. Buồng ngủ có tủ áo nạm kiếng hình hột xoài, divan cẩm lai. Phòng khách có bảy bàn tròn và ghế bằng dây mây bện rất mỹ thuất. Bên chái là tủ kính đựng đầy sách báo và những món ngoạn khí bằng sành, sứ, gỗ quang dầu bóng lộn. Ông Năm Tảo mở gói giấy lấy hai tấm rèm màn bằng vải do cô Ba Túy Nguyệt may và thêu đục lỗ, bảo ông Bác vật căng ở hai bên xửa sổ. Ông cũng không quên mở cần xé, lôi ra nào ấm nhôm, hỏa lò, than cần đước, bộ đồ trà... và bảo:
- Ông chỉ phải sắc thuốc, pha trà, còn cơm nước thì ngày ba bữa, con gái tui sẽ đem qua cho ông dùng:
Khi tiễn ông Năm Tảo ra ngõ, Bác vật Cảnh buồn rầu bảo:
- Ông Năm thiệt chu đáo trong việc sắp xếp chỗ ăn chỗ ở cho tôi. Ơn ông không biết bao giời tôi mới trả nổi đây! - Và ông nhấn mạnh - Tôi không phải là kẻ duy tâm nên không tin tưởng Trời Phật, song tôi vẫn hằng tâm niệm giữ tròn nhân lễ nghĩa trí tin. Mắc bịnh ngặt nghèo nầy, tôi chỉ tin tưởng vào thuốc thang mà thôi.
Cô Thiệt Nguyện vẫn đi doọc theo cồn bãi nắm trong lòng sông Cô Chiên để chửa bịnh mắc đàng dưới cho phụ nữ. Cô lập đàn tràng cầu nguyện cho các oan hồn mà thân thể đã chìm sâu đáy nước. Cô cũng ếm bùa ngăn bọn thủy quái lộng hành, phá phách bá tánh cư ngụ ven sông.
Cậu Hai Kinh lý Luyện vẫn tiếp tục đo đất ở Mỹ An, Hòa Mỹ, An Hương. Cậu đang nhắm vào cô Ba Hưởng, con gái chú Thường xuyên Hiếu ở Hòa Mỹ và cô Hai Thiều, con gái Hương nhứt Điều ở An Hương.
Cô Ba Cẩm Tú ốm nghén được ba tháng. Chồng cô khám thai cho cô và bảo rắng cái thai bình thường. Vì cẩn trọng, sợ lỡ trợt té mà sảo thai nên cô bắt chồng dời phòng ngủ vốn lở lầu trên xuống từng trệt cho chắc ăn.
Cô Tư Cẩm Lệ theo chồng về Sài gòn sau khi từ Tịnh Biên về Vĩnh Long một tuần. Vô cậy có bùa niệc trấn ếm nên vẫn giữ thói xéo xắt và hành hạ con ghẻ. Cô tìm cách lên đất Hộ, tỉm mả cô Tư Thục, đem bốn cọc tre vó vẽ bùa cắm lút cán ở đầu, chân và hai bên hông mộ. Cái thai cô lật bật đã được bốn tháng. Cô ăn được ngủ được. Trong giấc chiêm bao, cô không hế thấy cô Tư Thực hiện hồn về đòi mạng nữa.
Còn ông Bang biện Hưỡn đã được Cai tuần Xướng dàn xếp để ăn nằm với vợ Cai tuần Hạp. Ngặt vì bịnh cúm làm ông tối tăm mày mặt mãi nên ông chưa đưa vợ Cai tuần đến tổ quỉ của mình ở cầu Kinh Cụt mà thôi.
Chú Cai tuần Hạp làm mướn hai dãu ruộng của ông Bang biện Hưỡn, mỗi năm phải đóng cho chủ điền 300 giạ lúa, năm nào được mùa thì còn dư 150 giạ. Cách đây ba năm, vì bà Chín Én, mẹ vợ của chú đau nặng, nên vợ chồng chú phải bán rẻ 50 giạ lúa lấy tiền lo thuốc thang. Nhưng thuốc thang không qua số mạng. Khi bà Chín Én chết đi, chú phải bán thêm 50 dạ lúa nữa để làm ma chay cho nhạc mẫu. Tới chùng đóng thuế thân thì chú chới với vì số lúa còn dư không đủ cho hai vợi chồng và bốn đứa con sống trọn năm. Bởi đó, vợ chú phải đem thân ở đợ cho gia đình ông Bang biện để trừ số lúa vay của họ.
Hôm nay Cai tuần Xướng có dịp đi Cái Sơn Bé, ghé qua nhà Cai tuần Hạp. Nhà chú ở cuối xóm, cách xa con liên tỉnh lộ cỡ 500 thước, cạnh một dòng rạch nhỏ iền cây dừa nước rậm rạp. Nhà vách lợp lá xé, mái lợp lá chầm gồm một gian và một chái. Cái chái sát gần bên ao đầy điên điển trổ hoa vàng. Rạch dừa nước thì ở phía trước, cách hàng rào bông bụp khoảng năm thước. Song song với dòng rạch là con đường đắp đát. Nhà nằm giữa bốn công đất nhỏ có trồng vài bụi chuối, vài cây ổi, dăm cây khế. Trong nhà, ngoài bàn thờ bằng gỗ thao lao, còn có bộ ngựa gỗ tạp, chiếc bàn dài bằng gỗ mù u và bốn chiếc ghế đẩu mỗi bên.
Cai tuần Hạp tuổi cỡ ba mươi ngoài, đen đúa, mặt mũi hiền lành, ở trần trùi trụi, bận quần xà lỏn đen đã phai màu. Còn vợ Cai tuần Hạp tuổi gần ba mươi, dung nghi nghiêm chỉnh, nước da khá mởn, ngặt vì đang chửa nên mặt mũi chao vao. Trong nhà lúc đó còn có một người đờn bà trạc tuổi thím Cai nhưng mặt mũi sáng sủa, nước da trắng trẻo. Cai tuần Hạp bảo Cai tuần Xướng:
- Ne anh Bảy, chắc anh cũng biết cô Thiệt Nguyện đây thường qua bên Cồn trị bịnh mắc đàng dưới cho đờn bà đất Vãng mình.
Cai tuần Xướng gật đầu khen:
- Có, tui có nghe. Làm phước thì để đức cho con cháu.
Cô Thiệt Nguyện mỉa mai:
- Còn a tòng theo bọn cường hào bác ác bá để xúi phụ nữ đi vô đường quấy thì để cái già cho con cháu đây?
Cai tuần Xướng trâng tráo:
- Ối, việc đời mà cô! Ai cũng có cái chỗ kẹt! Như tui đây là kẻ ăn cơm chúa nên tui phải múc tối ngày. Đâu có ai muốn làm chuyện quấy để cho miệng đời dèm siểm!
Cô Thiệt Nguyện làm thinh, mặt mày chầm dầm. Thấy mình ngồi hoài coi trơ quá nên Cai tuần Xướng đứng dậy kiếu từ. Trước khi bước ra khỏi nhà, hắn hăm he chú Cai tuấn Hạp:
- Thầy Bang biện nhắc chú mày nhớ hai dãy ruộng, mầy cư xử sao cho vuông tròn thì xử. Tao như thiên lôi, thầy sai đánh đâu tao đánh đó. Tội lỗi gì đối với Trời Phật nhơn quả, tao không có chịu trách nhiệm đa!
Khi tên thiên lôi kia đã đi khuất mắt, thím Cai tuần Hạp từ trong buồn bước ra, mặt mày bùng thụng bùng thiu:
- Cái thứ đi dụ dỗ đàn bà đó đời nào tui thèm tiếp! Nếu nó còn ở đây cù cưa cù nhầy nói chuyện nhơn nghĩa bao đồng, tui sẽ lấy chổi tẩm cứt gà quét nó ra ngoài sân cho mang xấu!
Cô Thiệt Nguyện cười hòa nhả:
- Thiệt tình chị giận cũng phải, nhưng nếu chị sanh sự vời nó thì mọi chuyện hư hết! Bây giờ, chị cứ hẹn tuần sau tiếp thằng già dê tại đây. Mốt, anh chị hãy gố gắng dọn dẹp hết bàn ghế đồ đạc chở qua nhà ông Năm Tảo, rồi hai bữa sau xuống tàu đi Bạc Liêu. Xứ đó ruộng nhiều, nhơn công ít. Nếu anh chị chí thú làm ăn thì dẫu không giàu cũng có của ăn của để.
Cô lấy một tờ giấy 20 đồng và một tờ 5 đồng:
- Ông bà Năm Tảo chịu mua bàn ghế của anh chị và nhờ tui đưa chị 20 đồng để hộ thân, còn đây là 5 đồng của tui tặng anh chị làm lộ phí.
Cai tuần Hạp xúc động;
- Mấy thứ bán ghế gỗ tạp đấy giá đáng là bao mà ông bà Năm Tảo cho tụi tui tới 20 đồng.. Hôm qua, tui cũng đã bán hết lúa trong bồ được 30 đồng.
Cô Thiệt Nguyện đưa phong thơ cho Cai tuần Hạp, bảo:
- Ôi, bước đầu, tiền càng nhiều càng tốt chớ sao! Anh chị còn phải lo cất chòi ở yên đợi tới mùa gặt. Chừng đó anh chị có thể kiếm chác thêm trước khi mướn ruộng. Hãy đưa bức thư nầy cho người anh bạn dì tui là anh Hương hòa Hiệp, ảnh sẽ chỉ dẫn anh chị đường đi nước bước. Ở xứ đó lo gì chết đói! Cá tôm có sẵn trong rạch sông, ao bàu: lúa mót cũng đủ nuôi sống cả nhà anh chị nửa năm.
Vợ Cai tuần Hạp ứa nước mắt:
- Ơn cô lớn quá, vợ chồng tui biết lấy gì đền đáp dây!
Chị chấp tay toan xá cô Thiệt Nguyện nhưng cô xua tay:
- Chị đừng làm vậy khiến tui tổn thọ! Nếu chị nghĩ rằng từ đây về sau không có dịp nào trả ơn tui thì trên đường đời, hễ gặp người hoan nạn, xin anh chị cứu giúp họ, đó cũng là cách trả cho tui đó.
Vợ chồng xúc động khóc rấm rứt. Số là cÿch đây một tuần, có Thiệt Nguyện có dịp đi xuống Cÿi Sơn chữa bịnh mắc đàng dưới cho con gái ông Hương kiểm Lợi, nghe được vận sự về cô Út Thoại Huê bèn tìm xuống Cái Sơn Lớn để thăm má cô Út. Khi cô đem bó nhang huyền đàn tới mả cô Út hì gặp một chị đàn bà ngồi trước mộ cô Út vừa khấn vái vừa khóc lóc. Chị đờn bà đó chính lá vợ Cai tuần Hạp. Sau khi biết khúc nôi nguồn ngọc, cô khẳng khái hứa giúp đỡ cho vợ chồng Cai tuần Hạp. Cứ cách hai ngày, cô đến viếng thăm gia đình anh ta để bàn bạc.
Vậy là mọi việc đã trù tính xong xuôi. Cai tuần Hạp dù có tha thiết chốn chôn nhau cắt rún mấy đi nữa, cũng phải tìm chốn dung thân mới, trước hết là để tránh điều sỉ nhục, hai là lìa kiếp làm ruộng mướn chịu sự bóc lột suốt đời cha qua đới con.
Trước khi ra về, cô Thiệt Nguyện nhờ vợ chồng Cai tuần Hạp đưa mình ra thăm mộ cô Út Thoại Huê lần chót. Mưa cuối mùa dù có thưa hơn mưa ngâu tháng bảy, nhưng vẫn làm cho đám cỏ tranh trên mộ thêm rậm thêm cao, vẫn làm đám dây choại, dây bìm, dây săn thêm dài... Cô Thiệt Nguyện đánh diêm châm nén nhang bạch đàn thơm ngát cắm trước mộ, khấn vái:
- Cô Út ôi, cô là nạn nhân của ba anh em cậu Hai Luyện, còn tui là nạn nhân của cô Ba Cẩm Tú. Tui sống mà mang sầu chuốc não cũng như cô chết mà ngậm oán nuốt hờn. Song nếu cô hiểu rằng oán chớ cưu mang còn ân phải tìm cách báo đáp thì nên sớm giác ngộ để vong linh được siêu sanh...
Đang khấn vái, cô bỗng cảm thấy tối tăm mặt mũi như bị một tấm màn đen thẳm và lạnh ngắt trùm kín. Trong cơn váng vất, cô thấy một người đờn bà mặt mày tiều tụy xanh xao đến trước mặt mình, nghiến răng:
- Sát nhân thì giả tử, đó là lẽ thừng của luật nhơn quả trả vay, đó là chuyện đương nhiên của tội phước báo ứng! Giờ đây là ban ngày, khí dương đang thạnh, tui sẽ nương theo cô mà thanh toán mối cừu hận đây!
Vía cô Thiệt Nguện hỏi:
- Thưa cô cô là ai?
Người đàn bà dằn từng tiếng:
- Tui là Út Thoại Huê. Cám ơn cô đã tới đây hai lần đốt nhang cho ấm vong linh tui. Nhưng xin cô đừng can thiệp vô chuyện của tui. Cô tu hành, cô lấy ơn báo oán, nhưng đó là chuyện của cô, còn báo cừu rửa hận là chuyện củ tui. Lát nữa đây cô sẽ rõ!
Tới đây cô Thiệt Nguyện vụt tỉnh. Trời đã quá ngọ, cô kiếu từ vợ chồng Cai tuần Hạp để đi bộ về chùa Sơn Thắng nằm giữa Cái Sơn Lớn và Cái Sơn Bé, cách bến Bắc Cỗ Chiên năm trăm thước. Chùa đang làm lễ cúng hạ nguơn nên dập dìu thiện nam tín nữ. Khi cô men theo con đường đất rải ngói vụn từ liên tỉnh lộ đưa vào sát chùa thì thấy cô Ba Cẩm Tú đang đứng hóng gió bên gốc dừa tam qua, nên cô đưa tay vẫy.
Số la hôm nay cô Ba Cẩm Tú bưng quả bánh nướng gồm bánh gai, bánh con duông, bánh hạnh nhơn đi dâng hươn g lạy Phật rồi ở chùa làm công quả. Cô đi chùa cầu Phật Quan Âm phù hộ cho cô sanh con trai để chồng cô mừng. Sau khi dùng bữa ngọ trưa xong, khách hành hương lục tục ra về. Cô còn đợi chồng đến rước nên cô đứng dựa gốc dưa, trước là hứng gió, sau là nhìn ra con lộ coi xe chồng cô tới hay chưa. Vừa lúc cô Thiệt Nguyện trờ tới đưa tay vẫy vẫy nhưng cô chỉ thấy cô Út Thoại Huê, tay cầm roi cá đuối hươi lên sẵn sàng đánh cô. Trời ơi, làm sao cô lầm được! Rõ ràng là cô Út Thoại Huê, mặt trẹt có nút ruồi duyên bên mép, mặc chiếc áo bà ba bằng lụa cẩm cúc màu vàng, chiếc áo mà cô mặc hôm uống chén thuốc phá thai sắc bằng cỏ càn ngươn! Kinh tâm táng đởm, cô Ba Cẩm Tú chạy trối chết vào sân chùa, miệng la bài hải. Thình lình cô trượt té vì miếng vỏ dưa gang ai vừa liệng trên lối đi...
Cô Thiệt Nguyện chạy lại đỡ cô lên:
- Sao em bỏ chạy vậy? Chị có làm gì em đâu?
Cô Ba Cẩm Tú vụt mở mắt:
- Ủa, chị là... Sao mới đây em thấy con Út Thoại Huê đến đây lấy roi cá đuối đánh em?
Bầy giờ cô Thiệt Nguyện mới hiểu lời nói của cô Út Thoại Huê: "Lát nữa đây cô sẽ rõ". Cô vừa an ủi vừa đỡ cô Ba Cẩm Tú dậy thì thấy máu loang đỏ ối từ đũng chiếc quần sa teng tuyết nhung trắng của cô Ba. Vừa lúc đó thì bác sĩ Lê Thanh Mậu lái xe tới, nhưng cô Ba đã chết giấc khi thấy máu tuôn ướt quần mình.
Cô Ba Cẩm Tú cầm được máu vì gần chùa có bà xẩm chuyên nghề châm cứu nhưng về nhà, bụng cô cứ đau âm ỉ. Cũng hôm đó, cô đang nằm nghỉ trong phòng thì bên ngoài trời nổi cơn mưa lớn, sấm sét rầm rĩ. Bỗng một cú sét đánh quát vào trung đường, tiếp theo là tiếng nổ thiệt lớn khiến tai cô muốn điếc, đầu óc thiếu điều rạn nứt. Sau đó con Hiệu, đứa tớ gái, từ ngoài chạy vào báo cáo:
- Thưa bà, cái trang thờ bùa bị sét đánh bể tan nát hết rồi!
Cô Ba Cẩm Tú rụng rời. Gói bùa gồm những củ ngải trong vuông lụa đỏ có vẽ hình và chữ ngoằn ngoèo bằng kim nhũ lóng lánh cô vừa thỉnh từ Tịnh Biên về được đặt trong một chiếc trang thờ, nời đó bóng đèn trứng vịt được tháp sáng cả ngày lẫn đêm.
Khi cô Ba bước ra trung đường thì chiếc trang đã bị đánh rớt xuống bàn thờ ông bà, mấy mảnh ván bằng gỗ thùng thông đè sập bức họa truyền thần tía má chồng cô, làm kiếng bể tung tóe. Gói bùa bọc lụa đã cháy, bốc mùi khét nghẹt. Cô dập tắt lửa, kinh hoảng thấy chẳng những lớp lụa bên ngoài cháy thành tro mà mấy củ ngải bên trong cũng đã thành than đen!
Tuần lễ sau, cô Ba Cẩm Tú đau bụng kinh khủng, Bác sĩ Lê Thạnh Mậu vội đưa cô vô nhà thưng tỉnh, hiệp cùng bác sĩ trực tháo máu ứ đọng trong tử cung cô. Và đau khổ cho ông biết bao, cái thai cũng theo máu ra ngoài! Cô phải nằm nhà thương mất một tuần. Chồng cô không dám tiết lộ chuyện sẩy thai cho cô biết.
Khi về nhà, bác sĩ Lê Thạnh Mậu lực lúc cô tỉnh táo minh mẫn, mới nói hệt tự sự cho cô nghe. Cô khóc rấm rứt:
- Mình tuy chưa nói, em cũng đoán ra sự việc rồi, từ lúc sét đánh sập trang thờ bùa.
Từ đó cô sầu não, ăn không ngon ngủ không yên. Rồi cô nghi cô Thiệt Nguyện dùng bùa phép đội lốt đội hình cô Út Thoại Huê để nhát cô. Chẳng cần phải chạy trợt té, nội cơn sợ khủng hiếp cũng đủ làm cô hư thai rồi! Cô tự hứa mình phải trở lại Tịnh Biên để chuộc bùa đậu thai, luôn tiện chuộc luôn bùa ếm cô Thiệt Nguyện cho cô nọ phải chết thảm thiết.
Ba Bang biện Hưỡn được con gái báo tin sẩy thai, song bà không khiếp sợ lậu. Bà nghĩ rằng Thạch Eng tuy già tay ấn nhưng chưa phải thứ xuất chúng. Bà phải đem hai cô con gái cưng xuống Tịnh Biên thêm lần nữa vì bà nghe tiếng phù thủy Kim Ba ở gần bến chợ có tài làm đá hóa ra vàng, biết điều khiển âm binh giết kẻ thù ở xa, các cả ngàn cây số. Cho nên bà vẫn tạo ác nghiệp đều đều, vẫn hành hạ tôi tớ và thằng con riêng của chồng, vẫn đánh chửi con nợ, vẫn xéo xắt với tá điền tá thổ.
Một hôm bà Bang biện Hưỡn gọi Cai tuần Xướng tới truyền lịnh:
- Nè Tuần, con vợ thằng Hai Hoạch ở gần đến Văn Thánh nợ tao bốn chục đồng từ hồi đầu năm tới giờ chưa trả. Mày rình coi nhà nó có món chi đực giá thì cho tao hay, để tao tới xiết mang về, chừng nào nó trả cà vốn lẫn lời, tao mới cho chuộc.
Cai tuần Xướng ra công rình rập nhà Hai Hoạch nhưng suốt tuần bà Bang biện vẫn chưa thấy hắn báo cáo. Sáng hôm đó cô Ba Cẩm Tú từ Cầu Lầu qua Cầu Đào thăm tía má mình. Bà Bang biện bày bánh khoai lang chiên ăn cặp với rau sống chấm nước mắm giấm ớt. Cô Ba bảo mẹ:
- Con qua đây hỏi má định coi chừng nào má con mình đi Tịnh Biên?
- Con nên viết thư cho con Tư, rủ nó cùng đi. Cái bùa của thằng Thạch Eng coi bộ hơi yếu, phải đổi bùa khác cho chắc ăn.
Giữa lúc đó Cai tuần Xướng mặt mày hí hửng từ ngoài cửa ngõ bước vào, chấp tay xá xá má con bà Bang biện Hưỡn, Bà quở:
- Hổm rày mầy chui ngõ ngách nào mà biệt tăm biệt dạng vậy? Nhờ mầy có chút việc mà mầy đánh lừa đánh đảo lánh mặt tao thì còn nước non gì?
Cai tuần Xướng gãi đầu:
- Xin bà chớ phán như vậy mà tội nghiệp tui. Tui ra sức rình rập nhà Hai Hoạch, biết được nó có giàn máy hát và một chồng dĩa. Tối nào vợ chồng nó cũng mở máy hát cho người trong nhà và lối xóm cùng nghe.
Ba Bang biện Hữn mừng rỡ, gọi thằng Xiêm, thằng Đực sắp đặt kế hoạch để tối nay cùng ào vô nhà Hai Hoạch xiết nợ, Bà không quên thửng Cai tuấn Xướng hai nải chuối sữa, một trái mảng cầu xiêm và dặn y ta ngầy mai rình nhá thím Bảy Ớt ở Cầu Dài vì thím còn thiếu bà ba chục đồng mà cả bốn tháng nay chưa trả tiền lời chớ nói gì tiền vốn.
- Thưa bà, thưa cô Ba, hỗng phả đêm nào anh Hai Hoạch cũng cho chạy dĩa hát máy đâu! Nghe nói mốt đây ảnh làm đám giỗ cho ông nhạc, ảnh sẽ chạy dĩa hát trong hai bữa giỗ tiên lẫn giỗ chánh cho xôm tụ, chừng đó bà tới xiết mới chắc ăn.
Vậy là hôm giỗ chánh tại nhà Hai Hoạch, thừa lúc gia chủ cho chạy dĩa hát thì bà Bang biện Hưỡn cùng thằng Xiêm, thằng Đực xông vào. Trong khi bọn đờn ông kẻ ôm chồng dĩa, người ôm giàn hát máy thì bà cất tiếng rổn rảng, chửi:
- Mồ tổ cha tụi bay, thiếu nợ tao cả năm không trả còn bày đặt làm đám giỗ rình rang! Tao nói cho bây biết, mốt bây không đem 40 đồng bạc vốn, bốn đồng bạc lời tới nhà tao thì giàn hát máy nầy và chồng dĩa kia thuộc về tao luôn!
Bà bước tới mâm cúng trên bàn thờ, cầm bát nhang còn cháy đỏ liệng ra ngoài sân rồi hét bọn tùy tùng ra về.
Riêng cô Tư Cẩm Lệ, vừa được thơ chị mình, liền sắm sửa quà cáp chờ chồng lái xe đưa mình ra bến tàu Nguyễn Văn Kiệu (Sau gọi là bến Bạch Đằng) để cô đáp tàu thủy đi Vĩnh Long. Cái thai cô được năm tháng nên bụng cô đã đội áo, ngó lum lúp như cái gò mả đã lạn. Cô đem về nhà cha mẹ mình toàn những món ngon đương mùa, nào là cá chái kho sẵn đựng trong thố sành, náo sầu riêng, măng cụt, lôm chôm, bòn bon...
Tối hôm đó, thừa lúc ông Bang biện Hưỡn và bác sĩ lê Thạnh Mậu đi nhậu, bà Bang biện dặn con Lài nấu cho mẹ con bà nồi cháo thập cẩm và pha thêm một bình trà thiệt ngon. Ba mẹ con trải chiếu bông trên bộ divan cẩm lai rồi bày gói thêu ra vừa nằm vừa trò chuyện.
Cô Tư Cẩm Lệ trách mẹ:
- Má có thấy thầy Mười Khôi đoán điềm giải mộng hay thần sầu không? Vậy mà bữa hổm má tỏ ra giận ghét thẩy!
Cô Ba Cẩm Lệ sực nhớ:
- À quên, con có nghe thầy Mười Khói quen nhiều tay thầy bùa, thầy lỗ ban ở Long Xuyên, vậy má nên đật một mâm nhậu nho nhỏ để đãi thầy, luôn tiện nhờ thầy chỉ đường đi nước bước để má con mình tìm thầy giải nạn trừ hung.
Ba Bang biện nói xuôi:
- Lời con nói nhằm lẽ lắm! Thiệt tình bữa hổm má có hơi nóng!
Bà kêu con Lý,, đưa nó hai đồng bạc, dặn nó sáng mai mua bốn ký tôm càng thiệt ngon để dọn mâm rượu, phần thì trộn gỏi, phần làm chả huế, còn thì làm món tôm bún. Bà cũng dặn nó mời thầy Mười Khói xế mai đến Cầu Đào dể nhậu nhẹt với chồng bà.
Sau khi con Lý trở xuống bếp, cô Tư Cẩm Lệ lo lắng bảo mẹ và chị:
- Con cũng báo cho má với chị Ba hay, cái trang bùa của con bị sét đánh tan tành hết trọi.
Hỏi ra thì cái trang thờ bùa của cô Tư chịu chung số phận với cái trang thờ bùa của cô Ba cùng một ngày một giờ. Mặt mày ba mẹ con tái mét vì sợ. Cô Tư bồi thâm một tin khủng khiếp nữa:
- Chưa hết đâu má! Sau đó ba hôm, hai đứ con ghẻ của don đi viếng mả mẹ tụi nó, thấy sét đánh cách nào không biết mà ngôi mộ vẫn còn y nguyên, duy bốn cây cọc vẽ bùa bị bạt tung lên, nằm ngổn ngang quanh mộ.
Bà Bang biện Hưỡn chết lặng một giây, song bà trấn tĩnh liền:
- Còn nước còn tát, khuyên con chớ quá kinh hãi mà động tới cái thai. Đẻ má xuất tiền cho sư dô Trí Năng ở am Thường Tịnh làm chay và cầu siêu sanh cho con vợ trước của chồng con, để nó siêu sanh nơi an bang tịnh độ, khỏi theo quanh quẩn mà báo oán con hoài!
Thiệt tình bà Bang biện nói liều để an ủi hai cô con gái, nhưng nói xong bà chợt thấy mình cao kiến. Tuy mẹ con bà không rành kinh kệ nhưng cả ba đều có nghe đâu đó sự linh ứng của việc lập trai đàn cầu siêu. Cô Ba Cẩm Tú cũng an ủi em:
- Má nói phải đó Tư à! Chị nghe nói vong linh người chết được thân nhơn lập đàn chay cầu siêu, thừng hiện hồn về cảm tạ trước khi được sanh vào nơi giàu sang phú quí.
Hôm sau thầy Mười Khói xáchh dù đến Cầu Đào dự tiệc. Vì có cậu Hai Luyện về nghỉ cuối tuần nên bà Bang biện cho làm thêm con vịt cà cuống để nấu cháo. Tới lúc thực khách ngà ngà, bà Bang biện Hưỡn mới đem ý định của mình ra bày tỏ. Thầy Mười Khói cười, nói:
- Ở chợ Ba Si làng phước Thạnh, tỉnh Trà Vinh có thầy Năm vốn là một địa tiên chuyên làm thuốc cứu nhơn độ thế, làm bùa đối trị bùa ếm để giải nguy cho bá tánh. Chẳng ai biết gốc gác thầy ở đâu, nhưng thầy về chợ Ba Si hồi năm Mậu Dần, không có mang theo gia đình, bạn hữu gì ráo! Thầy xưng là thầy Năm Lê Thái Sanh, tu theo pháp Mật Tông, tuy ăn chay nhưng chỉ ăn rau cỏ và trái cây chớ không dùng ngũ cốc. Thầy thường tỏ ra cho những thân chủ hết lòng giúp đỡ thẩy biết rằng thầy của thẩy là đức Đông Hoa đế quân, thường hiện xuống núi Tà Lơn vào mỗi kỳ rằm nguyên tiêu, dạy thẩy tu theo phép hút lấy thần khí mùa xuân và của cỏ cây, trước là làm cho mình mạnh khỏe, trẻ mãi không già, sau là để làm tiên đơn thánh dược giúp đỡ người khác...
Ông Bang biện hỏi:
- Còn bùa đối trị bùa ếm thì thẩy học ai?
- Cũng do đưa Đông Hoa đế quân dạy chớ ai vô đó! Cái sứ mạng cứa nhơn độ thế của thầy Năm là 24 năm. Sang năm Ất Dậu, gặp lúc thế gian chịu cảnh nắng lửa mưa dầu, thầy sẽ qui tiên, giao sứ mạng cho người khác.
Cô Tư Cẩm Lệ mừng lắm, bảo mẹ:
- Nếu vậy thì hay lắm. Trà Vinh gần tỉnh mình, chồng con có cô em con nhà chú ở chợ Ba Si, tiện chỗ cho ba má con mình tá túc vì nhà của cổ mát mẻ rộng rãi lắm.
Bà Bang biện Hưỡn liền tặng thầy Minh Khói một con gà mái dầu, một cân lạp xưởng, một cân mì xạ, một chụa quít đường. Bà sai hai cô con gai làm bốn ngăn quả đựng bánh hấp như bánh bò bông, bánh thuẩn, bánh bột lọc, bánh qui, bánh da lợn để con Lý đem tới am Thường Tịnh. Kèm với bốn ngăn quả bánh, bà giao cho sư cô Trí Năng năm chục đồng bạc để làm chay đàn cầu siêu cho cô Tư Thục, cố thê của thầy kiện Trần Hảo Hiệp.
Ông Bang biện Hưỡn thấy mình phong phú sức khỏe, dào dạt sóng tình, hực hừng lửa dục, bèn kêu Cai tuần Xướng:
- Mầy phải giao hẹn với vợ chồng thằng Cai tuần Hạp cho chắc. Tao không muốn tụi nó trì hưỡn chuyện đó. Cái bụng cỏn chỉ chừng một thàng nữa là bự chang bang như cái chảo úp thì... hư bột hư đường ráo trọi! Mầy nói với tụi nó là tao muốn gặp con vợ nó tối mai.
Cai tuần Xướng liền tới nhà Cai tuần Hạp. Nhà cửa đóng im lìm. Ngoài hàng ba, là rụng ngổn ngang. Lúc đó trời đã xế trưa, ánh nắng vàng vọt nhuộm buồn cảnh vật chung quanh. Một con mèo muôn nằm gần áng nước, thấy có người lạ liền chậm rãi bước về phía hàng rào xương rồng rồi chui qua lộ hổng ra ngoài. Cai tuần Xướng lớn tiếng gọi:
- Có ai ờ nhà không?
Trong nhà có tiếng đờn bà vọng ra:
- Anh Bảy đó hỏa? Cửa không gài, mời anh vô.
Cai tuần Xướng đẩy cửa bước vào. Nhà trống trớn, chỉ còn trơ chiếc chõng tre trải chiếu đậu. Một thép dầu mù u đặt ở đầu giường. Vợ Cai tuần Hạp mặc bộ đồ trắng ngồi bên mép chõng, tóc tai dã dượi, bảo:
- Đồ đạc trong nhà đã bán hết để chồng tui lấy tiền đóng thuế thân. Ảnh đem sắp nhỏ về viếng thăm bà dì của ảnh ở Lộc Hòa, nhà chỉ còn có mình tui. Vậy anh nên về nói với ông Bang biện Hưỡn tối nay ổng tới đậy tiện hơn. Tôi cũng đã giặt sẵn chiếu mùng đợi ổng.
Cai tuần Xướng tán thành:
- Tối nay có trăng, tiện lắm.
Rồi anh ta hỏi cho có chuyện:
- Thím có đau ốm gì không? Sao lại nằm dã dượi một mình trong căn nhà đóng cửa tối mờ như vậy?
Vợ Cai tuần Hạp cười gượng:
- Tui có đau ốm chi đâu! Bởi vì thai hành nên tui cứ sật sừ sật sưỡng vậy mà! Tui cũng mới vừa uống thang thuốc dưỡng thai do ông Năm Tảo hốt nên cũng thầy đỡ.
Rồi chị ta giục:
- Thôi, anh kíp về báo tin cho ông Bang biện mừng. Tui vừa sắm cục xà bông sả, sẽ tắm gội cho da thịt thơm tho, để... tiếp ổng.
Giọng người đàn bà vừa lẳng lơ vừa se sắt làm Cai tuần Xướng rợn cả người, nhưng biết chị ta bằng lòng tiếp ông Bang biện Hưỡn là anh ta đủ mừng rồi.
Xế đó, ông Bang biện Hưỡn sai con Lý, con Lài dọn ông một tiệc tượu nhỏ để ông cùng Cai tuần Xướng cụng ly. Ông cao hứng bảo tên nha trảo tâm phúc:
- Xong cái vụ vợ thằng Cai tuần Hạp, mầy nên bắt tay lo vụ em gái anh Hương bộ Lại cho tao.
Ông đặt vào tay Cai tuần Xướng một phong bao:
- Mầy cứ ăn nhậu cho đã đời đi. Còn tao, tao chỉ có thể nhậu sương sương thôi. Tối nay nếu say li bì thì còn làm ăn giống gì được! Tao tặng mầy hai chục bạc này để uống trà.
Ông lôi chai rượu thuốc ngâm xác con chim bìm bịp phơi khô ra nhâm nhi. Đó là rượu tráng dương mà Cai tuần Xướng bổ cho ông hồi Tết vừa rồi. Trong tủ buýp- phê của ông cũng đã có hủ rượu ngâm cắc kè bông, một thứ rượu dương khác.
Sau bữa tiệc, Cai tuần Xướng say hoắc cần câu, phải vịn vai thằng Đực để về nhà. Còn ông Bang biện Hưỡn đánh một giấc thiệt đã. Khi ông thức dậy thì trời đã chạng vạng. Mâm cơm chiều cọn lên, ông ăn thiệt ngon miệng vì có món canh cá khoai nấu ngót mà ông rất ưa. Xong xuôi ông đi tắm, cạo râu, xịt dầu thơm và mặc bộ đồ bà ba bằng lục soạn trắng.
Tay xách đèn tán chai, ông chậm rãi đến nhà Cai tuần Hạp. Lúc đó vầng trăng mười ba khá tròn, rải ánh sáng khắp nơi. Vùng ngoại ô tỉnh lỵ dập dìu người đi chơi trăng. Ông Bang biện Hưỡn đi sâu hướng xóm Đình Khao, bước qua cầu sát lót ván, rẽ vô vùng thôn ổ tận rạp cây dâu miền dưới, bụi tre gai, khóm tầm vông.
Đây rồi! Nhà Cai tuần Hạp đây rồi! Mái lá lợp nhô khỏi chòm cây đen thẳm, bên kia lối đi đắp đất lươn song song với dòng rạch lấp loáng ánh trăng. Cửa ngõ không gài, ông đẩy cánh cửa bước vào lối đi ngắn và hẹp viền những cây kim quát trổ bông thơm ngát để bước vào vuông sân ngổn ngang là vàng. Mái hiên tối mờ mờ, nhưng có ánh đèn chong le lói qua mắt cáo. Ông Bang biện Hưỡn tằng hắng:
- Có ai trong nhà không?
Tiếng đờn bà lảnh lót vọng ra:
- Ông Bang biện đó phải không? Cửa không có gài chốt, mời ông vô kẻo lạnh.
Một trận gió lốc nổi lên, lá vàng bay thốc. Ông Bang biện đẩy cửa vô. Vợ Cai tuần Hạp nhõng nhẽo:
- Sao trể vậy? chờ ông xốn xang tấc dạ vậy đó!
Ông Bang biện cười mơn:
- Qua đây cũng trông đứng trông ngồi, mong trời mau tối...
Ông ồm chầm lấy chị ta, vuốt ve cái bụng chửa lùm lùm của chị, hun hít. Mà ủa lạn, sao mình mẩy chị ta lạnh ngắt. Ông hỏi:
- Sao mình mẩy em như ướp nước đá vậy?
Vợ Cai tuần Hạp háy ông bằng cặp mắt có đuôi:
- Thì em phải tắm rửa sạch sẽ để tiếp ông. Ngặt vì lóng rầy em yếu trong người, gặp nước lạnh về chiều nên da thịt mới như vậy. Ông úm em một đỗi thì em ấm lại liền!
Ông tiếp tục hun hít, ấp ủ người đàn bà. Quả nhiên da thịt chị ấm lại dần. Nhưng khi ông muốn bóc hết lớp quần áo che thân chị thì chị đề nghị:
- Ngoài sau vườn em có một cây rơm, chỗ đó quanh năm suốt tháng chẳng ai lai vãng. Đêm nay có trăng, tụi mình ra đó gẫm có thú vị hơn không?
Ông Bang biện Hưỡn khoái quá, gật gù khen ngợi:
- Thiệt qua không ngờ em... cao kiến như vầy, hiểu chuyện phong lưu tao nhã lắm. Vậy thì mình cùng đi!
Cả hai sóng bước ra ngoài nhà sau. Quả thiệt có cây rơm bên cạnh cái ao. Ven ao là cây gừa, Đom đóm bám vào từng chiếc là, ánh sáng chớp tắt liên hồi. Trăng bây giờ lên cao, thu nhỏ lại, sáng như phiến gương làu làu nước thủy. Quanh ao tiếng vạt sành kêu râm ran. Chốc chốc có tiếng cá ăn móng.
Ông Bang biện Hưỡn bước cạnh người đờn bà, chốc chốc lại quay qua nhìn chị cười mơn. Bỗng ông lạnh mình. Ô hay! Người đàn bà đi cạnh ông rõ ràng là cô Út Thoại Huê. Ông buốt miệng kêu: "Trời ơi!" rồi đưa tay dụi mắt. À thì ra ông nhìn lầm, vợ Cai tuần Hạp chớ không ai khác. Người đờn bà gặng ông:
- Ủa, sao ông kêu trời vậy?
Ông Bang biện Hưỡn nói lảng:
- Không, có gì đâu! Tại qua thấy em đẹp nên buột miệng vậy mà!
Vợ Cai tuần nhìn ông đăm đăm như thôi miên:
- Thiệt không đó? Hay ông tưởng em là cô nào khác?
Ông Bang biện cười dã lã:
- Thôi mà em, em nói chi chuyện tầm phào cho mất vui!
Người đờn bà khi tới gốc cây rơm, nằm dài ra, giọng ỏn ẻn thẽo thợt:
- Mình ơi, em đây nè. Mình có chiên xào, kho nấu em cách nào, em cũng vui lòng hết.
Chị lột hết quần áo ông, ôm sát vào người chị rồi bất ngờ siết thiệt chặt làm ngực ông muốn vỡ vụn. Chị ta cười hăng hắc, sắc lạnh như từng gáo nước dội lên mặt, lên sống lưng ông. Ông Bang biện sững sờ nhìn chị. Trời ơi, rõ ràng là Út Thoại Huê đây mà! Quả nhiên người đờn bà the thé:
- Con quỉ dâm dục, con quỉ súc sanh từng làm nhơ các thai phụ để họ phải chịu nhục nhã vì ô danh xủ tiết! Cả nhà Cai tuần Hạp đã vì mầy mà lìa quê lìa quán, đem thân cầu thực xứ người! Bọn họ đi Bạc Liêu từ hai hôm rồi, tao phải giả dạng chị vợ để răn dạy mầy!
Nói tới đây, cô Út Thoại Huê thổi một làn hơi lạnh buốt lên mặt ông bang biện Hưỡn khiến ông lịm đi.
Sáng hôm sau, mấy người đờn bà hái rau dại trong xóm phát giác ông Bang biện Hưỡn nằm im lìm bên mộ cô Út Thoại Huê, liền tri hô lên. Mấy lực điền xúm lại, lấy chiếu đắp lên thân thể trần truồng của ông, rồi hơ lửa cạo gió, xức dầu... Chừng nửa tiếng đồng hồ sau, ông bắt đầu thở thoi thóp.
Sau khi hỏi han gốc tích, họ đưa ông Bang biện Hưỡn ra bến sông Cổ Chiên, dùng xuồng đưa ông về bến chùa Bảy Phủ và võng ông về Cầu Đào. Sau đó ông bị á khẩu, câm luôn.. Ông còn bị bán thân bất toại, nằm ngồi một chỗ. Khi mắc tiêu tiểu, ông phải lết tới cầu xí một cách khó nhọc.
Bà Bang biện Hưỡn khi đi chợ Ba Xi chuộc bùa về chẳng những không vui mà còn thấy chồng bịnh hoạn như vầy thì vừa rầu vừa lo. Thầy Năm Lê Thái Sanh vừa khi diện kiến mẹ con bà, đã bảo:
- Trị bịnh là chuyện nhỏ, còn trị được cái ác nghiệt hay không là một chuyện tỉ như hột muối thả xuống dông, nước sông làm sao mặn cho được! Tui coi qua sắc diện bà và hai cô đây từ ấn đường đã có vệt đen ửng ra rồi! Đây là ác quả hiện hành, ác báo phát tác. Bà và hai cô nên tụng kinh niệm Phật cho siêng, làm việc bố thí cho nhiều thì họa may mới cạy gỡ được phần nào móng vuốt của ác quả ác báo đó.
Bà Bang biện dù lo dù rầu bởi lời nói của thầy Năm Lê Thái Sanh nhưng vẫn không ngưng việc bòn tro đãi trấu, hành hạ xéo xắt kẻ dưới tay mình. Hễ việc làm ăn không trôi chảy, bà kiếm chuyện đánh chửi Bửu, coi việc nuôi cậu trong nhà là nuôi kẻ đem oan nghiệt và xui xẻo cho mình.
Một hôm, cô Tư Cẩm Lệ từ Sài gòn hớt hơ hớt hải báo tin:
- Nguy rồi má ơi, sáng hôm qua con đốt nhang trang thờ bùa thì thấy gián cắn lá bùa lam nham. Làm sao đây má?
Ha mẹ con ngồi lo rầu không biết gỡ rối cách nào thì tới xế chiều, cô Ba Cẩm Tú tay che dù, tay xách bóp từ Cầu Lầu qua thăm. Cô vừa khóc vừa thuật:
- Hổm rày, tối tối con nghe chuột kêu chít chít ở mấy bàn thờ nên mừng thầm vì nghĩ đó là điềm hên. Ai mà dè sáng nay con ở của con chưng bông, cúng nước trên trang thờ thì thấy gói bùa bị chuột cắn nát ráo trọi rồi!
- Khuôn mặt em đúng là có hồng quang phát hiện. Em có tướng sang bẩm sinh. Trời sanh em ra để em làm mạng phụ phu nhơn đó.
Cô Hai Túy Ngọc nhìn lom lom bóng mình trong kiến. Tóc cô chải bảy ba, đen bóng như huyền giồi, mặt cô ửng hồng và sáng rỡ, môi cô mọng thắm, mắt ngời ngợi sóng thu. Hôm nay cô Thiệt Nguyện dạy cô bới đầu lèo, cái búi tóc hình bánh tiêu được bao lưới giắt trâm nhấp nháy.
Cách đây ba ngày, ông Huyện Khải cậy hai bác của mình là ông bà Hai Trưởng đứng chủ hôn và vợ chồng thầy giÿo Thiệt làm mai đi coi mắt cô Hai Túy Ngọc. Bà Chín Thẹo và cô Thiệt Nguyện lãnh phần lo trà rượu tiệc tùng. Đàng trai đưa cho đàng gái hai trăm đồng lo lễ cưới. Sình lễ gồm đôi vòng cẩm thạch xanh nước lý mà ông Huyện Khải đào được ở nền nhà cũ, một đôi bông hột xoàn cỡ năm ly rưỡi, một chiếc kiềng vàng nặng một lượng, một chiếc trâm cẩn sáu hột xoàn hai ly, một chiếc cà rá nhận hột ngọc lựu. Ngoài ra ông còn tặng cô dâu xấp gấm đỏ, xấp nhiễu xanh da trời để may áo cặp, một xấp cẩm nhung trắng để may quần.
Cô Ba Túy Nguyệt được chị mình tặng những món nữ trang do ông bà Năm Tảo sắm cho gồm chiếc vòng vàng chạm bát bửu, sợi dây chuyền có miếng mề đay cẩm thạch tạc hình tượng Quan Âm. Cô rất mừng cho chị mình lấy được chồng sang.
Bà Bang biện Huỡn cùng hai cô con gái đi Tịnh Biên về, mặt mày cả ba đều hớn hở. Thạch Eng và Cà Nựng đã dắt bà đến thầy của họ là Lâm Xâu để chuộc bùa, chuộc niệc đeo cổ hầu chống lại sự báo oán của các oan hồn. Kỳ về nầy, bà mua nào là lụa cẩm châu, lãnh tân châu, mắm thái, khô sặt, mắm cá trèn để dùng và biếu xén những nơi quen biết.
Ông Huyện Khải cậy ông Năm Tảo sắm bàn ghế khi túp nhà lá gần bên đã sử chữa xong. Ông cũng bỏ tiền ra mua chiếc divan cẩm lai đặt ngăn bên chái túp nhà. Sau đó ông mới chở ông Bác vật Cảnh, người em họ nhà chú của ông về dưỡng bịnh.
Ông Năm Tảo có qua chẩn mạch, hốt thuốc cho người đờn ông bất hạnh kia để ngăn bịnh cùi chậm phát tác và làm giảm đau. Ông khuyên đương sự:
- Bịnh chửa khỏi hay không chi do thấy thuốc có một, nhưng do số trời, do nghiệp quả tới mười.. Ông Bác vật nên tụng thêm kinh Phổ Môn và kinh Dược sư Lưu ly quang để nhờ tha lực của đức Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát cùng đức Dược Sư độ trì.
Bác vật Cảnh làm thinh, không nói gì.. Ông Năm Tảo đi thăm thú khắp vườn sao ngõ ngoài, chỗ ẳn cư mới của Bác vật Cảnh. Đâu đó được làm cỏ và quét tước sạch sẽ. Buồng ngủ có tủ áo nạm kiếng hình hột xoài, divan cẩm lai. Phòng khách có bảy bàn tròn và ghế bằng dây mây bện rất mỹ thuất. Bên chái là tủ kính đựng đầy sách báo và những món ngoạn khí bằng sành, sứ, gỗ quang dầu bóng lộn. Ông Năm Tảo mở gói giấy lấy hai tấm rèm màn bằng vải do cô Ba Túy Nguyệt may và thêu đục lỗ, bảo ông Bác vật căng ở hai bên xửa sổ. Ông cũng không quên mở cần xé, lôi ra nào ấm nhôm, hỏa lò, than cần đước, bộ đồ trà... và bảo:
- Ông chỉ phải sắc thuốc, pha trà, còn cơm nước thì ngày ba bữa, con gái tui sẽ đem qua cho ông dùng:
Khi tiễn ông Năm Tảo ra ngõ, Bác vật Cảnh buồn rầu bảo:
- Ông Năm thiệt chu đáo trong việc sắp xếp chỗ ăn chỗ ở cho tôi. Ơn ông không biết bao giời tôi mới trả nổi đây! - Và ông nhấn mạnh - Tôi không phải là kẻ duy tâm nên không tin tưởng Trời Phật, song tôi vẫn hằng tâm niệm giữ tròn nhân lễ nghĩa trí tin. Mắc bịnh ngặt nghèo nầy, tôi chỉ tin tưởng vào thuốc thang mà thôi.
Cô Thiệt Nguyện vẫn đi doọc theo cồn bãi nắm trong lòng sông Cô Chiên để chửa bịnh mắc đàng dưới cho phụ nữ. Cô lập đàn tràng cầu nguyện cho các oan hồn mà thân thể đã chìm sâu đáy nước. Cô cũng ếm bùa ngăn bọn thủy quái lộng hành, phá phách bá tánh cư ngụ ven sông.
Cậu Hai Kinh lý Luyện vẫn tiếp tục đo đất ở Mỹ An, Hòa Mỹ, An Hương. Cậu đang nhắm vào cô Ba Hưởng, con gái chú Thường xuyên Hiếu ở Hòa Mỹ và cô Hai Thiều, con gái Hương nhứt Điều ở An Hương.
Cô Ba Cẩm Tú ốm nghén được ba tháng. Chồng cô khám thai cho cô và bảo rắng cái thai bình thường. Vì cẩn trọng, sợ lỡ trợt té mà sảo thai nên cô bắt chồng dời phòng ngủ vốn lở lầu trên xuống từng trệt cho chắc ăn.
Cô Tư Cẩm Lệ theo chồng về Sài gòn sau khi từ Tịnh Biên về Vĩnh Long một tuần. Vô cậy có bùa niệc trấn ếm nên vẫn giữ thói xéo xắt và hành hạ con ghẻ. Cô tìm cách lên đất Hộ, tỉm mả cô Tư Thục, đem bốn cọc tre vó vẽ bùa cắm lút cán ở đầu, chân và hai bên hông mộ. Cái thai cô lật bật đã được bốn tháng. Cô ăn được ngủ được. Trong giấc chiêm bao, cô không hế thấy cô Tư Thực hiện hồn về đòi mạng nữa.
Còn ông Bang biện Hưỡn đã được Cai tuần Xướng dàn xếp để ăn nằm với vợ Cai tuần Hạp. Ngặt vì bịnh cúm làm ông tối tăm mày mặt mãi nên ông chưa đưa vợ Cai tuần đến tổ quỉ của mình ở cầu Kinh Cụt mà thôi.
Chú Cai tuần Hạp làm mướn hai dãu ruộng của ông Bang biện Hưỡn, mỗi năm phải đóng cho chủ điền 300 giạ lúa, năm nào được mùa thì còn dư 150 giạ. Cách đây ba năm, vì bà Chín Én, mẹ vợ của chú đau nặng, nên vợ chồng chú phải bán rẻ 50 giạ lúa lấy tiền lo thuốc thang. Nhưng thuốc thang không qua số mạng. Khi bà Chín Én chết đi, chú phải bán thêm 50 dạ lúa nữa để làm ma chay cho nhạc mẫu. Tới chùng đóng thuế thân thì chú chới với vì số lúa còn dư không đủ cho hai vợi chồng và bốn đứa con sống trọn năm. Bởi đó, vợ chú phải đem thân ở đợ cho gia đình ông Bang biện để trừ số lúa vay của họ.
Hôm nay Cai tuần Xướng có dịp đi Cái Sơn Bé, ghé qua nhà Cai tuần Hạp. Nhà chú ở cuối xóm, cách xa con liên tỉnh lộ cỡ 500 thước, cạnh một dòng rạch nhỏ iền cây dừa nước rậm rạp. Nhà vách lợp lá xé, mái lợp lá chầm gồm một gian và một chái. Cái chái sát gần bên ao đầy điên điển trổ hoa vàng. Rạch dừa nước thì ở phía trước, cách hàng rào bông bụp khoảng năm thước. Song song với dòng rạch là con đường đắp đát. Nhà nằm giữa bốn công đất nhỏ có trồng vài bụi chuối, vài cây ổi, dăm cây khế. Trong nhà, ngoài bàn thờ bằng gỗ thao lao, còn có bộ ngựa gỗ tạp, chiếc bàn dài bằng gỗ mù u và bốn chiếc ghế đẩu mỗi bên.
Cai tuần Hạp tuổi cỡ ba mươi ngoài, đen đúa, mặt mũi hiền lành, ở trần trùi trụi, bận quần xà lỏn đen đã phai màu. Còn vợ Cai tuần Hạp tuổi gần ba mươi, dung nghi nghiêm chỉnh, nước da khá mởn, ngặt vì đang chửa nên mặt mũi chao vao. Trong nhà lúc đó còn có một người đờn bà trạc tuổi thím Cai nhưng mặt mũi sáng sủa, nước da trắng trẻo. Cai tuần Hạp bảo Cai tuần Xướng:
- Ne anh Bảy, chắc anh cũng biết cô Thiệt Nguyện đây thường qua bên Cồn trị bịnh mắc đàng dưới cho đờn bà đất Vãng mình.
Cai tuần Xướng gật đầu khen:
- Có, tui có nghe. Làm phước thì để đức cho con cháu.
Cô Thiệt Nguyện mỉa mai:
- Còn a tòng theo bọn cường hào bác ác bá để xúi phụ nữ đi vô đường quấy thì để cái già cho con cháu đây?
Cai tuần Xướng trâng tráo:
- Ối, việc đời mà cô! Ai cũng có cái chỗ kẹt! Như tui đây là kẻ ăn cơm chúa nên tui phải múc tối ngày. Đâu có ai muốn làm chuyện quấy để cho miệng đời dèm siểm!
Cô Thiệt Nguyện làm thinh, mặt mày chầm dầm. Thấy mình ngồi hoài coi trơ quá nên Cai tuần Xướng đứng dậy kiếu từ. Trước khi bước ra khỏi nhà, hắn hăm he chú Cai tuấn Hạp:
- Thầy Bang biện nhắc chú mày nhớ hai dãy ruộng, mầy cư xử sao cho vuông tròn thì xử. Tao như thiên lôi, thầy sai đánh đâu tao đánh đó. Tội lỗi gì đối với Trời Phật nhơn quả, tao không có chịu trách nhiệm đa!
Khi tên thiên lôi kia đã đi khuất mắt, thím Cai tuần Hạp từ trong buồn bước ra, mặt mày bùng thụng bùng thiu:
- Cái thứ đi dụ dỗ đàn bà đó đời nào tui thèm tiếp! Nếu nó còn ở đây cù cưa cù nhầy nói chuyện nhơn nghĩa bao đồng, tui sẽ lấy chổi tẩm cứt gà quét nó ra ngoài sân cho mang xấu!
Cô Thiệt Nguyện cười hòa nhả:
- Thiệt tình chị giận cũng phải, nhưng nếu chị sanh sự vời nó thì mọi chuyện hư hết! Bây giờ, chị cứ hẹn tuần sau tiếp thằng già dê tại đây. Mốt, anh chị hãy gố gắng dọn dẹp hết bàn ghế đồ đạc chở qua nhà ông Năm Tảo, rồi hai bữa sau xuống tàu đi Bạc Liêu. Xứ đó ruộng nhiều, nhơn công ít. Nếu anh chị chí thú làm ăn thì dẫu không giàu cũng có của ăn của để.
Cô lấy một tờ giấy 20 đồng và một tờ 5 đồng:
- Ông bà Năm Tảo chịu mua bàn ghế của anh chị và nhờ tui đưa chị 20 đồng để hộ thân, còn đây là 5 đồng của tui tặng anh chị làm lộ phí.
Cai tuần Hạp xúc động;
- Mấy thứ bán ghế gỗ tạp đấy giá đáng là bao mà ông bà Năm Tảo cho tụi tui tới 20 đồng.. Hôm qua, tui cũng đã bán hết lúa trong bồ được 30 đồng.
Cô Thiệt Nguyện đưa phong thơ cho Cai tuần Hạp, bảo:
- Ôi, bước đầu, tiền càng nhiều càng tốt chớ sao! Anh chị còn phải lo cất chòi ở yên đợi tới mùa gặt. Chừng đó anh chị có thể kiếm chác thêm trước khi mướn ruộng. Hãy đưa bức thư nầy cho người anh bạn dì tui là anh Hương hòa Hiệp, ảnh sẽ chỉ dẫn anh chị đường đi nước bước. Ở xứ đó lo gì chết đói! Cá tôm có sẵn trong rạch sông, ao bàu: lúa mót cũng đủ nuôi sống cả nhà anh chị nửa năm.
Vợ Cai tuần Hạp ứa nước mắt:
- Ơn cô lớn quá, vợ chồng tui biết lấy gì đền đáp dây!
Chị chấp tay toan xá cô Thiệt Nguyện nhưng cô xua tay:
- Chị đừng làm vậy khiến tui tổn thọ! Nếu chị nghĩ rằng từ đây về sau không có dịp nào trả ơn tui thì trên đường đời, hễ gặp người hoan nạn, xin anh chị cứu giúp họ, đó cũng là cách trả cho tui đó.
Vợ chồng xúc động khóc rấm rứt. Số là cÿch đây một tuần, có Thiệt Nguyện có dịp đi xuống Cÿi Sơn chữa bịnh mắc đàng dưới cho con gái ông Hương kiểm Lợi, nghe được vận sự về cô Út Thoại Huê bèn tìm xuống Cái Sơn Lớn để thăm má cô Út. Khi cô đem bó nhang huyền đàn tới mả cô Út hì gặp một chị đàn bà ngồi trước mộ cô Út vừa khấn vái vừa khóc lóc. Chị đờn bà đó chính lá vợ Cai tuần Hạp. Sau khi biết khúc nôi nguồn ngọc, cô khẳng khái hứa giúp đỡ cho vợ chồng Cai tuần Hạp. Cứ cách hai ngày, cô đến viếng thăm gia đình anh ta để bàn bạc.
Vậy là mọi việc đã trù tính xong xuôi. Cai tuần Hạp dù có tha thiết chốn chôn nhau cắt rún mấy đi nữa, cũng phải tìm chốn dung thân mới, trước hết là để tránh điều sỉ nhục, hai là lìa kiếp làm ruộng mướn chịu sự bóc lột suốt đời cha qua đới con.
Trước khi ra về, cô Thiệt Nguyện nhờ vợ chồng Cai tuần Hạp đưa mình ra thăm mộ cô Út Thoại Huê lần chót. Mưa cuối mùa dù có thưa hơn mưa ngâu tháng bảy, nhưng vẫn làm cho đám cỏ tranh trên mộ thêm rậm thêm cao, vẫn làm đám dây choại, dây bìm, dây săn thêm dài... Cô Thiệt Nguyện đánh diêm châm nén nhang bạch đàn thơm ngát cắm trước mộ, khấn vái:
- Cô Út ôi, cô là nạn nhân của ba anh em cậu Hai Luyện, còn tui là nạn nhân của cô Ba Cẩm Tú. Tui sống mà mang sầu chuốc não cũng như cô chết mà ngậm oán nuốt hờn. Song nếu cô hiểu rằng oán chớ cưu mang còn ân phải tìm cách báo đáp thì nên sớm giác ngộ để vong linh được siêu sanh...
Đang khấn vái, cô bỗng cảm thấy tối tăm mặt mũi như bị một tấm màn đen thẳm và lạnh ngắt trùm kín. Trong cơn váng vất, cô thấy một người đờn bà mặt mày tiều tụy xanh xao đến trước mặt mình, nghiến răng:
- Sát nhân thì giả tử, đó là lẽ thừng của luật nhơn quả trả vay, đó là chuyện đương nhiên của tội phước báo ứng! Giờ đây là ban ngày, khí dương đang thạnh, tui sẽ nương theo cô mà thanh toán mối cừu hận đây!
Vía cô Thiệt Nguện hỏi:
- Thưa cô cô là ai?
Người đàn bà dằn từng tiếng:
- Tui là Út Thoại Huê. Cám ơn cô đã tới đây hai lần đốt nhang cho ấm vong linh tui. Nhưng xin cô đừng can thiệp vô chuyện của tui. Cô tu hành, cô lấy ơn báo oán, nhưng đó là chuyện của cô, còn báo cừu rửa hận là chuyện củ tui. Lát nữa đây cô sẽ rõ!
Tới đây cô Thiệt Nguyện vụt tỉnh. Trời đã quá ngọ, cô kiếu từ vợ chồng Cai tuần Hạp để đi bộ về chùa Sơn Thắng nằm giữa Cái Sơn Lớn và Cái Sơn Bé, cách bến Bắc Cỗ Chiên năm trăm thước. Chùa đang làm lễ cúng hạ nguơn nên dập dìu thiện nam tín nữ. Khi cô men theo con đường đất rải ngói vụn từ liên tỉnh lộ đưa vào sát chùa thì thấy cô Ba Cẩm Tú đang đứng hóng gió bên gốc dừa tam qua, nên cô đưa tay vẫy.
Số la hôm nay cô Ba Cẩm Tú bưng quả bánh nướng gồm bánh gai, bánh con duông, bánh hạnh nhơn đi dâng hươn g lạy Phật rồi ở chùa làm công quả. Cô đi chùa cầu Phật Quan Âm phù hộ cho cô sanh con trai để chồng cô mừng. Sau khi dùng bữa ngọ trưa xong, khách hành hương lục tục ra về. Cô còn đợi chồng đến rước nên cô đứng dựa gốc dưa, trước là hứng gió, sau là nhìn ra con lộ coi xe chồng cô tới hay chưa. Vừa lúc cô Thiệt Nguyện trờ tới đưa tay vẫy vẫy nhưng cô chỉ thấy cô Út Thoại Huê, tay cầm roi cá đuối hươi lên sẵn sàng đánh cô. Trời ơi, làm sao cô lầm được! Rõ ràng là cô Út Thoại Huê, mặt trẹt có nút ruồi duyên bên mép, mặc chiếc áo bà ba bằng lụa cẩm cúc màu vàng, chiếc áo mà cô mặc hôm uống chén thuốc phá thai sắc bằng cỏ càn ngươn! Kinh tâm táng đởm, cô Ba Cẩm Tú chạy trối chết vào sân chùa, miệng la bài hải. Thình lình cô trượt té vì miếng vỏ dưa gang ai vừa liệng trên lối đi...
Cô Thiệt Nguyện chạy lại đỡ cô lên:
- Sao em bỏ chạy vậy? Chị có làm gì em đâu?
Cô Ba Cẩm Tú vụt mở mắt:
- Ủa, chị là... Sao mới đây em thấy con Út Thoại Huê đến đây lấy roi cá đuối đánh em?
Bầy giờ cô Thiệt Nguyện mới hiểu lời nói của cô Út Thoại Huê: "Lát nữa đây cô sẽ rõ". Cô vừa an ủi vừa đỡ cô Ba Cẩm Tú dậy thì thấy máu loang đỏ ối từ đũng chiếc quần sa teng tuyết nhung trắng của cô Ba. Vừa lúc đó thì bác sĩ Lê Thanh Mậu lái xe tới, nhưng cô Ba đã chết giấc khi thấy máu tuôn ướt quần mình.
Cô Ba Cẩm Tú cầm được máu vì gần chùa có bà xẩm chuyên nghề châm cứu nhưng về nhà, bụng cô cứ đau âm ỉ. Cũng hôm đó, cô đang nằm nghỉ trong phòng thì bên ngoài trời nổi cơn mưa lớn, sấm sét rầm rĩ. Bỗng một cú sét đánh quát vào trung đường, tiếp theo là tiếng nổ thiệt lớn khiến tai cô muốn điếc, đầu óc thiếu điều rạn nứt. Sau đó con Hiệu, đứa tớ gái, từ ngoài chạy vào báo cáo:
- Thưa bà, cái trang thờ bùa bị sét đánh bể tan nát hết rồi!
Cô Ba Cẩm Tú rụng rời. Gói bùa gồm những củ ngải trong vuông lụa đỏ có vẽ hình và chữ ngoằn ngoèo bằng kim nhũ lóng lánh cô vừa thỉnh từ Tịnh Biên về được đặt trong một chiếc trang thờ, nời đó bóng đèn trứng vịt được tháp sáng cả ngày lẫn đêm.
Khi cô Ba bước ra trung đường thì chiếc trang đã bị đánh rớt xuống bàn thờ ông bà, mấy mảnh ván bằng gỗ thùng thông đè sập bức họa truyền thần tía má chồng cô, làm kiếng bể tung tóe. Gói bùa bọc lụa đã cháy, bốc mùi khét nghẹt. Cô dập tắt lửa, kinh hoảng thấy chẳng những lớp lụa bên ngoài cháy thành tro mà mấy củ ngải bên trong cũng đã thành than đen!
Tuần lễ sau, cô Ba Cẩm Tú đau bụng kinh khủng, Bác sĩ Lê Thạnh Mậu vội đưa cô vô nhà thưng tỉnh, hiệp cùng bác sĩ trực tháo máu ứ đọng trong tử cung cô. Và đau khổ cho ông biết bao, cái thai cũng theo máu ra ngoài! Cô phải nằm nhà thương mất một tuần. Chồng cô không dám tiết lộ chuyện sẩy thai cho cô biết.
Khi về nhà, bác sĩ Lê Thạnh Mậu lực lúc cô tỉnh táo minh mẫn, mới nói hệt tự sự cho cô nghe. Cô khóc rấm rứt:
- Mình tuy chưa nói, em cũng đoán ra sự việc rồi, từ lúc sét đánh sập trang thờ bùa.
Từ đó cô sầu não, ăn không ngon ngủ không yên. Rồi cô nghi cô Thiệt Nguyện dùng bùa phép đội lốt đội hình cô Út Thoại Huê để nhát cô. Chẳng cần phải chạy trợt té, nội cơn sợ khủng hiếp cũng đủ làm cô hư thai rồi! Cô tự hứa mình phải trở lại Tịnh Biên để chuộc bùa đậu thai, luôn tiện chuộc luôn bùa ếm cô Thiệt Nguyện cho cô nọ phải chết thảm thiết.
Ba Bang biện Hưỡn được con gái báo tin sẩy thai, song bà không khiếp sợ lậu. Bà nghĩ rằng Thạch Eng tuy già tay ấn nhưng chưa phải thứ xuất chúng. Bà phải đem hai cô con gái cưng xuống Tịnh Biên thêm lần nữa vì bà nghe tiếng phù thủy Kim Ba ở gần bến chợ có tài làm đá hóa ra vàng, biết điều khiển âm binh giết kẻ thù ở xa, các cả ngàn cây số. Cho nên bà vẫn tạo ác nghiệp đều đều, vẫn hành hạ tôi tớ và thằng con riêng của chồng, vẫn đánh chửi con nợ, vẫn xéo xắt với tá điền tá thổ.
Một hôm bà Bang biện Hưỡn gọi Cai tuần Xướng tới truyền lịnh:
- Nè Tuần, con vợ thằng Hai Hoạch ở gần đến Văn Thánh nợ tao bốn chục đồng từ hồi đầu năm tới giờ chưa trả. Mày rình coi nhà nó có món chi đực giá thì cho tao hay, để tao tới xiết mang về, chừng nào nó trả cà vốn lẫn lời, tao mới cho chuộc.
Cai tuần Xướng ra công rình rập nhà Hai Hoạch nhưng suốt tuần bà Bang biện vẫn chưa thấy hắn báo cáo. Sáng hôm đó cô Ba Cẩm Tú từ Cầu Lầu qua Cầu Đào thăm tía má mình. Bà Bang biện bày bánh khoai lang chiên ăn cặp với rau sống chấm nước mắm giấm ớt. Cô Ba bảo mẹ:
- Con qua đây hỏi má định coi chừng nào má con mình đi Tịnh Biên?
- Con nên viết thư cho con Tư, rủ nó cùng đi. Cái bùa của thằng Thạch Eng coi bộ hơi yếu, phải đổi bùa khác cho chắc ăn.
Giữa lúc đó Cai tuần Xướng mặt mày hí hửng từ ngoài cửa ngõ bước vào, chấp tay xá xá má con bà Bang biện Hưỡn, Bà quở:
- Hổm rày mầy chui ngõ ngách nào mà biệt tăm biệt dạng vậy? Nhờ mầy có chút việc mà mầy đánh lừa đánh đảo lánh mặt tao thì còn nước non gì?
Cai tuần Xướng gãi đầu:
- Xin bà chớ phán như vậy mà tội nghiệp tui. Tui ra sức rình rập nhà Hai Hoạch, biết được nó có giàn máy hát và một chồng dĩa. Tối nào vợ chồng nó cũng mở máy hát cho người trong nhà và lối xóm cùng nghe.
Ba Bang biện Hữn mừng rỡ, gọi thằng Xiêm, thằng Đực sắp đặt kế hoạch để tối nay cùng ào vô nhà Hai Hoạch xiết nợ, Bà không quên thửng Cai tuấn Xướng hai nải chuối sữa, một trái mảng cầu xiêm và dặn y ta ngầy mai rình nhá thím Bảy Ớt ở Cầu Dài vì thím còn thiếu bà ba chục đồng mà cả bốn tháng nay chưa trả tiền lời chớ nói gì tiền vốn.
- Thưa bà, thưa cô Ba, hỗng phả đêm nào anh Hai Hoạch cũng cho chạy dĩa hát máy đâu! Nghe nói mốt đây ảnh làm đám giỗ cho ông nhạc, ảnh sẽ chạy dĩa hát trong hai bữa giỗ tiên lẫn giỗ chánh cho xôm tụ, chừng đó bà tới xiết mới chắc ăn.
Vậy là hôm giỗ chánh tại nhà Hai Hoạch, thừa lúc gia chủ cho chạy dĩa hát thì bà Bang biện Hưỡn cùng thằng Xiêm, thằng Đực xông vào. Trong khi bọn đờn ông kẻ ôm chồng dĩa, người ôm giàn hát máy thì bà cất tiếng rổn rảng, chửi:
- Mồ tổ cha tụi bay, thiếu nợ tao cả năm không trả còn bày đặt làm đám giỗ rình rang! Tao nói cho bây biết, mốt bây không đem 40 đồng bạc vốn, bốn đồng bạc lời tới nhà tao thì giàn hát máy nầy và chồng dĩa kia thuộc về tao luôn!
Bà bước tới mâm cúng trên bàn thờ, cầm bát nhang còn cháy đỏ liệng ra ngoài sân rồi hét bọn tùy tùng ra về.
Riêng cô Tư Cẩm Lệ, vừa được thơ chị mình, liền sắm sửa quà cáp chờ chồng lái xe đưa mình ra bến tàu Nguyễn Văn Kiệu (Sau gọi là bến Bạch Đằng) để cô đáp tàu thủy đi Vĩnh Long. Cái thai cô được năm tháng nên bụng cô đã đội áo, ngó lum lúp như cái gò mả đã lạn. Cô đem về nhà cha mẹ mình toàn những món ngon đương mùa, nào là cá chái kho sẵn đựng trong thố sành, náo sầu riêng, măng cụt, lôm chôm, bòn bon...
Tối hôm đó, thừa lúc ông Bang biện Hưỡn và bác sĩ lê Thạnh Mậu đi nhậu, bà Bang biện dặn con Lài nấu cho mẹ con bà nồi cháo thập cẩm và pha thêm một bình trà thiệt ngon. Ba mẹ con trải chiếu bông trên bộ divan cẩm lai rồi bày gói thêu ra vừa nằm vừa trò chuyện.
Cô Tư Cẩm Lệ trách mẹ:
- Má có thấy thầy Mười Khôi đoán điềm giải mộng hay thần sầu không? Vậy mà bữa hổm má tỏ ra giận ghét thẩy!
Cô Ba Cẩm Lệ sực nhớ:
- À quên, con có nghe thầy Mười Khói quen nhiều tay thầy bùa, thầy lỗ ban ở Long Xuyên, vậy má nên đật một mâm nhậu nho nhỏ để đãi thầy, luôn tiện nhờ thầy chỉ đường đi nước bước để má con mình tìm thầy giải nạn trừ hung.
Ba Bang biện nói xuôi:
- Lời con nói nhằm lẽ lắm! Thiệt tình bữa hổm má có hơi nóng!
Bà kêu con Lý,, đưa nó hai đồng bạc, dặn nó sáng mai mua bốn ký tôm càng thiệt ngon để dọn mâm rượu, phần thì trộn gỏi, phần làm chả huế, còn thì làm món tôm bún. Bà cũng dặn nó mời thầy Mười Khói xế mai đến Cầu Đào dể nhậu nhẹt với chồng bà.
Sau khi con Lý trở xuống bếp, cô Tư Cẩm Lệ lo lắng bảo mẹ và chị:
- Con cũng báo cho má với chị Ba hay, cái trang bùa của con bị sét đánh tan tành hết trọi.
Hỏi ra thì cái trang thờ bùa của cô Tư chịu chung số phận với cái trang thờ bùa của cô Ba cùng một ngày một giờ. Mặt mày ba mẹ con tái mét vì sợ. Cô Tư bồi thâm một tin khủng khiếp nữa:
- Chưa hết đâu má! Sau đó ba hôm, hai đứ con ghẻ của don đi viếng mả mẹ tụi nó, thấy sét đánh cách nào không biết mà ngôi mộ vẫn còn y nguyên, duy bốn cây cọc vẽ bùa bị bạt tung lên, nằm ngổn ngang quanh mộ.
Bà Bang biện Hưỡn chết lặng một giây, song bà trấn tĩnh liền:
- Còn nước còn tát, khuyên con chớ quá kinh hãi mà động tới cái thai. Đẻ má xuất tiền cho sư dô Trí Năng ở am Thường Tịnh làm chay và cầu siêu sanh cho con vợ trước của chồng con, để nó siêu sanh nơi an bang tịnh độ, khỏi theo quanh quẩn mà báo oán con hoài!
Thiệt tình bà Bang biện nói liều để an ủi hai cô con gái, nhưng nói xong bà chợt thấy mình cao kiến. Tuy mẹ con bà không rành kinh kệ nhưng cả ba đều có nghe đâu đó sự linh ứng của việc lập trai đàn cầu siêu. Cô Ba Cẩm Tú cũng an ủi em:
- Má nói phải đó Tư à! Chị nghe nói vong linh người chết được thân nhơn lập đàn chay cầu siêu, thừng hiện hồn về cảm tạ trước khi được sanh vào nơi giàu sang phú quí.
Hôm sau thầy Mười Khói xáchh dù đến Cầu Đào dự tiệc. Vì có cậu Hai Luyện về nghỉ cuối tuần nên bà Bang biện cho làm thêm con vịt cà cuống để nấu cháo. Tới lúc thực khách ngà ngà, bà Bang biện Hưỡn mới đem ý định của mình ra bày tỏ. Thầy Mười Khói cười, nói:
- Ở chợ Ba Si làng phước Thạnh, tỉnh Trà Vinh có thầy Năm vốn là một địa tiên chuyên làm thuốc cứu nhơn độ thế, làm bùa đối trị bùa ếm để giải nguy cho bá tánh. Chẳng ai biết gốc gác thầy ở đâu, nhưng thầy về chợ Ba Si hồi năm Mậu Dần, không có mang theo gia đình, bạn hữu gì ráo! Thầy xưng là thầy Năm Lê Thái Sanh, tu theo pháp Mật Tông, tuy ăn chay nhưng chỉ ăn rau cỏ và trái cây chớ không dùng ngũ cốc. Thầy thường tỏ ra cho những thân chủ hết lòng giúp đỡ thẩy biết rằng thầy của thẩy là đức Đông Hoa đế quân, thường hiện xuống núi Tà Lơn vào mỗi kỳ rằm nguyên tiêu, dạy thẩy tu theo phép hút lấy thần khí mùa xuân và của cỏ cây, trước là làm cho mình mạnh khỏe, trẻ mãi không già, sau là để làm tiên đơn thánh dược giúp đỡ người khác...
Ông Bang biện hỏi:
- Còn bùa đối trị bùa ếm thì thẩy học ai?
- Cũng do đưa Đông Hoa đế quân dạy chớ ai vô đó! Cái sứ mạng cứa nhơn độ thế của thầy Năm là 24 năm. Sang năm Ất Dậu, gặp lúc thế gian chịu cảnh nắng lửa mưa dầu, thầy sẽ qui tiên, giao sứ mạng cho người khác.
Cô Tư Cẩm Lệ mừng lắm, bảo mẹ:
- Nếu vậy thì hay lắm. Trà Vinh gần tỉnh mình, chồng con có cô em con nhà chú ở chợ Ba Si, tiện chỗ cho ba má con mình tá túc vì nhà của cổ mát mẻ rộng rãi lắm.
Bà Bang biện Hưỡn liền tặng thầy Minh Khói một con gà mái dầu, một cân lạp xưởng, một cân mì xạ, một chụa quít đường. Bà sai hai cô con gai làm bốn ngăn quả đựng bánh hấp như bánh bò bông, bánh thuẩn, bánh bột lọc, bánh qui, bánh da lợn để con Lý đem tới am Thường Tịnh. Kèm với bốn ngăn quả bánh, bà giao cho sư cô Trí Năng năm chục đồng bạc để làm chay đàn cầu siêu cho cô Tư Thục, cố thê của thầy kiện Trần Hảo Hiệp.
Ông Bang biện Hưỡn thấy mình phong phú sức khỏe, dào dạt sóng tình, hực hừng lửa dục, bèn kêu Cai tuần Xướng:
- Mầy phải giao hẹn với vợ chồng thằng Cai tuần Hạp cho chắc. Tao không muốn tụi nó trì hưỡn chuyện đó. Cái bụng cỏn chỉ chừng một thàng nữa là bự chang bang như cái chảo úp thì... hư bột hư đường ráo trọi! Mầy nói với tụi nó là tao muốn gặp con vợ nó tối mai.
Cai tuần Xướng liền tới nhà Cai tuần Hạp. Nhà cửa đóng im lìm. Ngoài hàng ba, là rụng ngổn ngang. Lúc đó trời đã xế trưa, ánh nắng vàng vọt nhuộm buồn cảnh vật chung quanh. Một con mèo muôn nằm gần áng nước, thấy có người lạ liền chậm rãi bước về phía hàng rào xương rồng rồi chui qua lộ hổng ra ngoài. Cai tuần Xướng lớn tiếng gọi:
- Có ai ờ nhà không?
Trong nhà có tiếng đờn bà vọng ra:
- Anh Bảy đó hỏa? Cửa không gài, mời anh vô.
Cai tuần Xướng đẩy cửa bước vào. Nhà trống trớn, chỉ còn trơ chiếc chõng tre trải chiếu đậu. Một thép dầu mù u đặt ở đầu giường. Vợ Cai tuần Hạp mặc bộ đồ trắng ngồi bên mép chõng, tóc tai dã dượi, bảo:
- Đồ đạc trong nhà đã bán hết để chồng tui lấy tiền đóng thuế thân. Ảnh đem sắp nhỏ về viếng thăm bà dì của ảnh ở Lộc Hòa, nhà chỉ còn có mình tui. Vậy anh nên về nói với ông Bang biện Hưỡn tối nay ổng tới đậy tiện hơn. Tôi cũng đã giặt sẵn chiếu mùng đợi ổng.
Cai tuần Xướng tán thành:
- Tối nay có trăng, tiện lắm.
Rồi anh ta hỏi cho có chuyện:
- Thím có đau ốm gì không? Sao lại nằm dã dượi một mình trong căn nhà đóng cửa tối mờ như vậy?
Vợ Cai tuần Hạp cười gượng:
- Tui có đau ốm chi đâu! Bởi vì thai hành nên tui cứ sật sừ sật sưỡng vậy mà! Tui cũng mới vừa uống thang thuốc dưỡng thai do ông Năm Tảo hốt nên cũng thầy đỡ.
Rồi chị ta giục:
- Thôi, anh kíp về báo tin cho ông Bang biện mừng. Tui vừa sắm cục xà bông sả, sẽ tắm gội cho da thịt thơm tho, để... tiếp ổng.
Giọng người đàn bà vừa lẳng lơ vừa se sắt làm Cai tuần Xướng rợn cả người, nhưng biết chị ta bằng lòng tiếp ông Bang biện Hưỡn là anh ta đủ mừng rồi.
Xế đó, ông Bang biện Hưỡn sai con Lý, con Lài dọn ông một tiệc tượu nhỏ để ông cùng Cai tuần Xướng cụng ly. Ông cao hứng bảo tên nha trảo tâm phúc:
- Xong cái vụ vợ thằng Cai tuần Hạp, mầy nên bắt tay lo vụ em gái anh Hương bộ Lại cho tao.
Ông đặt vào tay Cai tuần Xướng một phong bao:
- Mầy cứ ăn nhậu cho đã đời đi. Còn tao, tao chỉ có thể nhậu sương sương thôi. Tối nay nếu say li bì thì còn làm ăn giống gì được! Tao tặng mầy hai chục bạc này để uống trà.
Ông lôi chai rượu thuốc ngâm xác con chim bìm bịp phơi khô ra nhâm nhi. Đó là rượu tráng dương mà Cai tuần Xướng bổ cho ông hồi Tết vừa rồi. Trong tủ buýp- phê của ông cũng đã có hủ rượu ngâm cắc kè bông, một thứ rượu dương khác.
Sau bữa tiệc, Cai tuần Xướng say hoắc cần câu, phải vịn vai thằng Đực để về nhà. Còn ông Bang biện Hưỡn đánh một giấc thiệt đã. Khi ông thức dậy thì trời đã chạng vạng. Mâm cơm chiều cọn lên, ông ăn thiệt ngon miệng vì có món canh cá khoai nấu ngót mà ông rất ưa. Xong xuôi ông đi tắm, cạo râu, xịt dầu thơm và mặc bộ đồ bà ba bằng lục soạn trắng.
Tay xách đèn tán chai, ông chậm rãi đến nhà Cai tuần Hạp. Lúc đó vầng trăng mười ba khá tròn, rải ánh sáng khắp nơi. Vùng ngoại ô tỉnh lỵ dập dìu người đi chơi trăng. Ông Bang biện Hưỡn đi sâu hướng xóm Đình Khao, bước qua cầu sát lót ván, rẽ vô vùng thôn ổ tận rạp cây dâu miền dưới, bụi tre gai, khóm tầm vông.
Đây rồi! Nhà Cai tuần Hạp đây rồi! Mái lá lợp nhô khỏi chòm cây đen thẳm, bên kia lối đi đắp đất lươn song song với dòng rạch lấp loáng ánh trăng. Cửa ngõ không gài, ông đẩy cánh cửa bước vào lối đi ngắn và hẹp viền những cây kim quát trổ bông thơm ngát để bước vào vuông sân ngổn ngang là vàng. Mái hiên tối mờ mờ, nhưng có ánh đèn chong le lói qua mắt cáo. Ông Bang biện Hưỡn tằng hắng:
- Có ai trong nhà không?
Tiếng đờn bà lảnh lót vọng ra:
- Ông Bang biện đó phải không? Cửa không có gài chốt, mời ông vô kẻo lạnh.
Một trận gió lốc nổi lên, lá vàng bay thốc. Ông Bang biện đẩy cửa vô. Vợ Cai tuần Hạp nhõng nhẽo:
- Sao trể vậy? chờ ông xốn xang tấc dạ vậy đó!
Ông Bang biện cười mơn:
- Qua đây cũng trông đứng trông ngồi, mong trời mau tối...
Ông ồm chầm lấy chị ta, vuốt ve cái bụng chửa lùm lùm của chị, hun hít. Mà ủa lạn, sao mình mẩy chị ta lạnh ngắt. Ông hỏi:
- Sao mình mẩy em như ướp nước đá vậy?
Vợ Cai tuần Hạp háy ông bằng cặp mắt có đuôi:
- Thì em phải tắm rửa sạch sẽ để tiếp ông. Ngặt vì lóng rầy em yếu trong người, gặp nước lạnh về chiều nên da thịt mới như vậy. Ông úm em một đỗi thì em ấm lại liền!
Ông tiếp tục hun hít, ấp ủ người đàn bà. Quả nhiên da thịt chị ấm lại dần. Nhưng khi ông muốn bóc hết lớp quần áo che thân chị thì chị đề nghị:
- Ngoài sau vườn em có một cây rơm, chỗ đó quanh năm suốt tháng chẳng ai lai vãng. Đêm nay có trăng, tụi mình ra đó gẫm có thú vị hơn không?
Ông Bang biện Hưỡn khoái quá, gật gù khen ngợi:
- Thiệt qua không ngờ em... cao kiến như vầy, hiểu chuyện phong lưu tao nhã lắm. Vậy thì mình cùng đi!
Cả hai sóng bước ra ngoài nhà sau. Quả thiệt có cây rơm bên cạnh cái ao. Ven ao là cây gừa, Đom đóm bám vào từng chiếc là, ánh sáng chớp tắt liên hồi. Trăng bây giờ lên cao, thu nhỏ lại, sáng như phiến gương làu làu nước thủy. Quanh ao tiếng vạt sành kêu râm ran. Chốc chốc có tiếng cá ăn móng.
Ông Bang biện Hưỡn bước cạnh người đờn bà, chốc chốc lại quay qua nhìn chị cười mơn. Bỗng ông lạnh mình. Ô hay! Người đàn bà đi cạnh ông rõ ràng là cô Út Thoại Huê. Ông buốt miệng kêu: "Trời ơi!" rồi đưa tay dụi mắt. À thì ra ông nhìn lầm, vợ Cai tuần Hạp chớ không ai khác. Người đờn bà gặng ông:
- Ủa, sao ông kêu trời vậy?
Ông Bang biện Hưỡn nói lảng:
- Không, có gì đâu! Tại qua thấy em đẹp nên buột miệng vậy mà!
Vợ Cai tuần nhìn ông đăm đăm như thôi miên:
- Thiệt không đó? Hay ông tưởng em là cô nào khác?
Ông Bang biện cười dã lã:
- Thôi mà em, em nói chi chuyện tầm phào cho mất vui!
Người đờn bà khi tới gốc cây rơm, nằm dài ra, giọng ỏn ẻn thẽo thợt:
- Mình ơi, em đây nè. Mình có chiên xào, kho nấu em cách nào, em cũng vui lòng hết.
Chị lột hết quần áo ông, ôm sát vào người chị rồi bất ngờ siết thiệt chặt làm ngực ông muốn vỡ vụn. Chị ta cười hăng hắc, sắc lạnh như từng gáo nước dội lên mặt, lên sống lưng ông. Ông Bang biện sững sờ nhìn chị. Trời ơi, rõ ràng là Út Thoại Huê đây mà! Quả nhiên người đờn bà the thé:
- Con quỉ dâm dục, con quỉ súc sanh từng làm nhơ các thai phụ để họ phải chịu nhục nhã vì ô danh xủ tiết! Cả nhà Cai tuần Hạp đã vì mầy mà lìa quê lìa quán, đem thân cầu thực xứ người! Bọn họ đi Bạc Liêu từ hai hôm rồi, tao phải giả dạng chị vợ để răn dạy mầy!
Nói tới đây, cô Út Thoại Huê thổi một làn hơi lạnh buốt lên mặt ông bang biện Hưỡn khiến ông lịm đi.
Sáng hôm sau, mấy người đờn bà hái rau dại trong xóm phát giác ông Bang biện Hưỡn nằm im lìm bên mộ cô Út Thoại Huê, liền tri hô lên. Mấy lực điền xúm lại, lấy chiếu đắp lên thân thể trần truồng của ông, rồi hơ lửa cạo gió, xức dầu... Chừng nửa tiếng đồng hồ sau, ông bắt đầu thở thoi thóp.
Sau khi hỏi han gốc tích, họ đưa ông Bang biện Hưỡn ra bến sông Cổ Chiên, dùng xuồng đưa ông về bến chùa Bảy Phủ và võng ông về Cầu Đào. Sau đó ông bị á khẩu, câm luôn.. Ông còn bị bán thân bất toại, nằm ngồi một chỗ. Khi mắc tiêu tiểu, ông phải lết tới cầu xí một cách khó nhọc.
Bà Bang biện Hưỡn khi đi chợ Ba Xi chuộc bùa về chẳng những không vui mà còn thấy chồng bịnh hoạn như vầy thì vừa rầu vừa lo. Thầy Năm Lê Thái Sanh vừa khi diện kiến mẹ con bà, đã bảo:
- Trị bịnh là chuyện nhỏ, còn trị được cái ác nghiệt hay không là một chuyện tỉ như hột muối thả xuống dông, nước sông làm sao mặn cho được! Tui coi qua sắc diện bà và hai cô đây từ ấn đường đã có vệt đen ửng ra rồi! Đây là ác quả hiện hành, ác báo phát tác. Bà và hai cô nên tụng kinh niệm Phật cho siêng, làm việc bố thí cho nhiều thì họa may mới cạy gỡ được phần nào móng vuốt của ác quả ác báo đó.
Bà Bang biện dù lo dù rầu bởi lời nói của thầy Năm Lê Thái Sanh nhưng vẫn không ngưng việc bòn tro đãi trấu, hành hạ xéo xắt kẻ dưới tay mình. Hễ việc làm ăn không trôi chảy, bà kiếm chuyện đánh chửi Bửu, coi việc nuôi cậu trong nhà là nuôi kẻ đem oan nghiệt và xui xẻo cho mình.
Một hôm, cô Tư Cẩm Lệ từ Sài gòn hớt hơ hớt hải báo tin:
- Nguy rồi má ơi, sáng hôm qua con đốt nhang trang thờ bùa thì thấy gián cắn lá bùa lam nham. Làm sao đây má?
Ha mẹ con ngồi lo rầu không biết gỡ rối cách nào thì tới xế chiều, cô Ba Cẩm Tú tay che dù, tay xách bóp từ Cầu Lầu qua thăm. Cô vừa khóc vừa thuật:
- Hổm rày, tối tối con nghe chuột kêu chít chít ở mấy bàn thờ nên mừng thầm vì nghĩ đó là điềm hên. Ai mà dè sáng nay con ở của con chưng bông, cúng nước trên trang thờ thì thấy gói bùa bị chuột cắn nát ráo trọi rồi!
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.