Chương 11
Mạc Ngôn
06/01/2014
Cái hôm tôi và chị Tám vừa tròn trăm ngày đúng vào tết Trung thu. Buổi sáng, mẹ bế tôi và chị Tám đến chỗ mục sư Malôa. Cổng lớn mặt tiền - mặt quay ra đồng, đóng chặt. Cánh cổng viết đầy những câu tục tĩu phỉ báng thần linh. Chúng tôi men theo một lối nhỏ vòng qua sân trước của nhà thờ, khẽ gõ cổng xép nhìn ra cánh đồng. Một con dê gầy nhom buộc bên cổng. Mặt nó rất dài, không thể nhận ra đó là mặt dê, mà phải là mặt con lừa, mặt con lạc đà, mặt bà già! Nó ngẩng đầu lên, đưa cặp mắt u tối nhìn mẹ từ đầu đến chân. Mẹ dùng ngón chân cái dá nhẹ vào cằm dưới của con dê. Nó kêu lên một tràng dài rồi lại cúi xuống ăn cỏ. Trong sân có tiếng động rồi tiếng đặng hắng của ông mục sư. Mẹ dập dập chiếc vòng sắt trên cánh cổng. Trong sân, mục sư cất tiếng hỏi ai? Mẹ trả lời khẽ Tôi đây.
Cánh cửa kẹt lên một tiếng, hé mở. Mẹ bế tôi nghiêng mình lách vào. Mục sư đóng cổng lại, quay sang ôm chầm lấy mẹ con tôi, nói bằng tiếng địa phương chính cống: Cục cưng của tôi đây!
Lúc này, đội quân dùng toàn súng bắn chim mới thành lập do Sa Nguyệt Lượng chỉ huy, đang men theo còn đường mà chúng tôi đã đi hôm chôn cất người chết, để về thôn. Hai bên đường, một bên là cao lương vụ thu gieo trồng trên đất lúa mạch dại trà, một bên là đồng cói kéo dài từ ven sông Mục. Một mùa hè nắng chói chang và mưa dịu ngọt, khiến cây cối hoa màu phát triển như điên. Cao lương thu lá mập, thân to khỏe, tốt bằng đầu người mà vẫn chưa trổ bông. Cói xanh rờn, mặt lá đầy lông tơ. Tuy là giữa thu, nhưng không hề ngửi thấy mùi vị mùa thu trong gió, nhưng bầu trời thì cao vòi vọi và trong vắt, nắng vàng đúng là nắng của mùa thu. Trong không khí có vị tươi mát của cây xanh, vị ngọt của lá lục Đó là mùi vị của cói non và cây cao lương đang thì con gái. Đội ngũ của Sa Nguyệt Lượng có 28 người, đi thành hàng dọc. Tất cả đều cưỡi lừa đen, đặc sản của vùng Khưu Lăng phía nam huyện Ngũ Liên. Chúng to lớn, chân rắn chắc, chạy không nhanh bằng ngựa nhưng sức bền thì tuyệt, có thể chạy đường dài. Sa Nguyệt Lượng chọn lấy 28 con chưa thiến trong số hơn 400 con. Chúng có tiếng rống ồm ồm, sức trẻ bột phát, là chỗ dựa về sức tải của đội. Hai mươi tám con lừa nối đuôi nhau như một dòng chảy. Một làn sương màu sữa trùm lên mặt đường, thân lừa phản quang ánh nắng mặt trời. Khi trông thấy tháp chuông đổ nát của nhà thờ và tháp canh,
Sa Nguyệt Lượng đi đầu hàng quân, ghìm cương cho lừa dừng lại. Những con đi sau dồn cả lên. Anh ta ngoái nhìn nét mặt mệt mỏi của các đội viên, hạ lệnh dừng lại nghỉ, tiếp theo là lệnh đi rửa mặt mũi chân tay và tắm cho lừa. Khuôn mặt xương xương, nét mặt nghiêm nghị, Sa Nguyệt Lượng khiển trách nghiêm khắc những đội viên không chịu đi tắm rửa. Anh ta nâng vấn đề tắm rửa cho người và cho lừa lên một tầm cao, nói rằng, các đội du kích chống Nhật mọc lên như nấm, vì vậy Đội súng chim phải áp đảo các đội khác bằng phong cách độc đáo của mình. Điểm đóng quân cuối cùng là địa bàn Cao Mật. Các đội viên đọc đả thông, tất cả đều cởi trần, áo vắt trên lùm cói, tìm chỗ nước nông rửa mặt rửa người. Tất cả đầu cạo trọc, da đầu trắng xanh. Sa Nguyệt Lượng lấy trong xắc cốt một bánh xà phòng, cắt thành nhiều miếng nhỏ chia cho các đội viên. Tắm kỹ vào! Tắm thật sạch! Bản thân Sa Nguyệt Lượng cũng lội xuống nước, cởi trần, vai có một nốt ruồi to tướng, anh ta kỳ sạch ghét trên người, trên cổ. Trong khi người tắm thì những con lừa khoan khoái bút lá cao lương để ăn và gặm mông nhau. Có con đứng lặng như đang trầm tư mặt tưởng, cây gậy thò ra khỏi bìu, chốc chốc lại quật đánh bịch lên bụng. Trong khi những con lừa đi tìm lạc thú cho riêng mình, thì mẹ tôi vùng ra khỏi vòng tay ông mục sư, trách yêu:
- Đồ con lừa! Chết bẹp thằng bé bây giờ!
Mục sư Malôa mỉm cười tỏ vẻ biết lỗi, phô hàm răng trắng lóa. Ông chìa cánh tay vạm vỡ về phía chúng tôi, ngừng một thoáng rồi chìa nốt tay kia. Tôi mút ngón tay chùn chụt. Chị Tám lặng im như phỗng, không khóc cũng không cựa quậy. Chị bị mù bẩm sinh. Mẹ bế tôi bằng một tay, bảo:
- Con nó cười với anh đây này! Rồi tôi nằm gọn trong cánh tay hộ pháp của ông mục sư. Ông cúi sát mặt tôi. Tôi trông thấy tóc đỏ trên đỉnh đầu, râu vàng dưới cằm, mũi khoằm như mũi chim ung và cặp mắt xanh biếc sáng ngời của ông. Chợt lưng tôi đau nhói. Tôi nhả ngón tay ra, khóc ầm lên, nước mắt ràn rụa. Cặp môi ẩm ướt của ông chạm nhẹ trên má tôi. Tôi cảm nhận đượm môi ông đang run rẩy, ngủi thấy mùi hăng hắc ở miệng ông.
Ông trả tôi cho mẹ, ngượng nghịu: Tôi làm nó sợ phải không? Chắc là tôi làm nó sợ! Mẹ trao chị Tám cho ông, đón lấy tôi vỗ nhẹ, đung đưa rồi nựng:
- Nín đi con, ông ấy là ai con biết không? Đừng sợ, ông là người tốt, là cha thân yêu của con!
Lưng vẫn đau buốt, tôi khóc khản cả tiếng. Mẹ vén vạt áo, nhét vú vào miệng tôi. Tôi như chết đuối với được cọc, ngoạm chặt đầu vú ra sức mút. Dòng sữa có mùi thơm của cỏ non chảy vào họng tôi. Lưng vẫn nhức buốt nên tôi lại nhả vú ra, tiếp tục gào khóc. Malôa vặn vẹo hai bàn tay, áy náy không yên. Ông chạy tới chân tường nhổ một cọng cỏ gà rồi ve vẩy trước mặt tôi: Chẳng ăn thua, tôi vẫn khóc dữ. Ông lại chạy tới góc sân ngắt bông hoa hướng dương to bằng mặt trăng viển bởi những cánh màu vàng, huơ lên trước mặt tôi. Lần này thì tôi thích. Trong lúc ông mục sư tất bật chạy tới chạy lui, chị Tám vẫn ngủ yên trong tay ông. Mẹ nói:
- Cưng, cha hái mặt trăng cho con đây này!
Tôi giơ tay ra, sau lưng lại đau buốt.
- Thằng bé làm sao thế nhỉ?
Môi mẹ nhợt nhạt, mặt đầy mồ hôi. Malôa nói:
- Xem có gì chọc vào người nó không?
Malôa giúp mẹ cơi bộ quần áo màu đỏ may cho tôi nhân dịp tôi được một trăm ngày tuổi, phát hiện một chiếc kim cài ở lưng áo, lưng tôi có vết kim đâm, máu vẫn đang rỉ ra. Mẹ vút cái kim đi, vừa khóc vừa nói:
- Khổ thân con tôi? Tôi dáng đánh đòn! Nói rồi, mẹ tự vả vào mặt mình hai cái thật đau. Malôa giữ tay mẹ lại, rồi từ phía sau ôm chặt cả hai mẹ con. Cặp môi mọng của ông thơm lên má lên tóc mẹ, nói nhỏ:
- Không ai trách em, mà nên trách tôi...
Được ông an ủi, mẹ bình tĩnh lại, ngồi xuống ngưỡng cửa phòng ông, nhét vú vào miệng tôi.
Một dòng sữa ngọt làm dịu cổ họng, vết kim châm trên lưng không còn đau nữa. Tôi ngậm một bên vú, tay chụp bầu vú bên kia, lại co một chân lên đạp lung tung để bảo vệ nó. Mẹ cầm chân tôi dằn xuống, nhưng bà vừa bỏ tay ra là tôi lại co chân lên. Mẹ tỏ vẻ nghi ngờ:
- Lúc mặc quần áo cho nó, em đã xem rất kỹ, làm sao lại có kim ở đó? Chắc chắn đây là trò của mụ già. Mụ rất căm hai mẹ con em!
- Mụ có biết chuyện giữa chúng ta không?
Mẹ nói:
- Em đã nói hết với mụ. Chính mụ đã ép em phải nói. Em chịu đựng đủ điều sỉ nhục! Mụ ấy bất nhân lắm!
Mục sư trả chị Tám cho mẹ:
- Cho nó bú mấy! Đều là quà tặng của Thượng đế, em không nên thiên vị quá!
Mẹ đỏ mặt, đón lấy chị Tám, định nhét vú vào miệng chị liền bị tôi đạp một cái vào bụng, chị khóc.
Mẹ nói:
- Hay chửa kìa, cái thằng lỏi, đúng là đồ bá đạo. Anh pha ít sữa dê cho nó vậy!
Ông mục sư cho chị Tám uống no sữa dê rồi đặt chị lên giường. Chị Tám không khóc, không cựa quậy, hiền quá.
Ông mục sư nhìn mớ tóc vàng mềm mại trên đầu tôi, nét mặt lộ vẻ kinh ngạc. Mẹ hiểu, ngẩng lên hỏi:
- Nhìn gì vậy? Không nhận ra mẹ con em hay sao?
- Không nhận ra. Ông mục sư lắc đầu, mặt nghệch ra - Thằng nhỏ này, ăn tham như chó sói vậy!
Mẹ lườm ông mục sư một cái, nũng nịu:
- Nó giống ai nào?
Ông mục sư càng ngẩn người ra:
- Chẳng lẽ giống tôi? Tôi hồi nhỏ như thế nào cũng chẳng nhớ!
Ông có cái nhìn đắm đuối như mắt thỏ, bồi hồi nhớ lại chuyện xưa xảy ra cách đây hàng vạn dặm, hai giọt nước mắt ứa ra.
- Anh sao thế - Mẹ ngạc nhiên, hỏi.
Ông cười gượng, giơ ngón tay mập mạp chùi nước mắt.
- Không sao! - Ông nói- Tôi đến Trung Quốc... bao nhiêu năm rồi nhỉ?
Mẹ nói giọng không vui:
- Em lớn lên thì đã thấy anh ở dây. Anh là dân bản địa cũng như em.
Ông nói:
- Không phải, tôi có quốc tịch của tôi, tôi là sứ giả của Thượng đế, tôi còn giữ những giấy tờ có liên quan đến công việc truyền giáo của tôi. Tôi đại diện cho giáo phái Thiên Chúa giáo Thụy Điển!
Mẹ cười:
- Anh Ma này, cô em bảo anh là ông Tây giả, những cái gọi là giấy tờ của anh đều do tay thợ vẽ ở huyện Bình Độ làm hộ.
- Nói bậy.
Ông nhảy dựng lên như chịu không nổi sự sỉ nhục quá lớn, chửi:
- Đ. mẹ thằng Vu Hộ pháp!
Mẹ tỏ ý không vui:
- Anh đừng chửi ông ấy, ông ấy là chú dượng em, có ơn lớn đối với em
Malôa nói:
- Nếu lão không phải là chồng dì em thì tôi đã vặt đứt con c. của lão.
Mẹ cười bảo:
- Một quả đấm của dượng ấy chết tươi một con lừa?
Malôa buồn rầu nói:
- Ngay cả em cũng không tin tôi là người Thụy Điển thì còn mong ai tin?
Ông ngồi xổm, lấy ống điếu và bao đựng thuốc lá ra tọng đầy nõ rồi lặng lẽ hút thuốc. Mẹ thở dài:
- Kìa anh, em tin anh là ông Tây chính cống, được chưa? Anh bực với ai vậy? Người Trung Quốc không ai giống anh, mình đầy lông lá.
Trên mặt Malôa nở một nụ cười như trẻ thơ:
- Rồi cũng có ngày tôi về nước! - Ông nói, vẻ trầm ngâm - Có điều, nếu cho tôi về thật thì tôi cũng không về, trừ phi em đi cùng tôi!
Ông nhìn mẹ. Mẹ nói:
- Anh không đi, em cũng không thể đi, đành yên tâm mà ở đây thôi! Hơn nữa, anh chẳng đã từng nói rằng, chỉ cần là người thì dù là tóc vàng, tóc đỏ hay tóc đen đều là con chiên của Chúa. Có cỏ là có thể giữ được dê. Vùng Cao Mật cỏ nhiều như thế, chẳng lẽ không giữ được anh ở lại?
- Em là cỏ Linh Chi nên tôi mới ở lại, tôi còn đi đâu nữa? Malôa vô cùng xúc động nói.
Mẹ chợt kêu to:
- Đuổi nó đi!
Con lừa kéo cối xay bột nhân lúc mẹ cùng Malôa trò chuyện, ăn vụng bột mì trắng. Malôa xốc tới, đánh con lừa một bạt tai. Con lừa chạy, cối quay rào rào. Mẹ nói:
- Bọn trẻ ngủ rồi, để em rây bột cho! Anh kiếm một cái chiếu trải dưới gốc cây cho chúng ngủ. Malôa trải chiếu dưới gốc cây ngô đồng. Khi mẹ đặt tôi xuống chiếu, tôi vẫn ngậm chặt vú mẹ, không nhả. Mẹ nói:
- Thằng nhỏ này như cái thùng không đáy, gần như nó hút hết xương tủy em!
Malôa giục con lừa đi nhanh, cối xay nghiền những hạt tiểu mạch thành bột thô rơi lả tả xuống vành cối. Mẹ ngồi dưới gốc cây ngô đồng, dựng một cái giá ba chân bằng cành liễu trên một cái nong rồi treo rây bột ở chính giữa, thong thả, từ tốn, có nhịp điệu hẳn hoi, mẹ đưa đẩy cái rây cho bột mịn rơi xuống; còn trấu thì ở lại. ánh nắng lọc qua kẽ lá ngô đồng rọi xuống mặt tôi, đậu trên vai mẹ. Trong sân nhà mục sư diễn ra cảnh gia dình êm ấm. Malôa vụt vào mông con lừa bằng cành liễu không cho nó ăn vụng bột. Con lừa này là của nhà tôi, ông mục sư mượn từ sáng sớm để xay bột. Nó chạy quanh cối, dưới làn roi, lông đổi màu vì mồ hôi ướt đẫm. Có tiếng con gì kêu ngoài cổng, tiếp theo là cánh cổng hé mở, con la xinh xắn sinh cùng ngày với tôi, ló đầu vào. Con lừa mẹ nổi khùng, cất vó đá hậu. Mẹ bảo:
- Đuổi con la đi!
Mục sư Malôa chạy ra, cố sức đẩy đầu con la lùi lại. Chiếc xích sắt tuột khỏi móc. Ông mục sư vội lánh sang một bên, con la xông thẳng đến chỗ mẹ nó, rúc đầu tìm vú. Con lừa mẹ đứng yên. Mẹ thở dài, nói:
- Con vật cũng như con người, có khác gì nhau?
Khi con lừa của nhà tôi cho đứa con lai của nó bú tí ở chỗ cối xay bột trong sân nhà mục sư Malôa, là lúc Sa Nguyệt Lượng cùng các đội viên đang kỳ cọ tắm rửa cho những con lừa đục của họ. Họ lấy vải bông lau khô mình lừa, dùng lược sắt chuyên dùng chải mượt bờm và cái đuôi lưa thưa của những con lừa, rồi bôi lên một lớp sáp ong. Hai mươi tám con lừa đẹp mã hẳn lên, tinh thần phấn chấn. Các đội viên người nào cũng đeo hai bầu hồ lô ở thắt lưng, một to một nhỏ. Bầu to đụng thuốc súng, bầu nhỏ đựng đạn ghém. Bầu nào cũng được sơn ba lớp dầu ngô đồng, thành thử có tất cả năm mươi sáu cái bầu bóng loáng. Các đội viên đều mặc quần màu vàng, áo khoác màu đen, đầu đội nón tám cạnh bện bằng cây cao lương. Chóp nón của Sa Nguyệt Lượng còn đính một cái ngù bằng những dải lụa đỏ để phân biệt với các đội viên, khẳng định vị trí của anh ta. Sa Nguyệt Lượng nhìn một lượt người và lừa, tỏ ý bằng lòng, nói:
- Hăng hái lên, anh em! Cho họ thấy dội Hỏa-mai-lừa-đen của ta oai phong đến mức nào!
Nói rồi anh ta nhảy lên mình lừa, phát cho con lừa một cái vào mông. Con lừa lập tức chạy nhanh như gió. Ngựa chiếm quán quân về chạy, lừa rất gương mẫu khi hành quân. Người cưỡi ngựa oai phong lẫm hệt, kẻ cưỡi lừa thư thái ung dung. Chỉ một thoáng, họ đã xuất hiện trên đường phố Đại Lan. Lúc này không phải đường phố giữa mùa gặt hái. Giữa mùa gặt, đường phố đầy bụi, chỉ cần một con ngựa chạy qua, bụi che khuất con đường, quang cảnh đúng như chị Lai Đệ từng trông thấy hôm mồng năm tháng năm. Đường phố hiện nay vừa qua một mùa hè mưa rào lèn chặt, mặt đường nhẵn nhụi, chỉ lưu lại một ít vết chân của đoàn lừa. Tất nhiên những tiếng gõ móng thì có. Những con lừa của Sa Nguyệt Lượng biết gõ móng xuống đất như ngựa. Đây là một phát minh của anh ta, giống như hai mươi năm sau, con cháu của Ba Cẩu là Cẩu Giải phóng đóng móng sắt cho bò. Trước tiên, tiếng vó ròn tan thu hút lũ trẻ, sau đó là Tư Diêu, người trông coi tài sản công sở của thị trấn. Anh ta mặc chiếc áo dài đã lỗi thời, chiếc bút chi có sọc vẫn giắt trên vành tai, từ trong nhà chạy ra cản đầu lừa của Sa Nguyệt Lượng, vái chào nhăn nhở:
- Đề nghị ông chỉ huy cho biết đơn vị ông là đơn vị nào? Lưu lại ở đây hay chỉ là qua đường? Ông có điều gì sai bảo tiểu nhân?
Sa Nguyệt Lượng từ trên mình lừa nhảy xuống đất, nói:
- Chúng tôi là Đội du kích Hỏa-mai-lừa-đen, đơn vị biệt kích của Tổng đội kháng Nhật, nhận lệnh cấp trên về đóng quân lâu dài ở trấn này để tổ chúc chống Nhật. Anh thu xếp chỗ ở cho chúng tôi, cái ăn cho lừa, tiếp tế cơm nước cho đội. Thức ăn không cần sang, chỉ trứng gà bánh tráng là được! Những con lừa là chỗ dựa chống Nhật, phải cho chúng ăn uống cho tốt, cỏ khô phải băm nhỏ sàng kỹ, trộn với đậu và cám, nước giếng phải là giếng mới đào, tuyệt đối không được lấy nước đục ở sông Thuồng Luồng cho lừa uống.
- Thưa ông chi huy, những việc lớn như vậy tôi không dám quyết, phải xin ý kiến ông Trưởng trấn, à mà không, ông ấy vừa được quân đội Thiên hoàng bổ nhiệm làm Trưởng An ninh thị trấn.
- Mẹ kiếp! - Sa Nguyệt Lượng sa sầm nét mặt, chửi:
- Làm việc cho Nhật là Hán gian, là chó săn!
Tư Diêu nói:
- Thưa ông chỉ huy, ông Trưởng trấn chúng tôi đâu có thích làm Trưởng An ninh. Nhà ông ruộng tốt hàng trăm khoảnh, lừa ngựa từng đàn, không lo thiếu ăn thiếu mặc, chẳng qua bị ép mà phải làm. Với lại dù sao thì cũng phải có người làm chức ấy, để người khác đảm nhiệm thì chẳng thà để ông Cả nhà chúng tôi làm còn hơn! '
- Dẫn tôi đi gặp ông ta! - Sa Nguyệt Lượng nói.
Đội du kích nghỉ lại trước cửa trụ sở. Tư Diêu dẫn Sa Nguyệt Lượng vào nhà Phúc Sinh Đường qua cổng chính. Khuôn viên Phúc Sinh Đường có bảy dãy nhà, mỗi dãy mười lăm gian, sân nọ thông sân kia, cửa sau liền cửa trước, tầng tầng lớp lớp chẳng khác mê cung. Sa Nguyệt Lượng trông thấy Tư Mã Đình giữa lúc lão đang cãi nhau với em trai là Tư Mã Khố, lúc này đang điều trị vết bỏng ở mông. Vết thương làm mủ, rất lâu không lành miệng, Tư Mã Khố chỉ còn mỗi cách là nằm sấp trên giường, chổng mông lên. Tư Mã Khố phóng tay xuống giường ngẩng đầu lên, mắt nẩy ẳa:
- Anh đúng là đồ ngu! Ngu khổ ngu sở! Trưởng An ninh là cái chức làm chó săn cho Nhật, làm đầy tớ cho du kích, trở đi mắc núi trở lại mắc sông chứ báu gì! Người khác không làm, sao anh lại nhận?
- Nói như cứt ấy! - Tư Mã Đình thấy mình bị mắng oan thì tủi thân, nói:
- Đồ đốn mạt mới thích cái chúc này! Bọn Nhật chĩa lưỡi lê vào bụng tôi qua ông thông ngôn Mã Kim Long, bảo tôi rằng: Em trai mày là Tư Mã Khố câu kết với tên thổ phỉ Sa Nguyệt Lượng phóng hỏa đốt cầu phục kích quân đội Thiên Hoàng. Lẽ ra phải đốt trụi cái Phúc Sinh Động này, chỉ vì thấy mày là con người thật thà nên bỏ quá cho! Tôi nhận cái chức Trưởng An ninh này một nửa là vì chú.
Tư Mã Khố đuối lý, quay ra chửi vết thương:
- Cái mông đít chết tiệt, bao giờ mới lành đây?
- Đừng sốt ruột! - Tư Mã Đình nói.
Lão quay ra thì trông thấy Sa Nguyệt Lượng đang mỉm cười với lão. Tư Diêu định giới thiệu thì Sa Nguyệt Lượng đã lên tiếng trước:
- Thưa ông Trưởng ban, tôi chính là Sa Nguyệt Lượng!
Tư Mã Đình chưa kịp phản ứng thì Tư Mã Khố đã quay mặt ra:
- Mẹ kiếp, Sa Nguyệt Lượng biệt hiệu Sa Hòa thượng đấy phải không?
- Bỉ nhân hiện giữ chức Đội trưởng Đội du kích Hỏa-mai-lừa-đen! - Sa Nguyệt Lượng nói - Cảm ơn ông Hai châm lửa dốt cầu, phối hợp với nhau như vậy là tuyệt!
- Mẹ kiếp, vẫn còn sống hả? Các anh đánh đấm như con cặc!
- Đánh phục kích đấy chức - Sa Nguyệt Lượng nói.
- Phục kích với chả mục kích! Bị chúng nện cho tan tác. Ta mà không đốt cầu thì...
- Tôi có bài thuốc chữa bỏng rất hay, lát nữa sai người mang đến cho ông Hai - Sa Nguyệt Lượng cười tít mắt.
Tư Mã Đình bảo Tư Diêu:
- Mở tiệc chiêu đãi Sa Đội trưởng!
Tư Diêu nhăn nhó:
- Ban An ninh mới thành lập, chưa có đồng nào.
Tư Mã Đình nói:
- Sao chú mày ngu vậy! Quân đội Thiên hoàng đâu phải quân đội của nhà ta! Của 800 hộ dân thị trân này đấy chứ! Đội Hỏa-mai-lừa-đen cũng không phải của riêng ta. Là của chung của toàn thể nhân dân thị trấn đấy chứ! Các gia đình góp gạo góp tiền, khách chung thì mọi người phải tiếp đãi, còn khoản rượu thì ta lo!
Sa Nguyệt Lượng cười:
- Ông Trưởng ban đúng là chẳng mất lòng ai, được cả chì lẫn chài!
Tư Mã Đình nói:
- Chẳng còn cách nào khác, như lão mục sư từng nói: Mình không xuống địa ngục thì ai xuống?...
Mục sư Malôa mở vung, thả những sợi mì vào nước sôi dùng đũa khuấy nhẹ, đậy vung lại, rồi nói với mẹ đang cho củi vào lò:
- Cho lửa to hơn nữa!
Mẹ làm theo, đẩy vào lò từng nắm thân lúa mạch vàng óng. Tôi ngậm đầu vú mẹ, liếc nhìn ngọn lửa rừng rực trong lò, lắng nghe tiếng nổ lép bép của củi, nhớ lại cảnh tượng ban nãy: Họ đặt tôi nằm trên nong, nhưng tôi lật mình nằm sấp để nhìn mẹ đang nhào bột trên bàn, thân thể nhún nhảy, hai bầu vú nhảy tâng tâng trước ngực như vẫy gọi, như trao đổi với tôi những thông tin thần bí. Hai núm vú màu táo đỏ có lúc chụm vào nhau như đang thầm thì điều gì đó còn phần lớn thời gian là nhún nhảy, vừa nhảy vừa phát thành tiếng, chẳng khác đôi chim bồ câu gù gù bên nhau. Tôi giơ tay về phía mẹ, miệng chảy đãi. Đôi vú đột nhiên có vẻ ngượng, bối rối, màu hồng lan nhanh khắp bầu vú. Những giọt mồ hôi đọng lại thành rãnh giữa khe vú. Tôi trông thấy có hai đốm sáng đi động trên bầu vú. Đó là cái nhìn của ông mục sư. Từ cặp mắt xanh thò ra hai cánh tay bé xíu đầy lông lá định cướp miếng ăn của tôi, tôi giận đến nỗi mắt tóe lửa, mở miệng sắp khóc thì sự việc tiếp theo khiến tôi càng điên tiết. Đôi tay bé nhỏ được thu về, nhưng hai bàn tay mũm mĩm của ông thì lại luồn vào ngực mẹ, thân hình cao lớn của ông đứng phía sau, hai bàn tay thô bỉ ấp chặt đôi bồ câu trên ngực mẹ rồi sờ nắn một cách thô bạo, kẹp chặt núm vú vô cùng sống sượng. Ôi, đáng thương cho bầu hồ lô yêu quí của tôi! Đôi bồ câu mềm mại của tôi! Chúng vùng vẫy, chúng co lại, co tới mức không thể nhỏ hơn rồi đột nhiên lại nở phình ra, xù lông xù cánh khát vọng bay lên, bay tới những cánh đồng mênh mông tới trời xanh làm bạn với những đám mây lững lờ trôi, tắm trong làn gió nhẹ, được ánh nắng mơn trớn, rên rỉ trong gió, cười vui dưới nắng, rồi lặng lẽ rơi xuống, rơi xuống một vục thẳm không dáy. Tôi khóc ầm lên, nước mắt làm mờ cả hai mắt, mẹ và Malôa nghiêng ngả, mẹ rên lên.
- Bỏ em ra, đồ con lừa, con nó khóc kia kìa! - Mẹ nói.
Ông mục sư giận dỗi, nói:
- Thằng con lai!
Mẹ bế tôi lên, vội vã lật người tôi lại, vẻ biết lỗi.
- Cung của mẹ, thương cục cưng quá đi thôi!
Vừa nói vừa đẩy bầu vú về phía tôi. Tôi hối hả ngoạm chặt đầu vú, bú chùn chụt. Tôi há to miệng nhưng vẫn sợ còn nhỏ nên há hết cỡ, miệng phồng ra như con hổ mang bành, chỉ tiếc nỗi không thể nuốt chửng, không cho người nào khác xâm phạm bầu vú của tôi.
- Từ từ nào, con trai của mẹ!
Mẹ vỗ nhẹ lên mông tôi. Tôi bú một bên, tay nắm lấy bên vú còn lại. Nó giống hệt con thỏ trắng có con mắt hồng. Tôi nắn nó, cảm thấy tim của nó đập đập. Malôa thở dài:
- Thằng con lai này!
Mẹ nói:
- Anh không được gọi nó là con lai!
Malôa nói:
- Nhưng nó là con lai chính hiệu mà lại!
Mẹ nói:
- Em định bảo anh làm lễ rửa tội cho nó và đặt cho nó một cái tên. Hôm nay nó vừa tròn 100 ngày tuổi.
Malôa vuốt mặt theo thói quen, nói:
- Rửa tội? Tôi quên mất làm lễ rửa tội từ lâu rồi. Tôi làm mì kéo cho em ăn nhé. Cách làm này tôi học ở người đàn bà tộc Hồi đấy!
Mẹ hỏi:
- Anh thân với chị ta đến mức nào?
Malôa nói:
- Không để lại dây mơ rễ má gì cả, trắng tinh!
Mẹ nói:
- Đừng có bịp!
Malôa cười khà khà, vừa kéo vừa lăn cho cục bột mì thành sợi, quật bồm bộp xuống bàn cán rồi lại kéo.
- Nói mau! - Mẹ giục.
Cục bột vừa dẻo vừa tơi, lúc vồng lên như cánh cung, lúc loằng ngoằng như rắn trong hang, bàn tay thô có vẻ vụng về của một người ngoại quốc lại có thể thao tác thành thạo và khéo léo như người Trung Quốc, khiến mẹ vô cùng ngạc nhiên. Ông nói:
- Có lẽ tôi không phải là người Thụy Điển, những chuyện đã qua đều như trong mơ, em nói gì đi!
Mẹ cười nhạt, nói:
- Em hỏi chuyện anh với cái cô mắt có quầng đen, anh đừng có đánh trống lảng!
Malôa dàn mỏng cục bột rồi hai tay hai đầu nâng lên, căng ra rồi chùng lại, khi bỏ tay ra đã thành bó mì sợi to bằng thân cây lúa mạch, vung một cái: chúng xòe ra như đuôi ngựa. Malôa đang biểu diễn kỹ xảo của ông. Mẹ thở dài nói:
- Người đàn bà nào kéo được loại sợi mì như thế này, mới là đàn bà giỏi!
Ông mục sư nói:
- Thôi, mẹ thằng cu đừng nghĩ ngợi lung tung nữa. Nổi lửa lên, tôi nấu mì cho em ăn!
- Ăn xong thì làm gì?. Mẹ hỏi.
- Ăn xong thì làm lễ rửa tội và dặt tên cho thằng con lai!
Mẹ vùng vằng:
- Những đứa con mà anh đẻ với người đàn bà Hồi mới là những thằng lai.
Khi mẹ nói vừa dứt câu này, là lúc Sa Nguyệt Lượng chạm cốc với Tư Mã Đình. Trong bữa rượu, họ thỏa thuận với nhau những việc như sau: Những con lừa của Đội Hỏa-mai-lừa-đen sẽ được tập trung trong nhà thờ để chăm sóc. Các đội viên thì chia ra đến ở với các gia đình. Trụ sở của Đội đóng ở đâu thì Sa Nguyệt Lượng sẽ quyết định sau.
Sa Nguyệt Lượng được Tư Diêu dẫn đường và bốn đội viên bảo vệ, bước vào sân nhà tôi. Thoáng cái anh ta đã nhìn thấy chị Lai Đệ đang chải đầu bên ang nước in những bóng mây trôi qua trên bầu trời. Qua một mùa hè ăn uống no đủ và tương đối phẳng lặng, cơ thể chị thay đổi hẳn. Ngực nhô cao, làn tóc khô rám nay bóng mượt vòng eo nhỏ, mềm mại, mông nở và vổng lên. Trong một trăm ngày, chị đã trút bỏ bộ khung thiếu nữ gầy nhom, trở thành một cô gái đẹp như con bướm màu. Cái mũi dọc dừa của chị là của mẹ, cặp vú thây lẩy và cái mông nở nang cũng thuộc về mẹ. Đối mặt với cô gái trinh trắng trong ang, ánh mắt của chị đầy ưu tư. Bàn tay thon thả đưa chiếc lược gỗ, nhìn bóng mình mà trăm mối tơ vò. Sa Nguyệt Lượng vừa trông thấy chị đã mê tít. Anh ta tuyên bố dứt khoát với Tư Diêu:
- Đây là trụ sở của Đội.
Tư Diêu hỏi:
- Lai Đệ, mẹ cô đâu?
Không đợi Lai Đệ trả lời, Sa Nguyệt Lượng khoát tay bảo Tư Diêu ra về. Anh ta đến bên ang nước nhìn chị, chị cũng nhìn lại anh ta.
- Cô em, cô còn nhận ra tôi không? - Anh ta hỏi. Chị gật đầu, mặt ửng hồng.
Chị quay vào trong nhà. Sau ngày mồng Năm tháng Năm, các chị dọn sang phòng của ông bà nội. Chái phía đông - nơi ở cũ của chị Bảy, được sửa thành nhà kho, chứa ba nghìn cân tiểu mạch. Sa Nguyệt Lượng theo chị tôi vào phòng trông thấy sáu chị của tôi đang ngủ trưa. Anh ta mỉm cười thân thiện, nói:
- Đừng sợ, bọn tôi là du kích chống Nhật, không sát hại dân chúng. Tôi chỉ huy chiến đấu như thế nào, các em cũng đã từng chứng kiến. Trận đó thật bi tráng hào hùng, lưu danh thiên cổ. Rồi sẽ có ngày người ta sẽ sáng tác về tôi.
Chị cúi đầu, tay mân mê đuôi sam, nhớ lại cái hôm mồng Năm tháng Năm không bình thường ấy, người đứng trước mặt chị quần áo rách bươm từng mảnh.
- Em nhỏ, không, em gái ơi ta có duyên với nhau đấy!
Anh ta buông một câu đầy ý tứ rồi đi trở ra sân. Chị theo ra đến cửa, thấy anh ta bước vào gian chái phía đông, lại sang chái phía tây. ở chái tây, anh ta giật mình kinh hãi vì cặp mắt xanh lục của bà Lã, bịt mũi trở lui, lệnh cho các đội viên:
- Dọn đẹp các bao lúa mạch lại, dọn giường cho tôi ở đấy!
Chị Cả tựa cửa, ngắm người đàn ông xương xương, vai lệch một bên, đen nhẻm như cây hòe bị sét đánh.
- Cha em đâu? Anh ta hỏi.
Tư Diêu đứng nép ở góc sân từ tốn trả lời:
- Bố cô ấy bị giặc Nhật, à không, bị quân đội Thiên hoàng sát hại hôm mồng Năm tháng Năm, cùng ông nội cô là Thượng Quan Phúc Lộc.
- Quân đội Thiên hoàng cái cứt! Giặc thì có! Giặc Nhật!
Sa Nguyệt Lượng giận dữ quát tháo, vừa chửi vừa dậm chân bành bạch, tỏ ý căm thù bọn lính Nhật. Anh ta nói với chị tôi:
- Em gái ơi, mối thù của em cũng là mối thù của anh, phải trả mối thù này! Ai là chủ gia đình em?
Tư Diêu cướp lời:
- Bà Lã!
Tôi và chị Tám được làm lễ rửa tội trong giáo đường. Cửa sau phòng ngủ của mục sư thông sang giáo đường. Trên tường treo một số tranh đã phai màu vì năm tháng, vẽ những hài đồng trần truồng có cánh, béo mũm mĩm, về sau tôi mới biết đó là những thiên sứ. Tận cùng của phòng nguyện là một cái bục xây bằng gạch, một người đàn ông cởi trần tạc bằng gỗ táo bị đóng đinh trên giá. Do tài nghệ quá kém hoặc do gỗ táo quá rắn, nên cái tượng không giống người chút nào. Sau này tôi mới biết tượng gỗ ấy là Chúa Giêsu, một dại anh hùng, một thiện nhân. Ngoài ra, trong phòng nguyện còn để linh tinh những chiếc ghế băng, bám đầy bụi và phân chim. Mẹ bế tôi và chị Tám bước vào phòng nguyện, hàng đàn chim sẻ hốt hoảng bay loạn xạ đập cả vào cửa kính. Cửa chính của phòng nguyện hướng ra phố. Qua khe cửa, mẹ trông thấy những con lừa đen đi lại như con thoi.
Mục sư Malôa bê ra một chiếc bồn bằng gỗ, nước nóng chiếm lưng bồn, mẩu xơ mướp nổi lềnh phềnh. Hơi nước bay lên, ông mục sư lim dim mắt như một sợi chỉ. Ông còng lưng vì chiếc chậu quá nặng. Ông cố vươn dài cổ ra, hai chân loạng choạng, có lần suýt ngã, nước nóng trong bồn bắn lên mặt, nhưng ông vẫn gượng được. Dù bước đi khó khăn, nhưng cuối cùng ông đã bê được cái chậu lên bục giảng.
Mẹ bế chúng tôi bước tới. Malôa đón lấy tôi thả xuống bồn. Vừa chạm vào nước nóng, hai chân tôi lập tức co lên. Tiếng khóc của tôi vang dội phòng nguyện. Một tổ yến trắng trên đầu xà, những con yến còn năm trong tổ ló đầu ra quan sát chúng tôi bằng cặp mắt đen láy. Bố mẹ chúng bay vào bay ra qua chỗ kính vỡ, con côn trùng kẹp ở mỏ. Malôa trả tôi cho mẹ. Ông lấy tay khuấy nước trong bồn. Chúa Giêsu hiền từ nhìn chúng tôi, chăm chú. Những thiên sứ trên tường đuổi theo bọn chim sẻ, từ xà ngang bay sang cột dọc, từ tường đông bay sang tường tây, từ cầu thang gỗ cong queo đuổi tới gác chuông cũ kỹ, rối từ gác chuông trở lại nghỉ ngơi trên tường. Cái mông trần trụi lấp lánh mồ hôi. Nước trong bồn xoay tròn thành hình phễu. Malôa nhúng tay thử, nói:
- Nước được rồi, thả nó vào!
Tôi bị lột hết quần áo. Mẹ đủ sữa, mà sữa lại tốt, tôi rất bụ bẫm. Nếu như tôi chuyển nét mặt từ nhăn nhó sang giận dữ hoặc nghiêm nghị, nếu như tôi mọc thêm đôi cánh, thì tôi là thiên sứ. Những đứa trẻ trên tường sẽ là anh em tôi. Mẹ thả tôi vào bồn, tôi lập tức nín khóc vì nước ấm làm tôi khoan khoái. Tôi ngồi giữa bồn, tay vỗ nước, miệng reo lên a... a.... Malôa vót cây thánh giá áp lên đỉnh đâu tôi, nói:
- Từ hôm nay, con là đứa còn gần gũi nhất của Chúa, Halilôa!
Ông dùng quả bầu nhỏ múc đầy nước dội lên đỉnh đầu tôi. Mẹ dọc theo như một con vẹt:
- Halilôa!
Tôi tiếp nhận nước thánh, mỉm cười hạnh phúc.
Mẹ vô cùng hân hoan thả chị Tám vào bồn nhẹ nhàng kỳ cọ cho chúng tôi bằng miếng xơ mướp. Ông mục sư dội hết bầu này đến bầu khác lên đầu chúng tôi, mỗi lần dội, tôi lại cười khanh khách. Chị Tám thì khóc ề à mấy tiếng. Tôi túm lấy chị bằng cả hai tay.
Mẹ nói:
- Chưa đứa nào có tên! Anh đặt cho chúng đi!
Malôa bỏ cái gáo bằng quả bầu xuống, nói:
- Đây là chuyện hệ trọng, để tôi nghĩ đã!
Mẹ nói: - Mẹ chồng em có lần bảo, nếu sinh con trai thì đặt tên là Cún, Tám Cún! Bà bảo đặt tên xấu cho con trai thì dễ nuôi!
Malôa lắc đầu lia lịa, nói:
- Không hay, không hay. Cún với Miu, đặt tên vật là trái ý Thượng đế, trái với lời dạy của đức Khổng Tử. Thầy Khổng nói rằng: danh phận không rõ thì nói ai nghe!
Mẹ nói:
- Em nghĩ ra một cái tên, gọi nó là A Men được không?
Malôa cười:
- Không hay. Em đừng nói nữa, để tôi nghĩ.
Ông mục sư đứng lên, tay chắp sau lưng, đi lại thoăn thoắt trong phòng nguyện sặc mùi ẩm mốc. Khi nào ông đi nhanh là lúc óc ông làm việc căng thẳng. Ông điểm lướt những tên người tên hiệu của Trung Quốc và nước ngoài, từ trên trời đến dưới đất, từ cổ chí kim. Mẹ nhìn ông, cười bảo tôi:
- Trông cha con kìa, ông đâu phải là đang tìm một cái tên, mà đang hối hả như nhà có tang!
- Mẹ cất tiếng hát khe khẽ, cầm cái gáo lên dội nước cho tôi và chị Tám.
- Nghĩ ra rồi!
Mục sư Malôa sau hai mươi chín lần đi tới cửa chính đóng chặt rồi lại trở lui, ông dùng lại, kêu lên với chúng tôi.
- Tên là gì? - Mẹ vui mừng hỏi.
Malôa chưa kịp trả lời thì có tiếng đập cửa rất mạnh và có tiếng người ồn ào bên ngoài. Mẹ hốt hoảng đứng lên, tay vẫn cầm chiếc gáo. Malôa nhìn qua khe cửa, khi đó tôi chưa rõ ông nhìn thấy gì, chỉ thấy ông đỏ mặt tía tai, không rõ ông bị xung huyết vì giận dữ hay vì căng thẳng, ông giục mẹ tôi:
- Ra sân sau, mau lên!
Mẹ vứt gáo xuống, bế tôi lên. Chiếc gáo nhảy tâng tâng trên mặt đất như con cóc đực đi tìm cái. Thanh dóng chặn cửa chợt gãy đôi, rớt xuống đất, tiếp theo là cánh cửa bật tung, cái đầu của một đội viên du kích lao vào như một viên đạn, húc giữa ngực ông mục sư. Ông giật lùi đến tận bức tường đối diện, phía dưới các thiên sứ Khi chiếc dóng cửa rơi, tôi bị tuột từ tay mẹ xuống bồn, nước bắn tung tóe và chị Tám thì bị một cú trời giáng.
Năm đội viên Đội Hỏa-mai xông vào, có phần bớt hung hăng khi nhìn thấy quang cảnh trong phòng nguyện. Người húc phải mục sư Malôa xoa xoa đầu, nói:
- Sao thế này, ở đây vẫn có người à? Anh ta nhìn bốn người kia, nói tiếp: - Bảo rằng bỏ hoang đã lâu, nay sao lại có người?
Malôa chặn tay lên ngực đi tới trước mặt các đội viên. Dung mạo của ông đầy vẻ trang nghiêm, các đội viên có vẻ bàng hoàng, lúng túng. Nếu như ông tuôn ra một tràng tiếng tây và giơ tay ra hiệu, có thể các đội viên sẽ lặng lẽ rút lui, mà dù không nói tiếng tây, ông chỉ nói vài câu tiếng Trung Quốc với giọng lơ lớ, các đội viên cũng không dám ngang ngược. Nhưng ông mục sư đáng thương với giọng Cao Mật trăm phần trăm, hỏi các đội viên:
- Người anh em cần gì? Nói xong, ông vái các đội viên một vái.
Trong khi tôi khóc núc nở, chị Tám tuyệt nhiên không khóc tiếng nào - các đội viên Đội Hỏa-mai cười rộ lên.
Họ ngắm nghía ông mục sư từ đầu đến chân như ngắm một con khỉ. Tên đội viên méo miệng còn giật giật túm lông ở lỗ tai ông mục sư.
- Khỉ đột, ha ha, một con khỉ đột! - Một đội viên nói. Những người khác hùa theo - Con khỉ này còn giấu một phụ nữ xinh đẹp nữa chứ!
- Phản đối! Tôi phản đối! - Mục sư Malôa hét to - Tôi là người ngoại quốc.
- Ngoại quốc? Anh em có nghe thấy không? - Người đội viên méo miệng nói: - Người ngoại quốc mà biết nói thổ ngữ Cao Mật? Xem ra con khỉ đột này đã có một thằng con lai. Anh em ơi, dắt lừa vào đi!
Mẹ bế tôi và chị Tám, bước tới kéo tay mục sư Malôa nói:
- Đi thôi! Đừng trêu vào bọn chúng.
Malôa giằng tay ra, một mực xông tới, cố sức đẩy những con lừa ra ngoài cửa. Chúng nhe răng như răng chó gầm ghè với ông mục sư.
- Tránh ra - Một đội viên hích mục sư một cái, quát to.
- Giáo đường là nơi thánh địa, là mảnh đất tinh khiết của Chúa, ai cho các người nhốt lừa? - Mục sư phản đối.
- Thằng tây rởm! - Một đội viên mặt trắng bệch, môi thâm tím nói: - Bà nội tôi từng nói rằng, người này - Anh ta chỉ lên chúa Giêsu bằng gỗ táo - sinh ra trong chuồng ngựa. Lừa và ngựa rất gần gũi, Chúa của anh mắc nợ con ngựa, cầm bằng mắc nợ con lừa, chuồng ngựa có thể làm phòng sản thì tại sao giáo đường không trở thành chuồng lừa?
Anh ta vênh váo vì những lý lẽ của mình, nhìn chằm chằm ông mục sư, cười đắc ý.
Malôa làm dấu trước ngực, khóc:
- Xin Chúa hãy trừng phạt những kẻ ác này, sấm sét hãy giáng xuống đầu chúng rắn độc hãy cắn chết chúng, pháo đạn của Nhật hãy bắn chết chúng!...
- Thằng Hán gian chó chết!
Người đội viên méo miệng đánh ông mục sư một bạt tai. Anh ta định vả vào má nhưng lại trúng cái mũi chim ung của ông mục sư, máu tứa ra, nhỏ từng giọt. Ông mục sư đau đón kêu lên, giơ cao hai tay nói với Chúa Giêsu bị đóng đinh trên cây thập ác:
- Chúa ơi, lạy Chúa toàn năng!...
Các đội viên Đội Hỏa-mai trước hết nhìn Chúa Giêsu đầy bụi và cứt chim rồi nhìn lại khuôn mặt ông mục sư loang lổ những máu. Cuối cùng, họ nhìn mẹ tôi từ đầu đến chân. Mẹ rùng mình, như có giòi bọ trên người. Tên đội viên biết chuyện Chúa Giêsu sinh trong máng cỏ thè lưỡi như lưỡi cóc, liếm cặp môi thâm. Hai mươi tám con lừa ùa vào phòng nguyện, con thì thủng thẳng đi dạo, con thì cọ lưng vào tường gãi ngứa, con thì ỉa đái, có con lại giở trò lưu manh, lại có con gặm vữa trên tường.
- Lạy Chúa tôi!
Mục sư Malôa rú lên, nhưng Chúa của ông vẫn như cũ. Mấy ông du kích giằng chúng tôi khỏi tay mẹ, quẳng vào giữa đám lừa. Mẹ chồm lên như một con sói, nhưng bọn chúng đã chặn mẹ lại và bắt đầu ra tay. Tên méo miệng chộp vú mẹ. Tên môi thâm hích bật tên kia ra, hai tay chộp lấy hai con chim bồ câu trắng của tôi, bầu hồ lô của tôi. Mẹ gào khóc, cào rách mặt tên môi thâm. Tên này cười đểu, xé tan quần áo của mẹ.
Cảnh tượng tiếp theo là nỗi đau âm ỉ suốt đời tôi. Sa Nguyệt Lượng ve vãn chị Cả trong sân nhà tôi, bọn chó má Ba Cẩu trải đệm bằng thân cây mạch ở chái đông. ở nhà thờ năm tên đội viên du kích - toàn thể tổ nuôi lừa, dằn mẹ tôi xuống đất. Tôi và chị Tám khóc khản cả giọng giữa đám lừa. Malôa nhảy dựng lên, vớ lấy thanh dõng cửa bị gãy, vụt một nhát lên đầu một tên du kích. Một tên nhằm vào đùi mục sư nổ súng. Một tiếng đoàng, cả nắm đạn ghém xuyên qua đùi ông mục sư, máu phọt ra. Thanh dóng cửa rớt xuống đất, ông mục sư từ từ khuỵu xuống. Ông ngước nhìn Chúa Giêsu trên đầu toàn cứt chim, lẩm bẩm cầu nguyện. Tiếng Thụy Điển mà ông quên từ lâu, tuôn ra hàng tràng từ miệng ông. Bọn du kích luân phiên làm nhục mẹ tôi. Bọn lừa đen luân phiên ngửi tôi và chị Tám. Tiếng kêu lảnh lói của chúng chọc thủng nóc nhà nguyện, bay lên bầu trời thê lương. Trên khuôn mặt Chúa Giêsu bằng gỗ táo, mồ hôi đọng từng giọt Bọn du kích đã thỏa mãn. Chúng quăng mẹ và chị em tôi ra ngoài đường. Đàn lừa cũng theo nhau xông ra, ngửi ngửi mẹ tôi rồi chạy tán loạn. Khi đám du kích chạy đi bắt lừa, mục sư Malôa lê đôi chân bị thủng lỗ chỗ như tổ ong, trèo lên cái thang bằng gỗ, các bậc nhẵn bóng vì không biết bao nhiêu lần ông trèo trên đó, lên gác chuông. Ông bám gờ cửa sổ, qua lần kính nhìn toàn cảnh thị trấn Đại Lan, thủ phủ của vùng đông bắc Cao Mật mà ông từng sống mấy chục năm, nơi nào cũng lưu vết chân ông: từng dãy nhà tranh vuông vắn, những ngõ to nhỏ màu xám, Những cây xanh trông như cụm khói, dòng sông lấp lánh ôm lấy thôn xóm, mặt hồ phẳng như gương, những đồng cói xanh mượt, những vạt cỏ dại khảm trên mặt đầm, những đầm nước màu dỏ quạch, thiên đường của các loài chim và cánh đồng tít tắp đến tận chân trời trải ra như bức họa, ngọn núi Trâu Nằm màu vàng dỏ, những ghềnh lớn hoa hòe nở rộ... Ông nhìn xuống, thấy chị Lỗ phơi bụng nằm dưới đường như một con cá chết. Một nỗi đau cùng cực bóp chặt trái tim ông, hai dòng lệ ứa ra, mờ cả đôi mắt. Ông lấy ngón tay quệt máu trên đùi, viết lên tường bốn chữ lớn:
KIM ĐồNG, NGọC Nữ
Rồi ông kêu to:
- Xin Chúa hãy tha thứ cho con!
Mục sư Malôa nhào ra khỏi gác chuông, như một con chim khổng lồ gãy cánh, rơi cắm đầu xuống đường phố, óc tung tóe khắp mặt đất như bãi cút chim mới ỉa.
Cánh cửa kẹt lên một tiếng, hé mở. Mẹ bế tôi nghiêng mình lách vào. Mục sư đóng cổng lại, quay sang ôm chầm lấy mẹ con tôi, nói bằng tiếng địa phương chính cống: Cục cưng của tôi đây!
Lúc này, đội quân dùng toàn súng bắn chim mới thành lập do Sa Nguyệt Lượng chỉ huy, đang men theo còn đường mà chúng tôi đã đi hôm chôn cất người chết, để về thôn. Hai bên đường, một bên là cao lương vụ thu gieo trồng trên đất lúa mạch dại trà, một bên là đồng cói kéo dài từ ven sông Mục. Một mùa hè nắng chói chang và mưa dịu ngọt, khiến cây cối hoa màu phát triển như điên. Cao lương thu lá mập, thân to khỏe, tốt bằng đầu người mà vẫn chưa trổ bông. Cói xanh rờn, mặt lá đầy lông tơ. Tuy là giữa thu, nhưng không hề ngửi thấy mùi vị mùa thu trong gió, nhưng bầu trời thì cao vòi vọi và trong vắt, nắng vàng đúng là nắng của mùa thu. Trong không khí có vị tươi mát của cây xanh, vị ngọt của lá lục Đó là mùi vị của cói non và cây cao lương đang thì con gái. Đội ngũ của Sa Nguyệt Lượng có 28 người, đi thành hàng dọc. Tất cả đều cưỡi lừa đen, đặc sản của vùng Khưu Lăng phía nam huyện Ngũ Liên. Chúng to lớn, chân rắn chắc, chạy không nhanh bằng ngựa nhưng sức bền thì tuyệt, có thể chạy đường dài. Sa Nguyệt Lượng chọn lấy 28 con chưa thiến trong số hơn 400 con. Chúng có tiếng rống ồm ồm, sức trẻ bột phát, là chỗ dựa về sức tải của đội. Hai mươi tám con lừa nối đuôi nhau như một dòng chảy. Một làn sương màu sữa trùm lên mặt đường, thân lừa phản quang ánh nắng mặt trời. Khi trông thấy tháp chuông đổ nát của nhà thờ và tháp canh,
Sa Nguyệt Lượng đi đầu hàng quân, ghìm cương cho lừa dừng lại. Những con đi sau dồn cả lên. Anh ta ngoái nhìn nét mặt mệt mỏi của các đội viên, hạ lệnh dừng lại nghỉ, tiếp theo là lệnh đi rửa mặt mũi chân tay và tắm cho lừa. Khuôn mặt xương xương, nét mặt nghiêm nghị, Sa Nguyệt Lượng khiển trách nghiêm khắc những đội viên không chịu đi tắm rửa. Anh ta nâng vấn đề tắm rửa cho người và cho lừa lên một tầm cao, nói rằng, các đội du kích chống Nhật mọc lên như nấm, vì vậy Đội súng chim phải áp đảo các đội khác bằng phong cách độc đáo của mình. Điểm đóng quân cuối cùng là địa bàn Cao Mật. Các đội viên đọc đả thông, tất cả đều cởi trần, áo vắt trên lùm cói, tìm chỗ nước nông rửa mặt rửa người. Tất cả đầu cạo trọc, da đầu trắng xanh. Sa Nguyệt Lượng lấy trong xắc cốt một bánh xà phòng, cắt thành nhiều miếng nhỏ chia cho các đội viên. Tắm kỹ vào! Tắm thật sạch! Bản thân Sa Nguyệt Lượng cũng lội xuống nước, cởi trần, vai có một nốt ruồi to tướng, anh ta kỳ sạch ghét trên người, trên cổ. Trong khi người tắm thì những con lừa khoan khoái bút lá cao lương để ăn và gặm mông nhau. Có con đứng lặng như đang trầm tư mặt tưởng, cây gậy thò ra khỏi bìu, chốc chốc lại quật đánh bịch lên bụng. Trong khi những con lừa đi tìm lạc thú cho riêng mình, thì mẹ tôi vùng ra khỏi vòng tay ông mục sư, trách yêu:
- Đồ con lừa! Chết bẹp thằng bé bây giờ!
Mục sư Malôa mỉm cười tỏ vẻ biết lỗi, phô hàm răng trắng lóa. Ông chìa cánh tay vạm vỡ về phía chúng tôi, ngừng một thoáng rồi chìa nốt tay kia. Tôi mút ngón tay chùn chụt. Chị Tám lặng im như phỗng, không khóc cũng không cựa quậy. Chị bị mù bẩm sinh. Mẹ bế tôi bằng một tay, bảo:
- Con nó cười với anh đây này! Rồi tôi nằm gọn trong cánh tay hộ pháp của ông mục sư. Ông cúi sát mặt tôi. Tôi trông thấy tóc đỏ trên đỉnh đầu, râu vàng dưới cằm, mũi khoằm như mũi chim ung và cặp mắt xanh biếc sáng ngời của ông. Chợt lưng tôi đau nhói. Tôi nhả ngón tay ra, khóc ầm lên, nước mắt ràn rụa. Cặp môi ẩm ướt của ông chạm nhẹ trên má tôi. Tôi cảm nhận đượm môi ông đang run rẩy, ngủi thấy mùi hăng hắc ở miệng ông.
Ông trả tôi cho mẹ, ngượng nghịu: Tôi làm nó sợ phải không? Chắc là tôi làm nó sợ! Mẹ trao chị Tám cho ông, đón lấy tôi vỗ nhẹ, đung đưa rồi nựng:
- Nín đi con, ông ấy là ai con biết không? Đừng sợ, ông là người tốt, là cha thân yêu của con!
Lưng vẫn đau buốt, tôi khóc khản cả tiếng. Mẹ vén vạt áo, nhét vú vào miệng tôi. Tôi như chết đuối với được cọc, ngoạm chặt đầu vú ra sức mút. Dòng sữa có mùi thơm của cỏ non chảy vào họng tôi. Lưng vẫn nhức buốt nên tôi lại nhả vú ra, tiếp tục gào khóc. Malôa vặn vẹo hai bàn tay, áy náy không yên. Ông chạy tới chân tường nhổ một cọng cỏ gà rồi ve vẩy trước mặt tôi: Chẳng ăn thua, tôi vẫn khóc dữ. Ông lại chạy tới góc sân ngắt bông hoa hướng dương to bằng mặt trăng viển bởi những cánh màu vàng, huơ lên trước mặt tôi. Lần này thì tôi thích. Trong lúc ông mục sư tất bật chạy tới chạy lui, chị Tám vẫn ngủ yên trong tay ông. Mẹ nói:
- Cưng, cha hái mặt trăng cho con đây này!
Tôi giơ tay ra, sau lưng lại đau buốt.
- Thằng bé làm sao thế nhỉ?
Môi mẹ nhợt nhạt, mặt đầy mồ hôi. Malôa nói:
- Xem có gì chọc vào người nó không?
Malôa giúp mẹ cơi bộ quần áo màu đỏ may cho tôi nhân dịp tôi được một trăm ngày tuổi, phát hiện một chiếc kim cài ở lưng áo, lưng tôi có vết kim đâm, máu vẫn đang rỉ ra. Mẹ vút cái kim đi, vừa khóc vừa nói:
- Khổ thân con tôi? Tôi dáng đánh đòn! Nói rồi, mẹ tự vả vào mặt mình hai cái thật đau. Malôa giữ tay mẹ lại, rồi từ phía sau ôm chặt cả hai mẹ con. Cặp môi mọng của ông thơm lên má lên tóc mẹ, nói nhỏ:
- Không ai trách em, mà nên trách tôi...
Được ông an ủi, mẹ bình tĩnh lại, ngồi xuống ngưỡng cửa phòng ông, nhét vú vào miệng tôi.
Một dòng sữa ngọt làm dịu cổ họng, vết kim châm trên lưng không còn đau nữa. Tôi ngậm một bên vú, tay chụp bầu vú bên kia, lại co một chân lên đạp lung tung để bảo vệ nó. Mẹ cầm chân tôi dằn xuống, nhưng bà vừa bỏ tay ra là tôi lại co chân lên. Mẹ tỏ vẻ nghi ngờ:
- Lúc mặc quần áo cho nó, em đã xem rất kỹ, làm sao lại có kim ở đó? Chắc chắn đây là trò của mụ già. Mụ rất căm hai mẹ con em!
- Mụ có biết chuyện giữa chúng ta không?
Mẹ nói:
- Em đã nói hết với mụ. Chính mụ đã ép em phải nói. Em chịu đựng đủ điều sỉ nhục! Mụ ấy bất nhân lắm!
Mục sư trả chị Tám cho mẹ:
- Cho nó bú mấy! Đều là quà tặng của Thượng đế, em không nên thiên vị quá!
Mẹ đỏ mặt, đón lấy chị Tám, định nhét vú vào miệng chị liền bị tôi đạp một cái vào bụng, chị khóc.
Mẹ nói:
- Hay chửa kìa, cái thằng lỏi, đúng là đồ bá đạo. Anh pha ít sữa dê cho nó vậy!
Ông mục sư cho chị Tám uống no sữa dê rồi đặt chị lên giường. Chị Tám không khóc, không cựa quậy, hiền quá.
Ông mục sư nhìn mớ tóc vàng mềm mại trên đầu tôi, nét mặt lộ vẻ kinh ngạc. Mẹ hiểu, ngẩng lên hỏi:
- Nhìn gì vậy? Không nhận ra mẹ con em hay sao?
- Không nhận ra. Ông mục sư lắc đầu, mặt nghệch ra - Thằng nhỏ này, ăn tham như chó sói vậy!
Mẹ lườm ông mục sư một cái, nũng nịu:
- Nó giống ai nào?
Ông mục sư càng ngẩn người ra:
- Chẳng lẽ giống tôi? Tôi hồi nhỏ như thế nào cũng chẳng nhớ!
Ông có cái nhìn đắm đuối như mắt thỏ, bồi hồi nhớ lại chuyện xưa xảy ra cách đây hàng vạn dặm, hai giọt nước mắt ứa ra.
- Anh sao thế - Mẹ ngạc nhiên, hỏi.
Ông cười gượng, giơ ngón tay mập mạp chùi nước mắt.
- Không sao! - Ông nói- Tôi đến Trung Quốc... bao nhiêu năm rồi nhỉ?
Mẹ nói giọng không vui:
- Em lớn lên thì đã thấy anh ở dây. Anh là dân bản địa cũng như em.
Ông nói:
- Không phải, tôi có quốc tịch của tôi, tôi là sứ giả của Thượng đế, tôi còn giữ những giấy tờ có liên quan đến công việc truyền giáo của tôi. Tôi đại diện cho giáo phái Thiên Chúa giáo Thụy Điển!
Mẹ cười:
- Anh Ma này, cô em bảo anh là ông Tây giả, những cái gọi là giấy tờ của anh đều do tay thợ vẽ ở huyện Bình Độ làm hộ.
- Nói bậy.
Ông nhảy dựng lên như chịu không nổi sự sỉ nhục quá lớn, chửi:
- Đ. mẹ thằng Vu Hộ pháp!
Mẹ tỏ ý không vui:
- Anh đừng chửi ông ấy, ông ấy là chú dượng em, có ơn lớn đối với em
Malôa nói:
- Nếu lão không phải là chồng dì em thì tôi đã vặt đứt con c. của lão.
Mẹ cười bảo:
- Một quả đấm của dượng ấy chết tươi một con lừa?
Malôa buồn rầu nói:
- Ngay cả em cũng không tin tôi là người Thụy Điển thì còn mong ai tin?
Ông ngồi xổm, lấy ống điếu và bao đựng thuốc lá ra tọng đầy nõ rồi lặng lẽ hút thuốc. Mẹ thở dài:
- Kìa anh, em tin anh là ông Tây chính cống, được chưa? Anh bực với ai vậy? Người Trung Quốc không ai giống anh, mình đầy lông lá.
Trên mặt Malôa nở một nụ cười như trẻ thơ:
- Rồi cũng có ngày tôi về nước! - Ông nói, vẻ trầm ngâm - Có điều, nếu cho tôi về thật thì tôi cũng không về, trừ phi em đi cùng tôi!
Ông nhìn mẹ. Mẹ nói:
- Anh không đi, em cũng không thể đi, đành yên tâm mà ở đây thôi! Hơn nữa, anh chẳng đã từng nói rằng, chỉ cần là người thì dù là tóc vàng, tóc đỏ hay tóc đen đều là con chiên của Chúa. Có cỏ là có thể giữ được dê. Vùng Cao Mật cỏ nhiều như thế, chẳng lẽ không giữ được anh ở lại?
- Em là cỏ Linh Chi nên tôi mới ở lại, tôi còn đi đâu nữa? Malôa vô cùng xúc động nói.
Mẹ chợt kêu to:
- Đuổi nó đi!
Con lừa kéo cối xay bột nhân lúc mẹ cùng Malôa trò chuyện, ăn vụng bột mì trắng. Malôa xốc tới, đánh con lừa một bạt tai. Con lừa chạy, cối quay rào rào. Mẹ nói:
- Bọn trẻ ngủ rồi, để em rây bột cho! Anh kiếm một cái chiếu trải dưới gốc cây cho chúng ngủ. Malôa trải chiếu dưới gốc cây ngô đồng. Khi mẹ đặt tôi xuống chiếu, tôi vẫn ngậm chặt vú mẹ, không nhả. Mẹ nói:
- Thằng nhỏ này như cái thùng không đáy, gần như nó hút hết xương tủy em!
Malôa giục con lừa đi nhanh, cối xay nghiền những hạt tiểu mạch thành bột thô rơi lả tả xuống vành cối. Mẹ ngồi dưới gốc cây ngô đồng, dựng một cái giá ba chân bằng cành liễu trên một cái nong rồi treo rây bột ở chính giữa, thong thả, từ tốn, có nhịp điệu hẳn hoi, mẹ đưa đẩy cái rây cho bột mịn rơi xuống; còn trấu thì ở lại. ánh nắng lọc qua kẽ lá ngô đồng rọi xuống mặt tôi, đậu trên vai mẹ. Trong sân nhà mục sư diễn ra cảnh gia dình êm ấm. Malôa vụt vào mông con lừa bằng cành liễu không cho nó ăn vụng bột. Con lừa này là của nhà tôi, ông mục sư mượn từ sáng sớm để xay bột. Nó chạy quanh cối, dưới làn roi, lông đổi màu vì mồ hôi ướt đẫm. Có tiếng con gì kêu ngoài cổng, tiếp theo là cánh cổng hé mở, con la xinh xắn sinh cùng ngày với tôi, ló đầu vào. Con lừa mẹ nổi khùng, cất vó đá hậu. Mẹ bảo:
- Đuổi con la đi!
Mục sư Malôa chạy ra, cố sức đẩy đầu con la lùi lại. Chiếc xích sắt tuột khỏi móc. Ông mục sư vội lánh sang một bên, con la xông thẳng đến chỗ mẹ nó, rúc đầu tìm vú. Con lừa mẹ đứng yên. Mẹ thở dài, nói:
- Con vật cũng như con người, có khác gì nhau?
Khi con lừa của nhà tôi cho đứa con lai của nó bú tí ở chỗ cối xay bột trong sân nhà mục sư Malôa, là lúc Sa Nguyệt Lượng cùng các đội viên đang kỳ cọ tắm rửa cho những con lừa đục của họ. Họ lấy vải bông lau khô mình lừa, dùng lược sắt chuyên dùng chải mượt bờm và cái đuôi lưa thưa của những con lừa, rồi bôi lên một lớp sáp ong. Hai mươi tám con lừa đẹp mã hẳn lên, tinh thần phấn chấn. Các đội viên người nào cũng đeo hai bầu hồ lô ở thắt lưng, một to một nhỏ. Bầu to đụng thuốc súng, bầu nhỏ đựng đạn ghém. Bầu nào cũng được sơn ba lớp dầu ngô đồng, thành thử có tất cả năm mươi sáu cái bầu bóng loáng. Các đội viên đều mặc quần màu vàng, áo khoác màu đen, đầu đội nón tám cạnh bện bằng cây cao lương. Chóp nón của Sa Nguyệt Lượng còn đính một cái ngù bằng những dải lụa đỏ để phân biệt với các đội viên, khẳng định vị trí của anh ta. Sa Nguyệt Lượng nhìn một lượt người và lừa, tỏ ý bằng lòng, nói:
- Hăng hái lên, anh em! Cho họ thấy dội Hỏa-mai-lừa-đen của ta oai phong đến mức nào!
Nói rồi anh ta nhảy lên mình lừa, phát cho con lừa một cái vào mông. Con lừa lập tức chạy nhanh như gió. Ngựa chiếm quán quân về chạy, lừa rất gương mẫu khi hành quân. Người cưỡi ngựa oai phong lẫm hệt, kẻ cưỡi lừa thư thái ung dung. Chỉ một thoáng, họ đã xuất hiện trên đường phố Đại Lan. Lúc này không phải đường phố giữa mùa gặt hái. Giữa mùa gặt, đường phố đầy bụi, chỉ cần một con ngựa chạy qua, bụi che khuất con đường, quang cảnh đúng như chị Lai Đệ từng trông thấy hôm mồng năm tháng năm. Đường phố hiện nay vừa qua một mùa hè mưa rào lèn chặt, mặt đường nhẵn nhụi, chỉ lưu lại một ít vết chân của đoàn lừa. Tất nhiên những tiếng gõ móng thì có. Những con lừa của Sa Nguyệt Lượng biết gõ móng xuống đất như ngựa. Đây là một phát minh của anh ta, giống như hai mươi năm sau, con cháu của Ba Cẩu là Cẩu Giải phóng đóng móng sắt cho bò. Trước tiên, tiếng vó ròn tan thu hút lũ trẻ, sau đó là Tư Diêu, người trông coi tài sản công sở của thị trấn. Anh ta mặc chiếc áo dài đã lỗi thời, chiếc bút chi có sọc vẫn giắt trên vành tai, từ trong nhà chạy ra cản đầu lừa của Sa Nguyệt Lượng, vái chào nhăn nhở:
- Đề nghị ông chỉ huy cho biết đơn vị ông là đơn vị nào? Lưu lại ở đây hay chỉ là qua đường? Ông có điều gì sai bảo tiểu nhân?
Sa Nguyệt Lượng từ trên mình lừa nhảy xuống đất, nói:
- Chúng tôi là Đội du kích Hỏa-mai-lừa-đen, đơn vị biệt kích của Tổng đội kháng Nhật, nhận lệnh cấp trên về đóng quân lâu dài ở trấn này để tổ chúc chống Nhật. Anh thu xếp chỗ ở cho chúng tôi, cái ăn cho lừa, tiếp tế cơm nước cho đội. Thức ăn không cần sang, chỉ trứng gà bánh tráng là được! Những con lừa là chỗ dựa chống Nhật, phải cho chúng ăn uống cho tốt, cỏ khô phải băm nhỏ sàng kỹ, trộn với đậu và cám, nước giếng phải là giếng mới đào, tuyệt đối không được lấy nước đục ở sông Thuồng Luồng cho lừa uống.
- Thưa ông chi huy, những việc lớn như vậy tôi không dám quyết, phải xin ý kiến ông Trưởng trấn, à mà không, ông ấy vừa được quân đội Thiên hoàng bổ nhiệm làm Trưởng An ninh thị trấn.
- Mẹ kiếp! - Sa Nguyệt Lượng sa sầm nét mặt, chửi:
- Làm việc cho Nhật là Hán gian, là chó săn!
Tư Diêu nói:
- Thưa ông chỉ huy, ông Trưởng trấn chúng tôi đâu có thích làm Trưởng An ninh. Nhà ông ruộng tốt hàng trăm khoảnh, lừa ngựa từng đàn, không lo thiếu ăn thiếu mặc, chẳng qua bị ép mà phải làm. Với lại dù sao thì cũng phải có người làm chức ấy, để người khác đảm nhiệm thì chẳng thà để ông Cả nhà chúng tôi làm còn hơn! '
- Dẫn tôi đi gặp ông ta! - Sa Nguyệt Lượng nói.
Đội du kích nghỉ lại trước cửa trụ sở. Tư Diêu dẫn Sa Nguyệt Lượng vào nhà Phúc Sinh Đường qua cổng chính. Khuôn viên Phúc Sinh Đường có bảy dãy nhà, mỗi dãy mười lăm gian, sân nọ thông sân kia, cửa sau liền cửa trước, tầng tầng lớp lớp chẳng khác mê cung. Sa Nguyệt Lượng trông thấy Tư Mã Đình giữa lúc lão đang cãi nhau với em trai là Tư Mã Khố, lúc này đang điều trị vết bỏng ở mông. Vết thương làm mủ, rất lâu không lành miệng, Tư Mã Khố chỉ còn mỗi cách là nằm sấp trên giường, chổng mông lên. Tư Mã Khố phóng tay xuống giường ngẩng đầu lên, mắt nẩy ẳa:
- Anh đúng là đồ ngu! Ngu khổ ngu sở! Trưởng An ninh là cái chức làm chó săn cho Nhật, làm đầy tớ cho du kích, trở đi mắc núi trở lại mắc sông chứ báu gì! Người khác không làm, sao anh lại nhận?
- Nói như cứt ấy! - Tư Mã Đình thấy mình bị mắng oan thì tủi thân, nói:
- Đồ đốn mạt mới thích cái chúc này! Bọn Nhật chĩa lưỡi lê vào bụng tôi qua ông thông ngôn Mã Kim Long, bảo tôi rằng: Em trai mày là Tư Mã Khố câu kết với tên thổ phỉ Sa Nguyệt Lượng phóng hỏa đốt cầu phục kích quân đội Thiên Hoàng. Lẽ ra phải đốt trụi cái Phúc Sinh Động này, chỉ vì thấy mày là con người thật thà nên bỏ quá cho! Tôi nhận cái chức Trưởng An ninh này một nửa là vì chú.
Tư Mã Khố đuối lý, quay ra chửi vết thương:
- Cái mông đít chết tiệt, bao giờ mới lành đây?
- Đừng sốt ruột! - Tư Mã Đình nói.
Lão quay ra thì trông thấy Sa Nguyệt Lượng đang mỉm cười với lão. Tư Diêu định giới thiệu thì Sa Nguyệt Lượng đã lên tiếng trước:
- Thưa ông Trưởng ban, tôi chính là Sa Nguyệt Lượng!
Tư Mã Đình chưa kịp phản ứng thì Tư Mã Khố đã quay mặt ra:
- Mẹ kiếp, Sa Nguyệt Lượng biệt hiệu Sa Hòa thượng đấy phải không?
- Bỉ nhân hiện giữ chức Đội trưởng Đội du kích Hỏa-mai-lừa-đen! - Sa Nguyệt Lượng nói - Cảm ơn ông Hai châm lửa dốt cầu, phối hợp với nhau như vậy là tuyệt!
- Mẹ kiếp, vẫn còn sống hả? Các anh đánh đấm như con cặc!
- Đánh phục kích đấy chức - Sa Nguyệt Lượng nói.
- Phục kích với chả mục kích! Bị chúng nện cho tan tác. Ta mà không đốt cầu thì...
- Tôi có bài thuốc chữa bỏng rất hay, lát nữa sai người mang đến cho ông Hai - Sa Nguyệt Lượng cười tít mắt.
Tư Mã Đình bảo Tư Diêu:
- Mở tiệc chiêu đãi Sa Đội trưởng!
Tư Diêu nhăn nhó:
- Ban An ninh mới thành lập, chưa có đồng nào.
Tư Mã Đình nói:
- Sao chú mày ngu vậy! Quân đội Thiên hoàng đâu phải quân đội của nhà ta! Của 800 hộ dân thị trân này đấy chứ! Đội Hỏa-mai-lừa-đen cũng không phải của riêng ta. Là của chung của toàn thể nhân dân thị trấn đấy chứ! Các gia đình góp gạo góp tiền, khách chung thì mọi người phải tiếp đãi, còn khoản rượu thì ta lo!
Sa Nguyệt Lượng cười:
- Ông Trưởng ban đúng là chẳng mất lòng ai, được cả chì lẫn chài!
Tư Mã Đình nói:
- Chẳng còn cách nào khác, như lão mục sư từng nói: Mình không xuống địa ngục thì ai xuống?...
Mục sư Malôa mở vung, thả những sợi mì vào nước sôi dùng đũa khuấy nhẹ, đậy vung lại, rồi nói với mẹ đang cho củi vào lò:
- Cho lửa to hơn nữa!
Mẹ làm theo, đẩy vào lò từng nắm thân lúa mạch vàng óng. Tôi ngậm đầu vú mẹ, liếc nhìn ngọn lửa rừng rực trong lò, lắng nghe tiếng nổ lép bép của củi, nhớ lại cảnh tượng ban nãy: Họ đặt tôi nằm trên nong, nhưng tôi lật mình nằm sấp để nhìn mẹ đang nhào bột trên bàn, thân thể nhún nhảy, hai bầu vú nhảy tâng tâng trước ngực như vẫy gọi, như trao đổi với tôi những thông tin thần bí. Hai núm vú màu táo đỏ có lúc chụm vào nhau như đang thầm thì điều gì đó còn phần lớn thời gian là nhún nhảy, vừa nhảy vừa phát thành tiếng, chẳng khác đôi chim bồ câu gù gù bên nhau. Tôi giơ tay về phía mẹ, miệng chảy đãi. Đôi vú đột nhiên có vẻ ngượng, bối rối, màu hồng lan nhanh khắp bầu vú. Những giọt mồ hôi đọng lại thành rãnh giữa khe vú. Tôi trông thấy có hai đốm sáng đi động trên bầu vú. Đó là cái nhìn của ông mục sư. Từ cặp mắt xanh thò ra hai cánh tay bé xíu đầy lông lá định cướp miếng ăn của tôi, tôi giận đến nỗi mắt tóe lửa, mở miệng sắp khóc thì sự việc tiếp theo khiến tôi càng điên tiết. Đôi tay bé nhỏ được thu về, nhưng hai bàn tay mũm mĩm của ông thì lại luồn vào ngực mẹ, thân hình cao lớn của ông đứng phía sau, hai bàn tay thô bỉ ấp chặt đôi bồ câu trên ngực mẹ rồi sờ nắn một cách thô bạo, kẹp chặt núm vú vô cùng sống sượng. Ôi, đáng thương cho bầu hồ lô yêu quí của tôi! Đôi bồ câu mềm mại của tôi! Chúng vùng vẫy, chúng co lại, co tới mức không thể nhỏ hơn rồi đột nhiên lại nở phình ra, xù lông xù cánh khát vọng bay lên, bay tới những cánh đồng mênh mông tới trời xanh làm bạn với những đám mây lững lờ trôi, tắm trong làn gió nhẹ, được ánh nắng mơn trớn, rên rỉ trong gió, cười vui dưới nắng, rồi lặng lẽ rơi xuống, rơi xuống một vục thẳm không dáy. Tôi khóc ầm lên, nước mắt làm mờ cả hai mắt, mẹ và Malôa nghiêng ngả, mẹ rên lên.
- Bỏ em ra, đồ con lừa, con nó khóc kia kìa! - Mẹ nói.
Ông mục sư giận dỗi, nói:
- Thằng con lai!
Mẹ bế tôi lên, vội vã lật người tôi lại, vẻ biết lỗi.
- Cung của mẹ, thương cục cưng quá đi thôi!
Vừa nói vừa đẩy bầu vú về phía tôi. Tôi hối hả ngoạm chặt đầu vú, bú chùn chụt. Tôi há to miệng nhưng vẫn sợ còn nhỏ nên há hết cỡ, miệng phồng ra như con hổ mang bành, chỉ tiếc nỗi không thể nuốt chửng, không cho người nào khác xâm phạm bầu vú của tôi.
- Từ từ nào, con trai của mẹ!
Mẹ vỗ nhẹ lên mông tôi. Tôi bú một bên, tay nắm lấy bên vú còn lại. Nó giống hệt con thỏ trắng có con mắt hồng. Tôi nắn nó, cảm thấy tim của nó đập đập. Malôa thở dài:
- Thằng con lai này!
Mẹ nói:
- Anh không được gọi nó là con lai!
Malôa nói:
- Nhưng nó là con lai chính hiệu mà lại!
Mẹ nói:
- Em định bảo anh làm lễ rửa tội cho nó và đặt cho nó một cái tên. Hôm nay nó vừa tròn 100 ngày tuổi.
Malôa vuốt mặt theo thói quen, nói:
- Rửa tội? Tôi quên mất làm lễ rửa tội từ lâu rồi. Tôi làm mì kéo cho em ăn nhé. Cách làm này tôi học ở người đàn bà tộc Hồi đấy!
Mẹ hỏi:
- Anh thân với chị ta đến mức nào?
Malôa nói:
- Không để lại dây mơ rễ má gì cả, trắng tinh!
Mẹ nói:
- Đừng có bịp!
Malôa cười khà khà, vừa kéo vừa lăn cho cục bột mì thành sợi, quật bồm bộp xuống bàn cán rồi lại kéo.
- Nói mau! - Mẹ giục.
Cục bột vừa dẻo vừa tơi, lúc vồng lên như cánh cung, lúc loằng ngoằng như rắn trong hang, bàn tay thô có vẻ vụng về của một người ngoại quốc lại có thể thao tác thành thạo và khéo léo như người Trung Quốc, khiến mẹ vô cùng ngạc nhiên. Ông nói:
- Có lẽ tôi không phải là người Thụy Điển, những chuyện đã qua đều như trong mơ, em nói gì đi!
Mẹ cười nhạt, nói:
- Em hỏi chuyện anh với cái cô mắt có quầng đen, anh đừng có đánh trống lảng!
Malôa dàn mỏng cục bột rồi hai tay hai đầu nâng lên, căng ra rồi chùng lại, khi bỏ tay ra đã thành bó mì sợi to bằng thân cây lúa mạch, vung một cái: chúng xòe ra như đuôi ngựa. Malôa đang biểu diễn kỹ xảo của ông. Mẹ thở dài nói:
- Người đàn bà nào kéo được loại sợi mì như thế này, mới là đàn bà giỏi!
Ông mục sư nói:
- Thôi, mẹ thằng cu đừng nghĩ ngợi lung tung nữa. Nổi lửa lên, tôi nấu mì cho em ăn!
- Ăn xong thì làm gì?. Mẹ hỏi.
- Ăn xong thì làm lễ rửa tội và dặt tên cho thằng con lai!
Mẹ vùng vằng:
- Những đứa con mà anh đẻ với người đàn bà Hồi mới là những thằng lai.
Khi mẹ nói vừa dứt câu này, là lúc Sa Nguyệt Lượng chạm cốc với Tư Mã Đình. Trong bữa rượu, họ thỏa thuận với nhau những việc như sau: Những con lừa của Đội Hỏa-mai-lừa-đen sẽ được tập trung trong nhà thờ để chăm sóc. Các đội viên thì chia ra đến ở với các gia đình. Trụ sở của Đội đóng ở đâu thì Sa Nguyệt Lượng sẽ quyết định sau.
Sa Nguyệt Lượng được Tư Diêu dẫn đường và bốn đội viên bảo vệ, bước vào sân nhà tôi. Thoáng cái anh ta đã nhìn thấy chị Lai Đệ đang chải đầu bên ang nước in những bóng mây trôi qua trên bầu trời. Qua một mùa hè ăn uống no đủ và tương đối phẳng lặng, cơ thể chị thay đổi hẳn. Ngực nhô cao, làn tóc khô rám nay bóng mượt vòng eo nhỏ, mềm mại, mông nở và vổng lên. Trong một trăm ngày, chị đã trút bỏ bộ khung thiếu nữ gầy nhom, trở thành một cô gái đẹp như con bướm màu. Cái mũi dọc dừa của chị là của mẹ, cặp vú thây lẩy và cái mông nở nang cũng thuộc về mẹ. Đối mặt với cô gái trinh trắng trong ang, ánh mắt của chị đầy ưu tư. Bàn tay thon thả đưa chiếc lược gỗ, nhìn bóng mình mà trăm mối tơ vò. Sa Nguyệt Lượng vừa trông thấy chị đã mê tít. Anh ta tuyên bố dứt khoát với Tư Diêu:
- Đây là trụ sở của Đội.
Tư Diêu hỏi:
- Lai Đệ, mẹ cô đâu?
Không đợi Lai Đệ trả lời, Sa Nguyệt Lượng khoát tay bảo Tư Diêu ra về. Anh ta đến bên ang nước nhìn chị, chị cũng nhìn lại anh ta.
- Cô em, cô còn nhận ra tôi không? - Anh ta hỏi. Chị gật đầu, mặt ửng hồng.
Chị quay vào trong nhà. Sau ngày mồng Năm tháng Năm, các chị dọn sang phòng của ông bà nội. Chái phía đông - nơi ở cũ của chị Bảy, được sửa thành nhà kho, chứa ba nghìn cân tiểu mạch. Sa Nguyệt Lượng theo chị tôi vào phòng trông thấy sáu chị của tôi đang ngủ trưa. Anh ta mỉm cười thân thiện, nói:
- Đừng sợ, bọn tôi là du kích chống Nhật, không sát hại dân chúng. Tôi chỉ huy chiến đấu như thế nào, các em cũng đã từng chứng kiến. Trận đó thật bi tráng hào hùng, lưu danh thiên cổ. Rồi sẽ có ngày người ta sẽ sáng tác về tôi.
Chị cúi đầu, tay mân mê đuôi sam, nhớ lại cái hôm mồng Năm tháng Năm không bình thường ấy, người đứng trước mặt chị quần áo rách bươm từng mảnh.
- Em nhỏ, không, em gái ơi ta có duyên với nhau đấy!
Anh ta buông một câu đầy ý tứ rồi đi trở ra sân. Chị theo ra đến cửa, thấy anh ta bước vào gian chái phía đông, lại sang chái phía tây. ở chái tây, anh ta giật mình kinh hãi vì cặp mắt xanh lục của bà Lã, bịt mũi trở lui, lệnh cho các đội viên:
- Dọn đẹp các bao lúa mạch lại, dọn giường cho tôi ở đấy!
Chị Cả tựa cửa, ngắm người đàn ông xương xương, vai lệch một bên, đen nhẻm như cây hòe bị sét đánh.
- Cha em đâu? Anh ta hỏi.
Tư Diêu đứng nép ở góc sân từ tốn trả lời:
- Bố cô ấy bị giặc Nhật, à không, bị quân đội Thiên hoàng sát hại hôm mồng Năm tháng Năm, cùng ông nội cô là Thượng Quan Phúc Lộc.
- Quân đội Thiên hoàng cái cứt! Giặc thì có! Giặc Nhật!
Sa Nguyệt Lượng giận dữ quát tháo, vừa chửi vừa dậm chân bành bạch, tỏ ý căm thù bọn lính Nhật. Anh ta nói với chị tôi:
- Em gái ơi, mối thù của em cũng là mối thù của anh, phải trả mối thù này! Ai là chủ gia đình em?
Tư Diêu cướp lời:
- Bà Lã!
Tôi và chị Tám được làm lễ rửa tội trong giáo đường. Cửa sau phòng ngủ của mục sư thông sang giáo đường. Trên tường treo một số tranh đã phai màu vì năm tháng, vẽ những hài đồng trần truồng có cánh, béo mũm mĩm, về sau tôi mới biết đó là những thiên sứ. Tận cùng của phòng nguyện là một cái bục xây bằng gạch, một người đàn ông cởi trần tạc bằng gỗ táo bị đóng đinh trên giá. Do tài nghệ quá kém hoặc do gỗ táo quá rắn, nên cái tượng không giống người chút nào. Sau này tôi mới biết tượng gỗ ấy là Chúa Giêsu, một dại anh hùng, một thiện nhân. Ngoài ra, trong phòng nguyện còn để linh tinh những chiếc ghế băng, bám đầy bụi và phân chim. Mẹ bế tôi và chị Tám bước vào phòng nguyện, hàng đàn chim sẻ hốt hoảng bay loạn xạ đập cả vào cửa kính. Cửa chính của phòng nguyện hướng ra phố. Qua khe cửa, mẹ trông thấy những con lừa đen đi lại như con thoi.
Mục sư Malôa bê ra một chiếc bồn bằng gỗ, nước nóng chiếm lưng bồn, mẩu xơ mướp nổi lềnh phềnh. Hơi nước bay lên, ông mục sư lim dim mắt như một sợi chỉ. Ông còng lưng vì chiếc chậu quá nặng. Ông cố vươn dài cổ ra, hai chân loạng choạng, có lần suýt ngã, nước nóng trong bồn bắn lên mặt, nhưng ông vẫn gượng được. Dù bước đi khó khăn, nhưng cuối cùng ông đã bê được cái chậu lên bục giảng.
Mẹ bế chúng tôi bước tới. Malôa đón lấy tôi thả xuống bồn. Vừa chạm vào nước nóng, hai chân tôi lập tức co lên. Tiếng khóc của tôi vang dội phòng nguyện. Một tổ yến trắng trên đầu xà, những con yến còn năm trong tổ ló đầu ra quan sát chúng tôi bằng cặp mắt đen láy. Bố mẹ chúng bay vào bay ra qua chỗ kính vỡ, con côn trùng kẹp ở mỏ. Malôa trả tôi cho mẹ. Ông lấy tay khuấy nước trong bồn. Chúa Giêsu hiền từ nhìn chúng tôi, chăm chú. Những thiên sứ trên tường đuổi theo bọn chim sẻ, từ xà ngang bay sang cột dọc, từ tường đông bay sang tường tây, từ cầu thang gỗ cong queo đuổi tới gác chuông cũ kỹ, rối từ gác chuông trở lại nghỉ ngơi trên tường. Cái mông trần trụi lấp lánh mồ hôi. Nước trong bồn xoay tròn thành hình phễu. Malôa nhúng tay thử, nói:
- Nước được rồi, thả nó vào!
Tôi bị lột hết quần áo. Mẹ đủ sữa, mà sữa lại tốt, tôi rất bụ bẫm. Nếu như tôi chuyển nét mặt từ nhăn nhó sang giận dữ hoặc nghiêm nghị, nếu như tôi mọc thêm đôi cánh, thì tôi là thiên sứ. Những đứa trẻ trên tường sẽ là anh em tôi. Mẹ thả tôi vào bồn, tôi lập tức nín khóc vì nước ấm làm tôi khoan khoái. Tôi ngồi giữa bồn, tay vỗ nước, miệng reo lên a... a.... Malôa vót cây thánh giá áp lên đỉnh đâu tôi, nói:
- Từ hôm nay, con là đứa còn gần gũi nhất của Chúa, Halilôa!
Ông dùng quả bầu nhỏ múc đầy nước dội lên đỉnh đầu tôi. Mẹ dọc theo như một con vẹt:
- Halilôa!
Tôi tiếp nhận nước thánh, mỉm cười hạnh phúc.
Mẹ vô cùng hân hoan thả chị Tám vào bồn nhẹ nhàng kỳ cọ cho chúng tôi bằng miếng xơ mướp. Ông mục sư dội hết bầu này đến bầu khác lên đầu chúng tôi, mỗi lần dội, tôi lại cười khanh khách. Chị Tám thì khóc ề à mấy tiếng. Tôi túm lấy chị bằng cả hai tay.
Mẹ nói:
- Chưa đứa nào có tên! Anh đặt cho chúng đi!
Malôa bỏ cái gáo bằng quả bầu xuống, nói:
- Đây là chuyện hệ trọng, để tôi nghĩ đã!
Mẹ nói: - Mẹ chồng em có lần bảo, nếu sinh con trai thì đặt tên là Cún, Tám Cún! Bà bảo đặt tên xấu cho con trai thì dễ nuôi!
Malôa lắc đầu lia lịa, nói:
- Không hay, không hay. Cún với Miu, đặt tên vật là trái ý Thượng đế, trái với lời dạy của đức Khổng Tử. Thầy Khổng nói rằng: danh phận không rõ thì nói ai nghe!
Mẹ nói:
- Em nghĩ ra một cái tên, gọi nó là A Men được không?
Malôa cười:
- Không hay. Em đừng nói nữa, để tôi nghĩ.
Ông mục sư đứng lên, tay chắp sau lưng, đi lại thoăn thoắt trong phòng nguyện sặc mùi ẩm mốc. Khi nào ông đi nhanh là lúc óc ông làm việc căng thẳng. Ông điểm lướt những tên người tên hiệu của Trung Quốc và nước ngoài, từ trên trời đến dưới đất, từ cổ chí kim. Mẹ nhìn ông, cười bảo tôi:
- Trông cha con kìa, ông đâu phải là đang tìm một cái tên, mà đang hối hả như nhà có tang!
- Mẹ cất tiếng hát khe khẽ, cầm cái gáo lên dội nước cho tôi và chị Tám.
- Nghĩ ra rồi!
Mục sư Malôa sau hai mươi chín lần đi tới cửa chính đóng chặt rồi lại trở lui, ông dùng lại, kêu lên với chúng tôi.
- Tên là gì? - Mẹ vui mừng hỏi.
Malôa chưa kịp trả lời thì có tiếng đập cửa rất mạnh và có tiếng người ồn ào bên ngoài. Mẹ hốt hoảng đứng lên, tay vẫn cầm chiếc gáo. Malôa nhìn qua khe cửa, khi đó tôi chưa rõ ông nhìn thấy gì, chỉ thấy ông đỏ mặt tía tai, không rõ ông bị xung huyết vì giận dữ hay vì căng thẳng, ông giục mẹ tôi:
- Ra sân sau, mau lên!
Mẹ vứt gáo xuống, bế tôi lên. Chiếc gáo nhảy tâng tâng trên mặt đất như con cóc đực đi tìm cái. Thanh dóng chặn cửa chợt gãy đôi, rớt xuống đất, tiếp theo là cánh cửa bật tung, cái đầu của một đội viên du kích lao vào như một viên đạn, húc giữa ngực ông mục sư. Ông giật lùi đến tận bức tường đối diện, phía dưới các thiên sứ Khi chiếc dóng cửa rơi, tôi bị tuột từ tay mẹ xuống bồn, nước bắn tung tóe và chị Tám thì bị một cú trời giáng.
Năm đội viên Đội Hỏa-mai xông vào, có phần bớt hung hăng khi nhìn thấy quang cảnh trong phòng nguyện. Người húc phải mục sư Malôa xoa xoa đầu, nói:
- Sao thế này, ở đây vẫn có người à? Anh ta nhìn bốn người kia, nói tiếp: - Bảo rằng bỏ hoang đã lâu, nay sao lại có người?
Malôa chặn tay lên ngực đi tới trước mặt các đội viên. Dung mạo của ông đầy vẻ trang nghiêm, các đội viên có vẻ bàng hoàng, lúng túng. Nếu như ông tuôn ra một tràng tiếng tây và giơ tay ra hiệu, có thể các đội viên sẽ lặng lẽ rút lui, mà dù không nói tiếng tây, ông chỉ nói vài câu tiếng Trung Quốc với giọng lơ lớ, các đội viên cũng không dám ngang ngược. Nhưng ông mục sư đáng thương với giọng Cao Mật trăm phần trăm, hỏi các đội viên:
- Người anh em cần gì? Nói xong, ông vái các đội viên một vái.
Trong khi tôi khóc núc nở, chị Tám tuyệt nhiên không khóc tiếng nào - các đội viên Đội Hỏa-mai cười rộ lên.
Họ ngắm nghía ông mục sư từ đầu đến chân như ngắm một con khỉ. Tên đội viên méo miệng còn giật giật túm lông ở lỗ tai ông mục sư.
- Khỉ đột, ha ha, một con khỉ đột! - Một đội viên nói. Những người khác hùa theo - Con khỉ này còn giấu một phụ nữ xinh đẹp nữa chứ!
- Phản đối! Tôi phản đối! - Mục sư Malôa hét to - Tôi là người ngoại quốc.
- Ngoại quốc? Anh em có nghe thấy không? - Người đội viên méo miệng nói: - Người ngoại quốc mà biết nói thổ ngữ Cao Mật? Xem ra con khỉ đột này đã có một thằng con lai. Anh em ơi, dắt lừa vào đi!
Mẹ bế tôi và chị Tám, bước tới kéo tay mục sư Malôa nói:
- Đi thôi! Đừng trêu vào bọn chúng.
Malôa giằng tay ra, một mực xông tới, cố sức đẩy những con lừa ra ngoài cửa. Chúng nhe răng như răng chó gầm ghè với ông mục sư.
- Tránh ra - Một đội viên hích mục sư một cái, quát to.
- Giáo đường là nơi thánh địa, là mảnh đất tinh khiết của Chúa, ai cho các người nhốt lừa? - Mục sư phản đối.
- Thằng tây rởm! - Một đội viên mặt trắng bệch, môi thâm tím nói: - Bà nội tôi từng nói rằng, người này - Anh ta chỉ lên chúa Giêsu bằng gỗ táo - sinh ra trong chuồng ngựa. Lừa và ngựa rất gần gũi, Chúa của anh mắc nợ con ngựa, cầm bằng mắc nợ con lừa, chuồng ngựa có thể làm phòng sản thì tại sao giáo đường không trở thành chuồng lừa?
Anh ta vênh váo vì những lý lẽ của mình, nhìn chằm chằm ông mục sư, cười đắc ý.
Malôa làm dấu trước ngực, khóc:
- Xin Chúa hãy trừng phạt những kẻ ác này, sấm sét hãy giáng xuống đầu chúng rắn độc hãy cắn chết chúng, pháo đạn của Nhật hãy bắn chết chúng!...
- Thằng Hán gian chó chết!
Người đội viên méo miệng đánh ông mục sư một bạt tai. Anh ta định vả vào má nhưng lại trúng cái mũi chim ung của ông mục sư, máu tứa ra, nhỏ từng giọt. Ông mục sư đau đón kêu lên, giơ cao hai tay nói với Chúa Giêsu bị đóng đinh trên cây thập ác:
- Chúa ơi, lạy Chúa toàn năng!...
Các đội viên Đội Hỏa-mai trước hết nhìn Chúa Giêsu đầy bụi và cứt chim rồi nhìn lại khuôn mặt ông mục sư loang lổ những máu. Cuối cùng, họ nhìn mẹ tôi từ đầu đến chân. Mẹ rùng mình, như có giòi bọ trên người. Tên đội viên biết chuyện Chúa Giêsu sinh trong máng cỏ thè lưỡi như lưỡi cóc, liếm cặp môi thâm. Hai mươi tám con lừa ùa vào phòng nguyện, con thì thủng thẳng đi dạo, con thì cọ lưng vào tường gãi ngứa, con thì ỉa đái, có con lại giở trò lưu manh, lại có con gặm vữa trên tường.
- Lạy Chúa tôi!
Mục sư Malôa rú lên, nhưng Chúa của ông vẫn như cũ. Mấy ông du kích giằng chúng tôi khỏi tay mẹ, quẳng vào giữa đám lừa. Mẹ chồm lên như một con sói, nhưng bọn chúng đã chặn mẹ lại và bắt đầu ra tay. Tên méo miệng chộp vú mẹ. Tên môi thâm hích bật tên kia ra, hai tay chộp lấy hai con chim bồ câu trắng của tôi, bầu hồ lô của tôi. Mẹ gào khóc, cào rách mặt tên môi thâm. Tên này cười đểu, xé tan quần áo của mẹ.
Cảnh tượng tiếp theo là nỗi đau âm ỉ suốt đời tôi. Sa Nguyệt Lượng ve vãn chị Cả trong sân nhà tôi, bọn chó má Ba Cẩu trải đệm bằng thân cây mạch ở chái đông. ở nhà thờ năm tên đội viên du kích - toàn thể tổ nuôi lừa, dằn mẹ tôi xuống đất. Tôi và chị Tám khóc khản cả giọng giữa đám lừa. Malôa nhảy dựng lên, vớ lấy thanh dõng cửa bị gãy, vụt một nhát lên đầu một tên du kích. Một tên nhằm vào đùi mục sư nổ súng. Một tiếng đoàng, cả nắm đạn ghém xuyên qua đùi ông mục sư, máu phọt ra. Thanh dóng cửa rớt xuống đất, ông mục sư từ từ khuỵu xuống. Ông ngước nhìn Chúa Giêsu trên đầu toàn cứt chim, lẩm bẩm cầu nguyện. Tiếng Thụy Điển mà ông quên từ lâu, tuôn ra hàng tràng từ miệng ông. Bọn du kích luân phiên làm nhục mẹ tôi. Bọn lừa đen luân phiên ngửi tôi và chị Tám. Tiếng kêu lảnh lói của chúng chọc thủng nóc nhà nguyện, bay lên bầu trời thê lương. Trên khuôn mặt Chúa Giêsu bằng gỗ táo, mồ hôi đọng từng giọt Bọn du kích đã thỏa mãn. Chúng quăng mẹ và chị em tôi ra ngoài đường. Đàn lừa cũng theo nhau xông ra, ngửi ngửi mẹ tôi rồi chạy tán loạn. Khi đám du kích chạy đi bắt lừa, mục sư Malôa lê đôi chân bị thủng lỗ chỗ như tổ ong, trèo lên cái thang bằng gỗ, các bậc nhẵn bóng vì không biết bao nhiêu lần ông trèo trên đó, lên gác chuông. Ông bám gờ cửa sổ, qua lần kính nhìn toàn cảnh thị trấn Đại Lan, thủ phủ của vùng đông bắc Cao Mật mà ông từng sống mấy chục năm, nơi nào cũng lưu vết chân ông: từng dãy nhà tranh vuông vắn, những ngõ to nhỏ màu xám, Những cây xanh trông như cụm khói, dòng sông lấp lánh ôm lấy thôn xóm, mặt hồ phẳng như gương, những đồng cói xanh mượt, những vạt cỏ dại khảm trên mặt đầm, những đầm nước màu dỏ quạch, thiên đường của các loài chim và cánh đồng tít tắp đến tận chân trời trải ra như bức họa, ngọn núi Trâu Nằm màu vàng dỏ, những ghềnh lớn hoa hòe nở rộ... Ông nhìn xuống, thấy chị Lỗ phơi bụng nằm dưới đường như một con cá chết. Một nỗi đau cùng cực bóp chặt trái tim ông, hai dòng lệ ứa ra, mờ cả đôi mắt. Ông lấy ngón tay quệt máu trên đùi, viết lên tường bốn chữ lớn:
KIM ĐồNG, NGọC Nữ
Rồi ông kêu to:
- Xin Chúa hãy tha thứ cho con!
Mục sư Malôa nhào ra khỏi gác chuông, như một con chim khổng lồ gãy cánh, rơi cắm đầu xuống đường phố, óc tung tóe khắp mặt đất như bãi cút chim mới ỉa.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.